Thursday, 1 September 2011

*** ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT - CÀNH HOA SEN MÀU XANH




TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU

Trong thiền môn, bức tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh” Bồ Tát Ðại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh, đứng bên tay phải Ðức Phật A Di Ðà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy. Trong kinh sách, hai vị Bồ Tát hiện thân cư sĩ nữ hai bên Ðức Phật A Di Ðà tượng trưng Từ Bi và Trí Tuệ.

Bồ Tát Quán Thế Âm được nhiều người nhắc đến và tạc tượng lộ thiên ở các chùa, tu viện, tùng lâm, để ca ngợi hạnh kham nhẫn và đức từ bi cao thượng. Bồ Tát Ðại Thế Chí biểu trưng cho đức tinh tấn và ánh sáng trí tuệ. Ngài còn có danh hiệu là Ðắc Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Lực Ðại Thế Chí Bồ Tát, Ðại Tinh Tấn Bồ Tát hay Vô Biên Quang Bồ Tát.

Các danh hiệu của Bồ Tát Đại Thế Chí nói lên hạnh nguyện đại hùng, đại lực, đại tinh tấn và ánh sáng trí tuệ vô biên chiếu khắp mọi loài chúng sanh, có thể phá trừ vô minh, điều phục tham sân si, chuyển hóa phiền não thành bồ đề. Các vị Bồ Tát đều có từ bi, trí tuệ và ý chí xuất phàm như nhau, đó là nhân để tiến đến Phật quả.

Trong Kinh Hoa Nghiêm Đức Phật ca ngợi Bồ Tát hạnh như sau:

“Nhân vì chúng sanh mà khởi tâm đại từ bi. Nhân lòng đại từ bi mà phát bồ đề tâm. Nhân phát bồ đề tâm mà thành ngôi chánh giác”.

Bồ Tát Đại Thế Chí tay cầm cành hoa sen màu xanh. Hoa sen tượng trưng cho sự thanh khiết trong sạch, không dính danh lợi thế gian, có sức mạnh tự tại vượt thoát khỏi bùn nhơ, thành tựu trí tuệ. Màu xanh của hoa sen tỏa ánh sáng xanh trên cõi trời tây phương tịnh độ, và còn là sức mạnh tinh tấn của chánh định, là trí tuệ siêu việt như trời biển tĩnh lặng rộng lớn bao la bát ngát.

HNH NGUYN CỦA BỒ TÁT ĐI THẾ CHÍ:
Hạnh nguyện của Bồ Tát Đại Thế Chí thuộc về tâm thức, hạnh tu tâm dưỡng tánh đi đến giải thoát rốt ráo. Tu theo Bồ Tát đạo là trước tiên phải tu tập thiền định để có được trí tuệ, xa lìa ái dục để được giác ngộ giải thoát; sau đó là phát đại nguyện độ tận tất cả chúng sanh đều được an trụ trong cảnh giới chư Phật. Mắt trần của chúng sanh thấy như Bồ Tát Đại Thế Chí không làm gì cả, nhưng thật sự làm tất cả hạnh nguyện của tâm hạnh bồ tát, làm với tinh thần tích cực và tinh tấn mạnh mẽ cao thượng tột cùng.

Bồ Tát Đại Thế Chí là tâm vô ngã và bình đẳng chân thật, không dụng tâm cố ý cho người thấy để tán dương khen ngợi, cũng không chấp vào công đức đã làm, không chấp tướng, không cầu danh. Hạnh vô ngã, vô trụ, vô phân biệt của Bồ Tát chẳng sinh một niệm gì cả, cũng không thấy có chứng, có đắc, có độ. Đó là chánh định và chánh niệm viên mãn tuyệt đối.

Hạnh nguyện của Bồ Tát Ðại Thế Chí là sự tinh tấn trong đạo Phật, có ích lợi cho chúng sanh rất nhiều và cũng là pháp tu tượng trưng cho sự nỗ lực dũng mãnh chân chánh trên con đường đi đến giác ngộ và giải thoát. Trong 37 phẩm trợ đạo, bát chánh đạo bao gồm: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.  Và tứ chánh cần gồm có:

Tinh tấn ngăn ngừa các điều ác chưa phát sanh.
Tinh tấn dứt trừ các điều ác đã phát sanh.
Tinh tấn phát triển các điều lành chưa phát sanh.
Tinh tấn tăng trưởng các điều lành đã phát sanh.

Hình ảnh Bồ Tát Đại Thế Chí là một vị cư sĩ thân người nữ, cổ đeo chuỗi anh lạc, tay cầm cành hoa sen xanh, tâm định như gương, thanh tịnh như nước lặng. Bồ Tát biểu trưng năng lực người tu không bị khuất phục bởi danh lợi và ngũ dục, tham sân si không làm ô nhiễm, như hoa sen gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.


LI ÍCH CỦA TINH TẤN VÀ TRÍ TUỆ:
Đức tinh tấn và trí tuệ rất cần thiết cho người tu, là con đường đi đến sự giác ngộ và giải thoát viên mãn. Trí tuệ có được là do tinh tấn tu hành, siêng năng học đạo, tham thiền, niệm Phật, tụng kinh, bái sám, không giải đải, không thối chuyển. Người học đạo có trí tuệ sáng suốt, biết được sự nguy hiểm của vô minh, dẫn chúng sanh đi vào lục đạo sanh tử của luân hồi, nên mạnh dạn chặt đứt phiền não của nhân bất thiện và nghiệp ác. Tinh tấn còn là tâm hoan hỷ siêng năng, chuyên cần làm mọi việc thiện lành, cứu người giúp đời, sau đó điều cần thiết và quan trọng là tinh tấn tự tu học, cho đến khi thân khẩu ý được hoàn toàn trong sạch và thanh tịnh.

             Chư ác mạc tác.
             Chúng thiện phụng hành.
             Tự tịnh kỳ ý.
             Thị chư Phật giáo.
             ***
             Việc ác không làm.
             Việc thiện vâng làm.
             Tâm ý thanh tịnh.
             Lời chư Phật dạy.

Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, mặc dù giáo pháp của Đức Phật mênh mông, nhưng không ngoài một vị giải thoát. Văn Tư Tu là ba pháp tu có công năng thành tựu được trí tuệ, người tu theo Phật phải luôn luôn học tập, suy tư và thực hành.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật dạy:

Trí tuệ là chiếc thuyền kiên cố chở ta ra khỏi biển sanh lão bịnh tử; cũng là ngọn đèn chói sáng xua tan vô minh hắc ám, là liều thuốc chữa bịnh tham sân si, là chiếc búa chặt đứt phiền não. Vậy các ngươi phải văn huệ, tư huệ, tu huệ và hành trì tinh tấn để tự tăng trưởng trí tuệ”.

      * Văn huệ: do nghe âm thanh, văn tự của Phật mà hiểu được ý nghĩa của kinh điển.
      * Tư huệ: do trí suy tư tìm hiểu, thấy được chân lý sự thật một cách sáng suốt.
      * Tu huệ: sự hành trì tinh tấn, mà giác ngộ thực tướng rõ ràng mọi sự vật không sai.

Hiện thân của Bồ Tát Đại Thế Chí là căn bản trí tuệ cho người tu, nhờ vào trí tuệ có năng lực như ngọn đèn sáng rực, soi rọi các tà vọng thiện ác, thấy được vực sâu của tội ác trong thế gian một cách rõ ràng. Ánh sáng trí tuệ chói rọi đến thâm tâm của con người, đến những nơi u ám của thế gian, để phá vỡ màn vô minh cứu khổ cho nhân loại. Tất cả chư Phật chư Bồ Tát nào cũng có hạnh nguyện đại từ bi và đại trí tuệ như Đức Phật A Di Đà và đó cũng là Phật tánh sáng suốt thanh tịnh, bất sanh bất diệt của con người.

Tu theo hạnh Bồ Tát Đại Thế Chí là tinh tấn kham nhẫn cho đến khi tâm an vui giải thoát, chứ không phải cái vui vị kỷ trong đối đãi: được mất, hơn thua, khen chê, sướng khổ. Si mê là gốc tội lỗi. Một niềm tin hay hiểu biết sai lầm sẽ khiến con người rơi vào vực thẳm đau khổ triền miên. Trí tuệ giúp con người nhận thức rõ ràng sự khác biệt giữa đúng và sai, thiện và ác, nhưng không tâm kỳ thị phân biệt và không bị phiền não chi phối. Đó cũng là tinh thần vô trụ, vô chấp của Bồ Tát Đại Thế Chí. Ðạo Phật là đạo giác ngộ bằng con đường trí tuệ, và giải thoát chúng sanh qua hạnh nguyện từ bi. Bồ tát cũng từ thế giới ta bà khổ, tu hành tinh tấn, trì giới thanh tịnh, tâm từ bi cao thượng, trí tuệ sáng suốt, phá được vô minh sanh tử luân hồi, và đạt thành chánh đẳng chánh giác.



NIM HỒNG DANH PHT VÀ BỒ TÁT:
Người mê miệng niệm Phật, nhưng tâm phiền não và ý mơ tưởng chuyện hưởng lạc cảnh giới tây phương. Người ngộ miệng niệm Phật, tâm trong sáng, ý thanh tịnh và tuệ chánh định như Bồ Tát Đại Thế Chí. Cảnh giới Tịnh Độ là cõi chư Phật trong sạch đẹp đẽ như ngọc lưu ly, xa cừ, xích châu, mã não, thì tâm chúng sanh muốn về cõi Phật cũng phải thanh tịnh sáng suốt, vô chấp và vô ngã tuyệt đối.

*    Niệm mà không chấp có niệm, đó là chánh niệm.
*    Hành mà không chấp có hành, đó là chánh tinh tấn.
*    Độ mà không chấp có độ, đó là chánh tư duy.
*    Tu mà không chấp có tu, đó là chánh tri kiến.

Niệm Phật để thanh tịnh tâm và đạt được nhất tâm. Muốn sanh về cõi tịnh độ  Đức Phật A Di Đà, con người còn phải thực hành hạnh từ bi, kham nhẫn, thanh tịnh như Bồ Tát Quán Thế Âm và đạt định lực dũng mãnh, ý chí tinh tấn, trí tuệ sáng suốt như Bồ Tát Đại Thế Chí. Thiếu một trong hai đức tánh bên trái hoặc bên phải của Đức Phật A Di Đà, thì đường về cõi Tây Phương Tịnh Độ còn xa cách ngàn trùng.

Hành giả trên đường tu, biết ơn, phụng thờ, chí tâm đảnh lễ, và niệm hồng danh Bồ Tát Đại Thế Chí, tức là đang hướng về ánh sáng trí tuệ sẵn có tự thân. Kính lễ và niệm hồng danh chư Phật chư Bồ Tát không có ý nghĩa cầu xin bình an, hay vật chất sung sướng, chính là hướng về tâm hạnh từ bi, trí tuệ cao thượng, nguyện tinh tấn tu tâm dưỡng tánh theo lời Phật dạy. Như vậy là cách niệm hồng danh và đảnh lễ  chư Phật chư Bồ Tát đúng chánh pháp bậc nhất, còn gọi là chánh niệm và chánh định.    

Ở thế gian, khi bước chân vào điện Phật chốn Thiền môn, người Phật tử đã phải bỏ lại đôi dép bụi bặm bên ngoài, thân tướng trang nghiêm cung kính, tâm chánh niệm, ý thiện lành, để xứng đáng là Phật tử chân chánh khi đảnh lễ Đức Thế Tôn. Cõi Phật là cõi cao thượng, thanh tịnh, không có đau khổ, không có ba đường ác. Tâm người tu phải thanh tịnh, sạch hết phiền não, không còn nghiệp chướng, không còn danh lợi, không hơn thua tranh chấp, xả bỏ hết ích kỷ nhỏ nhen của phàm phu. Đó chính là chuẩn bị cho mình trở thành một bậc thượng thiện nhơn, để được sanh về cõi tịnh độ của chư Phật.

Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ; đem ánh sáng trí tuệ phá trừ vô minh, giúp người tu diệt tham ái sân hận si mê, đó gọi là công đức; đem từ bi là tình thương trong sạch, thanh cao, cứu người giúp đời, đó gọi là phước đức. Công đức và phước đức là phương tiện đạt thành đạo quả.

Thông thường, khi con người trong thế gian làm được việc lành việc tốt, thì hay tự hào ngạo nghễ, xem thường tất cả mọi người khác. Sự trói buộc của bản ngã làm người tu mất hết một phần công đức, phước đức, giảm bớt một phần từ bi và trí tuệ. Tu Bồ Tát đạo là phải tự giải thoát những trói buộc và phiền não thế gian. Tu Bồ Tát đạo không sợ sanh tử, cũng không chán ghét ta bà khổ. Tất cả vì sự đau khổ của chúng sanh, phát nguyện tùy duyên cứu độ. Đó là tâm hạnh ưu việt của người tu Bồ Tát đạo.

Tóm lại, đời tu không phải ai cũng có hoàn cảnh giống như nhau, con người thường thích cầu nguyện cho cuộc đời bớt sóng gió, bớt khổ đau, nhưng cuộc đời không như chúng ta mong ước. Trên thế giới ta bà khổ, không phải ai phát tâm tu hành đều được người cung kính hay tán thán, hoặc không bị sóng gió, nhưng dù cảnh thuận hay nghịch, người tu luôn cố gắng tinh tấn giữ vững niềm tin và nghị lực không thối chuyển.

Con người có hạnh phúc, không nhất thiết là phải được tất cả mọi mong cầu, mà là người mạnh dạn đứng lên khi thất bại, biết chuyển đổi được những khó khăn và khổ đau xảy đến, thành an lạc hạnh phúc trong tâm hồn.

Bồ Tát Đại Thế Chí là oai lực của trí tuệ, là công hạnh lý tưởng cao thượng tột cùng của công phu tinh tấn tu tập của người tu . Xuất gia hay tại gia đều có khả năng tự chọn con đường tu, tự độ và độ tha, bằng sức mạnh của từ bi và trí tuệ.

“Tự Tánh Di Đà Duy Tâm Tịnh Độ”, nơi tâm nhứt niệm thanh tịnh, không loạn động điên đảo thì thấy được cảnh giới tịnh độ, có nhiều hoa sen xanh tỏa ánh sáng màu xanh tuyệt đẹp, đó là hình ảnh của Bồ Tát Đại Lực Đại Thế Chí chắc là không sai chút nào. []

 

 

NAM MÔ ĐẠI LỰC ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT

Kính mời viếng trang nhà:
Mời xem tham khảo thêm bài viết cùng tác giả theo link:

TỰ TÁNH TAM BẢO VIÊN NGỌC MINH CHÂU
CHUỖI NGỌC TRÂN BẢO PHÁP THÍ


Như GiọNước Lá Se

 NHƯ GIỌT NƯỚC LÁ SEN
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU

Nắng mùa hè ấm áp, giúp cho vườn hoa ở Canada cảnh sắc rực rỡ.  Một hồ sen điểm vài cánh hoa hiếm quí tươi nhuần thanh khiết, làm ấm lòng người thưởng ngoạn. Lá sen màu xanh thẫm, trải khắp mặt hồ, tuyệt đẹp như bức tranh vẽ nghệ thuật. Vài giọt nước nằm yên giữa dòng lá sen tự lúc nào, một làn gió thổi qua, những giọt nước rơi nhẹ xuống mặt hồ. Sự yên tĩnh trong sạch và phẳng lặng của hồ sen, có thể trưởng dưỡng những tâm hồn an tịnh, không tranh chấp, không hơn thua, không phiền não.
                      
Ai sống trên đời nầy
Tham ái được hàng phục
Sầu khổ tự tiêu diệt 
Như giọt nước lá sen.   
(Kinh Pháp Cú)

Tất cả mọi người trên thế gian đều có chung một số phận "sanh lão bịnh tử", đó là cái khổ lớn của đời người. Con người có sanh ra, tất có già, có bịnh và sẽ đi đến cái chết chắc chắn như vậy. Con người tỉnh thức nhận rõ điều này. Diệu dụng của sự tỉnh thức đưa con người thoát khỏi vô minh, phiền não, khổ đau của luân hồi.

Căn tánh của chúng sanh không đồng, nên Ðức Phật giáo hóa tùy duyên, tùy căn cơ, tùy hoàn cảnh mà chỉ dạy nhưng cũng không ngoài một vị giải thoát. Phương pháp tu cốt yếu là giúp con người hiểu biết cách thực hành tinh tấn, tận sức kiên trì, chiến thắng tâm ma cho đến khi đạt được giác ngộ giải thoát, mới mong thoát khỏi đau khổ sanh lão bịnh tử, trở về niết bàn tịch tịnh. Như hoa sen và lá không nhiễm bùn tanh và nước đọng. Diệu dụng của sự tỉnh thức là con đường tu bằng trí tuệ cao thượng để có được kết quả viên mãn.

Ðức Phật dạy: "Chánh pháp là tặng phẩm quí báu nhất. Pháp vị là hương vị đậm đà thanh tịnh nhất. Pháp hỷ là niềm hoan hỷ an lạc cao cả nhất. Ái tận là công đức thù thắng nhất, vì đưa đến quả vị giải thoát tối thượng".

Ðệ tử của Như Lai

Luôn sống trong tỉnh thức

Bất luận ngày hay đêm

Tâm không nhiễm ái dục

Thường tu niệm tỉnh giác

Lậu hoặc ắt tiêu trừ.            

(Kinh Pháp Cú)

Chư Tổ ví tâm như nước hồ thu không gợn sóng, trăng soi bóng nước. Như ly nước đầy cáu bẩn, cần thời gian để yên một nơi, cáu bẩn lắng xuống, ly nước được trong dần. Người tu muốn được thấy sự diệu dụng của Phật pháp, cần phải có không gian yên tĩnh thích hợp để hành thiền và tu học. Khi không còn thấy sự yên tĩnh là buồn chán, ly nước cáu bẩn được lọc sạch.

Người sống không thẹn với lòng là người không tìm hạnh phúc trong quyền lực, trong sự tranh đấu hơn thua, bất chấp sự đau khổ của kẻ khác. Chúng ta nhận ra được sự tai hại của lòng tham và ích kỷ sẽ gây thù oán khắp mọi nơi, không có hạnh phúc nào bền vững cả. Cuối cuộc đời là sự tự hủy diệt trong cô đơn và đau khổ.

Người có trí tuệ hàng phục được tham sân si, xa lánh được nhân xấu ác, tâm sáng suốt, sẽ thấy được đâu là hạnh phúc bền vững chân thật. Khi cảm nhận được hạnh phúc xuất thế gian là vô giá, thì đối với họ thắng bại, danh vọng, quyền lực, vật chất không còn là quan trọng nữa.


Chư vị tôn túc thường nói: "Nhịn một câu sóng yên biển lặng, lùi một bước biển rộng trời cao". Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Phiền não trên đời như túi đá nặng trên vai, người nào biết buông bỏ xuống thì nhẹ nhàng như cởi mây ngao du sơn thủy.
Vận dụng từ bi để trừ sân hận, hiểu được sự bất tịnh sẽ dẹp trừ tham dục, khai mở trí tuệ phá tan được si mê. Hạnh phúc cao quí là ở nhân phẩm trong sạch và lòng từ ái mà có được. Quá nhiều thủ đoạn và ích kỷ tham cầu cho riêng mình chỉ chuốc lấy khổ đau và thù hận mà thôi.

Trong đời sống hiện đại, mật độ dân cư càng tăng, tiện nghi vật chất phục vụ con người càng lôi cuốn hấp dẫn, áp lực đồng tiền càng mạnh. Con đường sa đọa mê đắm đưa nhiều người đến vực thẳm không còn kềm chế được. Nếu họ không thỏa mãn được những tham vọng điên cuồng, hậu quả đưa đến hạnh phúc gia đình tan vỡ, tội lỗi và bất hạnh trước mắt. Lúc đó con người tự hành hạ mình bằng sự sân hận, oán người, hận đời, đôi khi đi đến loạn tâm điên rồ, mất tự chủ và sáng suốt, để rồi việc ác gì cũng dám làm, thật là nguy hiểm vô cùng.

Khi nghĩ đến những bất hạnh mà họ phải gánh chịu, với trí tuệ sáng suốt và lòng từ bi, mọi người nên thấy họ đáng thương hơn đáng trách. Chúng ta không khinh khi, cũng không bỏ mặc họ, kiên nhẫn tùy duyên, đúng lúc nào đó có thể sẵn sàng giúp họ bằng tấm lòng khoan dung độ lượng, đưa họ về con đường bình an trong chánh pháp.

Muốn có được sự bình an thực sự, con người bớt đòi hỏi vị kỷ, sống đơn giản, xa rời hơn thua tranh chấp, trao giồi đức hạnh, khiêm hạ vô tư, vì người không vì mình, trong tất cả hành động của thân khẩu ý.

Sự toàn thiện về thân và tâm chưa đủ, chúng ta còn phải làm nhiều phước thiện. Tâm an lạc hạnh phúc khi mọi người xung quanh đều có hạnh phúc.

Tuy lá sen không được nhiều người ca tụng và chiêm ngưỡng như hoa sen tròn vẹn hương sắc, nhưng lá cũng góp phần làm cho cảnh sắc của hồ sen tươi thuần và tăng thêm giá trị thiện pháp cho tâm người biết thưởng ngoạn.

Người có trí tuệ thấy rõ nhân quả của thiện và ác, hạnh phúc và đau khổ, thì mới quyết tâm buông bỏ được tham lam, sân hận, và si mê.

Người giữ được tâm trong sạch, thân đoan chính thanh tịnh, những đam mê của cảnh trần không làm họ dính mắc bận tâm, như giọt nước trên lá sen.

Người tu khi hành đạo thường gặp "bát phong", nghĩa là những sự tôn vinh hay phỉ báng, khen hay chê, sướng hay khổ, lợi dưỡng hay ngược đãi, tất cả đều không màng.

Bát Phong là tám điều xảy ra trên đời làm tâm con người loạn động bất an, nhưng với người biết cách tu, tâm không bị phiền não chi phối. Bát phong gồm 4 cặp đối nghịch:

Lợi: khi gặp lúc lợi lộc, tâm không ham muốn vui thích.
Suy: khi gặp cảnh suy sụp, bất như ý, tâm không sầu não, bi lụy.

Hủy: khi gặp sự hủy nhục, tâm không sân hận, thù oán.
Dự: khi gặp sự danh dự, tâm không dính mắc, tự mãn.

Xưng: khi gặp sự xưng tán, tâm không ngã mạn, tự kiêu.
Cơ: khi gặp sự chỉ trích, tâm không đau khổ, buồn rầu.
Khổ: khi gặp lúc khổ nạn, tâm không mặc cảm, oán than.
Lạc: khi gặp cảnh vui mừng, tâm không tham đắm, si mê.

Chư Phật hóa độ chúng sanh bằng tâm "Ðại hùng, Ðại lực, Ðại từ bi". Các Ngài vượt qua hết trở ngại của sự phân biệt và chia cách. Người tu theo Phật phải dũng mảnh tinh tiến rũ bỏ hết tham lam, sân hận và si mê, đem ánh sáng trí tuệ và tâm từ bi, xua tan bóng tối của vô minh nhiều đời nhiều kiếp cho mình và cho người hữu duyên.

Muốn thanh tịnh hóa tâm hồn, đã quá nhiều mệt mỏi vì sự cạnh tranh ồn ào của cảnh đời, như giọt nước lá sen, chỉ cần nhân duyên của cơn gió nhẹ cũng đủ làm cho giọt nước phiền não rơi xuống hồ, trả lại sự trong sạch nguyên vẹn cho lá. Sự diệu dụng của Phật Pháp, đem lợi lạc cho con người ở mọi thành phần giai cấp xã hội.

Ngày nay, băng giảng, kinh sách, được dịch ra nhiều ngôn ngữ, được phát hành rộng rãi, các khóa tu học được tổ chức tại các tự viện, chúng ta có thể tham khảo và tìm một pháp môn thích hợp với căn cơ và hoàn cảnh để tu học. Các vị học giả trí thức đã bỏ nhiều tâm huyết và công phu thành lập các "website" giá trị tu học, đem nhiều lợi lạc cho tứ chúng, xuất gia và tại gia. Giáo lý đạo Phật cũng được nhân loại đón nhận như nước cam lồ cứu khổ chúng sanh, với lòng tôn kính và sự biết ơn Ðức Phật Thích Ca Mâu Ni vô cùng vô tận.

Dù sống một trăm năm
Không thấy Pháp tối thượng
Chẳng bằng sống một ngày
Ðược thấy Pháp tối thượng.   
(Kinh Pháp Cú)


Dù sống một trăm năm
Không tuệ, không thiền định
Không bằng sống một ngày
Có tuệ, tu thiền định.               
(Kinh Pháp Cú)

Sự tu học không đòi hỏi phải ngộ tức thời, hay nóng lòng cầu mong chứng đắc, nhưng cũng đừng trì trệ. Niệm Phật hay tọa thiền để đi đến thanh tịnh tâm, là các pháp môn thực hành, đồng thời với việc tìm hiểu lời Phật dạy, để biết rõ cách tu tâm sửa tánh, đúng theo chánh pháp. Kết quả trừ dứt tất cả nghiệp ác và các duyên gây đau khổ, sau đó cứu người giúp đời, tạo công đức và phước đức. Nguyện đem công đức và phước đức hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sanh đều thành Phật đạo.

Tóm lại, con người thường mong muốn rất nhiều, nhưng đạt được những điều mong cầu thì rất ít. Không ai muốn khổ, nhưng vẫn gặp khổ nạn, không muốn già bịnh, nhưng già bịnh không ai tránh khỏi, không muốn chết cũng không được. Cuộc sống luân hồi khổ nhiều vui ít, sanh sanh tử tử mãi không thoát được.
Thời gian qua rất nhanh, tuổi đời tuổi đạo thì tăng dần, phiền não của tâm chấp trước càng nhiều, là những tư tưởng, quan niệm sai lầm, thành kiến, làm che lấp ánh sáng giác ngộ. Người tu cần thời gian tĩnh tu, tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền để an định tâm, dẹp trừ định kiến và phiền não. Trong kinh sách, có câu kệ như sau:

Chánh thân đoan tọa
Ðương nguyện chúng sanh
Tọa bồ đề tòa
Tâm vô sở trước.

Nghĩa là:                                    
Thân ngồi ngay thẳng
Nguyện cho chúng sanh
Ngồi tòa giác ngộ
Tâm chẳng chấp trước.

Chư Tổ dạy: "Duy Tuệ Thị Nghiệp". Người tu lấy trí tuệ làm sự nghiệp, tinh tấn làm công phu, dùng đạo lực khắc phục mọi khó khăn, tu tập thiền định để đi đến kết quả giác ngộ và giải thoát.

Khi nếm được "Hương Vị Phật Pháp" hạnh phúc không thể nghĩ bàn, thì mỗi thời khắc luôn được sống trong giới pháp an lạc của chư Phật. Báo ân đức Phật, hành Bồ Tát đạo, với tâm vô ngã vị tha, hành từ bi hỷ xả. Từng bước từng bước đạt được đức hạnh trọn vẹn, vô ngã vị tha, đem tâm trí và đạo lực tinh tấn an nhiên đi vào cảnh giới an lạc của chư Phật. Từng bước từng bước tạo duyên lành cho mọi người thân quen nếm được Pháp vị của sự giác ngộ và giải thoát.

Chúng ta có thể tự nhủ lòng rằng: "Hôm nay sự tu tập của tôi đã được một phần an lạc thanh tịnh, so với ngày hôm qua có tiến bộ. Nguyện ngày mai sẽ cố gắng nhiều hơn nữa và không bao giờ thối chuyển. Hãy đặt niềm tin vào con đường mà Ðức Phật đã giảng dạy, giữ giới thanh tịnh, trừ bỏ ba độc tham sân si. Ðó là một sự vô cùng quan trọng và cần thiết cho đời tu".

Nguyện chánh pháp lưu truyền
Phổ cập khắp thế gian,
Chúng sanh thường tịnh lạc,
Phật đạo chóng viên thành.

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca  Mâu Ni Phật.




CHUYỆN TRONG NHÀ

- Thằng Tư nhà mình, hôm nào đi làm, nó cũng khép kín cửa phòng của nó, bộ nó không muốn tôi dòm ngó phòng của nó chắc?


- Không phải đâu, Bà ơi! Bà hiểu lầm rồi! Nó mở cửa sổ phòng của nó cho thoáng. Nhưng nó không muốn tôi với bà bị lạnh, nên khép cửa phòng của nó, chớ nó không có nghĩ quấy gì đâu.


- Ờ hé! Ông không nói, tôi đâu có biết! Bậy quá, tôi cứ suy nghĩ lung tung. Ở chung nhà, người thân mà còn chưa hiểu nhau, huống gì là người dưng, là hàng xóm láng giềng, ha!



- Tâm bình thì thế giới bình!

ĐẠO PHẬT


ĐẠO GIÁC NGỘ



Đạo Phật là đạo của con người. Đức Phật ra đời vì muôn loài, trong đó chủ yếu là loài người. Cho nên mọi hành động của Ngài đều nhắm đến con người.


Đạo Phật dạy chúng ta phải thấy được Chân Lý, đạt được lẽ thực, nên nói tới đạo Phật là nói tới Đạo Giác Ngộ.



Tôi nhấn mạnh lại: Đạo Phật là Đạo Giác Ngộ chớ không phải đạo của Lòng Tin. Lâu nay chúng ta nhìn đạo Phật có vẻ huyền bí nhiều quá, mà đã huyền bí thì tăng trưởng lòng tin chớ không tăng trưởng trí tuệ.


Chúng ta theo đạo Phật là để tìm cầu sự giác ngộ, mà muốn được giác ngộ thì phải vào đạo bằng trí tuệ, bằng cái nhìn đúng như thật, chớ không thể nhìn khác hơn được.


Phật tử khi bước chân vào đạo Phật, quý vị thấy Phật có dạy chúng ta điều gì huyền bí mầu nhiệm không? Phật dạy chúng ta toàn những sự thật. Ví dụ Phật tử tại gia, Phật dạy phải giữ năm giới, rõ ràng có gì cao siêu huyền bí đâu, chỉ là những lẽ thực. Nếu chúng ta sống giữ được như thế thì mình là một con người tốt, hiện tại gây ảnh hưởng tốt với gia đình xã hội, mai kia cũng được sanh nơi tốt.


Đó là lẽ thực chớ không có gì huyền bí cả. Bởi vì Đức Phật là một con người thực, chứng nghiệm lẽ thực, cho nên những gì Ngài nói cũng là lẽ thực. []

-------------------------------------------------



Cần hiểu đúng về chùa chiền

Chính Ngữ

Những ngày lễ - Tết, trong tấp nập người đi lễ chùa thì phổ biến nhất vẫn là khấn nguyện, cầu xin chư Phật ban ơn, tăng phúc, bớt họa v.v... Sở dĩ có hiện tượng đó là do không ít người có nhận thức lệch lạc về Đức Phật, về chức năng, nhiệm vụ của chùa chiền.



Hằn sâu trong tâm thức người Việt, Đức Phật hiện lên như một vị thần có nhiều quyền năng, thần thông quảng đại, có thể ban phúc, trừ họa cho bất kỳ người nào. Hình ảnh đó được cụ thể hóa bằng hình tượng ông Bụt trong các câu chuyện cổ tích; là hình ảnh Phật Tổ Như Lai toàn năng, tài giỏi hơn cả Ngọc hoàng trong tác phẩm văn học được rất nhiều thế hệ người Việt Nam yêu thích là Tây du ký. Sự hình tượng hóa Đức Phật một cách sai lệch như vậy, vô hình trở thành động lực thôi thúc người ta đến chùa với tâm cầu xin.


Trước Tam bảo, người ta lạy lục cầu xin: xin cho tai qua nạn khỏi; xin cho giàu sang phú quý; xin tiền tài, xin địa vị… Họ mang theo rất nhiều lễ vật, sì sụp khấn vái, cầu xin. Khắp nơi trong khuôn viên chùa chỗ nào cũng thấy cắm nhang đèn, tiền rải khắp nơi; lò hóa vàng rừng rực cháy mang theo muôn vàn lãng phí. Cảnh chen chúc, giẫm đạp nhau ở cửa thiền để được làm lễ cầu an, giải hạn trong dịp đầu năm không còn là chuyện lạ. 


Trong tình hình đó, đáng lẽ đội ngũ Tăng Ni ở các ngôi chùa cần phải hướng dẫn, chấn chỉnh lại nhận thức sai lệch của người dân, của Phật tử. Tuy nhiên, phục vụ nhu cầu tín ngưỡng của quần chúng, vì lòng từ bi mà nhiều ngôi chùa, nhiều nhà sư lại dễ dãi chấp nhận việc người dân, Phật tử đến chùa chỉ để cầu xin. Hình ảnh một số nhà sư cúng sao giải hạn, gieo quẻ âm dương, chọn ngày lành tháng tốt đã và đang làm cho đạo Phật dần dần đậm màu sắc mê tín.


Để trả lại thanh tịnh cho chùa chiền, giúp chúng sinh nhận thức rõ về giáo lý và phương pháp tìm an lạc ngay trong cuộc sống, cần có một sự đổi thay căn bản về nhận thức. Trước hết là nhận thức của Tăng Ni, Phật tử. Bởi xã hội nhận biết đạo Phật thông qua hoạt động của đội ngũ Tăng Ni, Phật tử; cuộc sống thường ngày của Phật tử là tấm gương phản chiếu tư tưởng Phật giáo đến cộng đồng.


Chùa là nơi hoằng pháp. Vậy sư trụ trì và đội ngũ Tăng Ni phải là những người thầy trong lĩnh vực truyền bá giáo lý của Phật. Những tủ kinh sách Phật giáo phải được trưng bày ở nơi dễ thấy, dễ lấy. Sách về đạo Phật cần được đổi mới, được dịch và viết ra theo ngôn ngữ đương đại, dễ hiểu, dễ thấm sâu vào mọi tầng lớp nhân dân. Vào những ngày lễ - Tết, các Tăng Ni phải thuyết giảng giáo pháp hướng dẫn tu học cho những người muốn đến chùa học hỏi Chánh pháp.


Đức Phật nói: “Tin Ta mà không hiểu Ta là phỉ báng Ta”. Việc xem Đức Phật như một vị thần chuyên ban ơn, giáng họa; coi chùa chiền như một địa điểm cầu xin phước lộc đang làm cho đạo Phật trở nên xa lạ với tinh thần minh triết do chính Đức Phật đã dạy. Thiết nghĩ, chư vị Tăng Ni, Phật tử hãy cùng chung tay, góp sức trả lại giá trị đích thực cho ngôi chùa, trả lại sự tôn kính cho Đức Phật mà bao đời nay nhân dân ta hằng ngưỡng mộ.



*ĂN CHAY CÓ PHƯỚC!

-  Chị hai biết không em nghe quí Thầy dạy ăn chay có phước nhiều lắm.
   Nhưng khổ cho em là bà mẹ chồng và chồng em không ăn chay được.
   Mỗi ngày em nấu mặn không dám nếm thử, vì em ăn chay.
   Cho nên ngày nào cứ lên bàn ăn là gây lộn với chồng.

- Như vậy là em ăn chay như vậy là vô phước rồi, có phước ở chỗ nào?!!

-  Ơ! Hay tại sao em ăn chay mà chị bảo là vô phước chứ!

- Nhà em mỗi ngày đều gây lộn thì phước ở đâu nào…?!!
----------------------------------------
*CHIẾC LÁ KHOAI

-  Hồi nảy giờ cô giảng cho con nghe nhiều lắm, con còn nhớ gì không?
  Con có thể nhắc lại một vài điều mà con nhớ được không?

-   Thưa cô, tâm con như chiếc lá khoai, đổ bao nhiêu nước, ra ngoài bấy nhiêu!!

-  Trời!!


- Đạo Phật có dạy rằng:



1. Con người có 2 phần (ngũ uẩn):

Ngoài xác thân tứ đại phàm tục (sắc), còn có phần tâm linh (thọ, tưởng, hành, thức).

Phần xác thân (tứ đại) khi hết phước (tận số) thì chết đi, đem chôn, hay thiêu - không ai đem xác thối lên trời!

Con người không cần bận tâm đến cái xác chết, của mình hay của thân nhân, không nên phiền não với mấy cái hủ tro từ nhà quàn - chưa chắc là tro thiệt từ thân xác của thân nhân quá vãng. Quan trọng mấy cái vật chất đó, chỉ làm khổ người thân còn sống, phải đem xác chôn chỗ này, đem tro rãi chỗ kia. Đó chảng qua do tập quán, tín ngưỡng lâu đời của thế gian, và cũng chính do bản ngã (EGO) của của con người, làm khổ con người mà thôi. Cho nên, đạo Phật chủ trương “Vô Ngã, Vị Tha”. Thầy sẽ giải thích thêm khi đủ thiện duyên qua đề tài: Ngũ Táng (Địa táng, Điểu Táng, Hỏa Táng, Thủy Táng, và Thạch Táng). Tốt nhất là hiến xác cho khoa học sau khi chết, hợp tình hợp lý, hợp tâm nguyện vô ngã vị tha, có lợi ích đôi phần. Người chết thực hành hạnh bố thí (nội tài). Người sống hưởng thành quả khoa học, thuốc men, giải phẩu qua ngành y dược. Đừng nghe mấy vị sư Tàu (tào lao) tuyên truyền tâm ích kỷ rằng, hiến xác thì không được vãng sanh? Kinh điển nào dạy như vậy, ngoài mấy vị sư tào lao hiện nay?

2. Tâm Linh lại có 2 phần: thật và giả.

2.1. Phần tâm giả là tâm tham lam, giận dữ, ngu si, mà con người thường sống hàng ngày.
Phần tâm giả này khi có khi không, khi sanh khi diệt, khi khởi lên khi biến mất. Cho nên con người thay đổi tâm tính thường xuyên (vô thường) khi đắc thế khi thất bại (lợi/suy), khi thương khi ghét, khi thích khi chê, khi tán dương khi chửi bới (xưng/ cơ hay hủy/ dự), khi vui khi buồn (khổ/lạc).
Phần tâm giả (vọng tâm) này lẫy lừng, mạnh mẽ vô cùng, chính là động cơ (nghiệp lực) dẫn dắt con người sống đời khổ đau, luân hồi kiếp này đến kiếp sau, và muôn kiếp sau nữa.
           
2.2. Bởi thế cho nên, cốt tủy của đạo Phật là phải tìm cho ra (giác ngộ) phần tâm thật (chân tâm).
Những hình thức cúng kiến, cầu an cầu siêu, các nghi lễ rườm rà trai đàn bạt độ, trong khắp các chùa, chỉ là hình thức của một tôn giáo để mọi người tìm đến, cần thiết nhưng không thật, giả đó.
Tham dự xong rồi, con người thông minh phải phát tâm học đạo như ĐH Lệ Hằng hiện nay.

Khi tâm con người không còn vọng động, không còn lăng xăng lộn xộn, không còn mong điều này,
không còn muốn điều kia, thì chân tâm (tâm thật) hiển lộ. Khi chân tâm hiển lộ, đời sống con người bớt phiền não khổ đau.

Cũng ví như mặt biển sóng to khi có gió lớn (tâm con người giận dữ khi gặp chuyện bất như ý)
nhưng khi hết sóng to gió lớn, thì mặt biển trở nên thanh bình, phẳng lặng,
có thể trông xa, thấy rộng bốn phương, đến tận chân trời góc biển.

Các tôn tượng của chư Phật đều có con mắt thứ ba, nằm giữa 2 con mắt thường, thường tượng trưng bằng chấm đỏ, hay viên ngọc quí. Con mắt thứ ba này gọi là con mắt thông minh trí tuệ (tuệ nhãn). Tuệ nhãn chỉ có được khi tâm con người không còn vọng động, không còn những chuyện tham sân si, không còn loạn động với cảnh trần hàng ngày, duy nhất, tâm chỉ còn trạng thái phẳng lặng, tịch tịnh, gọi là nhất tâm bất động, hay nhất tâm bất loạn.

Tùy theo tâm con người dẹp được, bớt được bao nhiêu tham sân si vọng tâm, thì trí sáng chân tâm (hay tuệ nhãn) hiển lộ bấy nhiêu. Ví như mây đen (vọng tâm, phiền não) tan biến bao nhiêu, thì mặt trời (tuệ nhãn hay chân tâm) hiển lộ ánh sáng bấy nhiêu. Tất cả đều do công phu tu tập của mỗi cá nhân, theo từng thời gian ngắn hay dài, mau hay lâu.

Cho đến khi vọng tâm hoàn toàn biến mất, chân tâm hoàn toàn hiển lộ, thì con người hoàn toàn giác ngộ và giải thoát, không còn sanh tử luân hồi, gọi là đắc đạo. Đây chính là cốt tủy của đạo Phật.

Muốn thành công, đạt được mục tiêu nầy (đáo bỉ ngạn) con người phải nổ lực hàng ngày, không phải dễ dàng trong vài tháng, hay vài năm, nhưng cũng không phải không ai đạt được đâu. Trong lịch sử các nước, nhiều vị chân tu thực học đạt được cảnh giới này, không phân biệt tại gia hay xuất gia, không cần phải tu ở trong chùa, không phải là đệ tử của vị nầy hay của môn phái nọ. Nhưng các vị không ai nói ra, các vị chỉ tu hành và dẫn dắt người hữu duyên tu hành. Người nào nói rằng họ đạt được như vậy, như vậy, nhờ pháp này hay pháp kia, toàn là những người muốn tự tôn làm lãnh tụ, muốn tự đánh bóng để được tôn sùng, gạt gẫm mọi người, không ngoài mục đích danh và lợi mà thôi.
Những chuyện vu vơ khác, xin miễn bàn để khỏi bị loạn tâm trong thế giới đảo điên xưa nay.

Thầy mong rằng những điều giải thích trên đây giúp cho ĐH Lệ Hằng hiểu được chánh pháp và Thầy mong ĐH Lệ Hằng đọc phần sau đây về ý nghĩa của sự cầu nguyện, rất bổ ích, để suy nghiệm thêm.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật.
Kính thư,
VP.PHTQ.CANADA
 


Nhân Cách
Bồ Tát
Tại Thế Gian

Một câu chuyện rất cảm động về sự hy sinh của con người trong trận động đất đang được cư dân mạng lan truyền nhanh chóng.

Tôi đang khóc. Tôi vừa gọi điện cho một người bạn của tôi đang sống ở Nhật. Cô ấy sống ở Sendai, và các bạn biết đấy, thành phố này chịu thiệt hại lớn nhất về người và tài sản. Cô ấy vẫn ổn, cả gia đình cô ấy nữa, nhưng cô ấy đã khóc nức nở khi gọi điện cho tôi, và sau khi nghe cô ấy kể chuyện, bây giờ tôi đang khóc. 
Cô ấy nói cô ấy đang ở trên phố khi cơn động đất diễn ra cùng với mẹ và đứa em trai 2 tuổi. Và rồi sóng thần ập đến. Nước tràn nhanh đến nỗi mặc dù đã trốn được vào một căn nhà bên đường, họ biết rằng mực nước rồi sẽ dâng cao rất nhanh, và họ phải tìm chỗ trốn khác trước khi bị chết đuối. Họ không ngừng kêu cứu, và một người đàn ông đã nhìn thấy họ từ ban công căn nhà phía sau.

Rồi người đàn ông đó ngay lập tức nhảy khỏi ban công xuống nước, giúp bạn tôi, mẹ cô ấy và cậu em trai trèo lên ban công vào căn nhà. Sóng nước càng lúc càng mạnh, họ không thể đứng vững được nữa. Mẹ bạn tôi kiên quyết để những đứa con của mình lên trước, sau đó người đàn ông đứng dưới đỡ bà ấy lên.

Sau khi cả ba người trèo lên ban công yên ổn, mẹ của bạn tôi nắm lấy tay người đàn ông và kéo ông ấy lên. Bất chợt một chiếc ô tô (trong hàng trăm chiếc) bị nước cuốn tràn tới đúng hướng người đàn ông đó. Mọi người ở bên trên gào thét, nhưng rồi đột nhiên, người đàn ông ấy giật khỏi tay mẹ bạn tôi, khi mà chiếc ô tô tràn tới, để bà ấy không bị kéo theo xuống nước. Chiếc ô tô đâm vào ông ấy và cuốn ông hất đi.

Bạn tôi và gia đình cô ấy an toàn, nhờ một người lạ, người đã tặng cả cuộc sống để cứu lấy họ. Ông ấy đã có thể sống sót an toàn trong tòa nhà, nhưng vì lòng cứu người cấp bách ông đã nhảy xuống nước.

Tôi đã rất cảm động khi nghe câu chuyện này, tôi nghĩ nó chỉ có thể có trên phim mà thôi. Tôi không biết tên người đàn ông ấy, hay người đàn ông đó là ai, nhưng tôi muốn dành cho ông ấy một khoảnh khắc đặc biệt khi cầu nguyện tối nay, và cả trong tương lai nữa.

Ông ấy là một anh hùng thực sự. Nhân cách một vị Bồ Tát tại thế gian.
*
Nhân cách một vị Bồ Tát thế gian là quên mình vì người. Nghe theo tiếng kêu cứu của thế gian mà xả thân cứu độ. Bồ Tát  luôn quên bản thân mình và cũng không cầu mong được tán thán. Lòng cảm tử hy sinh tất cả vì để cứu người, không suy nghĩ được mất, đúng sai bất chấp hiểm nguy. Chính là ý nghĩa đúng theo tinh thần Từ Bi của Bồ Tát Quán Thế Âm giữa sóng biển mênh mong đầy nguy hiểm trên thế gian.

Dù mất đi thân người kiếp nầy, tái sanh vào cảnh giới nào, tâm Bồ Tát vẫn không mất, theo phước đức và nhân lành đã tạo, họ sẽ sống trong sự an lành hạnh phúc trong pháp giới TỪ BI của CHƯ PHẬT.

Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

NAM MÔ ĐẠI TỪ ĐẠI BI QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT




Ý Nghĩa Chuyện Bà Lão Cúng Đèn Thời Đức Phật

TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
Ý Nghĩa Chuyện Bà Lão Cúng Đèn Thời Đức Phật

Thời đức Phật còn tại thế, có một bà lão nghèo khổ, ăn xin độ nhật. Bà lão ăn xin vì hoàn cảnh nghèo khó, hằng ngày chỉ biết lo miếng ăn, nên chưa bao giờ gặp được đức Phật. Tuy thế, bà lão vẫn âm thầm ngưỡng mộ, quí kính đức Phật.

Một hôm, có lễ hội cúng dường Phật và chư Tăng, từ hàng Phật tử tại gia giàu sang, quyền thế, cho đến những người có thiện tâm đều nô nức trẩy hội. Ngày hội gần đến, gần xa nô nức kéo về tịnh xá Kỳ Viên.

Lúc nầy, bà lão nghĩ rằng: Một đời mình đói khổ, lại già nua, sắp hết tuổi trời, nếu hội này không gặp Phật thì không bao giờ được gặp Ngài. Nghĩ như thế, bà lão vừa lần hồi xin ăn dọc đường, vừa đến gần Kỳ Viên tịnh xá, nơi đức Phật và chư Tăng đang trú ngụ.

Khi đến gần Kỳ Viên, một cảnh tượng huy hoàng, tráng lệ chưa từng thấy, ngựa xe chen chúc, đủ mọi hạng người nêm cứng những con đường về tinh xá. Dọc trên những con đường đó, hoa kết, đèn treo để cúng dường đức Phật và chư Tăng. Những ngọn đèn sơn son thếp vàng rực rỡ của hạng vua quan đại thần, bên cạnh những ngọn đèn nhỏ hơn của hàng thứ dân dâng cúng. Đủ thứ loại ngọn đèn sáng trưng, màu sắc chói cả mắt người qua lại.

Bà lão tự nghĩ mình chỉ có khả năng cúng dường Phật Pháp Tăng một ngọn đèn nhỏ nhoi, không cầu gì cho riêng mình cả, nhưng tâm nguyện rằng: Ngài là đấng Thế Tôn, là bậc đại từ đại bi, có thể đem Pháp cam lồ giúp chúng sanh thoát khỏi sanh tử luân hồi. Hạnh nguyện cao thượng với bồ đề tâm “vì người không vì mình” của bà lão, được đức Phật chứng tri.

Thế rồi, bà lão dốc hết cả gia tài chỉ được 2 xu, để mua cây đèn nhỏ và dầu thắp. Bà lão hướng về Kỳ Viên tịnh xá, hướng về đức Phật đảnh lễ, mong đức Phật chứng tri cho tấm lòng thanh tịnh và thành kính đã phát nguyện.

Ba ngày đêm trôi qua, những tràng hoa héo rủ, những ngọn đèn lần lượt cạn dầu rồi tắt ngúm. Chỉ riêng ngọn đèn nhỏ của bà lão nghèo ăn xin vẫn còn cháy sáng. Hiện tượng đó thật kỳ lạ, nên mọi nguời truyền nhau đi xem, ai cũng cho rằng đó là điều hy hữu, xưa nay chưa từng thấy. Một thí chủ giàu sang đến thưa hỏi đức Phật: Tại sao ngọn đèn nhỏ, ít dầu kia vẫn còn cháy sáng?
Đức Phật dạy rằng: Vì đó là ngọn đèn của một thí chủ, tuy nghèo khó, nhưng tâm kính trọng Phật Pháp Tăng và hạnh nguyện cao thượng vượt bực mà cúng đèn.

Tâm của bà lão chỉ cầu mong ánh sáng từ bi và trí tuệ soi sáng đến muôn loài. Vì tâm thành hiền lương thanh tịnh cao tột đó, nên ngọn đèn Phật tâm Phật tánh hiển hiện của bà lão vẫn còn sáng mãi không tắt. Những ngọn đèn khác tuy sang trọng hơn, lớn hơn, nhưng do tâm chúng sanh phàm phu ích kỷ, vì tư lợi mà dâng cúng, và lòng tham mong cầu riêng cho bản thân. Tất cả chỉ cháy sáng trong một thời gian ngắn rồi cũng đều lịm tắt.

Suy Ngẫm:



Suy Ngẫm: 

Có hai loại ngọn đèn:

1. Ngọn đèn trí tuệ: tượng trưng "Phật tâm Phật tánh" sáng suốt của mỗi con người ai cũng có sẵn, bình đẳng, không có biệt  trừ. Chỉ có phàm phu mới có tâm phân biệt giai cấp, sang hèn, hơn thua, so đo, nên sanh phiền não. Ý nghĩa cúng đèn với bản tâm thanh tịnh, mồi ánh sáng trí tuệ từ ngọn đuốc Phật Pháp. Ngoài ra, không cầu xin gì riêng cho cái tôi (bản ngã), không đòi hỏi Chư Phật phải ban cho mình gì cả và cũng không tính toán hơn thua danh lợi. Đó mới là tấm lòng cúng dường Phật Pháp trong sáng thanh tịnh, vì người không vì riêng cá nhân mình, gia đình mình (gọi là cúng dường ba la mật), cho nên tương ưng với tâm của Chư Phật và Chư Bồ tát. Ngọn đèn công đức, đầy đủ từ bi trí tuệ đó cháy mãi với thời gian.

2. Ngọn đèn thế tục: tượng trưng sự giàu có phô trương, mặc dù nhiều dầu, sang trọng, mắc tiền, nhưng có lúc cũng phải cạn và lịm tắt dần. Ví như của cải sang giàu, phước báu, nhưng khi hưởng hết, hoặc cuối cuộc đời rồi cũng phải buông xuôi, mất đi tất cả theo luật vô thường. Con người thế gian khi cúng đèn với tâm cầu xin hưởng phước, đòi hỏi nhiều việc từ nơi Chư Phật, Chư Bồ tát, cầu mong được giàu sang an nhàn (cúng dường cầu danh lợi) cho riêng bản thân, thì chỉ được phước hữu lậu trong thời gian ngắn ngủi. Đèn thế tục còn lắm phiền não, tham lam và ích kỷ thì không thể cháy sáng lâu dài được. Đó là những phước báo rất ít ỏi khiến cho con người trôi lăn mãi trong luân hồi lục đạo.

Người tu học đạo phải trải lòng cao thượng rộng lớn, Từ Bi Hỷ Xả, trong khi cúng dường hoa, trái, nhang, đèn, nên phát tâm cầu giác ngộ Chánh Pháp hiện đời cho mình và cho tất cả chúng sanh, đều thành Phật đạo. Tu tâm sửa tánh, không khinh người, giúp đời hành thiện, tha thứ bao dung. Đó là hạnh nguyện đúng chánh pháp của người phát tâm tu theo Phật, hành Bồ Tát đạo. [ ]

***HỎI?


Kính thưa Thầy, khi nào gọi bằngĐại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?
2) Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?
3) Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy hay Sư phụ, người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay cũng gọi là Thầy?  Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?
4) Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng“con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng là “con” với vị xuất gia?
 5) Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào vớingười thân trong gia đình?



CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO (PHTQ số 16)

Trong khóa nghiên tu an cư mùa hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada, các thắc mắc sau đây được nêu lên trong phần tham luận:



1) Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằngĐại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?
2) Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?3) Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy hay Sư phụ, người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay cũng gọi là Thầy?  Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?4) Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng“con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng là “con” với vị xuất gia? 5) Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào vớingười thân trong gia đình? 
*** ĐÁP:

Trước khi đi vào phần giải đáp các thắc mắc trên, cần thông qua các điểm sau đây:

*1)  Chư Tổ có dạy: “Phật pháp tại thế gian”.  Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc đời.  Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời.  Chư Tổ cũng có dạy: “Hằng thuận chúng sanh”.  Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo.

*2) Từ đó, chúng ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp: Một là, cách xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức, trong các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh.  Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại gia hay xuất gia, mà thôi.  Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo không nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy.  Cho nên, việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.

*3) Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo.  Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh ra.  Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và hằng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp).  Trong nhà đạo, tất cả mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất luận tuổi đời.  Ở đây không bàn đến việc những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo không liên tục.

 Kính mời tham khảo LINK:
http://phtq-canada.blogspot.ca/2011/05/cach-xung-ho-trong-phat-giao-phtq-so-16.html

TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP