Tuesday, 27 December 2016

tu tướng tu tâm và cách xưng hô trong Phật Giáo









Tang lễ của mẹ nữ MC hải ngoại Kỳ Duyên (cuối trang)



On Thursday, December 29, 2016 1:55 PM, "Hoaiviet Nguyen nguyendinhhoaiviet@yahoo.com [GoiDan]" wrote:
On Thursday, December 29, 2016 10:45 AM, Hoaiviet Nguyen wrote:

Thành thật tri ân các bậc chân tu Phật giáo đã xác minh đạo pháp: đạo Phật nguyên thủy chỉ là một triết lý sống. 
Phật Thích Ca đã nhiều lần xác minh Phật là người và người là Phật. 
Phật không phải là thần linh nên không có quyền luận tội hay ban ân huệ cho bất cứ ai cầu khẩn.

Tổ chức trai đàn Cúng lạy trừ tà, trừ ma trừ quỷ, xin cho tai qua nạn khỏi là hình thức móc túi đồng bào nhẹ dạ,

là mê tín dị đoan do tập tục Trung Hoa truyền sang.
HV.
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

VP.PHTQ.CANADA:


Trân trọng cám ơn tác giả đã nhận xét và phổ biến.

Tuy nhiên, trong phát biểu trên đây, có đoạn chưa chính xác: "Phật là người và người là Phật".
 
Theo lịch sử ghi lại: Thái Tử Tất Đạt Đa xuất gia tầm đạo giải thoát, trở thành tu sĩ Cồ Đàm. Sau 6 năm khổ hạnh chốn rừng già, 49 ngày đêm thiền định dưới cội bồ đề, tu sĩ Cồ Đàm hoát nhiên giác ngộ. Ngài đã trở thành một vị Phật. Phật là bậc giác ngộ, tâm sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh. Đó là nói về phần nội tâm hay bản tâm, đức Phật đã chuyển hóa từ phàm phu thành bậc giác ngộ.
Tuy nhiên, về phần hình tướng, đức Phật vẫn có hình dáng của một vị tu sĩ (như mọi con người bình thường trên thế gian).
Cho nên, con người phải trải qua thời gian tu tập theo đúng chánh pháp, cho đến khi giác ngộ và giải thoát, bản tâm trở thành sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh. Lúc đó mới gọi là một vị Phật.
Do đó, đạo Phật chính là đạo giác ngộ và giải thoát, chứ KHÔNG phải là một tôn giáo, như các tôn giáo thần quyền khác.
Tóm lại: Một vị Phật từ nơi con người, do chuyển hóa tâm tánh mà thành nên.
Kinh Pháp Hoa dạy: Tùng địa dũng xuất. Nghĩa là: từ nơi tâm địa, con người dũng mãnh xuất ra khỏi chốn u minh, tâm giác ngộ không còn u mê, giải thoát sanh tử luân hồi, mới gọi là một vị Phật.[]





On Thursday, December 29, 2016 10:08 AM, 'Khai Vo'

Nếu chết là hết thì ... đức Phật tu làm chi? 

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Đạo Phật không có nói như các tôn giáo khác: Chết là hết ...
Đạo Phật dạy: chết là chấm dứt kiếp sống này để sang kiếp sống khác - nếu chưa tu đạt đến giác ngộ và giải thoát. []
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA





On Thursday, December 29, 2016 4:34 AM, NGUYEN QUANG HAO wrote:

Message du 29/12/16 10:08
De :

Nguyên Quang Hảo nqhao@wanadoo.fr
A : "Thích Chân-Tuệ"
Copie à :
Objet : re: con nít bị quăng vào chùa, lớn lên làm thầy chùa NGU DỐT - thực sự KHÔNG CẦN THỜ TƯỢNG PHẬT hay BỒ TÁT - mà chẳng hiểu đức Phật dạy gì - Bồ Tát dạy tu như thế nào?

Kính Thầy,

Tôi không phải là Phật giáo, nhưng tôi cám ơn Thầy vì đã trình bày triết lý Phật như tôi từng suy nghĩ.

Đây là một triết lý không phải là một "tôn giáo" theo đúng nghĩa nên không có chuyện vô thần hay hữu thần như người ta bàn cãi, thầy nói rất chí lý.

Thầy đã vạch rõ những "cuồng tín" đã làm tổn thương rất nhiều đến các tôn giáo đích thực.

Chúc thầy mạnh khỏe và an lành trong cuộc sống
Kính

Nguyên Quang Hảo







Andrew Tran atran04@sbcglobal.net

On Wednesday, December 28, 2016 6:00 PM, Andrew Tran wrote:

Thưa thầy,
Hồi năm 1975, con học một lớp tôn giáo vỡ lòng ở đại học Long Beach, California, USA.  Lúc đó tiếng Anh của con chữ được chữ không. Professor Kieth là người Mỹ gốc Tây-Tạng, lâu lâu thầy Kieth nói tiếng Phạn nghe đã lắm, một hôm thầy giảng về “Phật tại tâm…, Tu tại tâm …” Tu là sửa đổi từ cái xấu thành cái tốt (Change to good thing). Thầy Kieth còn nói rằng Đạo Phật không có tổ chức, Phật không dẫn dắt ai hết (do not guide or lead any one!, just help yourself, light your lamp then go…) hãy thắp đèn lên rồi đi…
Thằng bạn của con nó ghét thầy Kieth lắm muốn đánh nhau với thầy vì câu: “Đạo Phật không có tổ chức”. Nó giận không ngủ cả đêm, nên con nói với nó rằng: “Nhất tự lục ghì: 1 chữ 6 nghĩa”. Con thêm cho câu đó 1 chữ nữa là: Đạo Phật không (cần) có tổ chức, nên nó bớt giận. Đúng là bỏ dao đồ tể là thành Phật, bỏ “sân” cũng hành Phật; bỏ “Internet” sẽ thành Phật nhanh hơn…
Nếu làm khác Phật, một là “giỏi” hơn Phật, hai là đi “lạc đạo- peanut religion”.
Xin Thầy cho ý kiến
Cám ơn thầy
Andrew Tran



con nít bị quăng vào chùa, lớn lên làm thầy chùa NGU DỐT - thực sự KHÔNG CẦN THỜ TƯỢNG PHẬT hay BỒ TÁT - mà chẳng hiểu đức Phật dạy gì - Bồ Tát dạy tu như thế nào?
 




On Tuesday, December 27, 2016 10:49 PM, Tran Ngoc Ton wrote:

Thua Thay ,  
Ve viec xung ho, theo Hoa Thuong Tinh Khong thi Bon su minh la Phat Thich Ca, con cac vi Thay khac thi la y chi su.
Con Phat A Di Da thi sao ? Xin Thay cho y kien 

A Di Da Phat
Tue Tam tnton



Wednesday 2016.12.28
Kính Bác Tuệ Tâm,
HT Tịnh Không là một đại sư người Hoa rất nổi tiếng.
Cho nên có nhiều chuyện, người ta cho rằng HT Tịnh Không nói, nhưng thật ra là người ta phịa đó.
HT Tịnh Không đã từng tuyên bố sẽ ngồi niệm Phật vãng sanh vào đêm 24 tháng12 năm 2000.
Nhưng sau đó, HT vẫn còn sống nhăn đến ngày nay 2016, nên sửa lại rằng tin này là phịa đó.
Ngày nay, nhiều điều truyền bá qua internet, nói rằng 14 điều Phật dạy, 20 điều Phật dạy,
điều này Đức Dalai Lama nói, điều nọ pháp sư Hư Vân, pháp sư Tuyên Hóa nói, tất cả là phịa đó.
Đức Phật A Di Đà hay các vị Bồ Tát như Quan Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền
đều là sản phẩm của PG Trung Hoa.
Không có thật. Tất cả các vị đó đều là tượng trưng, có ý nghĩa tu tập,
chứ không có nghĩa van xin cầu khẩn để được cứu giúp, cứu rỗi, hoặc được vãng sanh.
Nhiều trăm năm, ngàn năm qua, các nhà sư ta hay tàu đã lầm lẫn, do muốn tu mà không học.
Nhà sư chân tu thực học không nhiều. Có duyên lành sẽ gặp được.
Bổn phận người muốn tu là phải học và tự nghiên cứu tìm hiểu để sáng tỏ vấn đề này.
Bổn sư hay Y chỉ sư chẳng có nghĩa gì quan trọng cả.
Tất cả chư Phật đã thành hay sẽ thành đều bình đẳng. Đây là điểm quan trọng của giáo lý đạo Phật.
Bác nên đọc qua bài viết về vấn đề này: SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH.
Các tôn giáo khác đều tôn thờ, thần tượng vị giáo chủ như đấng toàn năng cao chót vót, người ta không ai sánh được.
Đạo Phật không phải là một tôn giáo hữu thần kiểu như vậy.
Có nhiều người cho rằng: đạo Phật là vô thần.
Bản thân con người muốn tu tập, phải giác ngộ để giải thoát mới là quan trọng.
Nhưng giác ngộ điều gì, giải thoát điều gì?
Đây là điều mọi người muốn tu theo đạo Phật phải tìm hiểu, phải nghiên cứu cho tường tận.
Chớ không cần phải cứ thờ tượng Phật, tượng Bồ Tát, chùa to tượng lớn, lạy Phật theo từng chữ trong bản kinh nào đó,
tại gia hay tại chùa, mà chẳng hiểu đức Phật dạy điều gì, Bồ Tát dạy tu thế nào.
rồi la làng lên tôi theo đạo Phật đại thừa, không phải tiểu thừa, tôi mới là Phật Tử chánh tông nè,
một cách om sòm, kịch cợm,
dù đó là cư sĩ hay nhà sư tu 100 năm trong các chùa, xưa và nay,
xưng là tu ngay từ lúc mới sanh, thực ra đã bị quăng vào chùa.
Vấn đề tuy đơn giản lắm, nhưng phải có thời gian và công sức để tìm hiểu cho thấu đáo.
Tạm thời, kính mời Bác dành chút thời gian để đọc các bài viết theo LINKS sau đây:
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
Bá tánh cần giác ngộ điều gì và giải thoát như thế nào
Kính mời tham khảo bài viết:
Giác Ngộ và Giải Thoát
 
 




TUESDAY 2016.12.27
Kính thưa Quí Thầy VP.PHTQ.CANADA,
Trước thềm năm mới dương lịch 2017, chúng tôi - một số Phật Tử tại Hoa Kỳ bang Arizona - kính chúc Quí Thầy pháp thể khinh an chúng sanh dị độ.
Thứ đến, kính mong Quí Thầy hoan hỷ giải thích rõ ràng cách xưng hô trong Phật Giáo, để cho mọi người tường tận, tránh sự hiểu lầm.
Sau đó, kính mong Quí Thầy giải thích cho biết nhà chùa (hay tập thể tăng già - đại tăng) có thể cầu nguyện cho người đã mất từ lâu hay mới qua đời, được vãng sanh Tây Phương hay không? 
Ở tại thành phố Phoenix, Arizona, Chùa Việt Nam có làm lễ ăn mừng vị thầy trụ trì được đăng lâm phẩm vị hòa thượng một cách long trọng, ồn ào, như lễ thăng quan tiến chức ngoài đời thường (hành chánh hay quân đội, công an). Các lễ ăn mừng như vậy có nên tổ chức trong chốn thiền môn chăng, có đúng chánh pháp chăng, hay giới Phật Tử u mê đã làm hư các vị chân tu như thầy trụ trì này, như trong bài viết "Tiền Làm Động Tâm - Tiền Sanh Bất Tịnh" ?
Thành kính cảm tạ tấm lòng vị chánh pháp, vị nhân sinh của Quí Thầy từ bi hoan hỷ giải thích cho giới Phật Tử theo đúng chánh pháp, khỏi bị nhầm lẫn, lạc vào tà đạo.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Phật Tử Tâm Đắc (Phoenix, Arizona)
Kính gửi vài tấm hình của buổi lễ ăn mừng nói trên tại Chùa Vệt Nam


Kính thưa Quí Vị,
Người xuất gia có nhiều hạng, nơi đây chỉ đề cập 2 hạng:
1. Chư vị giác ngộ phát tâm xuất gia với tâm nguyện tự độ bản thân và độ tha nhân.
2. Chư vị xuất gia vì hoàn cảnh bức bách 
(con nít bị quăng vô chùa, tình duyên gia đạo trắc trở, công danh sự nghiệp thất bại,
trốn tránh nợ đời)
Do đó, người ngộ đạo có thể tự tu tập và hành đạo trong mọi hoàn cảnh.
Chuyện đời hay chuyện đạo luôn luôn có 2 mặt:
chánh và tà, thiện và ác, đúng và sai.
Kính mời Quí vị tham khảo bài viết và các LINKS dưới đây:

TT. Nguyễn Văn Thiệu & Nhà Văn Chu Tất Tiến
BÀN VỀ THIỆN VÀ ÁC
http://phtq-canada.blogspot.com/2011/07/ban-ve-thien-va-ac-phtq-so-11.html

 
TÂM PHẬT SẼ THÀNH 
TKN.Thích Nữ Chân Liễu
 lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
2016-12-27 17:17 GMT-05:00 Nguyen Ha <nguyenhacali@gmail.com>:
Hình minh họa cho bài viết của Chu Tất Tiến.
Nguyên Hà
 
Tượng Đức Mẹ Long Beach
  




tu tướng tu tâm và cách xưng hô trong Phật Giáo

CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO 

(Tập san PHTQ số 16)

LINK:

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
 Trong khóa nghiên tu an cư mùa hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada, các thắc mắc sau đây được nêu lên trong phần tham luận:
1) Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằng Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?
2) Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?
3) Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy hay Sư phụ, người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay cũng gọi là Thầy?  Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?
4) Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng “con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng là “con” với vị xuất gia?
5) Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia đình?
* * *
Trước khi đi vào phần giải đáp các thắc mắc trên, cần thông qua các điểm sau đây:
*1)  Chư Tổ có dạy: “Phật pháp tại thế gian”.  Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc đời.  Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời.  Chư Tổ cũng có dạy: “Hằng thuận chúng sanh”.  Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo.
*2) Từ đó, chúng ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp:
Một là, cách xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức, trong các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh.  Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại gia hay xuất gia, mà thôi.  Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo không nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy.  Cho nên, việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.
*3) Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo.  Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh ra.  Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và hằng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp).  Trong nhà đạo, tất cả mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất luận tuổi đời.  Ở đây không bàn đến việc những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo không liên tục.
* * *
Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ việc một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng chơn nhập đạo. Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ.  Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ). Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi các con quạ quấy rầy khu vực tu thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho nên gọi là “khu ô sa di” (sa di đuổi quạ).
Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời, và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tánh cũng như tu tướng, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô (nữ).  Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ Kheo (nam) hay Tỳ Kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia. 
Ở đây xin nhắc thêm, trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời xuất gia và chưa thụ giới sa di ni) được thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ có bên ni, bên tăng không có.  Tuy nhiên trong tạng luật, có đến 100 chúng học giới chung cho cả tăng và ni.  Cũng cần nói thêm, danh từ tỳ kheo có nơi còn gọi là tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu. Bên nam tông, tỷ kheo có 227 giới, tỷ kheo ni có 311 giới.  Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ kheo ni) là giới đầy đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn đời (thường gọi là viên tịch, không nên lạm dụng từ vãng sanh), không phải thụ giới nào cao hơn.  Việc thụ bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị theo bắc tông, nam tông không có giới này.   
Ở đây, xin nói thêm rằng: Bắc tông (hay bắc truyền, phát triển) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương bắc của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bổn và Việt Nam. Nam tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.

Trong lúc hành đạo, tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng theo hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo như sau:
1) Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại Đức.
2) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo, được gọi là Thượng Tọa.
3) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa Thượng.
Còn đối với bên nữ (ni bộ):
4) Năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô (hiện nay ở Canada, có giáo hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại Đức).
5) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 20 tuổi đạo, được gọi là Ni sư.
6) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sư bà (bây giờ gọi là Ni trưởng).
Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo (hạ lạp), được dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của Giáo Hội Phật Giáo, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp Đại Lễ hay Đại Hội Phật Giáo, trong các Giới Đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.
Như trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là Đại đức bên ni bộ.  Ni sư nghĩa là Thượng tọa bên ni bộ.  Sư bà (hay Ni trưởng) nghĩa là Hòa thượng bên ni bộ.  Bởi vậy cho nên, các buổi lễ hay văn thư chính thức, thường nêu lên là: “Kính bạch chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni”, chính là nghĩa đó vậy. Tuy vậy, trên thực tế, chưa thấy có nơi nào chính thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa ni, hay Hòa thượng ni.  Nếu có nơi nào đã dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ biến, nghe không quen tai nhưng không phải là sai. Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở Giáo Hội Phật Giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại Tùng Lâm, Phật Học Viện, Tu Viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Thượng. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội đồng chứng minh tối cao của các Giáo Hội Phật Giáo. Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy tu). 
Đến đây, chúng ta nói về cách xưng hô giữa các vị xuất gia với nhau và giữa các vị cư sĩ Phật tử tại gia và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật. 
1)*  Giữa các vị xuất gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy (hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách).  Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư). Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá. Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư chị, Sư em. Ngoài đời có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, thân hữu, hội hữu, chiến hữu. Trong đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.
2)*  Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy.  Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam Bảo thụ ngũ giới (tam qui ngũ giới), mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (Tăng bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có Ni. Việc tâng bốc, xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh, bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh.  
3)*  Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là “Quí Phật Tử”. Chỗ này không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng là Phật Tử, chứ không riêng tại gia là Phật Tử mà thôi.  Việc một Phật Tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi một Phật Tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng, không nên. Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức. Không nên bất bình, khi nghe như vậy, tránh bị loạn tâm. Biết rằng mọi chuyện trên đời: ngôi thứ, cấp bậc, đều có thể thay đổi, nhưng giá trị tuổi đời không đổi, cứ theo thời gian tăng lên. Theo truyền thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia
4)*  Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng Cư sĩ hay Nữ Cư sĩ thường dùng cho quí Phật Tử tại gia, qui y Tam bảo, thụ 5 giới, phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp.  Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện nam, Cận sự nam) hay Ưu bà di  (Tín nữ, Cận sự nữ).
5)*  Chúng ta thử bàn qua một chút về ý nghĩa của tiếng xưng “con” trong đạo Phật qua hình ảnh của ngài La Hầu La. Ngài là con của đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và đạo. Ngài sớm được tu tập trong giới pháp, công phu và thiền định khi tuổi đời hãy còn thơ. Ngài không ngừng tu tập, cuối cùng đạt được mục đích tối thượng. Ngài thực sự thừa hưởng gia tài siêu thế của đức Phật, nhờ diễm phúc được làm “con” của bậc đã chứng ngộ chân lý. Ngài là tấm gương sáng cho các thế hệ Phật tử tại gia (đời) cũng như xuất gia (đạo), bất luận tuổi tác, tự biết mình có phước báo nhiều kiếp, hoan hỷ được xưng “con” trong giáo pháp của đức Phật. 
6)*  Đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô cũng không khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay Sư bác. Hai từ ngữ này có nơi mang ý nghĩa khác. Việc truyền giới cụ túc, hay tấn phong, có khi không đợi đủ thời gian như trên đây, vì nhu cầu Phật sự của giáo hội, hay nhu cầu hoằng pháp của địa phương, nhất là đối với các vị bán thế xuất gia có khả năng hoằng pháp, từng đảm nhận trọng trách, hay nghiên cứu tu tập trước khi vào đạo.
7)*  Vài xưng hô khác trong đạo như: Sư Ông, Sư Cụ thường dành gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao, thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là Pháp Sư, dành cho các vị xuất gia tăng hay ni (sư) có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp (pháp) độ sanh. Ngoại đạo lạm dụng danh xưng này chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng.
8)*  Danh xưng Sư Tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo các tông phái còn tại thế, và danh xưng Tổ Sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quí ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu của quí ngài, để tỏ lòng tôn kính. 
9)*  Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo thường dùng tiếng Ðại Ðức (bậc thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để xưng tán Ngài, mỗi khi có việc cần thưa thỉnh.  Các vị đệ tử lớn của đức Phật cũng được gọi là Ðại Ðức.  Trong các giới đàn ngày nay, các giới tử cũng xưng tán vị giới sư là Đại Đức.
 
10)*  Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật nên thể hiện lòng tôn kính lẫn nhau, noi theo Bồ tát Thường bất khinh, bất tùy phân biệt, bất luận tuổi tác, dù tại gia hay xuất gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của thế tục, nhắm thẳng hướng giác ngộ chân lý, giải thoát sinh tử khổ đau, vượt khỏi vòng luân hồi loanh quanh luẩn quẩn. Nhất giả lễ kính chư Phật. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.  Cho nên đơn giản nhất là: “xưng con gọi Thầy”.
Theo các bộ luật bắc tông và nam tông còn có nhiều chi tiết hơn.
Tóm lại, ngôn ngữ, danh từ chỉ là phương tiện tạm dùng giữa con người với nhau, trong đạo cũng như ngoài đời, có thể thay đổi theo thời gian và không gian, cho nên cách xưng hô trong đạo Phật tùy duyên, không có nguyên tắc cố định, tùy theo thời đại, hoàn cảnh, địa phương, tông phái, hay tùy theo quan hệ giữa hai bên. Đó là phần tu tướng.
Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo.  Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.  Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia.  Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.
Cách xưng hô nên làm cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhứt, thế thôi!  Đó là phần tu tâm.
Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến, không biến đổi, đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nổ lực, cố gắng  tu tâm dưỡng tánh không ngừng, cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh: giác ngộ và giải thoát, đối với Phật Tử tại gia cũng như xuất gia. 
Đó chính là một phần ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật vậy.[]
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ



Kính mời quí vị xem bài viết  "Bát Chánh Đạo" theo link:



 Các cơ sở tôn giáo 
(chùa chiền, đền thờ, nhà thờ)
các tôn tượng
chỉ là phương tiện để tín đ
đến sinh hoạt, thờ phượng, cầu nguyện.
Tất cđều là vật chất
do con người tạo nên để xử dụng.
Cho nên tất csẽ bị hư hoại theo thời gian,
hoặc do thiên tai hay chiến tranh
tàn phá
không có gì gi là linh thiêng.
Con người dù theo bất cứ tôn giáo nào
cũng phải sống đời lương thiện,
tu tâm dưỡng tánh
khi ra đi sẽ nhẹ nhàng.
Chứ cầu nguyện hay làm phước nhiều,
mà KHÔNG tu sửa tâm tánh
khi chết
thỉnh sư - mời cha
trăm hay ngàn vđến, cầu nguyện, cầu siêu,
phỏng có được gì không?






Cơ sở Công giáo

Cơ sở Hồi giáo







Cơ sở Phật giáo
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Kính mời tham khảo
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ ĐÂU
PHẬT TÂM PHẬT TƯỚNG
(Tập san Từ Bi Trí Tuệ số 14)
http://phtq-canada.blogspot.ca/2011/05/phat-tam-phat-tuong-phat-hoc-tinh-quang.html
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Tang lễ của mẹ nữ MC hải ngoại Kỳ Duyên

 

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll