TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday 15 November 2014

MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM



Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

TẾT ẤT MÙI 2015


VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm 
DÂNG SỚ CẦU AN - TIỀN MẤT TẬT MANG
CÚNG SAO GIẢI HẠN - TAI NẠN VẪN TỚI
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll


Mười Ðiều Tâm Niệm
TK THÍCH CHÂN TUỆ
Ðiều 1: Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc thần.
Ðiều 2: Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát.
Ðiều 3: Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm thú vị.
Ðiều 4: Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo.
Ðiều 5: Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú.
Ðiều 6: Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
Ðiều 7: Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du.
Ðiều 8: Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ.
Ðiều 9: Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
Ðiều 10: Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
 
* * * * 
Trên thế gian này, cuộc sống đầy dẫy những sự bất trắc, bất như ý, con người phải bon chen quanh năm suốt tháng để sống còn, phải tranh đấu một cách vất vã để vươn lên, để vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, những bước thăng trầm của thế sự. Con người thường mang tâm trạng hoang mang, âu lo, sợ hãi khi hướng về tương lai, không biết rồi đây ngày mai mình sẽ ra sao, cuộc đời của mình sẽ như thế nào, chuyện gì sẽ xảy ra cho mình và người thân của mình? Cho nên con người thường mong muốn mọi chuyện được bình yên, suôn sẻ, may mắn, chuyện gì cũng đều tốt đẹp như ý. Lòng mong muốn cao độ đó thường dẫn tới sự cầu nguyện, van xin Trời Phật ban cho những điều mơ ước vượt tầm tay, tưởng chừng như ngoài khả năng của con người.

Chúng ta cần nên biết rằng: Ðức Phật không phải là thần linh, chuyên ban phước lành, ban ân sủng cho mọi người. Cũng không có lý do nào Ðức Phật ban phước lành cho riêng mình, mà không ban cho người khác. Thực ra, đạo Phật giảng dạy nhiều phương pháp hành trì, gọi là "vô lượng pháp môn", để giúp con người tự lực, mạnh mẽ vượt lên trên mọi sóng gió phiền não, khổ đau của cuộc đời, bước ra khỏi vòng trầm luân sanh tử, tự tạo cuộc sống an lạc và hạnh phúc cho chính mình. Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp". Nghĩa là chúng ta hãy tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của chúng ta, bằng cách học hiểu những lời dạy của Ðức Phật, và đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, để thấy được sự mầu nhiệm của Chánh Pháp, để tự cứu mình và giúp đỡ người khác.
* * *

Trong kinh sách của Phật giáo, những lời dạy quý báu có thể giúp đỡ chúng ta vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, vượt qua những bước thăng trầm của thế sự, được ghi chép khắp nơi, chẳng hạn như trong "Luận Bảo Vương Tam Muội", chúng ta có "Mười Ðiều Tâm Niệm" cần nên thường xuyên chiêm nghiệm, suy tư, nghĩ tưởng luôn luôn, để mỗi khi "bát phong" ập đến, nghĩa là sóng gió của cuộc đời dồn dập xảy ra, chúng ta có thể đối phó, ứng xử một cách dễ dàng hơn, không bị nhận chìm trong biển nước mắt của phiền não và khổ đau.
 
Ðiều 1: Ðiều thứ nhứt trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng: "Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc thần". Tại sao vậy? Bởi vì khi nào con người còn mang tấm thân tứ đại, thì còn đau khổ vì bệnh tật. Tấm thân tứ đại bao gồm đất, nước, gió, lửa, thường xuyên chống trái nhau, gây đau đớn, khổ sở cho con người. Người nào có phước nhiều thì ít bệnh. Người nào ít phước, kém phước, bạc phước thì bệnh tật triền miên. Cho đến khi hết duyên ở đời, con người phải ra đi, nhưng tấm thân tứ đại này thì để lại, tan rả và trở về với tứ đại trong trời đất. Cát bụi lại trở về với cát bụi, thế thôi. Người nào tạo phước nhiều thì ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng, êm thắm. Người nào tạo nghiệp nhiều thì ra đi khó khăn, hành hạ thân xác, khổ lụy người thân!
 
Con người không ai mong cầu bệnh khổ, cho dù cầu mong không bệnh khổ, nhưng bệnh khổ vẫn cứ đến. Nếu không có bệnh khổ, con người khỏe mạnh thường sinh dục vọng khó kềm chế. Thỏa mãn những dục vọng này, con người gây thêm biết bao nhiêu là nghiệp báo, để rồi phải đền trả, cho nên phải lăn lộn trong biết bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử, bao giờ mới có thể dứt, có thể thoát ra được? Bởi vậy cho nên, Ðức Phật dạy chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, nên coi bệnh khổ như là món thuốc thần, là tiên dược để điều trị những dục vọng trong tâm thức của chúng ta. Dục vọng càng nhiều chừng nào, con người càng phiền não và khổ đau chừng ấy.

Ðạo Phật là đạo cứu khổ nhân loại. Phật Pháp có công năng điều trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có muôn ngàn tâm bệnh thì Phật Pháp có tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị.
Chẳng hạn như người hay tham lam, bỏn sẻn thì pháp đối trị là hạnh bố thí. Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại vô lượng vô biên phước báu và thực hành được hạnh bố thí hằng ngày thì tâm tham lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Chẳng hạn như người hay nóng giận thì pháp đối trị là quán từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những cơn nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người có tâm từ bi, luôn luôn thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi với mọi người chung quanh, khó nổi cơn sân với những lỗi lầm, sai trái của người khác, không lợi dụng lòng từ bi của mọi người. Các bậc phụ huynh cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể giữ gìn được hạnh phúc trong gia đình. 

Các nhà giáo cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh như con ruột của chính mình. Các nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương xót chúng sanh đang trầm luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn để tự độ và độ tha, sẵn sàng hy sinh, phục vụ nhơn loại. Chẳng hạn như người hay cố chấp, sống để dạ chết mang theo những lời người khác nói mích lòng thì pháp đối trị là tâm hỷ xả. Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều trong tâm thức của mình thì càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi, trong phiền não và khổ đau, chẳng ích lợi gì, bèn cố gắng phát triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh an, nhẹ nhàng, mắt sẽ nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an lạc hơn.
 
Ðiều 2: Ðiều thứ hai trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát". Tại sao vậy? Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu. Con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên cuộc sống kiếp này mới gặp nhiều hoạn nạn, bất trắc, bất như ý. Muốn cuộc sống bớt hoạn nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, làm phước tạo phước kiếm phước nhiều hơn, đừng làm người khác đau khổ, dù bằng hành động, lời nói hay ngay cả trong ý nghĩ cũng vậy. Chúng ta nên nhớ rằng: chỉ có phước báo mới có thể che chở chúng ta qua những cơn hoạn nạn mà thôi. Không có Trời Phật nào cứu chúng ta khi gặp hoạn nạn đâu. Cũng như chỉ có chiếc ghe mới có thể chở chúng ta qua sông mà không bị thấm nước vậy.

Con người không ai cầu mong hoạn nạn, cho dù mong cầu không hoạn nạn, nhưng hoạn nạn vẫn cứ tới, nguyên do là chúng ta phải đền trả những nghiệp báo đã tạo từ trước, không ai có thể tránh khỏi. Những người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì cũng thành công dễ dàng, người đó thường sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, tiêu xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi kỵ mọi người, khiến mọi người xa lánh, không ai muốn gần gũi, thân cận, vì chẳng ích lợi gì. Khi gặp hoạn nạn, con người thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp nạn, không còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không còn dễ nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê lầm lẫn, bởi vì tham thì gặp nạn, sân thì gặp nạn, ngu thì gặp nạn! Nghĩa là hoạn nạn giúp cho con người sớm giải thoát khỏi những trói buộc của tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, nghi kỵ, chính là nghĩa đó vậy.



Hơn nữa, trong cuộc sống phức tạp, nhiều khi gặp hoạn nạn này, có thể chúng ta tránh được hoạn nạn khác lớn hơn. Thí dụ như có người vì thua bạc nên mất vé tàu đi du lịch, cho nên thoát chết, vì chuyến tàu đó bị chìm đắm ngoài biển khơi! Nghĩa là có khi trong hoạn nạn, chúng ta có thể tìm được sự may mắn, hay bài học, hoặc kinh nghiệm nào đó vậy. Không có chuyện gì hoàn toàn xui xẻo, không có chuyện gì hoàn toàn may mắn cả. Chẳng hạn như trúng số độc đắc có thể giúp chúng ta mua nhà, tậu xe, làm ăn buôn bán, cũng có thể gây bất hòa trong gia đạo, làm cho gia đình tan nát, hay trộm cướp viếng thăm, hoặc mừng quá nghỉ thở luôn! Chẳng hạn như tù tội gian khổ, đối với bậc thánh nhân, phi phàm, là cơ hội tốt nhứt để rèn luyện tâm tánh, để suy tư sáng tác những tác phẩm để đời! Biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền triết trên thế giới xuất thân từ ngục tù! Còn đối với kẻ hèn yếu, hoạn nạn chính là địa ngục trần gian, nhận chìm họ trong biển khổ đau, phiền não!

Ðiều 3: Ðiều thứ ba trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm thú vị". Tại sao vậy? Bởi vì tâm tánh của chúng ta, vì duyên theo cảnh trần, cho nên không cố định, thường xuyên thay đổi. Gặp cảnh thuận lòng vừa ý, tâm trạng của chúng ta vui tươi, hớn hở, hỷ hạ, hân hoan, hài lòng. Gặp cảnh trái tai gai mắt, tâm trạng của chúng ta nổi sóng gió ngay, nhẹ thì còn giữ được trong lòng, nặng thì phun ra miệng những cơn bực dọc, tức tối. Gặp đối phương biết nhẫn nhịn, thì mọi việc còn có thể êm xuôi, qua chuyện. Gặp phải người cứng cổ, cang cường, ngoan cố, thì câu chuyện không biết sẽ kết thúc như thế nào? Có thể người đi nhà thương hay vào nhà xác, còn người khác đi nhà tù!
 
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chơn tâm". Nghĩa là tâm tánh của chúng ta luôn luôn xao xuyến, loạn động, bất an, được gọi là "vọng tâm", tức là tâm vọng động vì duyên theo cảnh trần. Lúc tâm trạng buồn thảm, thê lương, thì chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng có gì vui vẻ cả. Trái lại, khi trong lòng thấy vui, có niềm hoan hỷ, chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh dường như đang chia xẻ niềm vui hân hoan đó với chúng ta. Chính vọng tâm là căn bản của sanh tử luân hồi. Tại sao vậy? Bởi vì vọng tâm lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc tốt lúc xấu, lúc nghĩ chuyện đông lúc nghĩ chuyện tây, lúc nghĩ chuyện hiện tại, lúc nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc vầy lúc khác, lúc có lúc không, lúc còn lúc mất, sanh diệt liên miên trong từng sát na, trong từng giây phút, ví như con ngựa chạy lung tung linh tinh lang tang khắp chốn, ví như con vượn chuyền từ cành cây này sang cành cây khác khắp nơi vậy.
 
"Vọng tâm" là động lực chính dẫn dắt chúng sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử luân hồi. Muốn tâm được an, mỗi khi vọng tâm khởi lên, chúng ta nhận biết ngay, dừng lại lập tức, đừng theo đuổi nó, thì được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền sau đó, phiền não và khổ đau sẽ không đến! Khi sống ở đời, tiếp xúc với mọi cảnh, mọi sự, mọi việc, vẫn sinh hoạt như bao nhiêu người khác, nhưng tâm vẫn như như, an định, không xao xuyến, không loạn động, tức là chúng ta đang sống trong cảnh giới niết bàn, an lạc, tịch diệt, nói cách khác, lúc đó chúng ta sống với "chơn tâm" đó vậy. Chơn tâm ví như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la bát ngát. Vọng tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ sóng nhỏ, gió mạnh sóng to. Sách có câu: Tâm buồn cảnh được vui sao. Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
 
Tục ngữ cũng có câu: "Dò sông dò biển dễ dò. Ðố ai lấy thước mà đo lòng người". Nghĩa là tâm tánh của con người biến thiên không cùng, lòng dạ con người còn khó dò hơn sông hơn biển, cho nên khi cứu xét tâm tánh, chúng ta không thể nào tránh được những khúc mắc. Chúng ta đừng nãn lòng vì những khúc mắc đó. Bởi vì chính những khúc mắc đó giúp chúng ta thêm nhiều thú vị, hăng hái hơn trên bước đường tu tâm dưỡng tánh, xả bỏ những tạp niệm, vọng tâm, loạn tưởng. Chúng ta luôn luôn thúc liễm thân tâm trong từng giây phút, đừng để vọng tâm dối gạt, nghĩ rằng mình tu đã khá lắm rồi, đã hiền thiện lắm rồi, đã đạt được điều này điều nọ. Có những lúc chúng ta làm những điều bất thiện, lợi mình hại người, kiện thưa người khác, đòi bồi thường bạc triệu, đó là lòng tham lam. Chúng ta đem bố thí hay cúng chùa vài chục bạc, vọng tâm dối gạt mình: thế là xong, hết tội rồi! Trong thiền tông, chư Tổ dạy chúng ta phải "sống trong tỉnh thức", hay "sống trong chánh niệm", chính là nghĩa đó vậy.
 
Ðiều 4: Ðiều thứ tư trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo". Tại sao vậy? Bởi vì ma chướng ở đây có nghĩa là những lời khen tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu. Nếu chúng ta có thể coi những người khen chê như những người giúp đỡ chúng ta trên bước đường tu tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là thiện hữu tri thức, là bồ tát nghịch hạnh, là giám khảo trên đường đạo của chúng ta vậy. Bởi vì ma chướng ở đây cũng có nghĩa là những sóng gió của cuộc đời, những chuyện phiền não khổ đau, những chuyện thị phi phải quấy, những chuyện bất trắc bất như ý, những chuyện lăng xăng lộn xộn hằng ngày. Thông suốt được như vậy, chí nguyện của chúng ta mới kiên cường, không thoái chuyển, khi gặp lời khen hay tiếng chê, danh thơm hay tiếng xấu, khi gặp bát phong của cuộc đời, và tâm trí của chúng ta mới không bị giao động.


Chúng ta không ai mong cầu ma chướng, cho dù cầu mong không ma chướng, nhưng ma chướng vẫn cứ tới đều đều. Trên đời này có thiếu gì những kẻ luôn luôn dòm ngó người khác, để vạch lá tìm sâu, để bới lông tìm vết, trong khi bản thân họ thì đủ thứ thói hư tật xấu. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Khi lên tiếng phê bình lỗi của người khác, thì lỗi của mình đã ở ngay bên chân rồi đó vậy". Tuy nhiên, dù ma chướng có tới thường xuyên cở nào, nếu biết tu tâm dưỡng tánh, chúng ta cũng có thể chấp nhận được, chịu đựng được, coi đó như là những thử thách cần thiết để nhắc nhở chúng ta rèn luyện tâm tánh, chuyển hóa cuộc sống từ phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc. Sách có câu: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai", chính là nghĩa đó vậy.
 
Ðiều 5: Ðiều thứ năm trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng: "Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú". Tại sao vậy? Bởi vì việc làm nào càng khó khăn, càng gian khổ bao nhiêu, mà chúng ta có thể vượt qua, đạt được thành công, thắng lợi, thì việc làm đó càng vinh quang, hiển hách bấy nhiêu. Chẳng hạn như bài toán càng khó khăn bao nhiêu, khi giải được, tìm được kết quả, càng thích thú bấy nhiêu. Việc làm nào dễ thành chỉ là những việc làm tầm thường, không có giá trị cao, hoặc người thực hiện có thừa khả năng, cho nên dễ sanh ra khinh thường mọi việc, kiêu ngạo, coi trời bằng nắp vung.
 
Ở trên thế gian có nhiều việc rất khó khăn, ít người thành đạt, chẳng hạn như thi đậu bằng cấp này, bằng cấp kia, tìm ra món thuốc điều trị mới, phát minh ra máy móc hiện đại, tối tân, sáng chế ra cách thức làm việc khoa học hơn, đem lại năng xuất cao hơn. Các bậc anh hùng cứu quốc, có thể đem lại độc lập, tự do, no ấm cho một dân tộc, không phải ai ai cũng có thể làm được một cách dễ dàng. Trên phương diện xuất thế gian, việc tu tâm dưỡng tánh cũng vậy, nếu ai ai tu tập sơ sài, cũng có thể thành Phật được, thì quả vị Phật đâu còn giá trị bao nhiêu. Một vị Phật ra đời đem lại phước báu, ích lợi cho biết bao nhiêu chúng sanh, trong biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, không thể nghĩ bàn. Có những người tu hành đạt được vài thành quả nhỏ nhoi, cũng tưởng đâu đã thành Phật, thành thánh nhơn, không ai bằng!
 
Ðiều 6: Ðiều thứ sáu trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng: "Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ". Tại sao vậy? Bởi vì những mối lợi, dù nhỏ dù lớn, trên thế gian, cũng đều là những mục tiêu tranh giành, chiếm đoạt của bao nhiêu người. Người đời thường không ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, để tranh danh đoạt lợi, cho nên bất chấp đạo nghĩa, luân lý, tình thương, quan hệ. Con người sẵn sàng thượng đội hạ đạp, chà đạp mọi người chung quanh, chỉ vì chút danh lợi nhỏ nhoi. Danh lợi ở đời ví như những miếng mồi câu cá. Cá nhỏ tới ăn miếng mồi liền bị cá lớn đớp gọn! Cá lớn đớp cá nhỏ xong, thì bị lưới lên ghe ngay tức thì! Có người chán danh lợi thế gian, hoặc không đủ khả năng tranh đua, kiếm sống ngoài đời, bèn đi tìm danh lợi trong chốn thiền môn! Thiệt là tội nghiệp!

Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Khi tới ngã ba đường, nếu thấy cái cây đầy trái chín mọng, không ai hái ăn, thì nên hiểu rằng đó là trái độc". Nghĩa là ở đời không có mối lợi lớn nhỏ nào dành sẵn cho mình hưởng, hay người khác đem dâng tặng mình, mà không có cái bẫy rập độc hại bên trong, bên dưới, hay phía sau, chờ đợi người tham lam, mê muội, thiếu suy nghĩ. Người đời thường thả con tép để bắt con tôm. Người nào tham lợi lớn, ham lời nhiều, thường hay bị lợi dụng, bị sập bẫy một cách dễ dàng, ví như cá thường hay cắn câu vậy. Cũng như những người không cố gắng tu tâm dưỡng tánh, không chịu học hiểu Chánh Pháp, không làm lợi ích gì cho chúng sanh, cho đạo pháp, chỉ tham danh lợi, thích sự sung sướng, thì quả báo, nghiệp báo tới liền sau đó.


Trong phạm vi gia đình, nếu vợ chồng con cái giao tiếp với nhau hằng ngày mà không biết thương yêu nhau, không biết nghĩ đến nhau, không biết hy sinh cho nhau, người nào cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mình, chỉ nghĩ đến sự sung sướng bản thân, thì còn gì là đạo nghĩa vợ chồng, còn gì là tình cha con, còn gì là mẫu tử tình thâm, còn gì gọi là hạnh phúc gia đình?
Trong phạm vi xã hội, trong lúc giao thiệp tiếp xúc hằng ngày, người nào chỉ nghĩ đến, chỉ mong cầu lợi mình, bất chấp hại người, người đó làm sao sống hòa thuận, yên ổn, vui vẻ với những người chung quanh? Người quá ích kỷ như vậy làm sao kết bạn được với ai, làm sao sống cuộc đời hạnh phúc? Hạnh phúc thực sự chỉ có với những người biết hai chữ "hy sinh" mà thôi. 

Trong cuộc đời, những kẻ ích kỷ, tệ bạc, chỉ biết lợi mình, bất chấp hại người, chẳng kể nhân tình, chẳng màng đạo nghĩa, nhiều không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Nhưng chính những người như vậy lại là kẻ giúp đỡ người biết tu tâm dưỡng tánh, để rèn luyện tâm tánh của mình. Có gặp những kẻ tệ bạc như vậy mà tâm trí của chúng ta vẫn như như, bất động, bình tỉnh, thản nhiên, mới biết được công phu tu tập của mình đến đâu. Nếu tất cả mọi người đều tốt, đều hiền thiện, đều biết đạo nghĩa, thì chúng ta đâu biết tâm mình ra sao? Bởi vậy cho nên, người nào thực sự muốn phát tâm tu học, thì ngay cuộc đời này, ngay cõi ta bà ngũ trược ác thế này, chính là trường tu tốt nhứt vậy, không cần phải đợi vãng sanh tây phương cực lạc mới chịu bắt đầu tu. Tại sao vậy? Bởi vì cõi tây phương cực lạc, như Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh A Di Ðà, là nơi chỉ toàn bậc thánh nhơn, chư thượng thiện nhơn câu hội, đâu cần phải tu làm gì nữa, đâu có chỗ chứa hạng phàm phu không chịu tu!
 
Ðiều 7: Ðiều thứ bảy trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng:"Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi giao du". Tại sao vậy? Bởi vì sách có câu "năm người mười ý", đâu ai có ý kiến giống ai, mỗi người thường có ít nhứt hai ý kiến trong cùng một vấn đề, nay vầy mai khác, thì làm sao bắt buộc người khác phải thuận theo ý mình? Tại sao mình lại không thuận theo ý người khác? Con người vì sự cố chấp, chấp chặt như vậy cho nên phiền não và khổ đau dài dài!
Trong gia đình, nếu người chồng hay người vợ cố chấp, bảo thủ ý kiến của riêng mình, thì làm sao gia đình đó có hạnh phúc được? Cái gì của mình cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm sao chịu nghe ý kiến của người khác? Cha mẹ và con cái thuộc hai thế hệ khác nhau, thì tức nhiên ý kiến, suy nghĩ, hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt, tất cả đều khác nhau, không thể khai trừ nhau, cho nên phải tùy thuận nhau mà sống, mới có được hạnh phúc trong gia đình. 

Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, điều thứ chín dạy: "Hằng thuận chúng sanh", chính là nghĩa đó vậy. Tuy nhiên, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa là một người trong gia đình có lòng tham lam, xúi giục cả gia đình tham lam theo, bất chấp thủ đoạn, lợi mình hại người!
Trong phạm vi xuất thế gian, người tu theo pháp môn này chê bai pháp môn khác cũng đều không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì đạo Phật có nhiều pháp môn tương ứng, thích hợp, tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích của mỗi người, để mọi người đều có thể tu tập được. 

Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như mình, mới là đúng. Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho chúng ta càng ngày càng trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn, chê người, khinh đời. Trái lại, chúng ta nên giao du với những người chống đối, trái ý, để luôn luôn suy xét, hoàn chỉnh ý kiến của mình, chuyển hóa tâm tánh của mình, để học hỏi thêm cái hay cái tốt của họ. Nhờ có những người nghịch ý, chống đối như vậy chúng ta bớt lòng kiêu căng. Ví như chiếc xe có máy móc để chạy, cũng cần có cái thắng mới hữu dụng vậy. Nếu không có cái thắng, chắc chắn có ngày cũng lọt xuống hố mà thôi.

Ðiều 8: Ðiều thứ tám trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ". Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không phải vì muốn được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn. Làm ơn mà muốn được cám ơn, muốn được nhớ ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì danh tiếng mới chịu làm. Làm ơn mà muốn được đền ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì lợi lộc mới chịu làm. Làm ơn như vậy chẳng có phước báu gì, chẳng được người khác mang ơn, mà còn chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc lấy ưu phiền, bực tức, khi gặp mặt kẻ vô ơn, bạc nghĩa. Làm ơn như vậy rõ ràng là có mưu đồ, làm ơn thì ít, mà muốn được đền ơn gấp bội phần. Chẳng hạn như khi đến phúng điếu, giúp đỡ tang quyến người khác chẳng bao nhiêu, lại muốn được "trả công bội hậu" ở nước thiên đàng, thì quả là tham lam quá xá.


Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Thi ân, bố thí bất trụ tướng, phước đức bất khả tư lượng". Nghĩa là chúng ta làm ơn bố thí, nhưng không chấp mình là người ban ơn làm phước, không thấy có người thọ nhận việc phước mình làm, không nhớ mình làm phước giúp đỡ điều gì, không tính mình giúp đỡ bao nhiêu người. Ðược như vậy, chúng ta sẽ ăn ngon ngủ yên, tâm trí không bất an vì những chuyện phước đã làm, vì gặp những người vô ơn, không tiếc nuối những vật đã đem cho, không ân hận đã giúp đỡ lầm người. Làm ơn có nghĩa là làm phước, tạo phước bòn phước, cứu đời giúp người, khi cần thiết, lúc hoạn nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm lượng từ bi, vì muốn chuyển hóa tâm tánh của chính mình, thì như vậy mới có thể làm ơn được lâu dài, giúp được nhiều người, nhiều lần và phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Sách có câu: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy. Hàng phục được tâm ý, chuyển hóa được tánh tình như vậy, chúng ta mới có thể phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có chúng sanh nào được độ. Cho nên Ðức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi dép bỏ, làm ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ qua liền, đừng ghi nhớ trong tâm thức cho thêm phần nặng nề. Ðược như vậy, chúng ta mau tiến đến chỗ giác ngộ và giải thoát.
 
Ðiều 9: Ðiều thứ chín trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa". Tại sao vậy? Bởi vì lợi lộc trên đời thường do tranh đấu, giành giựt, bon chen, bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp nhơn nghĩa, bất chấp đạo lý, mới có được. Lợi lộc không từ trên trời rơi xuống, không ở dưới đất trồi lên. Khi thấy có lợi lộc, cả khối người nhào vô, sẵn sàng chà đạp, gạt gẫm, loại trừ, giết hại lẫn nhau để chiếm đoạt cho bằng được.
 
Nhiều khi lợi lộc quá lớn lao, có thể khiến cho con người đánh mất lương tri, sẵn sàng thanh toán người thân lẫn kẻ thù, chỉ nhằm đoạt được mục tiêu mà thôi. Chẳng hạn như một thái tử âm mưu sát hại phụ hoàng để chiếm ngai vàng, con cái giết hại cha mẹ để đoạt gia tài, bạn bè cáo gian để hại nhau, chiếm đoạt tài sản, vợ con người khác. Con người vì ham lợi lộc cho nên chuyện gì cũng dám làm, coi lợi lộc như vinh hoa phú quí cần phải có trên thế gian, để ngẫng mặt nhìn đời cho có oai phong ngon lành. Chính vì thế tâm si mê phải động, sai khiến con người làm tất cả mọi chuyện để thỏa mãn lòng tham lam của mình. Con người khi thấy lợi lộc liền nhúng tay vào, mà chẳng cần biết hậu quả ra sao? Ðó chính là tâm si mê vậy.
 
Các sòng bạc được mở ra khắp nơi, chính là những cái bẩy khổng lồ nuốt tiền của những người nhẹ dạ ham vui tham tiền, hình như ai ai cũng biết vậy, nhưng người nào cũng vẫn nuôi hy vọng là mối lợi to lớn ở các sòng bạc đó, biết đâu may mắn đến với mình, cho nên mạnh mẽ nhào vô lãnh đủ. Có nhiều người tán gia bại sản, nợ nần tứ tung, nhưng vẫn không chừa, vẫn không không biết sợ! Tục ngữ có câu: "Cờ bạc là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết nợ nần tứ tung". Có cửa nhà để bán trả nợ là còn có phước đó! Người nào muốn tu tâm dưỡng tánh thì phải xả bỏ tâm tham lợi, tâm si mê, phải biết sống cuộc đời thiểu dục tri túc, ít muốn và biết thế nào là đủ, tâm mới được khinh an, thơi thới, nhẹ nhàng, cuộc sống mới được an lạc, cuộc đời mới được hạnh phúc.

Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy: 
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.
Nghĩa là người biết thế nào là đủ, không tham lợi lộc, thấy lợi lộc không nhúng tay vào, tuy nằm trên đất nhưng vẫn thấy an lạc hạnh phúc, bình yên vui vẻ. Chỉ cần "biết" đủ, thì đã quá đủ rồi. Trái lại, người nào không "biết", thì không bao giờ thấy đủ, tấm thân tuy được ở trên thiên đường, tiền rừng bạc biển, giàu sang sung sướng, nhưng tâm ý vẫn chưa thỏa mãn, cố gắng kiếm cho thiệt là nhiều tiền vẫn chưa chịu thôi, chưa chịu ngưng, chưa chịu an hưởng tuổi già gần đất xa trời. Sách cũng có câu:


Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là "biết" thế nào là đủ, tức thời được đầy đủ ngay lập tức, không cần phải đợi đến lúc có thiệt nhiều tiền mới thấy đủ. Bao nhiêu mới gọi là nhiều đối với người không biết đủ? "Biết" thế nào là nhàn, tức thời được nhàn nhã ngay lập tức, không cần phải đợi đến già, hay lúc nào hết. Nói tóm gọn là "biết" đủ thì đủ, "biết" nhàn thì nhàn. Không "biết" thì cực khổ tấm thân vậy thôi.

Ðiều 10: Ðiều thứ mười trong "Mười Ðiều Tâm Niệm" dạy rằng: "Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh". Tại sao vậy? Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên khi gặp chuyện oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả. Muốn cuộc sống bớt những điều oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác, dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.
 
Người nào nói xấu mình, mình bèn tìm đủ cách nói xấu lại, cho bỏ ghét. Người nào hại mình, mình bèn tìm đủ cách hại lại nặng hơn, cho đáng đời. Người nào không chịu giúp mình, không tốt với mình, mình bèn tìm đủ mọi cách trả thù, cho hả giận, rỉ tai biêu riếu, vu khống cáo gian, vu oan giá họa, kiện cáo tụng đình, cho chúng chết luôn, cho chúng mạt luôn, khỏi ngóc lên nổi. Mình cho rằng người ta xấu xa, người ta ác độc, người ta bất chính, người ta bất lương, người ta bất thiện, người ta bất nhơn, người ta ác đức, người ta dã man, mà mình cũng làm y như vậy, chỉ khoác danh nghĩa "trả thù", thì mình có khác gì người ta đâu? Phản ứng y chang những điều người đời làm cho mình thực là dễ dàng. Còn như nhịn được mới thực là khó khăn vô cùng. 



Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không còn chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn chấp người tạo đau khổ cho mình, tức là chúng ta đã thấu rõ và hành được "giáo lý vô ngã" của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là "Ta", nên không có gì là "của Ta". Ðó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình tĩnh, thản nhiên. Ðược như vậy, oan ức chính là cữa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.
 
Người nào có nhiều "tự ái", thường cho rằng ta đây là nhứt, cái gì của mình cũng đứng nhứt, cái gì liên quan đến mình cũng nhứt, chấp nhứt từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ nhặt, chẳng bao giờ chịu nghe lời khuyên, thường thấy lỗi lầm của người khác, không bao giờ cho là mình có lỗi gì cả, bất cứ chuyện gì xảy ra cũng tìm đủ mọi cách, viện đủ lý lẽ, đổ lỗi người này, đổ thừa người kia, tại thế này, bị thế khác, chứ không bao giờ tại mình, bởi mình, do mình mà chuyện sai trái xảy ra cả! Người như vậy chính là người có "tâm chấp ngã" quá cao. Cho nên người đó vẫn còn lẫn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi. Tại sao vậy? Bởi vì những người như vậy rất nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời. Một lời nói vô tình, một ý kiến trái nghịch, một việc làm không vừa ý, một cử chỉ vụng về của người khác, tất cả đều có thể khiến cho những người như vậy nổi sân, bực tức, khó chịu, gây gổ, phê phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt thị, hơn thua, sống để dạ, chết mang theo. Nghĩa là vọng tâm của họ khởi lên đều đều mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây. Những người như vậy thường xuyên sống trong tâm trạng bất an, vọng động, thậm chí đau khổ nhiều thứ, nhiều mặt bởi vì kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều phiền não.
* * *

Tóm lại, chúng ta nên biết rằng ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo gió nhẹ thì sóng nhỏ, gió to thì sóng cả. Tâm của chúng ta ví như mặt biển cả, tùy theo "bát phong" của thế gian thổi đến, chẳng hạn như lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc danh dự, lúc tủi nhục, lúc sung sướng lúc đau khổ, đối với người không biết tu tâm dưỡng tánh thường để cho lòng nổi sóng, chìm đắm trong vui mừng tột độ, hay đau khổ triền miên. Còn đối với người quyết tâm tu tập thì cố gắng giữ gìn tâm ý bất động, bất loạn, như như, bình tĩnh, thản nhiên trước mọi phong ba của cuộc đời. Ðược như vậy, chắc chắn đời sống an lạc, hạnh phúc, tâm linh giác ngộ, giải thoát. Ðó là cảnh giới niết bàn, tịch diệt, chính là mục đích cứu kính của đạo Phật.

Chư Tổ có dạy: "Nếu chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt, mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại". Chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, đừng cầu không hoạn nạn, đừng cầu không khúc mắc, đừng cầu không bị ma chướng, đừng cầu lợi cho mình, đừng cầu tất cả đều thuận theo ý mình, đừng cầu được báo đáp, đừng cầu không bị oan ức. Tại sao vậy? Bởi vì cầu nguyện thực sự có được gì đâu, chỉ làm cho tâm trí chúng ta thêm rối loạn khi gặp nghịch cảnh, bất trắc mà thôi. 

Chúng ta hãy cùng suy gẫm câu chuyện sau đây: Có một bà lão đến gặp Thiền sư Triệu Châu thưa hỏi cầu nguyện cách nào có thể giúp bà, kiếp này chuyển được phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, kiếp sau được lên thiên đàng, không đọa địa ngục? Thiền sư Triệu Châu dạy bà khấn nguyện như thế này: Tôi nguyện đời đời kiếp kiếp chấp nhận sống trong đau khổ, chấp nhận địa ngục, còn an lạc hạnh phúc và cõi thiên đàng xin dành cho người khác!

Ngày nay, người tu học theo đạo Phật nên dấn thân trong mọi sự trở ngại, không quản khó khăn, không sợ trắc trở. Cho nên trở ngại, khó khăn, trắc trở không thể cản được bước đường tiến tu, không làm cho chúng ta chán nản, sờn lòng, muốn xa lánh cõi đời, mong cầu về cõi cực lạc sung sướng cho dễ tu hơn. Chánh Pháp chí thượng nhờ vậy mới được sáng tỏ. Chúng ta cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, mở mang trí tuệ bát nhã, "chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách". Nghĩa là khi thấy được, hiểu được, "biết" được một cách rõ ràng tấm thân tứ đại, ngũ uẩn này là không thực, là giả tạm, nay còn mai mất, muốn duy trì, giữ gìn mãi mãi cũng không được, muốn trẻ mãi không già cũng chẳng được, muốn khỏe mãi không đau cũng chẳng được, "biết" được như vậy, hiểu được như vậy, thấy được như vậy, thì khổ ách nào mà chẳng qua. Nếu chúng ta thực sự thấy được tất cả các pháp trên thế gian này đều không thực, không tự tánh, không cố định, không tồn tại vĩnh viễn, thì khi đó chúng ta đủ khả năng vượt qua mọi sóng gió của cuộc đời, vượt qua tất cả mọi khổ ách, đáo bỉ ngạn, đến được bờ giác ngộ và giải thoát vậy. 


Trang bìa Tập san Phật Học Tịnh Quang số 27
Ban Biên Tập đang chuẩn bị nội dung Tập san
PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA số 27 (Tết Nguyên Đán Ất Mùi 2015)
NỘI DUNG:
  • Tuyên dương chánh pháp, giải thích chân lý tối thượng không phân biệt tôn giáo, kể cả Phật giáo (còn hình thức tôn giáo là còn mê tín).
  • Tìm hiểu đời sống an lạc & hạnh phúc trong ánh sáng từ bi & trí tuệ.
  • Bài trừ mê tín lẫn lộn trong Phật giáo chẳng hạn như: dâng sớ cầu an, tiền mất tật mang, cúng sao giải hạn, tai nạn vẫn tới, niệm chú 108 biến vào chai nước, vào cát mạn đà la, úm ba la trị tà ma, trị bá bệnh, xem ngày tang lễ, xem tuổi tang chủ, cho bùa làm ăn, nhất bổn vạn lợi, gọi người trở về, hóa giải tai kiếp, soi căn xem tướng.
TÂM NGUYỆN CỦA PHTQ.CANADA
Tạo thiện duyên, hiểu Phật Pháp tại thế gian, được an lạc hạnh phúc, giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não khổ đau. Chân lý tối thượng vượt qua các nghi lễ, các hình thức của tôn giáo, nhất là vượt qua tâm cố chấp, giúp con người sống đời an nhiên tự tại.
PHTQ.CANADA không giữ bản quyền. Quí độc giả tùy nghi, tùy thích, tùy duyên thưởng thức và xử dụng các bài viết. Kính đa tạ quí vị viếng thăm. Mong gặp lại. Quí vị thiện hữu, phát tâm góp bài, đóng góp ý kiến, khởi tâm bảo trợ, hùn phước ấn tống, cúng dường tịnh tài, tùy duyên thỉnh sách qua thư bưu điện, không qua điện thoại, gửi về VP.PHTQ.CANADA.
Hoan hỷ liên lạc:
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ,
108 – 123 Railroad St., Brampton, ON, L6X-1G9. Canada.
Tel: 647-828-1016. Email: cutranlacdao@yahoo.com
Trân trọng thông báo,
Ban Biên-Tập
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA 




ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT

THÍCH NỮ CHÂN LIỄU



Thời gian qua thật nhanh, một lần nữa “Xuân Lạnh” lại về trên đất nước Canada “Đất lạnh nhưng tình nồng ấm”. Một chút gió nhẹ, một chút lạnh lạnh của mùa xuân cùng màu trắng tuyệt đẹp của hoa tuyết, người con Phật mọi nơi quên lạnh, quên đi những bận rộn suốt một năm qua, tạm quên những phiền hận toan tính, hân hoan tụ tập về chùa, hy vọng tìm lại sự ấm áp tình đồng đạo, hay tìm kiếm một chút hương vị an lạc giải thoát của thiền môn. 

Có những người trong đạo Phật theo truyền thống chỉ đến chùa vào những dịp đầu năm mới, cầu phước cho mình và gia đình đầu năm đến suốt năm bình yên, mong cầu tài cầu lộc dồi dào hoặc đền ơn Phật Tổ Bồ Tát đã giúp gặt hái nhiều may mắn trong năm qua. Cũng có Phật tử đến chùa rất nhiều lần trong năm, thường được xem như là những “Phật tử thuận thành” vẫn muốn cầu nguyện và đền ơn. Có vị vì thích công quả nấu cơm, quét dọn, cắm hoa, biết tụng kinh và bái sám rất rành. .. Cho dù cái nhân duyên về chùa có khác nhau, nhưng thiện pháp như tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, chay tịnh hay nghe thuyết pháp trong dịp đầu năm mới cũng đều là một duyên lành cần siêng năng hành trì.

CẢM NHẬN ĐƯỢC TÂM Ý TRONG KINH
Mục đích và cứu cách của đạo Phật là con đường thoát ra khổ nạn, Đức Phật mà chúng ta lễ lạy là Bậc Nhất Thiết Trí ( trí tuệ cao tột nhất),như vậy duyên lành về chùa ngoài việc cầu phước còn phải thưa hỏi tìm hiểu giáo lý phương cách phá trừ vô minh, mồi ngọn đuốc trí tuệ từ những lời Phật dạy, thấm mhuần tâm ý câu kinh. Là người con Phật công phu thuần thành tụng đọc khàn tiếng, lạy kinh đến thân xác rã rời mệt mõi, như vậy thật xứng đáng được người thế gian ngưỡng mộ kính phục.  Nhưng ý thức mơ màng sự tự tôn trong hào quang giả tạo, thực tế thì muốn chạy trốn hoàn cảnh, chạy trốn phiền não, né tránh tội lỗi bản thân, khi đó con người thật sự khó hiểu và cảm nhận thấu suốt được tâm kinh, ý nghĩa kinh Phật dạy gì?..Thì tụng kinh hành trì chỉ là sự vay mượn của bản ngã, dễ phát sinh ra nhiều căn bịnh tự hào hơn thua, so sánh, khen mình chê người đưa người tu nhìn ra bên ngoài nhiều hơn là tự soi rọi vào trong nội tâm. Khi nào thấy rõ con người thật của chính mình xấu tốt ra sao, phát tâm sám hối chuyển đổi hướng thiện là đã có được ánh sáng trí tuệ. Hạnh phúc và bình an thật sự chỉ hiện hữu khi nhận ra những khổ đau, phiền não, giả danh, nhân ngã thị phi đều không có thật.
Trong kinh Pháp Bảo Đàn một vị Tăng hiệu Pháp Đạt khi đến lễ Lục Tổ khoe: “ Tôi đã tụng Kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ rồi”. Lục Tổ bèn nói kệ dạy rằng:
Lạy vốn phá tự kiêu,
Đầu sao không sát đất,
Hữu ngã tội liền sanh,
Quên công phước thật lớn.
Người tên là Pháp Đạt,
Siêng tụng hoài không dứt,
Tụng không theo âm thinh,
Minh tâm mới gọi Phật,
Ngươi nay bởi có duyên,
Ta mới nói chân Pháp,
Tin chắc Phật không lời,
Liên hoa không do  miệng.
Tâm mê Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ chuyển Pháp Hoa,
Tụng lâu không rõ ý,
Kinh nghĩa ấy thù ta.

Tăng Pháp Đạt nghe kệ xong, liền ăn năng sám hối: “Đệ tử tụng Kinh nhưng chưa hiểu được nghĩa lý của Kinh, chỉ tụng theo văn tự, tâm thường cao mạn cũng có chỗ nghi chưa thấu rõ, từ nay xin giữ hạnh khiêm tốn. Kính xin Ngài thương xót lượt giải nghĩa lý trong Kinh”. (Kinh Pháp Bảo Đàn)
Thông thường khi nhìn ngắm một bức tranh, đa số chỉ thấy được cái đẹp cái xinh tươi của cây cảnh, hoa lá hoặc màu sắc rực rỡ một cách phiến diện hời hợt, ít ai cảm nhận hay động tâm hiểu được ý nghĩa mà người họa sĩ muốn gởi gắm vào trong tranh. Cũng vậy khi lễ Phật, tụng kinh người Phật tử có quan niệm tụng kinh phải thuộc lòng, tụng kinh một ngày phải hai thời, ba thời hoặc công phu lạy Phật từng câu từng chữ trong kinh, cầu nguyện thì phải thành tâm … thì mới đúng là nhà tu chân chánh kính Phật trọng Pháp. Sau thời tụng kinh bái sám, xếp quyển kinh lại ngay ngắn, đem lên cất vào kệ, xem như thời kinh hoàn mãn. Điều này không sai, nhưng chưa đủ vì chỉ nhận được sự bình an tạm thời, có một ít thiện phước, tâm ý là lời phật dạy chưa cảm nhận được, chưa thấy rõ mục đích cứu cánh và chân lý đạo Phật.

Lắng tâm suy ngẫm hay làm thử con toán tính sổ trong cuộc đời tu hành chúng ta đi về chùa tụng kinh tất cả là bao nhiêu lần, bao nhiêu phẩm, bao nhiêu bộ kinh rồi hoặc đã thuộc nằm lòng rất nhiều bộ kinh Phật, lạy quá  nhiều lần hầu như không còn tính được nữa?!  Đa số người gặp cảnh bất như ý, đi tìm quên trong thú vui thế tục, người có đạo tâm tìm nguồn an ủi nơi cảnh chùa. Nhưng nội tâm vẫn còn bị tổn thương vì những hạt giống khổ đau phiền não chưa thấy được phương cách để loại trừ nó. Ai cũng có tánh giác, nhưng do chúng ta mãi hướng ngoại tìm cầu suốt cuộc đời, nên các vị Tổ thường nhắc nhở rằng: “Như người vác Phật tìm Phật, người cỡi trâu tìm trâu”. Mãi mãi quẩn quanh trong vòng luân hồi sanh tử.
Dù tụng nhiều kinh điển
Không thực hành buông lung
Như trẻ đếm bò người
Không hưởng quả đạo hạnh.
(Kinh Pháp Cú)

Nếu không tư duy suy ngẫm hiểu thấu đáo lời Phật dạy trong từng câu kinh tụng đọc hằng ngày, thì sự tụng kinh phút chốc thành vô dụng, thời tụng kinh trở thành ép xác trả nợ Phật, trả nợ thế gian không ích lợi gì cho mình cả, chư Tổ thường quở trách rằng: “Tu như vậy là đang tìm sừng thỏ hay lông rùa”. Cho đến khi bỏ lại xác thân phàm tục cũng khó mà thấy Phật. Như vậy ánh sáng từ câu kinh Phật ở chổ nào? Thật sự khó mà thấy được. Nhưng nếu như vậy cảm thấy đủ để an lạc vài phút giây ngắn ngủi thì “có thể” xem như hoàn mãn một thời tụng kinh.
Phật pháp tại thế gian,
Mê ngộ có chậm mau,
Bôn ba qua một kiếp,
Người lỗi ta không lỗi,
Bỏ đời đi tìm thánh,
Sừng thỏ kiếm sao ra.

ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
Đức Phật dạy: “Cổ xe trắng tinh đẹp nhất có thể ví như Niết Bàn. Các con tuấn mã ví như tin tấn và trí tuệ. Biết hổ thẹn và sợ tội lỗi ví như cái thắng. Nhẫn nại và từ bi giống như áo giáp. Thiền định và nguyện lực ví như bánh xe. Cuối cùng quả vị giải thoát là màu trắng tinh khiết của chiếc xe đẹp nhất, vết bẩn không còn tồn tại vì được người phu xe siêng năng, chuyên cần giữ gìn sạch sẽ”. (Kinh Tạp A Hàm)

Dù tụng kinh một lần, hai lần hay hằng trăm lần, nhưng duyên sự đến chùa vì cầu khẩn, vì tìm kiếm danh lợi mà không mong cầu tu học hay giác ngộ, thì chỉ phí đi thời gian của một đời người, sẽ không thấy được ý nghĩa thâm sâu trong lời kinh Phật. Nhưng nếu chuyển tâm phàm phu ích kỷ trở thành một hành giả trên đường đi tìm giác ngộ, quyết tâm mong thoát vòng sanh tử luân hồi, một người con Phật đúng nghĩa, buộc chúng ta phải biết dụng tâm và năng lực để thấy được ánh sáng trí tuệ từ câu kinh Phật. Đó là cả một kho báu của người cha trưởng giả để lại cho người con cùng tử (trong kinh Pháp Hoa) có quyền thừa hưởng, chìa khóa kho báu vô giá trong tay mà không bước thêm bước nữa để mở cánh cửa trí tuệ bát nhã, con đường duy nhất đưa đến giải thoát.

Đức Phật là bậc đạo sư, kinh là những lời Phật dạy, Ngài chỉ cho con đường vượt ra khỏi khu rừng vô minh tối tăm đầy cạm bẩy, hành giả là người phải tự bước đi bằng chính đôi chân của mình. Sai lầm nặng nề nhất là ngồi chờ kỳ nhân, mong cầu phép lạ. Ngài cũng là vị lương y đại tài có thể chữa được hằng ngàn tâm bịnh cho chúng sanh và để lại hằng vạn toa thuốc trị bịnh, chúng sanh cần phải uống và thực hành theo lời dặn, chứ không chỉ tụng đọc mà có thể khỏi bịnh được. Lợi ích của Kinh Phật đưa con người từ phàm phu mê mờ ích kỷ giật mình tỉnh giấc, ý thức được từ đâu sanh ra thế gian nầy, chết đi về đâu? Giải đáp mọi nghiệp duyên xảy ra trước mắt, từ đó người tu chánh tín tự chuyển mình, tự toàn thiện chính bản thân thì mới mong thấy con đường đạo. 

Sống trong đời không lúc nào cũng có thãm đỏ trải dưới chân cho chúng ta bước đi dễ dàng. Mà con người phải tự lo cho bản thân có đôi giày an toàn vững chắc và trí tuệ chân chánh sáng suốt, để có thể chống nổi với nghịch cảnh và vượt qua chông gai. Cũng vậy, người Phật tử dù xuất gia hay tại gia đừng tự dễ dãi với chính mình, đừng để danh lợi lôi kéo vào con đường mù mịt tối tăm không lối thoát. Niềm tin chánh tín vào lời dạy chư Phật chư Tổ đã chứng đạo và luôn luôn chánh niệm dùng công phu “phản quan tự kỷ”  dám nhìn lại chính bản thân mình, là cơ hội để có thể tự khắc phục chuyển đổi phiền não của vọng tâm nguyên nhân gây ra tội lỗi, thấy được thực tế rất chân thật “ta là ai? tốt xấu như thế nào?” để biết mà tu.
Tuy tụng ngàn chương cú
Không hiểu nghĩa ích gì
Đâu bằng hiểu một câu
Nghe xong liền ngộ đạo.
(Kinh Pháp Cú)
Ánh sáng từ câu kinh từ những lời Phật dạy là trí tuệ, nếu không người tu dễ rơi vào tà tín và cũng không thể hướng dẫn người khác theo đúng chánh pháp. Một số ngôi Già-lam biến thành chỗ buôn Thần bán Thánh, xin xăm bói quẻ, cũng do người tu không có chánh kiến và chánh tín. Nơi ấy, Đức Phật bị người đời biến thành thần linh ra oai tác phúc, đạo Phật mất đi ý nghĩa của một đạo giác ngộ giải thoát. Cho nên, phước đức và trí tuệ được xem như hai cánh của một con chim, muốn bay xa, bay cao, chim phải có đầy đủ hai cánh mạnh mẽ, tràn đầy sinh lực.

Tóm lại, người tu thường hay có tâm phân biệt cao thấp, tốt xấu, thiện ác, thánh phàm…mà sanh phiền não, đạo phật không phải là thần quyền hay độc quyền vì vậy giác ngộ giải thoát cũng không dành riêng cho một vị nào cả, đạo đi vào đời bằng sự bình đẳng tuyệt đối và sự chân thật vốn có từ vô thủy của mọi người, nhờ ánh sáng từ những lời Kinh mà tự tu, tự cứu, tự lực, tự giác mà thành chánh quả. Nhưng cao cả đáng kính hơn hết của sự giải thoát hoàn toàn viên mãn là “Ngoài chẳng nhận là phàm thánh, trong không trụ tự mãn, không chấp phước đức hay công đức”. Khi đó trong đạo tràng lúc tụng Kinh chắc không còn phiền não vì người thỉnh chuông không đúng lúc? Người dẫn mõ quá nhanh? Người ngồi kế bên thì giọng đọc quá lớn!!...chỉ là những chuyện không đáng để bận lòng.

Một câu chuyện để suy nghẫm:
Ngày kia có một người Cha già vì duyên sự phải đi xa nhà một thời gian khá lâu. Trước khi ra đi Ông để lại cho hai người con 3 bức thư thật dài và đầy đủ, tất cả là những lời căn dặn dạy dỗ làm thế nào để sống an lành vui vẽ hạnh phúc với nhau khi không có Cha ở bên cạnh.
Người con thứ nhất, rất kính trọng Cha vội dán 3 bức thư lên tường, mỗi ngày đều tụng đọc đến thuộc nằm lòng, tốt hơn thế nữa anh còn siêng năng đọc một chữ, lạy một lạy, lập lại nhiều lần rất thành tâm.
Người con thứ hai, chậm rãi đọc lá thư và suy tư vận dụng sự thông minh sẳn có để tìm hiểu tâm ý của Cha muốn dạy những gì. Sau đó anh hiểu được ý nghĩa của 3 lá thư và một mực nghiêm túc thực hành tất cả lời Cha căn dặn dạy bảo. Bằng sự bình đẳng, lòng bao dung, dẹp tan cố chấp đầy phiền não của lòng tham sân si, chuyển tâm phục vụ lo lắng chăm sóc cho tất cả mọi người, buông bỏ bản ngã và sự ích kỷ cá nhân. Vì người không vì mình. Tạo được an lạc hạnh phúc trong đời sống như những gì Cha già mong mõi.
Qua câu chuyện trên, lòng kính hiếu với Cha Lành như Đức Phật, chúng ta tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, còn phải học hiểu tâm ý lời dạy Chư Phật, Chư Tổ giảng dạy được ghi chép lại trong Kinh. Thực hành chánh niệm tỉnh giác, thanh tịnh tâm, trí tuệ sáng tỏ thấy được việc làm có ý nghĩa, hành trì tùy thuộc vào Tâm hay vào Tướng.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT


Sống đời vui đạo
(Sống trong tương đối - Vui với tuyệt đối)


Thương ghét, phải quấy, đẹp xấu, đúng sai, hơn thua, chính là vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính thực là con trâu, mà người tu theo Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải điều phải khiển, phải thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn trâu thành công thì Tánh Giác hiển lộ. Ðiều quan trọng là: "Con người hãy chăn dắt con trâu, chớ để con trâu dẫn dắt con người! Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con người sẽ đi về đâu?". Cho nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu", chính là nghĩa đó vậy.

Chăn trâu nghĩa là: áp dụng Chánh Pháp, vào trong cuộc sống, của mình hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân khẩu ý mình, bất lương bất thiện, thành ra ba nghiệp, hoàn toàn thanh tịnh. Chăn trâu nghĩa là: không theo sức mạnh, sức kéo sức lôi, của tâm tham lam, sân hận si mê.

Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật: Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là Chơn Tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành vọng tâm. Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động. Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh. Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có: cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện, không còn gì khác!

Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây, ngay trên thế gian này!
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong thâm tâm của tất cả chúng ta. Cũng ví như biển động hay biển lặng, tuy khác nhau, nhưng đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.


Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.

Cư-sĩ Chính-Trực
 


Đừng Kết Án Ai



Vừa nhận được điện thoại, bác sĩ Nam vội vã tới bệnh viện. Ông khoác vội trang phục phẫu thuật và tiến ngay tới phòng mổ. Lúc đó, người cha của cậu bé sắp sửa qua phẫu thuật đang ngồi đợi tại cửa phòng. Vừa nhìn thấy bóng bác sĩ, người cha nói ngay:

  

“Tại sao giờ này ông mới đến? Ông không hay biết con trai tôi rất nguy kịch sao?

Thực lòng ông có trách nhiệm nghề nghiệp không vậy?” 



Bác sĩ điềm tĩnh trả lời:

“Thật xin lỗi, lúc này không phải ca tôi trực nên tôi không có mặt tại bệnh viện.

Thế nhưng vừa nhận được điện báo tôi đến ngay đây…

Và lúc này tôi muốn tịnh tâm một chút để chuẩn bị phẫu thuật”.


Người cha giận dữ:

“Tịnh tâm à?! Giả như con của ông đang nằm trong phòng cấp cứu

thì ông có tịnh tâm được không?

Nếu như con trai ông sắp chết, ông sẽ làm gì?”


Vị bác sĩ lại mỉm cười trả lời:

“Tôi sẽ nói điều mà ông Gióp đã nói trong Kinh Thánh:

"Thân trần truồng sinh từ cát bụi, tôi sẽ trở về cát bụi thân trần truồng.

Chúa đã sinh ra, Chúa lại lấy đi, xin chúc tụng Chúa".

Những bác sĩ không có khả năng giữ lại mạng sống.

Ông hãy đi cầu nguyện cho con trai ông.

Chúng ta sẽ nỗ lực hết mình và cậy trông vào ân sủng Thiên Chúa”.
 

“Khuyên lơn người khác khi mà bản thân mình chẳng dính dáng gì

xem ra quá dễ dàng”. Người cha phàn nàn.



Cửa phòng phẫu thuật đóng lại.

Vị bác sĩ miệt mài vài giờ liền trong phòng mổ.

Và ông rời khỏi phòng giải phẫu trong niềm hạnh phúc:



“Cảm tạ Chúa. Con trai ông đã được cứu.

Nếu muốn biết thêm chi tiết, hãy hỏi cô ý tá vừa giúp tôi”.



Không chờ câu trả lời của người cha,

vị bác sĩ tiến thẳng và rời khỏi bệnh viện.
 

Ngay khi nhìn thấy dáng dấp cô y tá xuất hiện, người cha nói ngay:

“Loại người gì mà lại cao ngạo đến như thế kia chứ!

Thậm chí ông ta không thèm dành vài giây trả lời cho tôi biết

hiện trạng con trai tôi ra sao”.


Cô y tá cúi xuống, tuôn trào nước mắt, trong xúc động,

cô chậm rãi trả lời:

“Con trai duy nhất của bác sĩ mới qua đời hôm qua do một tai nạn.

Hôm nay bác ấy đang lo tang sự cho cậu.

Thế nhưng vừa nhận được điện báo, bác sĩ ấy vội tới ngay để cứu con trai ông.

Bây giờ thì bác ấy trở về tiếp tục lo hậu sự cho đứa con yêu quý của mình”.



Đừng kết án ai.

Vì bạn không biết cuộc sống của họ thế nào

cũng như điều gì đang diễn ra trong tâm hồn họ

và những gì họ đang phải nỗ lực vượt qua.


XIN LỖI, THA THỨ VÀ CÁM ƠN

XIN LỖI
1. Xin lỗi cho những lời hứa tôi đã không thể nào thực hiện,
dẫu rằng biết sẽ làm cho ai đó thấy thất vọng...
2. Xin lỗi cho những phút tôi vô tâm, thờ ơ với nỗi đau của bạn...
3. Xin lỗi vì những ích kỷ, những vụng về,
những hiểu lầm của tôi đã làm phiền đến bạn.
4. Xin lỗi vì những lời nói, hành động dù vô tình hay cố ý tôi đã làm
tổn thương đến bạn hay bất cứ ai.
5. Xin lỗi vì nhiều lúc tôi không giúp được bạn và về những điều tôi
muốn mà không dám làm...
6. Xin lỗi vì những lần bất hòa, những cãi vã, những mâu thuẫn,...
7. Xin lỗi bản thân vì đôi lúc, chính mình khiến mình đau khổ và nghĩ
xấu về người khác...
8. Xin lỗi vì tôi đã cố gắng mà vẫn chưa làm được nhiều điều tốt đẹp
cho cuộc đời và cho xã hội.
9. Xin lỗi vì tôi đã làm cho nhiều người thất vọng, hụt hẫng, mệt mỏi...
10. Xin lỗi vì tôi đã quá khác, quá thay đổi, vì đã không thể làm khác được...
Xin lỗi tất cả mọi người!

THA THỨ
1. Tha thứ cho những dối gian mà người khác dành cho tôi.
2. Tha thứ cho những gì xấu xa nhất mà người khác đã nghĩ về tôi.
3. Tha thứ cho những ai làm tôi khóc, đau lòng và rạn vỡ.
4. Tha thứ cho sự không chân thành, thờ ơ, dẫu tôi đã dùng cả trái tim
để quan tâm, lo lắng và đối xử.
5. Tha thứ cho những khi bạn thờ ơ, lạnh nhạt với những khó khăn của tôi.
6. Tha thứ cho những ai mà tôi thật sự trân trọng, lại chỉ giả vờ trân
trọng tôi.
7. Tha thứ cho chính bản thân mình, vì có đôi khi thật tệ.
8. Tha thứ cho những lỗi lầm quá khứ của tôi, của bạn và của mọi
người, để chúng ta có thể đổi mới, sửa đổi (những cái xấu thành tốt)
và hướng tới tương lai tốt đẹp!
9. Tha thứ cho hết tất cả những ai làm tôi tổn thương, bởi những gì
không vui nếu vứt bỏ được thì nên là như thế, để chính mình thanh
thản.
Con người ai cũng có khuyết điểm, sai lầm, nên cách tốt nhất là quên
được thì hãy quên, tha thứ cho người để người tha thứ lại cho mình.

CẢM ƠN
1. Cám ơn những người đã luôn tin tưởng tôi, dẫu tôi biết mình không
đáng được nhiều như thế!
2. Cám ơn những điều bạn và mọi người đã làm cho tôi, vì tôi.
3. Cám ơn bạn đã luôn chân thành với tôi, những gì mà bạn cho tôi như
nụ cười, lời nói của bạn...
4. Cám ơn bạn và bất kỳ ai đã luôn quan tâm, sẵn sàng lắng nghe và
thấu hiểu những gì tôi nói.
5. Cám ơn những va vấp, những giọt nước mắt để tôi trưởng thành hơn,
cứng cáp hơn.
6. Cám ơn những dối gian, những ích kỷ, nhỏ nhen mà người khác dành
cho tôi, để tôi có thể tỉnh táo hơn.
7. Cám ơn cuộc sống đã cho tôi những phút giây vui vẻ, bình yên, dầu
ít nhưng thật sự hạnh phúc.
8. Cám ơn chính tôi đã không bỏ cuộc, đã biết đứng dậy và vượt qua.
9. Cám ơn những người đã trao truyền niềm tin cho tôi, giúp tôi hiểu
và biết thêm về cuộc sống và tình người.
10. Cám ơn tất cả mọi người, những người đã từng giúp tôi, đã từng bên
tôi, cho tôi thêm niềm tin và giúp tôi thêm vui vẻ...

Những được mất của một năm đã không còn quan trọng, bởi chẳng thể làm
lại từ đầu, nhưng năm cũ với tôi sẽ luôn có một vị trí nhất định, đánh dấu những ký ức của tôi,
những cố gắng thiện lành mà tôi đã đạt được.

Cám ơn cuộc đời đã cho tôi thêm một năm tươi đẹp nữa để yêu thương,
được yêu thương, và làm thêm được nhiều điều tốt đẹp nữa cho tôi, cho bạn, và cho mọi người.


CÚNG DƯỜNG TAM BẢO
PHÁP MÔN CHĂN TRÂU
Ý NGHĨA CHỮ TU (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO 3)
PHÁP NHẪN BA LA MẬT
NGƯỜI KHÔN VÀ KẺ DẠI