Wednesday, 7 September 2022

TRUNG TƯỚNG PHAN TRỌNG CHINH

https://phtq-canada.blogspot.com/2022/09/trung-tuong-phan-trong-chinh.html

https://saigonnhonews.com/nhin-lai-lich-su/trung-tuong-phan-trong-chinh-song-chien-dau-hy-sinh-chet-im-lang/

Phan Trọng Chinh

Mô tả

Phan Trọng Chinh nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân do Quốc gia Việt Nam mở ra ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Ra trường phục vụ trong Binh chủng Nhảy dù. Wikipedia

Ngày/nơi sinhtháng 2 năm 1931, Bc Ninh, Vit Nam

Ngày mất17 tháng 11, 2014, Rockville, Maryland, Hoa K

Kế nhiệmSau cùng

Nguyên nhân mấtTuổi già

Năm tại ngũ1951 - 1975

Tham chiếnChiến tranh Vit Nam

Trường lớp-Trường Trung học Phổ thông Pháp ngữ tại Hà Nội; -Trường Võ bị Liên quân Đà Lạt

https://wiki.edu.vn/wiki/index.php?title=Phan_Tr%E1%BB%8Dng_Chinh

Template:Tiểu sử quân nhân

Phan Trọng Chinh (1931-2014) nguyên là một tướng lĩnh của Quân lực Việt Nam Cộng hòa, cấp bậc Trung tướng. Ông xuất thân từ những khóa đầu tại trường Võ bị Liên quân do Quốc gia Việt Nam mở ra ở Cao nguyên Trung phần Việt Nam. Ra trường phục vụ trong Binh chủng Nhảy dù. Cuối năm 1960, ông tham gia cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Cuộc đảo chính thất bại, ông bị cầm tù cho đến sau cuộc chính biến 1963, được tha và phục hồi quân ngũ. Tuy nhiên, ông bị rời khỏi Binh chủng Dù và Bộ Tổng tham mưu chuyển ông sang lãnh vực khác. Về sau, ông là người đảm trách tổng quát bộ phận đào tạo nhân sự cho Quân đội trong thời gian lâu nhất (1969-1974). Ông là một trong số ít tướng lĩnh của Việt Nam Cộng hòa được xem là thanh liêm và trong sạch nhất.[1]

Phan Trọng Chinh (1931-2014) 


Tiểu sử & Binh nghiệp

Ông sinh vào tháng 2 năm 1931 trong một gia đình có truyền thống Quân nhân tại Bắc Ninh, miền Bắc Việt Nam. Thân phụ ông nguyên là sĩ quan cấp tá phục vụ trong Quân đội Pháp và Quân đội Quốc gia. Năm 1950, ông tốt nghiệp Trung học phổ thông chương trình Pháp tại Hà Nội với văn bằng Tú tài I (Part I).

Quân đội Quốc gia Việt Nam

Cuối tháng 6 năm 1951, thi hành lệnh động viên, ông nhập ngũ vào Quân đội Quốc gia, mang số quân: 51/400.542. Theo học khóa 5 Hoàng Diệu tại trường Võ bị Liên quân Đà Lạt, khai giảng ngày 1 tháng 7 năm 1951. Ngày 24 tháng 4 năm 1952 mãn khóa tốt nghiệp với cấp bậc Thiếu úy hiện dịch. Ra trường, ông được tuyển thẳng vào đơn vị Nhảy dù với chức vụ Trung đội trưởng. Giữa năm 1953, ông được thăng cấp Trung úy, giữ chức vụ Đại đội trưởng.

Sau Hiệp định Genève ký kết ngày 20 tháng 7 năm 1954, ông theo đơn vị di chuyển vào Nam. Hai tháng sau ông được thăng cấp Đại úy và được cử làm Tiểu đoàn trưởng đầu tiên của Tiểu đoàn 3 Nhảy dù tân lập.

Quân đội Việt Nam Cộng hòa

Cuối tháng 10 năm 1955, sau khi Thủ tướng Diệm đổi tên Quân đội Quốc gia thành Quân đội Việt Nam Cộng hòa, ông chuyển sang phục vụ cơ cấu quân đội mới. Một năm sau, ông nhận lệnh bàn giao Tiểu đoàn 3 Nhảy dù lại cho Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc. Ngay sau đó ông được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Tham mưu trưởng Liên đoàn Nhảy dù.[2]

Giữa năm 1960, ông nhận lệnh bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Lữ đoàn Nhảy dù. Hạ tuần tháng 10 cùng năm ông được cử làm Chỉ huy trưởng Biệt động quân thay thế Thiếu tá Lữ Đình Sơn.[3] Ngày 11 tháng 11 năm 1960, ông tham gia cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi cầm đầu. Cuộc đảo chính sau đó bất thành, ông bị bắt giữ và bị đưa ra xét xử tại Tòa án Mặt trận.

Tháng 7 năm 1963, Tòa án Mặt trận Sài Gòn tuyên phạt ông mức án 18 năm tù. Tháng 10 cùng năm ông bị đưa đi thọ hình ở Côn Sơn. Tuy nhiên chỉ chưa đầy một tháng sau, cuộc đảo chính 1 tháng 11 năm 1963 Tổng thống Diệm do tướng Dương Văn Minh cầm đầu thành công, ông được trả tự do về lại Quân đội và được phục hồi cấp bậc cũ. Tháng 12 cuối năm được thăng cấp Trung tá, sau đó được cử lên Cao nguyên làm Tỉnh trưởng Pleiku thay thế Trung tá Phạm Văn Út.[4]

Sau cuộc chỉnh lý của tướng Nguyễn Khánh ở Sài Gòn ngày 30 tháng 1 năm 1964. Tháng 3 năm 1964, ông được lệnh bàn giao chức vụ Tỉnh trưởng Pleiku lại cho Phó Tỉnh trưởng Nội an Võ Văn Ba để về Bộ Tổng tham mưu chờ nhận nhiệm vụ mới. Tháng 6 năm 1965, ông được thăng cấp Đại tá và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ binh thay thế Chuẩn tướng Nguyễn Thanh Sằng.[5] Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1966, ông được thăng cấp Chuẩn tướng tại nhiệm.

Thượng tuần tháng 1 năm 1968, ông được cử làm Tư lệnh Phó Quân đoàn III và Vùng 3 Chiến thuật, hoán chuyển nhiệm vụ với Chuẩn tướng Nguyễn Xuân Thịnh thay ông làm Tư lệnh Sư đoàn 25. Sau đó, ông được thăng cấp Thiếu tướng tại nhiệm. Tháng 2 năm 1969, chuyển về Bộ Tổng tham mưu ông được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn. Ngày 24 tháng 4 năm 1970, Chủ tọa lễ mãn khóa 5/69 sĩ quan Nữ quân nhân và gắn cấp bậc Chuẩn úy cho Thủ khoa Đinh Thị Kim Nga. Đầu năm 1972, ông được kiêm Phụ tá Quân huấn Tổng tham mưu trưởng. Ngày Quân lực 19 tháng 6 năm 1973, ông được thăng cấp Trung tướng tại nhiệm.

Đầu năm 1974, chuyển lên Cao nguyên Trung phần ông được bổ nhiệm chức vụ Chỉ huy trưởng Trường Chỉ huy và Tham mưu. Hoán chuyển nhiệm vụ với Trung tướng Nguyễn Bảo Trị[6]

1975

Ngày 30 tháng 4, ông cùng gia đình di tản khỏi Việt Nam. Sau đó được sang định cư tại Rockville, Tiểu bang Maryland, Hoa Kỳ.

Ngày 17 tháng 11 năm 2014, ông từ trần tại nơi định cư. Hưởng thọ 83 tuổi.

Gia đình

  • Thân phụ: Cụ Phan Trọng Vinh (1898-1952, nguyên là Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 22 Việt Nam. Năm 1952 tử trận tại Vĩnh Bảo, Hải Phòng)
  • Thân mẫu: Cụ Hoàng Thị lựu (1902-2001)
  • Nhạc phụ: Cụ Bùi Phó Chí (nguyên Đại úy Liên đoàn trưởng Liên đoàn Thủy quân Lục chiến (1955), giải ngũ năm 1956).
  • Nhạc mẫu: Cụ Lê Thị Thịnh
  • Phu nhân: Bà Bùi Thị Tỉnh
    -Ông bà có tám người con gồm 3 trai, 5 gái.
  • Bào huynh:
-Ông Phan Trọng Hoan (Xuất thân từ Thiếu sinh quân Việt Nam Cộng hòa, giải ngũ ở cấp Trung úy).
-Ông Phan Trọng Thiện (Tốt nghiệp khóa 6 Võ bị Đà Lạt, cấp bậc sau cùng là Đại tá Bộ binh).
  • Bào đệ:
-Ông Phan Trọng Sinh (Tốt nghiệp khóa 11 Võ bị Đà Lạt, cấp bậc sau cùng là Trung tá Nha Kỹ thuật).

Chú thích

  1.  Trong Quân lực Việt Nam Công hòa có bốn vị Trung tướng được xem là thanh liêm và đức độ, được giới quân nhân đương thời truyền tụng: "Nhất Thắng, Nhì Chinh, Tam Thanh, Tứ Trưởng":
    Nhất ThắngNguyễn Đức ThắngNhì ChinhPhan Trọng ChinhTam ThanhNguyễn Viết ThanhTứ TrưởngNgô Quang Trưởng.
  2.  Năm 1959 Liên đoàn Nhảy dù được nâng cấp và đổi tên thành Lữ đoàn Nhảy dù
  3.  Thiếu tá Lữ Đình Sơn giải ngũ cuối năm 1963 ở cấp Trung tá.
  4.  Trung tá Phạm Văn Út, sau cùng là Đại tá Tỉnh trưởng kiêm Tiểu khu trưởng An Xuyên.
  5.  Tướng Nguyễn Thanh Sằng chuyển ra miền Trung làm Tư lệnh Sư đoàn 22 Bộ binh.
  6.  Tướng Nguyễn Bảo Trị đang là Chỉ huy trường Chỉ huy Tham mưu, được điều về Trung ương làm Phụ tá Quân huấn cho Tổng Tham mưu trưởng kiêm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn thay tướng Phan Trọng Chinh.

Tham khảo

  • Trần Ngọc Thống, Hồ Đắc Huân, Lê Đình Thụy (2011). Lược sử quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Thể loại:Sinh 1931 Thể loại:Mất năm 2014 Thể loại:Trung tướng Việt Nam Cộng hòa Thể loại:Người Bắc Ninh Thể loại:Người Mỹ gốc Việt

Trung Tướng Phan Trọng Chinh, Sống Chiến Đấu Hy Sinh, Chết Im Lặng!

  • Phan Nhật Nam
  • Hình minh hoạ. Ảnh: Horst Faas / AP

    Dẫn Nhập:

    Ngày 9 Tháng 11, 1989, nhân dân Đức hai miền đã phá sập Bức tường Bá Linh – Sự kiện lịch sử dẫn tới thống nhất nước Đức sau đó 11 tháng, và một loạt cách mạng lật đổ chế độ CS độc tài tại các nước Đông Âu, Liên Xô. Đề cập đến sự sụp đổ chế độ Cộng sản Đông Âu, thế giới phải nhớ tới vị lãnh đạo cuối cùng của Đảng CS Liên Xô Gorbachev, vừa mới qua đời ngày 30 Tháng 8, 2022.

    Lần ra đi của Gorbachev khiến người Việt liên tưởng một thế hệ Người Lính Quốc Gia từng chiến đấu không khoan nhượng với chế độ cộng sản VN từ trước lần đất nước chia phân 20/7/1954 cho đến ngày 30/4/1975. Trung tướng Phan Trọng Chinh là một điển hình cho cuộc chiến đấu quyết liệt với kết thúc uất hận của lần sụp vỡ miền Nam. Tướng quân Phan Trọng Chinh mất từ 17 Tháng 11, 2014 trong lặng lẽ, nay nhân lần ra đi của vị Gorbachev, bài viết như một tưởng niệm dẫu muộn nhưng vô cùng cần thiết tại thời điểm quyết định nầy qua chiến tranh Nga-Ukraine để có kết luận: Ai Thắng Ai?! 

    Chân dung Tướng Phan Trọng Chinh.

    Một 

    Năm 1951, người thanh niên Phan Trọng Chinh 20 tuổi, với dáng dấp thư sinh, mắt yếu do chứng cận thị bẩm sinh với học vấn Tú tài của Bộ Giáo dục Pháp ắt hội đủ điều kiện miễn dịch, khỏi bị động viên, gọi đi lính. Nhưng bởi thân phụ là Thiếu tá Phan Trọng Vinh, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 22, đơn vị Quân đội Việt Nam đầu tiên; từ gương chiến đấu của thân phụ và người anh, Trung úy Phan Trọng Hoan, Trường Thiếu Sinh Quân Phủ Lạng Thương, Đáp Cầu, Bắc Ninh, thanh niên Phan Trọng Chinh quyết định gia nhập quân ngũ, Khóa 5 Trường Võ Bị Liên Quân Đà Lạt.

    Quyết định càng hợp lý khi thân phụ tử trận tại Vĩnh Bảo, Hải Dương. Tình cảnh “Thù Nhà-Nợ Nước” đã khiến họ Phan thêm quyết liệt để trở thành Người Lính Quân Đội Quốc Gia – Một chọn lựa trọn vẹn dứt khoát. Cũng cần nói thêm, người anh Phan Trọng Thiện (sinh năm 1930) cũng nối chí em, nhập học Khóa 6 Trường Đà Lạt vào năm sau, 1952. Không những thế, sau nầy nhạc phụ là Đại úy Bùi Phó Chí, năm 1955 đã là Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 1 Đổ Bộ, tiền thân của Tiểu Đoàn 1 Quái Điểu SĐ/TQLC/VNCH. Các em sau 1954 nơi miền Nam cũng lần lượt gia nhập quân đội, Phan Trọng Sinh, Phan Trọng Vĩnh vào Khóa 14 Trường Võ Bị Đà Lạt.

    Tóm lại, đấy là một gia tộc gồm toàn những Người Lính – Sĩ Quan Quân Đội Quốc Gia (1948-1955) – Tướng Lãnh VNCH (1955-1975). Tổ Quốc Việt Nam/Miền Nam tồn tại qua cơn bão lửa xuyên suốt từ trước 1954 đến 1975 là do nhận được sứ mạng gánh vác hy sinh của những thế hệ người Việt nầy – Gia đình Trung tướng Phan Trọng Chinh là một điển hình cụ thể chung nhất.  

    Ngày 9 Tháng 1, 1954 Sư đoàn 320 CS tấn công vùng Thượng Lào nhằm đánh lạc hướng Bộ Tư lệnh Quân đoàn Viễn chinh Pháp đang tập trung vào mặt trận Điện Biên Phủ sắp khai diễn (13/3/1954). Tiểu Đoàn 3 ND được không vận đến bản Hiu Siu tăng cường Tiểu đoàn 6 ND đang bị áp lực nặng của phía cộng sản. Ngày 14 Tháng 1,  SĐCS 320 tập trung đánh TĐ3 nhằm phá vỡ thế trận tăng viện.

    Thiếu tá Tiểu đoàn trưởng Mollo tử trận, tiểu đoàn đoàn phó và đa số sĩ quan chỉ huy Việt, Pháp đồng bị thương vong. Riêng Thiếu úy Phan Trọng Chinh giữ vững đội hình tác chiến; ông được thăng cấp khẩn cấp ngay tại mặt trận, được chỉ định giữ chức Đại đội trưởng, chỉ huy thành phần còn lại của tiểu đoàn, giữ vững trận địa chờ đợi Tiểu đoàn 7 nhảy xuống tăng viện. Hai trung đoàn của SĐCS 320 dẫu quân số vượt trội cuối cùng phải rút lui trước sức phản công của hai tiểu đoàn dù với TĐ 3 đã bị tổn thất nặng.

    Trận chiến bản Hiu Siu nơi vùng Vùng Thượng Lào, năm tháng xa xôi kia thật sự không mấy ai biết đến, nhớ lại cho dù người trong quân đội. Chỉ riêng một người, Trung tá Đào Văn Hùng “Hùng Già”, Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 2 Dù (1966-1968), năm 1954 kia là một lính hạ sĩ luôn nhắc lại như chuyện mới xẩy ra.. “Năm ấy, tớ là một anh cai, “Cai Hùng” tớ đánh trận bản Hiu Siu với “Sous-lieutenant (Thiếu Úy) Chinh”...

    Thiếu úy/Trung úy Chinh đã chứng tỏ khả năng chỉ huy chiến trận từ ngày rất trẻ, qua 29 Tháng 9, 1954 ông vinh thăng Đại úy, nhậm chức Tiểu đoàn trưởng, chỉ huy trưởng đầu tiên của hệ thống chỉ huy người Việt – Tiểu đoàn 3 Nhảy Dù, đơn vị được ân thưởng Giây Bảo Quốc Huân Chương Màu Tam Hợp (Đỏ-Xanh-Vàng) của toàn Quân Lực Miền Nam do là đơn vị nòng cốt của Liên đoàn Nhảy Dù, đã giữ vững miền Nam trong giai đoạn chuyển tiếp đầy biến động nguy nan (1954, 1955) – Một trong những đơn vị tiểu đoàn của lực lượng Nhảy Dù đã giữ vai trò quyết định lần thành hình Chính phủ Việt Nam Cộng Hòa, 26 Tháng 10, 1955. Nhưng năng lực của Thiếu tá Phan Trọng Chinh không chỉ giới hạn trong chức vụ chỉ huy đơn vị tác chiến. Ông có khả năng tham mưu tổ chức cao hơn nữa.            

    Huy hiệu Quân Lực VNCH

    Hai. 

    Tháng 8, 1956, Đại úy Phan Trọng Chinh bàn giao TĐ3ND cho Thiếu tá Nguyễn Văn Lộc, được thăng cấp Thiếu tá và được cử làm Tham mưu trưởng Liên đoàn Nhảy Dù do Trung tá Nguyễn Chánh Thi giữ chức Liên đoàn trưởng. Đây là một quyết định quan trọng đối với đơn vị nhảy dù nói riêng và toàn thể quân đội quốc gia nói chung: Tăng cường, mở rộng tổ chức, chỉ huy các đơn vị tác chiến nhằm củng cố sức mạnh quốc phòng của Việt Nam Cộng Hòa, một quốc gia mới thành lập, 26 Tháng 10, 1955.

    Thiếu tá Tham mưu trưởng Phan Trọng Chinh hoàn tất nhiệm vụ một các xuất sắc trong một thời gian ngắn ngủi: Nhưng tiểu đoàn Nhảy Dù đơn lẻ trong Nam, ngoài Bắc trước 20/7/1954 nay tổ chức thành một đại đơn vị, giữ nhiệm vụ quan trọng: Lực lượng Tổng Trừ Bị của Việt Nam Cộng Hòa – Nhiệm vụ được xác chứng từ 1956, 1960, 1968, 1972… cho đến ngày tàn cuộc 30/4/1975 – Người lính thuộc Sư đoàn Nhảy Dù là những chiến binh cuối cùng thuộc lực lượng bảo vệ Sài Gòn nơi cầu Phan Thanh Giản, Ngã tư Bảy Hiền… tại những giờ phút kết thúc của cuộc chiến hai mươi năm 1955-1975. Đơn vị được Thiếu tá Tham mưu trưởng Phan Trọng Chinh đặt thành giềng mối từ những ngày thành lập, buổi khởi cuộc xây dựng nền Cộng Hòa ở miền Nam.          

    Khả năng tổ chức, chỉ huy, tham mưu của Thiếu tá Phan Trọng Chinh không giới hạn với đơn vị Nhảy dù, giữa năm 1960, ông bàn giao chức vụ Tham mưu trưởng Lữ đoàn Nhảy Dù (Biên chế từ Liên Đoàn ND, 1959), nhận nhiệm vụ mới, Chỉ huy trưởng Biệt Động Quân, lực lượng trừ bị chiến thuật cho các vùng chiến thuật thay thế Thiếu tá Lữ Đình Sơn.

    Giới lãnh đạo nơi Dinh Độc Lập, Bộ Tổng tham mưu QLVNCH tuy đã nhận ra khả năng (quân sự) của giới sĩ quan trung cấp lúc bấy giờ, nhưng không nhìn ra khuynh hướng/ước vọng chính trị của họ (rất khác xa với thành phần sĩ quan (cũ) do quân đội Pháp huấn luyện, chỉ huy trước 20/7/1954) – Đảo chính quân sự ngày 11 Tháng 11, 1960 nổ ra và bị thất bại do nhiều yếu tố có tính cách căn bản cần thiết cho một cuộc binh biến chính trị (không thuộc nội dung của bài viết nầy).

    Cuộc đảo chính do Đại tá Nguyễn Chánh Thi, Tư lệnh Lữ đoàn Dù cầm đầu, Thiếu tá Phan Trọng Chinh bị bắt giữ do có liên hệ từ trước ở Nhảy dù, và bị đưa ra xét xử tại Tòa án Mặt trận, Tháng 7, 1963. Tòa án tuyên phạt ông mức án 18 năm tù, Tháng 10 ông bị đưa đi thọ hình ở Côn Sơn.

    Tuy nhiên chưa đầy một tháng sau, cuộc đảo chính 1 Tháng 11, 1963 do Tướng Dương Văn Minh cầm đầu thành công, Thiếu tá Chinh được trả tự do, trở về lại quân đội, phục hồi cấp bậc cũ. Tháng 12 cuối năm 1963, thăng cấp Trung tá, ông được cử lên vùng cao nguyên, giữ chức Tỉnh trưởng Pleiku thay thế Trung tá Phạm Văn Út. Tháng 4, 1975, Dân biểu Phạm Văn Út là người duy nhất không bỏ phiếu thuận để Tổng thống Trần Văn Hương chuyển giao chức vụ cho Tướng Dương Văn Minh. 

    Trở lại chuyện Trung tá Phan Trọng Chinh, Tháng 3, 1964, ông bàn giao chức vụ Tỉnh trưởng Pleiku về lại Bộ Tổng tham mưu; Tháng 6, 1965, ông thăng cấp Đại tá, và được bổ nhiệm làm Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ Binh; Ngày Quân Lực 19 Tháng 6, 1966, ông được thăng cấp Chuẩn tướng. Thời gian giữ chức Tư lệnh Sư đoàn 25 Bộ Binh, ông có dịp phát triển khả năng chỉ huy đơn vị tác chiến chiến thuật, biến đổi Sư đoàn 25 BB từ một sư đoàn yếu thành một đơn vị mạnh (tương tự như Sư đoàn 18 BB với Tướng Lê Minh Đảo).

    Nhưng những “va chạm” giữa ông và giới chức cố vấn Mỹ, cũng tương tự với thành phần chỉ huy Sư đoàn 25 Bộ Binh Mỹ (hoạt động chung trong vùng Hậu Nghĩa, Tây Ninh) khiến ông không “được điểm” trong những đánh giá của thành phần “cố vấn” đối với một vị tướng đã được tôi luyện trong chiến tranh từ thập niên 1950; chưa nói những ảnh hưởng bởi di hại chính trị sau hai lần binh biến 1961, 1963.     

    Tháng 1, 1968, Tướng Phan Trọng Chinh rời Sư đoàn 25 BB, tiếp giữ chức Tư lệnh Phó Quân Đoàn III/Vùng 3 Chiến Thuật dưới quyền Trung tướng Đỗ Cao Trí. Sự kiện nầy cho thấy lời cáo buộc ác ý Tướng Trí “kỳ thị Nam-Bắc” là một điều vô lý, vì Tướng Trí đã luôn đặt Tướng Nguyễn Văn Hiếu giữ những chức vụ quan trọng bên cạnh ông từ những ngày trước 1963; và nay nhận sự phụ tá của Tướng  Phan Trọng Chinh, Cựu Tiểu đoàn trưởng TĐ3ND ở miền Bắc, khi ông nhận chức Tiểu đoàn trưởng TĐ6ND nơi miền Nam. Chúng ta có thể kết luận mà không sợ sai lầm: Những Người Lính Lớn (thực sự) không vấp phải những điều nhỏ nhặt, tiểu xảo.         

    Tháng 2, 1969, Tướng Chinh được bổ nhiệm làm Tổng cục trưởng Tổng cục Quân huấn thay thế Trung tướng Vĩnh Lộc. Đầu năm 1974, ông nhận chức vụ Chỉ huy Trưởng trường Chỉ huy Tham mưu (Cơ sở của trường đặt tại khu quân sự Long bình, Biên Hòa), tức là xuống cấp chỉ huy trong hệ thống Tổng cục Quân Huấn/Nhưng ông không tỵ hiềm, phản đối với người đồng sự của mình, Trung tướng Nguyễn Bảo Trị.

    Ngày 30 Tháng 4, 1975 ông cùng gia đình di tản khỏi nước, định cư tại Rockville, tiểu bang Maryland. Ngày 17 Tháng 11, 2014, ông từ trần tại nơi định cư, hưởng thọ 83 tuổi trong lặng lẽ. Từ ngày rời khỏi nước, ông không có tiếp xúc nào với cá nhân, tổ chức, đoàn thể thuộc Cộng đồng người Việt Hải Ngoại. Ông giữ im lặng toàn diện tương tự như các Tướng Nguyễn Đức Thắng, Ngô Quang Trưởng… Không một lời. 

    Hình minh hoạ

    Kết Từ. 

    Như trong phần Dẫn Nhập đã nhắc tới nhà lãnh đạo Liên Xô (1985-1991) Mikhail Gorbachev, người đã góp phần (phần quyết định) thay đổi mối quan hệ giữa Liên Xô với phương Tây sau nhiều thập niên căng thẳng và đối đầu trong Chiến Tranh Lạnh từ sau 1945. Ngày 31/8/22 ông Mikhail Gorbachev, từ trần ở tuổi 91 sau một thời gian mắc bệnh. Theo dư luận của một số người Nga vốn thuộc đảng cộng sản Xô Viết, ông bị cáo buộc đã làm sụp đổ Liên Bang Xô Viết, khiến nước Nga mất vị thế cường quốc một lần có được dưới chế độ cộng sản (1922-1991).

    Đúng, sai thế nào, lịch sử và sự thật sẽ xác chứng đối với những lãnh đạo của mỗi quốc gia. Tuy nhiên từ lần ra đi và lời cáo buộc đối với ông Gorbachev, người viết liên tưởng tới những võ đoán hàm hồ đối với thành phần lãnh đạo quân đội miền Nam mà với Cố Trung tướng Phan Trọng Chinh, điển hình thế hệ tướng lãnh Quân Lực VNCH – Thế hệ tướng lãnh sinh trong thập niên 1930 trực tiếp gánh vác sinh mệnh chính trị-quân sự miền Nam suốt hai mươi năm bão lửa 1955-1975.

    Họ đã chứng thật, “Hào kiệt nước Nam không đời nào thiếu” với sáu vị tướng lãnh tự sát cùng lần nước mất nhà tan 30/4/1975 – Những hy sinh quyết tử khiến cả thế giới phải nhìn lại cuộc chiến đấu lẫm liệt cao thượng của Quân Dân miền Nam. Cuộc chiến với những chiến thắng vang dội quân sử nhân loại của năm 1972. Chiến thắng đạo quân xâm lược đi từ miền Bắc được cả khối cộng sản yểm trợ trong khi người Mỹ rút quân, phủi tay.

    Nhưng tất cả đã bị chôn vùi với thất bại của ngày 30/4/1975 – Sự thất trận tai họa nầy khiến người viết, người lính nối tiếp cuộc chiến của thế hệ chỉ huy niên trưởng kia đặt nên câu hỏi giả thiết: Nếu như thế hệ những Người Lính sinh vào những năm 1930 kia có sớm hơn một nửa thập kỷ nắm quyền lãnh đạo QUỐC GIA VÀ QUÂN ĐỘI – Những Phan Trọng Chinh, Nguyễn Đức Thắng, Ngô Quang Trưởng, Nguyễn Viết Thanh, Nguyễn Khoa Nam… đến với lịch sử và Quân Đội từ trước những năm 1960 – Nếu được như thế, sẽ không có binh biến 11/11/1960; đảo chánh 1/11/1963; Biến động Miền Trung 1966…

    Cũng không thế có những cáo buộc ngụy tạo từ báo chí, dư luận Mỹ: “Quân đội VNCH tham nhũng”, bởi miền Nam đã phổ biến gương thanh liêm của “Nhất Thắng-Nhì Chinh–Tam Thanh-Tứ Trưởng”; cũng không thể có những vu cáo hàm hồ “gia đình trị” với lần lâm tử của Tướng Trương Quang Ân, Tư lệnh Sư đoàn 23 Bộ Binh cùng với Phu nhân Dương Thị Thanh trên bầu trời Đức Lập, 9 Tháng 8, 1968; hai anh em Tướng Nguyễn Viết Thanh, Đại tá Nguyễn Viết Cần cùng tử thương nơi chốn trận tiền…

    Và còn rất nhiều. Rất nhiều nữa. Tất cả thực tế hy sinh nầy giúp chúng ta có CHẮC hậu quả và hệ quả: Không thể nào có NGÀY UẤT HẬN 30/4/1975 – Mối giả thiết không hề là ảo tưởng bởi Ai Cập chỉ cần một Nasser; Đại Hàn cũng chỉ khởi động lần xây dựng nước với Phác Chánh Hy. Nhưng tất cả chỉ là giả thiết, và Trung tướng Phan Trọng Chinh cùng bao Anh Hùng Liệt Sĩ Miền Nam đã im lặng ra đi nào mấy ai hay?

    California, 9/2022

    Nhân nhìn lại “Giả Trá Lịch Sử” Tháng 9, năm 1945 tại Hà Nội