Saturday, 4 June 2011

*** NHỮNG TÁCH CÀ PHÊ (PHTQ SỐ 15) & TAM GIẢI THOÁT MÔN

Những Tách Cà Phê


Một nhóm sinh viên cũ gặp lại và hẹn nhau cùng trở về trường đại học cũ để thăm một vị giáo sư ngày xưa. Họ là những người rất thành công và đang có những chức vụ, địa vị cao trong xã hội.

Trong khi ngồi hàn huyên tâm sự với nhau, mọi người bắt đầu than phiền về những sự căng thẳng trong việc làm cũng như trong đời sống của mình.

Vị giáo sư mời những học trò cũ của mình uống cà phê. Ông đi vào nhà trong và mang ra một bình cà phê lớn, cùng với những ly tách đủ loại: bằng sứ, bằng plastic, bằng thủy tinh, có những tách nhìn rất tầm thường và có những tách nhìn rất đắt tiền và sang trọng. Vị giáo sư mời những học trò cũ của mình tự rót lấy cà phê uống.

Khi mỗi người đã có một ly cà phê trong tay, vị giáo sư nói:
-                  Nếu các anh chị để ý, những tách cà phê đẹp và đắt tiền được chọn lấy trước hết, chỉ còn lại những ly tách rẽ tiền và tầm thường. Đối với các anh chị việc ấy cũng thường thôi! Chúng ta ai mà lại chẳng muốn chọn cho mình những gì hay và đẹp nhất, nhưng đó cũng là nguyên nhân của sự căng thẳng và những khó khăn của các anh chị trong cuộc sống.

-                  Những gì anh chị muốn, thực sự là cà phê, chứ đâu phải là chiếc tách, nhưng các anh chị lại có ý đi lựa cho mình những chiếc tách đẹp nhất và thỉnh thoảng cũng nhìn sang người bên cạnh, xem họ có những chiếc tách nào.

-                  Cũng vậy, nếu cuộc sống là cà phê, thì những công việc, tiền bạc, địa vị trong xã hội là những chiếc tách. Chúng chỉ là những phương tiện để chứa đựng sự sống của mình, chứ phẩm chất của sự sống không hề khác biệt.

-                  Và nhiều khi chúng ta vì quá chú ý và tập trung vào những chiếc tách, mà lại quên thưởng thức hương vị cà phê thơm ngon trong ấy.

-                  Vì vậy cho nên các anh chị nhớ, đừng để những chiếc ly tách sai xử mình. Hãy thưởng thức hương vị cà phê thơm ngon của cuộc sống. Hạnh phúc không có nghĩa là mọi vấn đề chung quanh chúng ta phải được hoàn toàn. Hạnh phúc có nghĩa là chúng ta biết nhìn xa hơn, vượt ra ngoài những sự bất toàn ấy!
[]
Minh Tánh phỏng dịch


SUY NGẪM:

Con người nên chuyển hóa tâm tánh chính mình, thay đổi sự suy nghĩ, sao cho thích hợp với hoàn cảnh và với những người chung quanh, khi vô phương thay đổi hoàn cảnh hay thay đổi những người chung quanh.

Trong câu chuyện trên, cà phê là thứ sẽ thuộc về mình, ly tách là thứ phải để lại, thuộc về người. Cho nên, bằng lòng thưởng thức, thích những gì mình có, hạnh phúc hơn là: thích những gì mình không có, hay không thể có. Hoặc khi nhìn chung quanh, sanh tâm so đo, hơn thua, ganh tị, đố kỵ, cuối cùng là phiền não và khổ đau! Chẳng ích lợi chi! []

BAN BIÊN-TẬP PHTQ


TÓM TẮT:

TAM GIẢI THOÁT MÔN: Ba cửa giải thoát dẫn tới Niết Bàn:

1. Không, là thấy mọi pháp đều không, rỗng, không thực thể, vô ngã.
2. Vô tướng, là thấy mọi sự tướng đều hư giả, cho nên được tự tại đối với các tướng.
3. Vô tác, là không còn tạo nghiệp, cho nên được tự tại, không bị nghiệp chi phối, lôi kéo.
 

TAM GIẢI THOÁT MÔN
 
Đây là một đề tài dành cho những người đang công phu thiền tập. Đó là ba cánh cửa giải thoát, từ chuyên môn nhà Phật gọi là “Tam giải thoát môn”, tức là ba phương pháp thiền quán để đạt đến giải thoát của Phật giáo phát triển. Nếu so sánh với Tam Pháp Ấn của Phật giáo nguyên thủy là Vô Thường - Khổ - Vô ngã, hay trong luận tạng là Vô thường - Vô ngã - Niết bàn thì ba cánh cửa này có ý nghĩa sâu xa hơn. Đây cũng là ba vấn đề hết sức quan trọng và lại rất trừu tượng, nếu công phu thiền quán của chúng ta còn kém cỏi, nói cách khác, nếu chúng ta còn nhiều phiền não khổ đau quá, chúng ta sẽ khó lòng nắm bắt được.
Tam giải thoát môn gồm :
- Không môn - Vô tướng môn - Vô tác môn.
            1. KHÔNG MÔN
            Đó là thấy tất cả các pháp đều không thực thể. Vì sao trong nhà Phật, cái gì cũng cho là Không hết? Tất cả kinh điển Đại thừa trong đó có 600 quyển Bát Nhã, cho đến những bộ Luận tiểu thừa và đại thừa cũng nhầm làm sáng tỏ lý Không. Nhưng tại sao không nói CÓ mà lại nói KHÔNG?  Trong cuộc đời thường chúng ta thấy khổ vì bất cứ cái gì chúng ta cũng cho là thật. Vì cho là thật nên chúng ta muốn nắm bắt, và ý niệm muốn nắm bắt đó, nếu thỏa mãn thì thêm tham, mà không thỏa mãn thì lại sân. Như vậy, từ chỗ chấp có các pháp (Si), mà chúng ta hoặc Tham hoặc Sân. Từ chỗ chấp có mà chúng ta thêm đau khổ, từ chỗ chấp có mà phải đi vào các cõi để thọ sanh. Thọ sanh trong mấy mươi năm, tuy chỉ một kiếp phù sinh mà con người vẫn cảm nhận nhiều sự khổ hơn vui.
            Giờ đây, nói đến Không là để chúng ta không chấp. Ví dụ như, nếu chúng ta thấy thân không thật, mà phải thấy một cách thâm nhập, một cách sâu sắc, thì khi người khác chửi ta, ta không thấy giận, khi người khác khen ta, ta cũng không tự đắc tự hào. Vì vậy, người có thâm nhập được lý Không, thì đối với tất cả mọi cảnh ngộ, họ đều giữ tâm như đất. Từ đó suy ra cái đạo lực, cái định lực của mỗi người. Mỗi buổi sáng sau khi thức dậy, chúng ta nên tự suy nghiệm, trong suốt ngày qua chúng ta đã làm được gì, chúng ta đã tự tại khi tiếp duyên xúc cảnh được bao nhiêu phần. Điều này cần đến sức nội quán của chúng ta, nghĩa là tự kiểm nghiệm lại mình. Nhiều khi chúng ta nói vượt quá chỗ chúng ta làm được, điều này khiến ta không được an ổn chút nào hết.
            Ở đây, cũng cần chú ý một điều: Khi chúng ta nhìn đóa hoa trước mặt và cho nó là Không, vì nó được hợp thành bởi nhiều cánh hoa, nếu chúng ta tách ra từng cánh thì cuối cùng sẽ không còn đóa hoa nữa. Như vậy, đóa hoa không có thực thể, cái ý niệm về đoá hoa chỉ là con đẻ của ý thức, đoá hoa chỉ có trên giả danh giả tướng vì là do duyên hợp. Cái "KHÔNG" vì thế có nghĩa là không có thực thể, chứ không phải phủ nhận sự hiện hữu của đoá hoa. Mặt khác, khi thiền quán, chúng ta từng bước quán chiếu thấy các pháp đều Không, là do chúng ta chia chẻ từng chi tiết của sự vật mà nhận ra tính duyên hợp giả có của chúng, còn chia chẻ mới thấy các pháp là Không, thì lúc đó đã có ý thức xen vào. Đó chỉ là cái thấy của "Tích không quán" chứ chưa thấy được "Đương thể tức không". Khi nhìn đóa hoa đã thấy ngay là Không, không cần quán mới thấy, đó là mức độ "KHÔNG" chúng ta cần nói ở đây. Cho nên, Không môn là cái thấy của trực giác chứ không phải của suy luận. Khi mà cái thấy còn là suy luận, nghĩa là còn có tâm năng quán trên cảnh sở quán thì cái thấy vẫn còn là phiến diện. Đóa hoa tự nó không nói lên điều gì, nhưng nếu chúng ta thấy hoa xấu hay hoa đẹp, thực hay giả, đó là do ý thức của chúng ta áp đặt lên nó. Thật sự, hoa khi chưa nở đã là Không, đang nở cũng là Không, mà lúc tàn rụng cũng là Không. Cả ba giai đoạn: đã, đang và sẽ, đều là Không. "KHÔNG" này không phải là đối với "CÓ", nghĩa là không thuộc nhị biên phân biệt, mà ngay nơi các pháp vốn là Không. Đây là cái thấy của Bát Nhã, cái thấy của Trí Tuệ chứ không phải cái thấy của suy luận, của ý thức. Ví dụ: Khi suy luận, ta phân biệt người thân kẻ sơ, nhưng khi phăng đến tận cùng, cái gọi là thân sơ ấy chẳng qua là sự chấp ngã: người có ơn nghĩa với ta gọi là thân, kẻ không dính dáng về tình cảm gọi là sơ. Hành vi ngã chấp này, rốt cuộc là do chấp có.
            Lúc tọa thiền chúng ta có thể nhận biết rằng, khi buông bỏ hết vọng tưởng, để tâm hoàn toàn lặng lẽ, với tâm lặng lẽ đó mà vẫn biết, vẫn chiếu soi tất cả các pháp một cách tự nhiên. Đó là cái thấy không qua niệm khởi, cái thấy của Bát Nhã, đó là "KHÔNG". Nếu chúng ta chưa biết thiền định là gì, tâm sẽ suy nghĩ lung tung, không tự chủ được từng niệm, nên thấy cái gì cũng bằng niệm hết. Nếu cố gắng gán ghép, tưởng tượng ra một cái "Không" ở nơi cái "Hoa", đây là một điều hết sức sai lầm. Nếu có ý niệm cái "Không" trong cái "Hoa" thì ở đây sẽ có hai cái: Cái không và cái hoa. Cũng như khi nghe giảng về Phật tánh, chúng ta lại tưởng tượng có Phật tánh ở ngoài thân năm uẩn. Những trò chơi phân ranh ấy của ý thức, làm chúng ta không hiểu được lẽ thực của tất cả các pháp.
            Có câu chuyện Vua Sở mất gươm: một hôm vua đi săn, đánh rơi mất gươm báu. Khi về triều vua mới phát hiện là mất gươm quý, Vua bèn ra lệnh cho quần thần đi tìm. Sau đó mới hay có một người nước Sở đã nhặt được gươm. Vua bèn phán rằng: "Thôi đừng truy cứu nữa, bởi vì vua nước Sở mất gươm, người nước Sở được gươm". Khi việc này lan truyền trong nhân gian, các môn đệ của đức Khổng Tử hỏi Ngài: "Nếu ở địa vị Ngài, Ngài sẽ xử sự ra sao"? Đức Khổng Tử trả lời: "Khổng Khâu sẽ bảo là, ngưới mất gươm, người được gươm". Chúng ta suy ngẫm xem tầm nhìn của các Ngài như thế nào? Đối với vua Sở, tuy mất gươm nhưng người được gươm là người cùng nước Sở, nên Vua không truy cứu. Như vậy cái ngã của vua đã chan hòa khắp cả mọi người trong nước mình, nhưng chỉ giới hạn trong phạm vi nước Sở thôi. Còn đức Khổng Tử, tầm nhìn của Ngài xa hơn, thoáng hơn, nên cái ngã của Ngài bao trùm tất cả loài người.
            Đối với những vị đã nhận được lý "không", sẽ thấy mọi pháp đều bình đẳng, tầm nhìn của các vị sẽ trùm khắp pháp giới. Khi nhìn sự hiện hữu của bất cứ pháp nào bằng trực giác Bát Nhã, thấy toàn bộ là "KHÔNG", thì cái thấy đó đã thuộc về Pháp Giới rồi. Tâm tính lúc đó là Pháp Giới Tính, cho nên cái thấy này càng siêu việt hơn. Đó là lý do các vị  Bồ Tát khi thâm nhập được cái thấy này, đã lăn xả vào các cõi để độ sanh. Các Ngài có đời sống khác hơn người thường, sống bằng thần lực, bởi vì khi thấy được cái "KHÔNG", lập tức có sự bình an nội tâm do cái thấy không phân ranh, không chấp thủ, không đảo điên, không vọng tưởng. Còn chúng ta tu mà không thấy, nên càng tu lại càng tham sân nhiều. Đó là vì chúng ta lấy cái ngã mà tu, chưa thấy đường đi đã vội cất bước, nên phiền não cứ còn hoài.
            Một điểm cần lưu ý, là chúng ta đừng bao giờ nghĩ cái Không ở đây là cái Không đoạn diệt. Đức Phật không cố tình cho chúng ta thấy cuộc đời này là Không. Không phải khi đã ngộ đạo, các Ngài không còn thấy cái gì trước mắt, nhưng vì có mà diễn tả không đến, nên gọi là Diệu Hữu; vì không mà không phải là không ngơ, nên gọi là Chơn Không. Sắc mà thấy đúng mức thì không phải là cái sắc trên giả danh, giả tướng, mà là chơn sắc, diệu sắc. Đây là cái thấy rất tự tại, cái thấy không lệ thuộc nhị biên, cái thấy bằng ánh trực giác mà đôi lúc chúng ta có thể kiểm nghiệm được khi tâm hoàn toàn an định, lặng lẽ.
            2. VÔ TƯỚNG MÔN:
            Đây là cánh cửa giải thoát thứ hai. Vô tướng là gì? - Khi chúng ta nhìn đóa hoa, biết nó là duyên hợp hư giả, do nhiều yếu tố không phải nó hợp lại mà thành nó. Hoa không có tự thể riêng biệt, không có tướng nhất định, không có tính đồng nhất, nên nó vô tướng.
            Tất cả các pháp cũng như thế, hoàn toàn lệ thuộc vào các duyên, không có tướng mạo nhất định. Ví dụ: nước chứa ở trong ly được gọi là ly nước, chứa ở trong chén thì gọi là chén nước. Hình tướng của ly nước khác hình tướng của chén nước, nhưng bản chất của nước là một. Như vậy, đồng là nước nhưng tùy duyên mà có hình tướng khác nhau. Nước không có tướng nhất định nên gọi là vô tướng. Ai thấy được cái vô tướng này, người đó sẽ nhận được sự uyển chuyển sinh động trong từng giây phút của cuộc sống. “Chư pháp tùng bất lai, thường tự tịch diệt tướng”. Nhưng “Xuân đáo bách hoa khai, Hoàng Oanh đề liễu thượng”. Tuy tướng là tịch diệt, nhưng tùy duyên mà có hoa nở và chim hót trên cành. Chim hót vẫn ở trong chỗ tịch lặng, hoa nở cũng ở trong chỗ tịch lặng. Vì vậy, khi thấy hoa đào nở, Thiền sư Linh Vân liền tức khắc nhận ra cái vô tướng đó. Thấy được như thế là trở về với cái Phật tánh của chính mình. Và lúc ấy sẽ có một sự uyển chuyển sinh động trong cuộc sống. Các vị Bồ Tát lập phương tiện giáo hóa chúng sanh cũng nhờ cái thấy uyển chuyển sinh động này. Còn người nào có cái thấy giáo điều, cứng nhắc, khô chết, thì rõ ràng người ấy nhốt chân lý vào trong một khuôn khổ cố định. Thực ra, chân lý làm gì có khuôn khổ? Nếu chân lý có khuôn khổ, thì Bồ Tát Quan Thế Âm đã không thị hiện rất nhiều thân tướng để tùy duyên hóa độ chúng sanh.
            Chúng ta đã biết, đạo Phật có đến tám vạn bốn ngàn pháp môn. Nếu ai bảo rằng pháp tu của mình là đệ nhất, thì người ấy chưa hiểu gì về Phật pháp. Trong Phật pháp, khi còn ở cửa ngõ phương tiện thì còn có sai khác, nhưng đến cứu cánh thì tất cả chỉ là một. Đức Phật đã từng nói: “Nước trong bốn biển chỉ có một vị mặn, trong đạo của Như Lai cũng chỉ có một vị. Đó là vị giải thoát”. Người có trí không bao giờ cố chấp, đem một khuôn khổ áp đặt mọi người phải theo mình. Chính vì không cố chấp, không hành xử một chiều nên đối với họ thuận cảnh hay nghịch cảnh đều là thắng duyên. Đối với người chưa biết tu, thuận cảnh làm cho họ mê mờ, nghịch cảnh làm cho họ sân hận, nên cả hai đều là chướng ngại. Còn đối với người biết tu, thuận hay nghịch đều tốt, cho nên đối với  Đức Thế Tôn, chính Đề Bà Đạt Đa là thiện hữu tri thức bậc nhất của Ngài. Ngài đã đối xử với Đề Bà Đạt Đa cũng như Ngài A Nan là thị giả, hoàn toàn bình đẳng, không hơn không kém.
            Từ cái thấy vô tướng này, chúng ta soi rọi được rất nhiều vấn đề trong cuộc sống. Vô tướng ở đây không có nghĩa là không hình tướng, mà là nơi tướng lìa tướng. Đối với các pháp, không thực sự có hiện hữu, mà chỉ là hiện hữu một cách giả tạm. Thấy một cách thấu suốt như vậy chúng ta sẽ được bình an. Cái gọi là chết chỉ là ảo tưởng do ý thức bày đặt ra, chứ không có cái chết thật. Một đợt sóng trồi lên mặt đại dương ta cho đó là sống, khi nó chìm xuống thì cho là chết, thật ra đợt sóng ấy chưa từng sống mà cũng chưa từng chết, nếu sóng nhận ra nó chính là nước. Đợt sóng năm uẩn trên biển Chơn Như này cũng vậy, nếu thấy được cái vô tướng của thân, ta sẽ thấy cái sống hay cái chết cũng chỉ đều trên giả danh giả tướng.
            Tóm lại, một pháp không có tự thể riêng biệt, không thể đứng riêng biệt mà tồn tại nên nó là Không. Vì  không nên nó vô tướng.
            Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật đã dạy: “Nhược kiến chư tướng phi tướng tức kiến Như Lai” (nếu thấy các tướng chẳng phải là tướng, mới thấy được Như Lai). Khi ta thấy được sự thay hình đổi dạng liên tục, trong từng sát na của các pháp, ta mới thấy được chỗ phi tướng. Các pháp này là do duyên hợp giả có nên phi, các pháp chẳng phải thật là nó nên phi. Chúng ta đừng nghĩ rằng Như Lai là ông Phật xi măng ngồi trên bệ. Cố nhiên, chúng ta phải quý kính Ngài, xem Ngài như đang hiện tiền trước mặt để ta đảnh lễ, để tu theo Ngài. Nhưng nếu có một ai trong chúng ta nghĩ Như Lai với một ý nghĩ không cẩn trọng như vậy là lầm. Khi ta nhìn đoá hoa, cái thấy đã đến tác động trên hoa, đó là LAI; nhưng thấy mà không sanh tâm phân biệt đẹp xấu, ưa ghét, thì đo là NHƯ. Nghe tiếng chim hót, cái nghe tác động đến tiếng chim nên LAI, nhưng không sanh tâm  phân biệt nên NHƯ. Các căn tiếp xúc với các trần khác cũng vậy. Do đó, LAI là dụng của NHƯ, NHƯ là thể của LAI. Chúng ta từ NHƯ mà đế LAI, nhưng quên NHƯ, nên cứ mãi lăn lộn, tạo nghiệp mãi trong ba cõi sáu đường, còn Đức Thế Tôn đã triệt chứng chỗ này nên gọi Ngài là NHƯ LAI.
            3. VÔ TÁC MÔN.
            Khi hiểu sâu xa về Không, về Vô tướng, chúng ta sẽ càng dễ hiểu về Vô tác. Vô tác môn là cửa không tạo tác nếu thấy bằng tâm Vô tác, liền tức khắc được giải thoát. Đây là cửa giải thoát thứ ba.
            Vô tác còn gọi là vô nguyện, nghĩa là không mong cầu, không ham muốn. Tâm hoàn toàn vắng lặng đối với cuộc đời này, tùy duyên mà sống, tùy duyên mà thọ dụng các pháp. Không chấp thiện ác, đúng sai, không chấp nhị biên phân biệt. Sống nhưng không có thức khởi trong đó, nên tuy thấy biết rõ các pháp mà không tạo tác thêm nghiệp gì nữa. Như vậy, vô tác là do thấy các pháp là Không, là vô tướng nên tâm không dính mắc, không tạo tác, dù cũng làm tất cả mọi việc. Các vị A la hán, Bồ tát cũng làm lợi ích cho chúng sanh, cũng hoạt động sinh hoạt như chúng sanh, nhưng không tạo nghiệp, vì tâm các Ngài là Vô tác. Đã không tạo nghiệp thì không có kiết sử. Mà không có kiết sử thì lấy gì dẫn mình đi luân hồi - bị dẫn đi luân hồi là khi còn kiết sử, còn nghiệp. Nếu nghiệp thiện thì sanh nơi cõi lành, nghiệp ác phải đọa ba đường khổ là địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh. Ở đây không vướng các nghiệp dù thiện hay ác, nên giải thoát khỏi sinh tử luân hồi.
            Một khía cạnh khác của vô tác đối với trường hợp của các vị Bồ tát. Các Ngài không tạo tác các nghiệp nên không còn động cơ tái sanh ở kiếp sau. Nhưng vì bản nguyện độ sanh, nên các Ngài đi theo nguyện lực của mình, thị hiện nơi các cõi để tùy duyên hóa độ.
            Khi tu nghĩa là phải tập. Khi có cảnh thuận hay nghịch đến với ta, ta phải để tâm xem thử động tĩnh thế nào. Đó là quán tâm như tâm, các vận hành của tâm, ta phải thấy rõ và làm chủ nó. Ta phải thấy một cách quán triệt là toàn bộ những vọng niệm chỉ là những đợt sóng trên mặt tâm, cũng như sóng trên mặt đại dương, không cần diệt vọng mà chỉ cần liễu vọng, vì có tâm diệt vọng cũng như muốn lấy nước để trừ sóng, đó là cái thấy của nhị thừa chứ không phải của Phật, Bồ tát.
            Một vấn đề khác nữa, khi tâm đã vô tác thì không còn động cơ tái sinh. Mà khi không còn động cơ tái sinh thì không còn đặt một đối tượng sở chứng, sở đắc nào. Các pháp hữu vi đã là Không, là Vô tướng, thì cái gọi Niết bàn cũng không có tướng mạo. Niết bàn không phải là một cảnh giới để mình bơi lội trong đó. Nói theo nghĩa thông thường, khi ta cầm một vật gì thì vật ấy không phải là ta. Tương tự như vậy, nếu ta chứng được cảnh Niết bàn, thì Niết bàn ấy đã ở ngoài ta rồi. Niết bàn ở đây không phải là cái bị biết, mà là viên dung cả cái hay biết và cái bị biết, không phân ranh được. Khi ta thấy đóa hoa là đã biết mắt ta sáng, không còn tìm con mắt của ta nữa. Khi ta biết những đợt sóng đều là nước, thì thân năm uẩn này đã là Niết bàn, không cần tìm Niết bàn ở đâu nữa. Đó là tinh thần vô tác.
            Chúng ta đã từng nghe bài kệ của Thiền sư Hương Nghiêm Trí Nhàn trình cho Ngài Ngưỡng Sơn Huệ Tịch :
                                    Khứ niên bần vị thị bần,
                                    Kim niên bần thủy thị bần.
                                    Khứ niên bần du hữu trác chùy chi địa,
                                    Kim niên bần chùy dã vô.
                        Tạm dịch :
                                    Năm xưa nghèo chưa thật nghèo,
                                    Năm nay nghèo mới thật nghèo.
                                    Năm xưa nghèo còn có đất cắm dùi,
                                    Năm nay nghèo cả cái dùi cũng không.
            Đây là một thông điệp về sự nghèo. Cái nghèo của Ngài Hương Nghiêm chỉ có ở các vị A la hán trở lên, các vị đã đạt đến Vô sanh, tức là Vô tác.
            Cái nghèo ở đây ám chỉ điều gì? Thế nào là dùi? Thế nào là đất? - Đất là chỉ cho sáu trần cảnh bên ngoài. Dùi tượng trưng cho cái tâm phân biệt hay biết. Năm xưa tuy nghèo, nhưng đối duyên xúc cảnh vẫn còn phân tâm trên cảnh, nên còn có đất cắm dùi. Năm nay, tâm năng biết đã biến thành trực giác, khi thấy cảnh không còn bị gá trên cảnh để sanh tâm, nên nghèo không còn đất cắm dùi. Nói cách khác, năm xưa thấy cảnh vẫn còn có tâm sở hữu, chấp trước, còn dính mắc, dù là dính mắc với cái thiện hay với trình độ tri thức của mình về Phật pháp, nên dù nghèo nhưng vẫn chưa thật nghèo. Năm nay nghèo mới thật nghèo nghĩa là vô tác, làm tất cả mà không kể công, làm mà không có cái ngã xen vào. Đây là việc làm của các vị Bồ tát, là hành động không công đức, tức đạo đức vô hành. Bồ tát luôn luôn làm mọi việc vì người, luôn quên mình vì lợi ích của người khác. Mà trong khi quên mình để phục vụ, thì lúc đó các Ngài đã sống viên mãn với cái thật. Còn chúng ta thì thường chỉ có ý thức về mình làm, ít nghĩ đến người khác, nên chúng ta là những con người đau khổ. Cho nên, người nào tập quên mình bao nhiêu thì người đó sẽ có sự bù đắp vô tận vô biên. Cũng vì thế, tu không phải là sự mất mát như nhiều người lầm tưởng, bởi vì khi buông tất cả, ta sẽ được tất cả.
            Tóm lại: Không - Vô tướng - Vô tác là ba cửa giải thoát, nhưng không nhất thiết phải đi cả ba cửa, chúng ta chỉ chọn một cửa thích hợp cũng vào được trong nhà. Thật ra, đây là ba khía cạnh của một vấn đề, nên nếu thâm nhập được một cửa, thì có thể thâm nhập luôn hai cửa kia.





Friday, 3 June 2011

*** TAM PHÁP ẤN & Tam Giới (Ba Cõi) & CHUYỆN TU HÀNH - CHUYỆN TRONG NHÀ - CHUYỆN TRONG ĐỜI - CHUYỆN TRONG CHÙA (TẬP SAN PHTQ SỐ 16)


CHUYỆN TU HÀNH


- Thưa Thầy, tôi có nghe câu nói: 
Thứ nhứt thì tu tại gia. 
Thứ nhì tu chợ. Thứ ba tu chùa.


Vô chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, thọ bát, bái sám, thì đúng là tu rồi, dễ hiểu quá. Còn tu tại gia, tu tại chợ là làm sao, thế nào, kính xin Thầy từ bi chỉ dạy cho. Cám ơn Thầy trước.

SUY NGẪM

- Thông thường, ai cũng nghĩ vô chùa mới gọi là tu thì quả thật không sai. Nhưng chưa hẳn hoàn toàn đúng.

Người thường đi chùa, hoặc cạo tóc ở luôn trong chùa, nếu không tu sửa tâm tánh, vẫn tham lam, vẫn sân hận, vẫn si mê, có khi còn làm phách, dè bĩu, hay khinh khi người khác không biết tu như mình, rủa xả, mắng nhiếc người khác đọa địa ngục, phê phán không căn cứ, phỉ báng không tiếc lời, thích ăn trên ngồi trước, giành miếng ngon, lựa chỗ tốt, thì không gọi là tu được. Có chăng đó chỉ là hình tướng người tu, dù tại gia hay xuất gia, gọi là tu tướng mà thôi.

Còn tu tại gia, tu tại chợ thì rộng rãi hơn, chiếm toàn bộ thời gian trong một ngày, dù là người tại gia hay xuất gia. Lúc nào cũng tự xem xét, hôm nay mình có làm tổn thương ai qua hành động, lời nói và trong tư tưởng. 


Chẳng hạn như tại chợ, mình có để xe nghinh ngang giữa đường, bất kể người khác có đi qua được hay không.




Chẳng hạn như tại gia, mình có ngồi coi TV chờ ông chồng (hay bà vợ) mời ăn cơm, ăn xong coi TV tiếp, không phụ giúp làm cơm, không phụ giúp dọn bàn, dọn dẹp, rửa chén bát, có khi lại ỷ mình là người làm ra tiền, nuôi cả nhà!

Tóm lại, tu tâm dưỡng tánh, hôm nay mình tốt hơn chính mình hôm qua, 
đó mới chính thực là tu. []      


BBT. PHTQ. CANADA




CHUYỆN TRONG CHÙA


- Kính thưa quí vị, như chúng tôi đã trình bày, bàn tay của chúng ta có hai mặt, đồng tiền cũng có hai mặt, tờ giấy cũng có hai mặt. Hai mặt đó không bao giờ có thể tách rời được.

Đó là chân lý, tức là điều hiển nhiên đúng ; đúng với mọi thời gian và không gian, đúng với mọi người không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, quốc tịch, màu da, xuất xứ, học thức, tuổi tác, địa vị xã hội, nghĩa là bất tùy phân biệt, không cần chứng minh.

Cho nên, cái đúng với tôn giáo này, nhưng không đúng với tôn giáo khác, chưa phải là chân lý.

Cái đúng với dân tộc này, với địa phương này, với xứ sở này, với thời gian này, với không gian này, nhưng không đúng với dân tộc, địa phương, xứ sở, thời gian hay không gian khác, chưa phải là chân lý.

Tóm lại, chân lý không có ở trong kinh sách, không có ở trong chùa, không có trong các nghi lễ tôn giáo - kể cả Phật giáo, không có trong khóa nghiên tu an cư tại tổ đình này !

- Con có thắc mắc : Thầy là một vị tu sĩ Phật giáo, là một vị giáo thọ trong khóa nghiên tu an cư năm nay, Thầy dùng kinh điển Phật giáo giảng dạy tứ chúng, sao lại nói chân lý không có trong kinh điển ?

- Chân lý thực sự không có trong kinh điển. Chấp chặt kinh điển thì khó thấy được chân lý tối thượng.

- Như vậy, thưa Thầy, chân lý ở đâu ?

- Chân lý ở ngay trước mắt Ni sư đó !

- Sao con không thấy?!

-  Chân lý phải « thấy » qua trí tuệ bát nhã, 
   chứ không thấy bằng nhục nhãn 
   (mắt thịt, mắt trần, mắt thường). ■




SUY NGẪM

Muốn nhìn thấy mặt trăng,
phải dùng ngón tay để chỉ.

Người trí nương theo hướng ngón tay, 
nhận thấy được mặt trăng.

Người chấp chặt ngón tay, 
chỉ lo nhìn ngón tay chăm chăm, 
nên khó thấy được mặt trăng thật !

BBT. PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll




Tam Giới (Ba Cõi)

Ba cõi cũng tức là vòng sinh tử luân hồi. Các kinh luận thường dạy rằng, tất cả mọi loài chúng sinh đều có sẵn khả năng giác ngộ (Phật tính), nhưng vì bị các kiến chấp sai lạc làm cho mờ tối nhận thức, khiến không tự phát hiện và thắp sáng được khả năng ấy, cho nên cứ phải quanh quẩn mãi trong ba cõi.

Còn ở trong ba cõi là còn bị phiền não chi phối. Chỉ khi nào đạt được quả vị giác ngộ thì mới được giải thoát ra khỏi ba cõi – tức là thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi. 

Ba cõi đó là:

1. Cõi Dục (Dục giới): Dục là ham muốn. Cõi Dục là cõi của thực phẩm, ước muốn vật chất và dục vọng thể xác. Chúng sinh trong cõi này vì đam mê theo các thú vui về sắc tướng, âm thanh, mùi hương, ăn uống, chạm xúc và dâm dục cho nên luôn luôn gây ra nhiều tội lỗi, tai họa và khổ đau. Các loài chúng sinh trong cõi Dục này gồm có: Người, A-tu-la, Địa-ngục, Ngạ-quỉ và Súc-sinh. Trong 5 loài này thì loài Người có tâm ý phát triển cao hơn hết, là cảnh giới có khổ đau và hạnh phúc lẫn lộn. Bởi vậy, các vị Bồ-tát thường chọn sinh vào thế giới loài người, nơi có nhiều hoàn cảnh thuận lợi, để phụng sự chúng sinh và tu tập các pháp môn cần thiết sau cùng để thành tựu quả Phật. Cũng bao gồm trong phạm vi cõi Dục này còn có 6 cõi Trời, tuy hưởng được nhiều phước báo hơn loài Người, nhưng vẫn là những phước báo tạm bợ, và trí tuệ thì không hơn loài Người. Chúng sinh trong 6 cõi này vẫn có hình sắc, nhưng phần vật chất của họ vô cùng vi tế, mắt người thường không thể trông thấy được. Họ đều là hóa sinh, cũng mang hình thể nam, nữ, với đầy đủ các thứ dục vọng như con người. Sáu cõi Trời của cõi Dục (Lục Dục thiên) này, từ thấp lên cao gồm có: Tứ-vương, Đao-lợi (cũng gọi là cõi trời Ba-mươi-ba – tam thập tam thiên), Dạ-ma, Đâu-suất, Hóa-lạc và Tha-hóa-tự-tại.

2. Cõi Sắc (Sắc giới): Sắc là hình tướng, vật chất. Đây là cõi của các vị Phạm Thiên, có hình tướng, vật chất như thân thể, cung điện v.v..., nhưng rất vi tế, đẹp đẽ, tinh diệu. Các vị trời ở đây không có tướng nam nữ, không có tham dục như ở cõi Dục, chỉ sống trong thiền định. Tùy theo mức độ cao thấp của thiền định, cõi Sắc được chia làm 4 bậc, gồm 18 cõi Trời:

a) Cõi Sơ-thiền (Sơ-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Phạm-chúng (các vị trời tùy tùng của các vị Phạm Thiên), Phạm-phụ (các vị trời thân cận các vị Phạm Thiên), Đại-phạm (các vị Phạm Thiên có nhiều hạnh phúc, đẹp đẽ, tuổi thọ cao nhất trong cõi Sơ-thiền). Các vị Phạm Thiên ở các cõi này có thân thể khác nhau, nhưng cách suy nghĩ thì đều giống nhau, và trong tám thức thì không còn có tị thức và thiệt thức hoạt động.

b) Cõi Nhị-thiền (Nhị-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-quang (các vị Phạm Thiên có chút ít ánh sáng), Vô-lượng-quang (các vị Phạm Thiên có ánh sáng vô cùng), Quang-âm (các vị Phạm Thiên có ánh sáng rực rỡ). Cõi Nhị-thiền này có rất nhiều ánh sáng. Các vị Phạm Thiên ở đây đều có thân thể giống nhau nhưng cách suy nghĩ thì khác nhau, và trong tám thức thì từ cõi Nhị-thiền này trở lên, cả năm thức cảm giác đều không còn hoạt động.

c) Cõi Tam-thiền (Tam-thiền thiên), gồm 3 cõi Trời: Thiểu-tịnh (có hào quang nhỏ), Vô-lượng-tịnh (có hào quang vô hạn), Biến-tịnh (có hào quang không xao động). Cõi Tam-thiền này mọi sự đều thanh tịnh, cả thân và tâm của các vị Phạm Thiên đều hoàn toàn giống nhau.

d) Cõi Tứ-thiền (Tứ thiền thiên), gồm 9 cõi Trời: Vô-vân (cảnh giới quang đãng), Phước-sinh (cảnh giới trường cửu), Quảng-quả (hưởng phước báo rộng lớn), Vô-phiền (hoàn toàn tinh khiết), Vô-nhiệt (hoàn toàn thanh tịnh), Thiện-kiến (cảnh giới đẹp đẽ), Thiện-hiện (hoàn toàn tự tại), Sắc-cứu-cánh (cảnh giới tối thượng), Vô-tưởng (không còn tư tưởng). Đây là cõi cao nhất của Sắc giới, chúng sinh sống trong cảnh giới thiền định sâu xa, hoàn toàn tịch tịnh, chẳng những năm thức cảm giác mà cả ý thức cũng không còn hoạt động nữa.

3. Cõi Vô-sắc (Vô-sắc giới). Cõi này hoàn toàn không còn có vật chất, hình thể, cho nên cũng không có tướng nam nữ, không có dục vọng, mà chỉ thuần có nghiệp thức trú trong các cảnh giới thiền định thâm diệu. Đây là cõi cao nhất trong ba cõi, gồm có 4 cõi Trời:

a) Cõi Không-gian vô-biên (Không vô biên xứ thiên): Cảnh giới của các vị trời chỉ thấy có không gian vô biên, đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là không vô biên xứ định.

b) Cõi Tâm-thức vô-biên (Thức vô biên xứ thiên): Cõi chỉ thấy có tâm thức vô biên, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là thức vô biên xứ định.

c) Cõi Vô-sở-hữu (Vô sở hữu xứ thiên): Cõi này không còn có bất cứ một hiện tượng gì, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là vô sở hữu xứ định.

d) Cõi Phi-tưởng phi-phi-tưởng (Phi tưởng phi phi tưởng xứ thiên): Cõi này không có tri giác mà cũng không phải là không có tri giác, là cảnh giới của chư thiên đã đạt được và đang an trú trong trạng thái thiền định gọi là phi tưởng phi phi tưởng xứ định.

Trong sách Đức Phật và Phật Pháp (Phạm Kim Khánh dịch), hoà thượng Narada Maha Thera có nói: “Nên ghi nhận rằng đức Phật không nhằm mục đích truyền bá một lí thuyết về vũ trụ. Dầu những cảnh giới trên có hay không, điều ấy không ảnh hưởng gì đến giáo lí của Ngài. Không ai bị bắt buộc phải tin một điều nào, nếu điều ấy không thích hợp với sự suy luận của mình. Nhưng nếu bác bỏ tất cả những gì mà lí trí hữu hạn của ta không thể quan niệm được, thì điều ấy cũng không phải hoàn toàn là chính đáng.” 

 


lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll  

TAM PHÁP ẤN

Ấn (印¡) có nghĩa là con dấu, hay con mộc, để chứng nhận chính thức cho một tổ chức, một đoàn thể nào đó, thứ hai, ấn là nói lên chủ trương, đường hướng được đưa ra trong tổ chức đó. Chữ ấn ở đây được dùng như một danh từ trừu tượng để làm tròn hai nhiệm vụ : chứng tín cho những Kinh điển hiện hành là lời Phật dạy, thứ hai là chỉ cho tư tưởng chủ đạo của Kinh Điển Phật Giáo. 
Tam Pháp Ấn đó là: Chư Hành Vô Thường Chư Pháp Vô Ngã Niết Bàn Tịch Tĩnh
Kinh điển của Phật giáo được ấn định bởi ba Pháp Ấn trên, nếu không như thế thì chính là tà thuyết.
I/ CHƯ HÀNH VÔ THƯỜNG : Các hành vô thường (Phạn: Anitya sarvasamskarah, Pali: anicca, E: impermanence), còn gọi là Nhất thiết hành vô thường ấn, Nhất thiết hữu pháp vô thường ấn, gọi tắt là Vô Thường ấn): Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian đều vô thường, dời đổi, biến chuyển, sinh diệt không ngừng. Chúng sinh không nhận biết điều này nên đối với vô thường mà lầm chấp là thường, nên triền miên thống khổ, vì thế Phật nói vô thường để phá chấp thường của chúng sinh. Vô thường là là đặc tính chung của mọi sự sinh ra có điều kiện, tức là thành, trụ, hoại, không arises, dwells, passes away, emptiness ). Từ tính vô thường ta có thể suy ra hai đặc tính kia là Khổ (dukkha) và Vô ngã (anatman). Vô thường là tính chất cơ bản của cuộc sống, không có vô thường thì không có sự tồn tại, vô thường cũng chính là khả năng dẫn đến giải thoát . Có tri kiến vô thường, hành giả mới bước vào Thánh đạo. Vì thế tri kiến vô thường được xem là tri kiến của bậc Dự lưu.  (Impermanence is the basis of life, without which existence would not be possible; it is also the precondition for the possibility of attaining liberation. Without recognition of anitya there is no entry into the supramundane path, thus the insight leading to “ stream entry”).
* Vô thường có hai loại: a) Sát na vô thường, chỉ cho sự biến hóa trong từng sát na, có sinh, trụ, dị, diệt. b) Tương tục vô thường, chỉ trong một thời kỳ có 4 tướng sinh, trụ, dị, diệt nối tiếp nhau.
* Có ba loại vô thường: a) Niệm niệm hoại diệt vô thường: trong từng sát na nhỏ nhất đều ẩn chứa sự hoại diệt vô thường. b) Hòa hợp ly tán vô thường: mọi sự vật hiện tượng hòa hợp để rồi ly tán, tan rã, vô thường. c)Tất cánh như thị vô thường : chân lý về sự vô thường trong cuộc đời này là như thế. Sự vô thường luôn luôn có mặt.
Trong Kinh Niết Bàn (quyển 4) Phật nói về Vô thường như sau: Chư hành vô thường Thị sinh diệt pháp Sinh diệt diệt dĩ Tịch diệt vi lạc
Các hành vô thường
Là pháp sinh diệt
Sinh diệt hết rồi
Tịch diệt là vui.

Thiền Sư Vạn Hạnh đời nhà Lý (1010 -1225) trước giờ thị tịch đã nhắc nhở chúng đệ tử về sự vận hành của vô thường qua bài kệ:
Thân như điện ảnh hữu hoàn vô, Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô. Nhậm vận tịnh suy vô bố úy, Thịnh suy như lộ tháo đầu phô.
  Thân như bóng chóp chiều tà
Cỏ cây tươi tốt qua thu rụng rồi
Xá chi suy thạnh việc đời
Thạnh suy như hạt sương rơi đầu cành.

Kinh Kim Cang cũng nói: Nhất thiết hữu vi pháp Như mộng huyễn bào ảnh Như lộ diệc như điển Ứng tác như thị quán. (Tất cả pháp hữu vi, như chiêm bao, ảo thuật, bóng nước, ảnh tượng, sương mai, điện chớp, rất cần phải có cái nhìn như thế)
Các pháp thế gian thuộc hữu vi
Như đêm đông giấc mộng đông thùy
Như đồ giả dối không bền chắc
Như bọt nước tan mất cấp kỳ.
Như bóng trong gương nào phải có
Như sương giọt nắng chẳng còn chi
Như luồng điện chớp làm gì có
Nhận xét như vầy mới thật tri.

Nhận thức được như thế để không khỏi đau khổ, lo âu, sợ hãi khi vô thường đến.
II/ CHƯ PHÁP VÔ NGÃ: Các pháp vô ngã (Phạn : Niràtmànahsarva-dharmàh), còn gọi là nhất thiết pháp vô ngã ấn, gọi tắt là vô ngã ấn). Tất cả các pháp hữu vi ở thế gian nói chung đều là vô ngã, không có chủ thể nhất định, chúng sinh không rõ biết nên đối với tất cả pháp lầm chấp là có chủ thể, vì thế Phật nói vô ngã để phá trừ chấp ngã của chúng sinh. Vô ngã (Nonself- Anatman) là một giáo lý căn bản của Đạo Phật, cho rằng, không có một Ngã ( atman), một cái gì trường tồn, bất biến, nhất quán, tồn tại độc lập nằm trong mọi sự vật. Theo Đạo Phật, cái ngã, “cái tôi” cũng chỉ là một tập hợp của “năm nhóm” (Ngũ uẩn - Five aggregates - Skandha), luôn luôn thay đổi, mất mát và vì vậy “tôi” chỉ là giả hợp, gắn liền với cái khổ đau, không có chủ thể nhất định. Ví dụ, con người được cấu tạo bằng một tổng thể ngũ uẩn: Sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn và thức uẩn. - Sắc uẩn: chỉ cho phần vật chất, thân thể như mắt, tai, mũi, lưỡi, đầu, mình, tứ chi - Thọ uẩn: là chỉ cho toàn bộ cảm giác, không phân biệt chúng là dễ chịu hay khó chịu hay trung tánh. - Tưởng uẩn: là nhận biết các cảm giác như âm thanh, màu sắc, mùi vị... kể cả nhận biết ý thức đang hiện diện. - Hành uẩn: vận hành của tâm lý, chỉ sự hoạt động của tâm sau khi có tưởng, ví dụ như đánh giá, vui thích, ghét bỏ, quyết tâm, tỉnh giác.. - Thức uẩn: bao gồm sáu dạng ý thức liên hệ tới sáu giác quan: ý thức của mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Qua sự phân tích chi tiết của năm uẩn trên ta không thấy cái uẩn nào là của ta, vậy mà lâu nay ta lầm tưởng uẩn này là thật có để rồi ta tự gây đau khổ cho mình và cho người.
III/ NIẾT BÀN TỊCH TỈNH: Niết bàn tịch tĩnh (Phạn: Satamnirvanam, còn gọi là Niết bàn tịch diệt ấn, Tịch diệt niết-bàn ấn, còn gọi là Diệt, Diệt tận, Diệt độ, Tịch diệt, Bất sinh, Viên tịch, Giải thoát, Vô vi, An lạc, từ phổ biến và gọi tắt là Niết bàn. Tất cả chúng sinh không rõ biết khổ đau sinh tử cho nên tạo nghiệp, trôi lăn trong ba cõi, sáu đường, vì thế Phật nói Niết Bàn tịch diệt cho chúng sinh quy hướng. Niết bàn là mục tiêu tối hậu phải đạt được của tất cả những đệ tử Phật, dù họ thuộc về tông phái nào, Nguyên Thủy hay Đại Thừa. Theo Phật Giáo Nguyên Thủy, Niết bàn được xem là đoạn tuyệt vòng luân hồi ( Samsara) và đi vào một thể tồn tại khác ( Nibbana is departure from the cycle of rebirths and entry into an entirely different mode of existence). Đó là sự tận diệt gốc rễ của ba độc: tham, sân và si ( desire, hatred & delusion). Đồng thời Niết Bàn có nghĩa là không còn chịu sự tác động của nghiệp (Karma/action), không còn chịu quy luật của nhân duyên, ở trạng thái vô vi, tức là đặc tính thiếu vắng sự sinh, trụ, dị, diệt hoặc thành, trụ, hoại, không. Còn theo Phật giáo Đại Thừa, Niết Bàn được xem là sự thống nhất với cái Nhất thể tuyệt đối ( sự bình đẳng của chúng sinh- Sattvasamata), sự thống nhất luân hồi với dạng “ chuyển hóa” của nó. Niết bàn được xem như sự lưu trú trong tính tuyệt đối, sự an lạc khi thấy mình cùng một thể với tuyệt đối, khi thấy mình giải thoát khỏi mọi ảo giác, mọi biến tướng của tham ái.
Có hai loại Niết Bàn: a) Hữu dư Niết bàn: Tiếng phạn : Savupadisesa-Nibbana: Niết bàn còn tàn dư, Niết bàn trước khi tịch diệt. Niết bàn này là trạng thái của các thánh nhân đã loại bỏ phiền não, không còn tái sinh. Các vị này còn sống trên đời nên vẫn còn ngũ uẩn, còn có nhân trạng, nên gọi là “hữu dư”. b) Vô dư Niết bàn: Tiếng phạn: Anupadisesa-nibbana: là Niết bàn không còn – ngũ uẩn, mười hai xứ, mười tám giới và các căn. Niết bàn Vô Dư đến với một vị A La Hán sau khi viên tịch, không còn tái sinh. Loại Niết Bàn này cũng được gọi là Niết Bàn toàn phần hay Bát Niết Bàn. []

*** NHÌN QUA KHUNG CỬA SỔ (PHTQ SỐ 15)





Nhìn qua
khung cửa sổ


Một đôi vợ chồng trẻ vừa dọn đến ở trong một khu phố mới.

Sáng hôm sau, vào lúc hai vợ chồng ăn điểm tâm, người vợ thấy bà hàng xóm giăng tấm vải trên giàn phơi.

"Tấm vải bẩn thật" Cô vợ thốt lên. "Bà ấy không biết giặt, có lẽ bà ấy cần một thứ xà bông mới thì giặt sẽ sạch hơn".

Người chồng nhìn cảnh ấy nhưng vẫn im lặng. Thế là vẫn cứ lời bình phẩm ấy mỗi lần bà hàng xóm phơi tấm vải.

Một tháng sau, vào một buổi sáng, người vợ ngạc nhiên vì thấy tấm vải của bà hàng xóm rất sạch, nên cô nói với chồng:

"Anh nhìn kìa ! Bây giờ bà ấy đã biết giặt tấm vải rồi. Ai đã dạy bà ấy thế nhỉ? "

Người chồng đáp: "Không. Sáng nay anh đã dậy sớm và đã lau kính cửa sổ nhà mình đấy".


SUY NGẪM:

Trong cuộc đời cũng như thế: Mọi sự tùy thuộc sự sạch sẽ của khung cửa sổ, qua đó chúng ta quan sát các sự việc.

Trước khi phê bình, có lẽ nên kiểm tra trước phẩm chất của cái nhìn của ta. Khi đó, chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng sự tinh khiết trong của trái tim người khác.

Con mắt là cửa sổ tâm hồn, ta hãy lau sạch cửa sổ của mình nhé! []


Nguyen Ngoc Van Anh




CHUYỆN TRONG ĐỜI (PHTQ SỐ 16)

- Thế nào gọi là tu?
- Trong cuộc sống hàng ngày, khi xài điện, nước, giấy, nên tiết kiệm, không lãng phí, dù tại gia, tại chợ hay tại chùa. Như thế gọi là tu đó.



CHUYỆN TRONG ĐỜI

- Thế nào gọi là tu?
- Trong cuộc sống hàng ngày, khi gặp chuyện bất như ý, bị đối xử bất công, phải nghe những lời phê phán phỉ báng vô lý, vô cớ, vô duyên, những người sống chung nhà, chung sở làm, chung chùa, có những hành động, lời nói hay ý nghĩ không tốt, không hay, không đẹp, không đúng, không phải mình không cố chấp, không ghim trong lòng, không tỏ vẻ bực dọc ra ngoài, không nuôi hận thù mười năm muôn năm sẽ trả, không sống để dạ, chết mang theo. Như vậy gọi là tu đó.

- Tại sao?

- Bởi vì người gây phiền não cho mình, người  ta quên mất rồi, người ta về nhà, ăn ngon, ngủ yên, vợ chồng con cái vui vẻ hỉ hạ. Còn mình thì sao? - Mình ôm chuyện bất như ý đó trong lòng, đem lửa phiền não về nhà, chia cho chồng con (hay vợ con), cả nhà nóng lên, ăn cơm hết ngon, ngủ không yên giấc. Rồi sao nữa? - Ngày mai kiếm cách khai chiến, trả đũa, trả thù, hay hại ngầm sao cho người đó thân te tua, tâm tơi tả, sống không được, chết không xong, mới hả cơn giận này. Rồi được gì? - Hai bên chiến đấu, tranh chấp một mất một còn, một vô nhà thương hay nhà xác, một vô nhà thương hay nhà tù. Hết chuyện? - Chưa đâu!

- Biết vậy rồi, nhưng nhịn không nổi thì sao?

- Cái khối nặng trên lưng, mang đi còng xương sống, không chịu tự bỏ xuống, thì sao? Hy vọng trở thành lực sĩ cử tạ chăng? Hết ý! []

Ban Biên-Tập PHTQ