Saturday, 7 May 2011

*** CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO (PHTQ số 16)

CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO (PHTQ số 16)

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

 Trong khóa nghiên tu an cư mùa hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada, các thắc mắc sau đây được nêu lên trong phần tham luận:

1) Khi nào gọi các vị xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằng Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?

2) Khi nào gọi các vị nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni, Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?

3) Khi ông bà cha mẹ gọi một vị sư là Thầy hay Sư phụ, người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay cũng gọi là Thầy?  Như vậy con cháu bất kính, coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?

4) Một vị xuất gia còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi (trên 70 chẳng hạn) bằng “con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng là “con” với vị xuất gia?

5) Sau khi xuất gia, một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia đình?

* * *
Trước khi đi vào phần giải đáp các thắc mắc trên, cần thông qua các điểm sau đây:

*1)  Chư Tổ có dạy: “Phật pháp tại thế gian”.  Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc đời.  Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để giúp đời.  Chư Tổ cũng có dạy: “Hằng thuận chúng sanh”.  Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí, ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo.

*2) Từ đó, chúng ta chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp:

Một là, cách xưng hô chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức, trong các buổi lễ, cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh.  Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại gia hay xuất gia, mà thôi.  Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo không nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy.  Cho nên, việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.

*3) Có hai loại tuổi được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo.  Tuổi đời là tuổi tính theo đời, kể từ năm sinh ra.  Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ túc giới và hằng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ lạp).  Trong nhà đạo, tất cả mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất luận tuổi đời.  Ở đây không bàn đến việc những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo không liên tục.

* * *
Bây giờ, chúng ta bắt đầu từ việc một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng chơn nhập đạo. Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh kệ, nghi lễ.  Thời gian sau, vị này được thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ). Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi các con quạ quấy rầy khu vực tu thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho nên gọi là “khu ô sa di” (sa di đuổi quạ).

Đến năm được ít nhất là 20 tuổi đời, và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tánh cũng như tu tướng, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô (nữ).  Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ Kheo (nam) hay Tỳ Kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia. 

Ở đây xin nhắc thêm, trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời xuất gia và chưa thụ giới sa di ni) được thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ có bên ni, bên tăng không có.  Tuy nhiên trong tạng luật, có đến 100 chúng học giới chung cho cả tăng và ni.  Cũng cần nói thêm, danh từ tỳ kheo có nơi còn gọi là tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu. Bên nam tông, tỷ kheo có 227 giới, tỷ kheo ni có 311 giới.  Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ kheo ni) là giới đầy đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn đời (thường gọi là viên tịch, không nên lạm dụng từ vãng sanh), không phải thụ giới nào cao hơn.  Việc thụ bồ tát giới (tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị theo bắc tông, nam tông không có giới này.   

Ở đây, xin nói thêm rằng: Bắc tông (hay bắc truyền, phát triển) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương bắc của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Triều Tiên, Nhật bổn và Việt Nam. Nam tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là danh từ chỉ các tông phái tu theo sự truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tích Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.

Trong lúc hành đạo, tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói chung sự sinh hoạt của Phật giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng theo hiến chương của Giáo Hội Phật Giáo như sau:

1) Năm 20 tuổi đời, vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại Đức.

2) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo, được gọi là Thượng Tọa.

3) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa Thượng.

Còn đối với bên nữ (ni bộ):

4) Năm 20 tuổi đời, vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô (hiện nay ở Canada, có giáo hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại Đức).

5) Năm 40 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 20 tuổi đạo, được gọi là Ni sư.

6) Năm 60 tuổi đời, vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sư bà (bây giờ gọi là Ni trưởng).

Đó là các danh xưng chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo (hạ lạp), được dùng trong việc điều hành Phật sự, trong hệ thống tổ chức của Giáo Hội Phật Giáo, không được lạm dụng tự xưng, tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp Đại Lễ hay Đại Hội Phật Giáo, trong các Giới Đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.

Như trên, chúng ta có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là Đại đức bên ni bộ.  Ni sư nghĩa là Thượng tọa bên ni bộ.  Sư bà (hay Ni trưởng) nghĩa là Hòa thượng bên ni bộ.  Bởi vậy cho nên, các buổi lễ hay văn thư chính thức, thường nêu lên là: “Kính bạch chư tôn Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni”, chính là nghĩa đó vậy. Tuy vậy, trên thực tế, chưa thấy có nơi nào chính thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa ni, hay Hòa thượng ni.  Nếu có nơi nào đã dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ biến, nghe không quen tai nhưng không phải là sai. Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở Giáo Hội Phật Giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại Tùng Lâm, Phật Học Viện, Tu Viện, thường là các vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng hay Trưởng Lão Hòa Thượng. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội đồng chứng minh tối cao của các Giáo Hội Phật Giáo. Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức vẫn xưng đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy tu). 

Đến đây, chúng ta nói về cách xưng hô giữa các vị xuất gia với nhau và giữa các vị cư sĩ Phật tử tại gia và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật. 

1)*  Giữa các vị xuất gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy (hoặc gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách).  Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư, Ân sư). Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh, Sư đệ, Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá. Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư chị, Sư em. Ngoài đời có các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, thân hữu, hội hữu, chiến hữu. Trong đạo Phật có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu (bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.

2)*  Khi tiếp xúc với chư tăng ni, quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính cách xã giao), và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết bàn vô ngã, theo lời Phật dạy.  Có những vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả hai bên. Khi qui y Tam Bảo thụ ngũ giới (tam qui ngũ giới), mỗi vị cư sĩ Phật Tử tại gia có một vị Thầy (Tăng bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư. Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là và nữ tu sĩ được gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có Ni. Việc tâng bốc, xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng, tất cả đều nên tránh, bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh.  
3)*  Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi (hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là “Quí Phật Tử”. Chỗ này không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng là Phật Tử, chứ không riêng tại gia là Phật Tử mà thôi.  Việc một Phật Tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi một Phật Tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng, không nên. Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức. Không nên bất bình, khi nghe như vậy, tránh bị loạn tâm. Biết rằng mọi chuyện trên đời: ngôi thứ, cấp bậc, đều có thể thay đổi, nhưng giá trị tuổi đời không đổi, cứ theo thời gian tăng lên. Theo truyền thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã hội, dù tại gia hay xuất gia
4)*  Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận theo đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến, một cách trân trọng, tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao người đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng Cư sĩ hay Nữ Cư sĩ thường dùng cho quí Phật Tử tại gia, qui y Tam bảo, thụ 5 giới, phát tâm tu tập và góp phần hoằng pháp.  Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện nam, Cận sự nam) hay Ưu bà di  (Tín nữ, Cận sự nữ).

5)*  Chúng ta thử bàn qua một chút về ý nghĩa của tiếng xưng “con” trong đạo Phật qua hình ảnh của ngài La Hầu La. Ngài là con của đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và đạo. Ngài sớm được tu tập trong giới pháp, công phu và thiền định khi tuổi đời hãy còn thơ. Ngài không ngừng tu tập, cuối cùng đạt được mục đích tối thượng. Ngài thực sự thừa hưởng gia tài siêu thế của đức Phật, nhờ diễm phúc được làm “con” của bậc đã chứng ngộ chân lý. Ngài là tấm gương sáng cho các thế hệ Phật tử tại gia (đời) cũng như xuất gia (đạo), bất luận tuổi tác, tự biết mình có phước báo nhiều kiếp, hoan hỷ được xưng “con” trong giáo pháp của đức Phật. 

6)*  Đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới như trên, cho nên cách xưng hô cũng không khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một người đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻ tuổi, có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay Sư bác. Hai từ ngữ này có nơi mang ý nghĩa khác. Việc truyền giới cụ túc, hay tấn phong, có khi không đợi đủ thời gian như trên đây, vì nhu cầu Phật sự của giáo hội, hay nhu cầu hoằng pháp của địa phương, nhất là đối với các vị bán thế xuất gia có khả năng hoằng pháp, từng đảm nhận trọng trách, hay nghiên cứu tu tập trước khi vào đạo.

7)*  Vài xưng hô khác trong đạo như: Sư Ông, Sư Cụ thường dành gọi vị sư phụ của sư phụ mình, hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao, thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuất gia. Một danh xưng nữa là Pháp Sư, dành cho các vị xuất gia tăng hay ni (sư) có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp (pháp) độ sanh. Ngoại đạo lạm dụng danh xưng này chỉ các ông bà thầy pháp, thầy cúng.

8)*  Danh xưng Sư Tổ được dành cho chư tôn đức lãnh đạo các tông phái còn tại thế, và danh xưng Tổ Sư được dành cho chư tôn đức đã viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quí ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp hiệu của quí ngài, để tỏ lòng tôn kính. 

9)*  Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, các vị tỳ kheo thường dùng tiếng Ðại Ðức (bậc thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để xưng tán Ngài, mỗi khi có việc cần thưa thỉnh.  Các vị đệ tử lớn của đức Phật cũng được gọi là Ðại Ðức.  Trong các giới đàn ngày nay, các giới tử cũng xưng tán vị giới sư là Đại Đức.
 
10)*  Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật nên thể hiện lòng tôn kính lẫn nhau, noi theo Bồ tát Thường bất khinh, bất tùy phân biệt, bất luận tuổi tác, dù tại gia hay xuất gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của thế tục, nhắm thẳng hướng giác ngộ chân lý, giải thoát sinh tử khổ đau, vượt khỏi vòng luân hồi loanh quanh luẩn quẩn. Nhất giả lễ kính chư Phật. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.  Cho nên đơn giản nhất là: “xưng con gọi Thầy”.
Theo các bộ luật bắc tông và nam tông còn có nhiều chi tiết hơn.

Tóm lại, ngôn ngữ, danh từ chỉ là phương tiện tạm dùng giữa con người với nhau, trong đạo cũng như ngoài đời, có thể thay đổi theo thời gian và không gian, cho nên cách xưng hô trong đạo Phật tùy duyên, không có nguyên tắc cố định, tùy theo thời đại, hoàn cảnh, địa phương, tông phái, hay tùy theo quan hệ giữa hai bên. Đó là phần tu tướng.

Các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo.  Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.  Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia.  Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.

Cách xưng hô nên làm cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhứt, thế thôi!  Đó là phần tu tâm.
Trong đạo Phật, cách xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến, không biến đổi, đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nổ lực, cố gắng  tu tâm dưỡng tánh không ngừng, cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh: giác ngộ và giải thoát, đối với Phật Tử tại gia cũng như xuất gia. 

Đó chính là một phần ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật vậy.[]

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Kính mời quí vị xem bài viết  "Bát Chánh Đạo" theo link:


Sen Hồng Một Đóa

Thích Nữ Chân Liễu

Lò lửa sen hồng mấy kẻ hay
Mây che nguyệt rạng chẳng phô bày
Ngọc lành ẩn đá không phai sắc
Bể thánh nguồn chơn mặc tỉnh say.


B ốn câu thơ trên là của Ni trưởng Như Thanh, một bậc tài năng xuất chúng được sự ngưỡng mộ và khâm phục trong ni giới Phật giáo Việt Nam. Như ngọn đuốc sáng bừng trong đêm tối, Ni trưởng là một bậc chân tu vì đạo quên mình, sanh năm Tân Hợi 1911, tại huyện Thủ đức, Gia định. Thiện duyên đưa đến, Ni trưởng xuất gia năm 22 tuổi, đệ tử của Tổ Pháp Ấn, chùa Phước Tường, Thủ đức. Với trí thông minh và lòng hiếu học, cộng thêm nhẫn lực vô biên, Ni trưởng đã đạt được nhiều thành quả trên đường tham học Phật pháp từ Nam ra đến Huế và Hà nội. Năm 1972, Ni trưởng được Giáo hội giao trọng trách Vụ trưởng Ni bộ Bắc tông, và giữ vai trò Cố vấn tối cao trong các nhiệm kỳ kế tiếp. Ni trưởng viên tịch năm 1999, để lại bao thương tiếc cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.

Vài trang giấy không đủ nói lên hết được đạo hạnh và gương sáng của người, nhưng để chia sẻ với những người đang học Phật và tu Phật, những lời dạy quí báu của người ghi lại trong quyển sách “Cuộc đời và sự nghiệp của Sư trưởng Như Thanh” xem như một nhân duyên thiện lành đặc biệt. Thành kính đảnh lễ giác linh Ni trưởng với tấm lòng tri ân và niềm cảm phục của hàng hậu học.

N ếu như xưa kia, khi đồng ý cho bà di mẫu Maha baxà bađề (Kiều Đàm) cùng 500 người nữ xuất gia trong giáo pháp, đức Thế tôn tuyên báo rằng chánh pháp vì vậy sẽ diệt vong sớm 500 năm. Không ai có thể đoán rằng chánh pháp tồn tại bao lâu để làm bài toán trừ 500 năm đó. Khi đề cập đến quá trình lịch sử đức Phật không cho phép người nữ xuất gia một cách dễ dàng, Ni trưởng đã có một cái nhìn tuệ giác như sau:

“Vì trách nhiệm của người xuất gia rất nặng nề, khó nhọc, mà phạm hạnh cũng khó thực hành, bởi thế đức Phật không hứa cho người nữ xuất gia một cách dễ dàng. Đây là bổn ý của đức Phật muốn mở rộng con đường hóa đạo cho tất cả người nữ sau này. Bởi sự giáo dục của người nữ thời ấy chưa được phát triển, nên họ ở trong thế gian bị nhiều sự chướng ngại buộc ràng, làm cho tâm tính không được sáng tỏ, ý chí không được sâu rộng. Đức Phật vì muốn cho hàng Tỳ kheo ni chứng đến các pháp thiệt tánh mà Ngài đem tâm bình đẳng phương tiện dẫn dắt, khiến cho mọi người đều được tăng trưởng thiện báo, tiêu trừ ác nghiệp, sửa đổi phong hóa ở thế gian trở nên tốt đẹp. Hàng Tỳ kheo ni ở trong chánh pháp của đức Phật gặp được cơ hội mở mang, truyền bá, làm cho ánh sáng Phật pháp được chói rạng, tạo công đức vô lượng”.

Đạo Phật đã đi sâu vào cuộc đời. Đạo Phật không phải là lý thuyết suông để bàn luận. Đạo là sống và hành. Đạo là sự chân thật, sáng suốt, đậm đà và thanh thoát. Để dẫn dắt người nữ tu vượt qua được bản tánh nhi nữ thường tình, nhờ khép mình trong giới pháp, vượt qua mọi trở ngại thuận nghịch bằng khả năng tu chứng, thì người nữ tu vẫn có thể phụng sự và xiển dương Chánh pháp. Ni trưởng chủ trương một căn bản đào tạo ni tài, lập nguyện kiên cường cho ni chúng, trao truyền tam học: Giới, Định, Tuệ.

Ni trưởng dạy rằng:

-         Giới học là giềng mối của người tu Phật.
-         Định học là phép tắc điều phục tâm trí.
-         Tuệ học là năng lực bạt trừ nghiệp chướng si ái.

Ni trưởng Như Thanh đã trải thân phục vụ đạo pháp, khiến cho pháp âm truyền bá khắp nơi. Người là một bậc Ni trưởng đạo cao, đức trọng, làu thông kinh luật, trước tác, dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị. Ni trưởng đã dẫn dắt hàng ni chúng hậu học thoát khỏi những mặc cảm tự ti, sợ hãi, nhút nhát và khai sáng trí tuệ cho hàng đệ tử. Công đức của người thực vô lượng, vô biên.
Ni trưởng luôn luôn quan niệm, để chia sẻ gánh nặng hoằng pháp, người xuất gia, không phân biệt tăng hay ni, đều có trách nhiệm góp phần công đức để đền đáp công ơn sâu dầy của đức Thế tôn.

Khi nói lên phạm hạnh cao quí của hàng xuất gia, trong tác phẩm “Giới đức khiêm ưu”, Ni trưởng đã viết như sau:

“Phẩm hạnh cao quí của tăng già là do công phu tu dưỡng gồm đủ sự lý, đối với tất cả chúng sanh, tìm đủ các chước phương tiện làm lợi ích cho mọi người, như khát thì cho uống, đói cho cơm ăn, bịnh cho thuốc uống, lạnh cho áo ấm, gặp sợ sệt giúp đỡ an ủi hết sợ sệt, thiếu trí tuệ giúp đỡ mong cho tâm trí trở nên sáng suốt, cho đến bỏ mình cho cọp đói ăn cũng gọi là đức hỷ xả bố thí. Trong hoàn cảnh nhịn khổ chịu nhọc, trăm phen bẻ gảy mà lòng vẫn dai bền, việc khó nhọc là cố gắng học tập, việc khó làm cố gắng siêng làm. Dẫu có người khuấy rối, dằn ép cũng chẳng căm tức, giận hờn, hình dung vẫn tự nhiên, chẳng tác sắc nóng nảy bứt rứt”.

Với khả năng, đức độ, tâm từ bi của người đã tạo cho hàng ni chúng xuất gia tiến trên con đường giác ngộ và giải thoát. Sự tương kính nhau như tỷ muội, dùng tâm niệm bình đẳng đối xử, phẩm hạnh của người tu trong chúng nên tự xét lại mình để chừa bỏ lỗi lầm, thay vì phóng tâm  nghĩ đến hơn thua, phải quấy, đúng sai, được mất, biểu lộ đức tính hiền từ, lễ độ, khiêm cung, khoan dung, hòa lạc, khiến người xung quanh sanh lòng quí mến như hoa sen nở hương thơm ngát.

Huynh đệ cùng nhau gắng học hành
Lời qua tiếng lại nhớ đừng tranh
Quyết lòng sửa tánh cho thanh tịnh
Xuân đến đời ta đặng tiếng thanh.
(Hoa Đạo)

Trải qua trong cõi phù sinh
Học rành chữ nhẫn hữu hình ngại chi
Nhẫn là phước quả từ bi
Giúp ta thâm ngộ vô vi đạo mầu.
(Hoa Đạo)

Lời thơ của người là khuôn vàng thước ngọc. Thơ văn của một bậc chân tu đầy đạo tình đạo vị, người đọc cần lắng lòng tỉnh ngộ. Ni trưởng còn khuyên nhắc về trách nhiệm của Tỳ kheo ni về sự nghiệp hoằng pháp như sau:

1)   Xuất gia vì mục tiêu giải thoát tự thân và tha nhân.
2)   Thiết tha cầu học chánh pháp giữa biển sống vô thường.
3)   Thể hiện nghiêm túc nếp sống phạm hạnh Giới-Định-Tuệ,
4)   Phát triển văn huệ, tư huệ và tu huệ.
5)   Tích cực tiếp dẫn hàng hậu học.
6)   Thao thức vì sự nghiệp độ sanh, hưng khởi chánh pháp.

Ni trưởng là một vị Bồ tát dấn thân từ ni giới, mang tâm niệm cứu khổ chúng sanh, thức tỉnh mọi người quay về với tình thương vô hạn trong giới pháp của đức Thích ca mâu ni. Dòng pháp nhủ của Ni trưởng Như Thanh là dòng nước cam lộ của đức Quán thế âm, làm dịu mát những nhiệt não của thế gian, khơi dậy ngọn đèn trí tuệ, không bị tham sân si trói buộc, sai khiến, hành xử lợi mình lợi người, sống với tâm Phật không còn bị vô minh che lấp.

Trong tác phẩm “Hành Bồ Tát Đạo”, Ni trưởng đã đem tâm huyết của mình để truyền trao lại cho người xuất gia cũng như tại gia. Ni trưởng viết:

“Nếu trong một lúc nào đó, chúng ta lắng yên được tâm thức, để cho nó vắng lặng rỗng rang, chẳng khởi lên một niệm suy tính so lường, thì tất nhiên trong sát na ấy, chúng ta nhìn rõ được bản lai diện mục của mình, thấy rõ chân tâm thể tánh của mình vốn bất sanh bất diệt, nó xóa bỏ mọi ranh giới ngã và nhơn, thiện và ác. Trong giây phút linh diệu ấy, tâm thức chúng ta bổng nhẹ nhàng, cõi lòng mở rộng với muôn ngàn thương yêu, tình cảm trong sáng dịu dàng, nó chẳng phải là thứ tình cảm hạn hẹp, phát sinh từ lòng ái dục, mà phát xuất từ tâm bi, nên nó bao la, tươi nhuần và bình đẳng, vô phân biệt. Bấy giờ cái nhìn của chúng ta đối với vạn vật cũng trong suốt và bình đẳng như thế. Đây là giây phút mà tâm ta vô trụ, không vướng mắc, hoàn toàn tự do. Nếu sống mãi với tâm vô trụ như thế, chúng ta đã được giải thoát, được an nhiên tự tại”.

Chư Phật không có tâm phân biệt đây là tăng, đây là ni, đây là tướng nam, đây là tướng nữ, tướng đẹp tướng xấu, tướng giàu tướng nghèo. Chư Phật bình đẳng tuyệt đối trong phong cách hóa độ chúng sanh. Bổn phận người tu phải nhận ra con đường chư Phật đã đi và đã đến.

Đức Phật đã dạy chúng ta hãy mồi ngọn đuốc chánh pháp của Ngài để tự thắp sáng trí tuệ, thấy đường mà tu, thấy đạo mà hành. Các đấng Tôn sư đã tha thiết giảng dạy, khuyến tu, chớ nên đợi khi vô thường đến, không phân biệt già trẻ, sang hèn, tuổi đời càng chồng chất, đau yếu bệnh tật sanh ra, làm cho con đường đi đến giác ngộ ngày càng thêm khó khăn, trắc trở. Bao nhiêu đời kiếp đã qua, con người mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi, không biết đến kiếp nào mới vượt thoát được.

T óm lại, Ni trưởng Như Thanh như một đóa sen hồng vượt ra khỏi mặt nước với vẻ đẹp cao quí của một bậc giác ngộ. Tư tưởng nhập thế cứu khổ của người đã để lại cho đời một tấm gương sáng. Ni trưởng đã vân du khắp mọi miền đất nước, để thuyết giảng không hề mệt mỏi. Cho đến ngày thanh thản ra đi, để lại cho đời và cho đạo  nhiều tác phẩm có giá trị tu học, Ni trưởng vẫn còn mong các đệ tử Phật gia phải giống như hoa sen rạng ngời ánh sáng trí tuệ, đem ngọn đuốc chánh pháp soi rọi khắp thế gian u tối, giúp mọi người thoát khỏi bùn nhơ khổ đau phiền não, vượt lên trên mặt nước như những đóa sen hồng tỏa hương thơm tinh khiết của sự giác ngộ và giải thoát. []

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Thích Nữ Chân Liễu


Truyện Ngắn Phật Giáo

Thế Nào Là Thượng Tọa

Thuở ấy, đức Thế Tôn đang ngự tại tinh xá Kỳ Viên. Mai sớm, có 10 vị tỳ kheo từ Câu Thi Na đến yết kiến Ngài. Lúc mới vào tinh xá, nhóm sa môn này gặp một chú tiểu ra vái chào. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, đoàn sa môn lui ngồi một bên. Phật hỏi họ:

- Sáng giờ, các thầy có gặp một vị Thượng Tọa vừa rời khỏi nơi đây không?
Các thầy sa môn đồng thưa: - Bạch Thế Tôn, không ạ!
- Các thầy không gặp ai cả sao?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có gặp một chú tiểu chưa đến 20 tuổi.
 
- Này các tỳ kheo! Vị ấy không phải là một chú tiểu. Ðó chính là bậc Thượng Tọa mà ta muốn nói.
- Nhưng, chú ấy còn quá trẻ, bạch Thế Tôn.

- Này các tỳ kheo! Ta không gọi ai là Thượng Tọa vì tuổi tác, vì họ được ăn trên ngồi trước, hay họ xuất thân từ dòng dõi danh gia vọng tộc. Chỉ có người nào thấu đạt chánh pháp, cư xử tốt với mọi người, ta mới gọi vị ấy là Thượng Tọa.

SUY NGẪM
Gọi là bậc trưởng lão, đâu phải căn cứ trên tuổi tác già nua? Bởi vì đó chẳng qua chỉ là tấm thân già yếu, râu tóc bạc phơ, rút cục chỉ là hạng giả danh ngu xuẩn mà thôi.

Sở vị trưởng lão
Bất tất niên kỷ
Hình thục bạch phát
Xuẩn ngu nhi dĩ.


Dù tuổi cao mày bạc
Không tịnh hạnh tu trì
Tôn xưng là trưởng lão
Danh suông nghĩa lý gì?

(Kinh Pháp Cú 260)

Những người chân tu thực học, giữ gìn tâm tính nhân từ, sáng suốt, cư xử rất mực từ bi & trí tuệ, khắp nơi cảm thấy thanh lương khi thân cận, thiền môn phát triển, nhiều người tìm tới nương tựa. Thế mới xứng danh là bậc trưởng lão trong chốn thiền môn.

Vị hoài chánh pháp
Thuận diệu từ nhân
Minh đạt thanh khiết
Thị vi trưởng lão

Nghiã là:
Những ai thấu chánh pháp
Tự điều phục thân tâm
Thanh tịnh và sáng suốt
Xứng đáng là trưởng lão.

(Kinh Pháp Cú 261)

Trong kho tàng kinh điển của Phật giáo, danh & thực là hai phạm trù thường được đề cập, phân tích cặn kẻ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
 
Danh là một trong năm món dục được chúng sanh ưa thích, tham đắm cần phải loại trừ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
Thực là nội dung của giác ngộ giải thoát, mỗi người phải phấn đấu để chứng đạt.
 
Cả hai phương diện này nếu tương ưng nhau thì thật là tốt. Nếu có thực mà không danh thì càng hay, nhưng có danh mà không thực thì quả là tai họa.
Thí dụ: các vị có danh Hòa Thượng, Thượng Tọa, lại nắm giữ các trọng trách trong nhà chùa, nhưng thực chất do bè phái, sống lâu lên lão làng, không thực tâm hoằng pháp lợi sanh, không thực tâm tu dưỡng, cư xử tàn độc với đồng môn, tự tôn tự đại, tai hại vô cùng!

Thời Đức Phật, các bậc đạo cao, đức trọng thường được tôn xưng là Thượng Tọa, là Trưởng Lão. Vì thế, hàng thượng tọa rất được Tăng chúng và tín đồ cung kính, nể trọng, cúng dường hậu hỷ, đồng thời các Ngài là bậc lãnh đạo, mô phạm trong đại chúng, nên luôn được Phật ca ngợi, tán thán.

Cũng vì sự trọng vọng này mà không ít người chưa điều phục được tâm tham danh, cũng mong ước bước lên hàng thượng tọa, cầu đắc lợi lộc, thích được cung kính, say mê danh vọng.

Đức Thế Tôn biết rõ người đời sau phước mỏng nghiệp dầy, đam mê danh vọng, cho nên Ngài dạy: Thượng Tọa là bậc đã thấu được Chánh Pháp, cư xử tốt với mọi người (từ bi & trí tuệ viên dung), chứ không vì tuổi tác hay nguồn gốc xuất thân. Một chú tiểu nếu xứng đáng cũng được gọi là Thượng Tọa.

Thời nay, các danh xưng như chú Tiểu, Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng cũng chỉ là để có tôn ti trật tự trong thiền môn. Các danh xưng vốn chẳng có giá trị hay liên hệ nào đối với nội tâm an tịnh, tuệ giác và sự tự tại giải thoát cả. Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Nhưng dù sao thì mỗi người cũng cần phải có một hư danh để phân biệt với các hư danh khác.

Như thế, nếu thực nội tâm tu dưỡng chưa xứng với danh xưng cao, thì điều phải làm chính là: tự phản tỉnh, tự vấn lương tâm, tự tàm quí, tự hổ thẹn, hơn là vỗ ngực xưng danh và tự mãn vui mừng. Ai cũng biết danh xưng là giả huyễn, tự phong hoặc người khác phong cho cũng vậy thôi, nhưng lâu ngày thấy đó là thật, nguy hiểm vô cùng. 

Về hình thức, chú Tiểu và Thượng Tọa tuy có khác nhau, nhưng nội dung bất khả tư nghì. Vì thế, khi biết rõ về cái giả danh không thật, người có tâm cầu pháp, muốn giác ngộ chân lý vô thượng, phải luôn phấn đấu cho xứng đáng, xứng danh là người có tuệ giác biết buông xả, không dính mắc, vượt qua hết thảy các pháp -  dù thực hay giả.


Tóm lại, các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo. Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, không nên tranh cãi. []
Ban Biên-Tập PHTQ.


TÙY DUYÊN
Mọi việc trên đời này đều tùy duyên.

Việc gì đến - đúng lúc - đúng ngày giờ - đủ duyên - nó sẽ đến.



Tu tâm sẽ đưa con người đến chỗ ngộ đạo (giác ngộ). Khi đạt giác ngộ, con người sẽ giải thoát phiền não khổ đau và được an lạc hạnh phúc. Đạt được bao nhiêu giác ngộ, con người sẽ giảm nhẹ bấy nhiêu phiền não khổ đau. Cũng như mây đen tan biến bao nhiêu, mặt trời tỏ rạng bấy nhiêu.



Mây đen ví dụ cho phiền não. Mặt trời ví dụ cho trí tuệ sẵn có của con người. Con người ai ai cũng có trí tuệ, nhưng do phiền não che lấp, con người trôi lăn trong tâm tham sân si không nhận ra trí tuệ của mình mà thôi. Khi con người bớt phiền não, thì trí tuệ sẽ sáng ra. Điều này không do cầu nguyện mà được.

Làm sao biết mình giác ngộ (ngộ đạo) hay chưa?



Khi ngộ đạo, con người sẽ bật khóc vì xúc động, tâm tư bàng hoàng, không ngờ đạo ở ngay trước mắt, ở ngay trước mặt, tự bấy lâu nay, mà mình không hay, không biết, không nhận ra đó thôi. Đồng thời con người sẽ cảm thấy hoan hỷ, như chưa từng hoan hỷ.



Trái cây (quả) đủ ngày tháng thì sẽ chín tới, không thể sớm hơn hay muộn hơn. Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó là cách tu nhân tích phước, tích đức, để chuyển hóa cuộc sống của mọi người.



Thí dụ: Hôm nay, phát tâm ấn tống kinh sách để truyền bá chánh pháp, giúp người khai ngộ, thì chính mình là người được khai ngộ trước tiên. Quả báo phước lành đến ngay khi phát tâm, tuy chưa kịp hành động gì cả. Con người nên hiểu rõ đâu là chân lý, đâu là chánh pháp, để ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày.[]



BBT.PHTQ.CANADA




ĐỪNG TỰ LÀM TỔN THƯƠNG CHÍNH MÌNH

Một đêm một con rắn trong khi đang tìm kiếm thức ăn, bò vào một xưởng mộc.
Người thợ mộc vốn khá bừa bộn, đã để lại một số dụng cụ nằm trên sàn nhà, trong số đó có một cái cưa.
Khi con rắn bò lòng vòng trong xưởng, nó trườn qua cái cưa, và bị một vết cắt nhỏ.
Ngay lập tức, nghĩ rằng cái cưa đã tấn công mình, nó quay lại và cắn thật mạnh vào cái cưa khiến cho miệng nó chảy máu.
Điều này khiến con rắn rất tức giận. Nó tấn công một lần nữa, và một lần nữa cho đến khi cái cưa đầy máu và dường như đã “chết rồi”.

Sắp chết vì những vết thương của mình, con rắn quyết định cắn một cái cuối cùng thật mạnh trước khi bò đi.

Sáng hôm sau, người thợ mộc rất ngạc nhiên khi thấy một con rắn chết trước cửa nhà mình. []

------------------------------

Bài học:

Đôi khi trong lúc cố gắng làm tổn thương người khác, con người chỉ làm tổn thương chính mình mà thôi.




SUY NGẪM



Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này, con người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời nói.

Hai người nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau, không nhượng bộ nhau, chắc chắn đưa tới,

tranh chấp cãi vã.

Người có trí tuệ là người thực hiện được điều sau đây:



Lời nói chẳng động tâm ta.

Dù lời nói ngọt hay là đắng cay.



Bốn Chân Lý Cao Quý


Như quý vị có thể nhận thức, cốt lõi giáo huấn của Đức Phật được đặt trên sự hiểu biết về Bốn Chân Lý Cao Quý.  Bốn Chân Lý Cao Quý là nền tảng của Đạo Phật.  Đây là những sự thật về khổ đau, nguồn gốc của nó, khả năng chấm dứt khổ đau, và con đường đưa đến sự chấm dứt khổ đau.

Giáo huấn về Bốn Chân Lý Cao Quý được đặt nền tảng trong kinh nghiệm của con người.  Nền tảng sự tồn tại của con người là khát vọng căn bản cho sự tìm cầu hạnh phúc và xa tránh khổ đau.  Hạnh phúc mà chúng ta khao khát và khổ đau mà chúng ta lãng tránh được mang đến như một kết quả của nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên).  Sự thấu hiểu cơ cấu nhân quả của khổ đau và hạnh phúc là những gì mà Bốn Chân Lý Cao Quý đề cập đến.


Để thấu hiểu cơ cấu này, Đạo Phật phân tích những khả năng đa dạng của nhân quả.  Thí dụ, người ta có thể tranh luận rằng những trãi nghiệm của chúng ta về khổ đau và hạnh phúc xãy ra mà không có lý do gì, không có một nguyên nhân nào.  Đó là một khả năng đã bị phủ nhận trong giáo lý nhà Phật.  Cũng có một khả năng là những trãi nghiệm của chúng ta được tạo nên hay làm ra bởi một thần thánh siêu nhiên nào đấy.  Khả năng này cũng bị bác bỏ trong Đạo Phật.  Cũng có một khả năng của một nguyên lý cơ bản về một loại vật chất nguyên sơ nào đấy mà có thể là căn nguyên cho nguồn gốc tất cả mọi thứ và sự kiện.  Điều này cũng bị loại bỏ trong Đạo Phật.


Đã phủ nhận tất cả những khả năng siêu hình này, giáo huấn nhà Phật trình bày một sự thấu hiểu về tiến trình nhân quả trong dạng thức của cội nguồn tương liên duyên khởi.  Đấy là nói rằng, trãi nghiệm khổ đau và hạnh phúc của chúng ta không phải hình thành bởi chính chúng hay bởi những nguyên nhân nào đấy hiện hữu một cách độc lập, cũng không phải bởi sự phối hợp nào đấy của những thứ này.  Lập trường của Đạo Phật là tất cả mọi vật và mọi sự kiện, bao gồm kinh nghiệm của chúng ta về khổ đau và hạnh phúc, hình thành từ một kết quả của một tiến trình của tương liên duyên khởi – sự gặp gở của vô số nguyên nhân và điều kiện (nhân duyên).






Kính Thầy, 
 
Con cảm ơn Thầy dành thì giờ chỉ dạy cho hai bài trước. Con học Phật rất nhiều qua những bài vỡ trên mạng  của các chùa lớn và trên youtube. Như Thầy nói có hơn 90% Thầy không hiểu đúng đạo Phật, nên con rất ngại về những bài viết của con phổ biến trên báo cho hằng ngàn độc giả.

VP.PHTQ: Người tu theo Phật (tại gia & xuất gia) có 2 hạng:
1. Cầu phước: tuyệt đại đa số, hiểu chút ít giáo lý, đa số hành sai chánh pháp do các sư thiếu căn bản tu học. Các bài viết của quí ĐH nhằm giúp hạng này hiểu biết thêm căn bản giáo lý một cách sâu rộng hơn thì rất quí, không có đáng ngại.
2. Cầu giải thoát: một số nào đó phát tâm tìm hiểu cốt tủy của đạo Phật, giác ngộ được chân ký, hoan hỷ tiến tu đúng chánh pháp, không mê tín dị đoan do bản ngã sinh ra. Chằng hạn như: cầu vãng sanh cực lạc bằng câu niệm Phật om sòm, xông tới các đám tang, đòi gia chủ phải cho họ giúp người chết được vãng sanh. Tào lao. Họ là hạng gì? tại gia hay tại chùa mà mê tín hại người quá đáng, phi chánh pháp.

Đức Lạt Lai Lạt ma khuyên phật tử nên có một vị Thầy "bổn sư" của mình. Lúc con ở Dharamsala, Băc Ấn Độ, con thấy quý vị sư Tây Tạng rất kính Thầy của họ. Khi thưa điều gì với Thầy, họ quỳ lạy rất trân trọng trước rồi mới thưa. 

VP.PHTQ.: chư tăng ở các chùa VN cũng lễ phép như vậy. Đó là qui củ của thiền môn nghiêm tịnh.
Con rất muốn có một vị Thầy  "bổn sư" nhưng không có. Con quy y với Thầy Thanh Từ ở Chùa Hoa Nghiêm VA gần nhà,nhưng Thầy đi Mỹ rồi về VN. Thâỳ ở chùa gần nhà con là một Thiếu Tá trong Quân Đội, qua đây gia đình có nhiều người con bị mất trên đường vượt biển, nên ông tu. Thầy có trình độ văn hóa, và đạo đức, nhưng con nghĩ không thể trả lời những thắc mắc của con về đạo, và thế giới tâm linh.

VP.PHTQ.: Đùng vội tìm Thầy Bổn sư. Bệnh của thời đại là tôn sùng một vị Thầy, bởi do danh tiếng của vị đó, như Thầy Thanh Từ, Thầy Nhất Hạnh,.. Việc hệ trọng chính là phát tâm nghiên tầm giáo lý qua 3 bước:
1. văn (nghe, đọc)
2. tư (suy nghĩ thật chín chắn)
3. tu (thực hành trong đời sống hàng ngày)
Quí ĐH đã qui y với Thầy Thanh Từ. Đó là đại phước duyên. Nên phát huy theo hướng: tìm nghe, tìm đọc các bài viết của Thầy Thanh Từ, theo thứ tự: các bài riêng rẽ trước theo từng đề tài (đề bài).
Sau đó, khi thực sự đã nắm vững giáo lý căn bản, quí ĐH bước thêm bước nữa, quan trọng hơn: đó là bài giảng hay các băng giảng của Thầy Thanh Từ.
Khi nào quí ĐH bật khóc, hay bật cười thoải mái nhận ra rằng mình đã thoát khỏi cái vỏ vô minh (ngu si, u mê) từ bấy lâu nay. Kể từ đó, gọi là ngộ đạo, quí ĐH sẽ đi đúng đường (chánh đạo) do nắm vững chánh pháp (lý thuyết).

Như con thưa với Thầy, con hiện viết cho một magazine ở Mỹ, mỗi tuần xuất bản 25 ngàn tờ ở Miền Đông và Miền Tây Hoa Kỳ. Chuyện của con là chuyện đời thường của người bình dân để thu hút độc giả có trình độ thấp như thợ nail, trong lúc chờ khách họ đọc để giải trí. Họ không thích đọc bài  nghiên cứu cao xa, khô khan..Con nghe chủ nhiệm báo nói độc giả thích độc chuyện của con lắm. Ông cảm ơn sự đóng góp quý giá của con. 

Con mong Thầy dành chút thì giờ giúp con, để con viết, phổ biến đúng chính pháp đến nhiều người. 
Tuyết Mai.

VP.PHTQ.: Chư Tăng hoan hỷ giúp qúi ĐH trong việc chuyển tải chánh pháp lồng trong các câu chuyện đời thường giúp đại đa số người có duyên với chánh pháp, nhưng vì sanh kế chưa đến chùa được.
Chính nhờ họ chưa đi chùa thường nên họ chưa ngộ độc do các Thầy chỉ cạo cái đầu mà chưa biết cạo cái tâm, chưa nắm vững giáo lý, chưa thực tâm tu học, chỉ coi đi tu như một cái nghề kiếm sống, cái chùa như một cái business không vốn nhiều lời, nhất bổn vạn lợi, ăn trên ngồi trước, nguy hại vô cùng cho bá tánh nhắm mắt tin tưởng vào hình tướng đầu tròn áo vuông của các vị đó.


   NGÀY NAY CÁC SƯ CÓ NÊN CA HÁT KHÔNG?

Ngày nay, xã hội phát sinh nhiều phương tiện đáp ứng cho nhiều nhu cầu mà hàng ngàn năm trước chưa có, những phát sinh giúp ích cho cuộc sống mà lắm khi cũng làm băng hoại xã hội; riêng về âm nhạc, đã xuất hiện từ xa xưa, có những loại nhạc cộng đồng, nhạc lễ tôn giáo, nhạc cung đình…có loại nhạc mang tính văn hóa giáo dục, cũng có loại mang tính kích động…



Bản thân âm nhạc không tốt cũng chẳng xấu, giá trị âm nhạc còn tùy thuộc nội dung, ca từ, tiết tấu và thời điểm xuất hiện, nhân cách diễn xuất, địa điểm trình diễn. Ví dụ nhạc Trịnh đem hát nơi đám ma do các Gay trình diễn thì giá trị sẽ khác nơi phòng trà, quán nhạc và hội diễn công cộng.

Ở đây, liveshow đêm: “Pháp Như - Nhạc Trịnh và Phật Giáo” tại quán nhạc Diễm Xưa, nói lên tầm vóc trang trọng hơn, nghệ thuật hơn, và đặc biệt hơn là do một Tăng sĩ  trình diễn. Vậy xoay quanh vấn đề một Tăng sĩ xuất hiện trên sàn diễn với nhạc đời tuy ca từ mang tính triết lý Phật giáo, quần chúng lúng túng xác định vị thế của một tu sĩ trong thời đại hiện nay mà từng xảy ra quá nhiều tai tiếng trước công chúng và giới luật nhà Phật.

Xưa kia, khi mà xã hội chưa quần chúng hóa âm nhạc, tu sĩ chưa gắn kết chặt chẽ trong sinh hoạt thường nhật với xã hội, Tăng đoàn đức Phật sinh hoạt có quy củ trong tu viện, ngoài giờ đi bát và du hóa hoằng pháp, không  đi ra khỏi địa giới thiền viện và không la cà vào thôn xóm, sau nhiều thế kỷ Phật nhập diệt, tu sĩ không chung sống trong Tăng đoàn thì cũng ẩn cư nơi non cao núi thẳm, tất cả vì mục đích nhắm tới là giải thoát hiện tiền, thoát luân hồi sinh tử. Chính vì thế mà luật giới chế ra để giúp tự thân hành giả thoát mọi nhiễm ô phiền trược, không bị phóng tâm dính mắc.

Xã hội ngày nay, một số bậc chân đức quyết tâm không trở lại tam giới sau khi xả bỏ thân này, các ngài ẩn cư, cắt đứt mọi giao tiếp thế tục không cần thiết. Tuy nhiên, đại bộ phận còn ở phố thị, nhiệm vụ hoằng pháp quan trọng hơn cho chính bản thân mình, nên tự nguyện hòa nhập vào cuộc sống dưới nhiều hình thức, dụng thế gian pháp để đưa con người đến với Phật pháp, trong đó có âm nhạc.

Điều quan trọng là dụng thế gian pháp như thế nào để khỏi bị phản tác dụng như chủ đề quảng cáo trên đây. Chùa Hoằng Pháp cũng dùng âm nhạc để truyền bá rất thành công, bởi vì suốt bốn tập “Diệu âm hoằng pháp” của chùa không hề có bóng dáng tu sĩ xuất hiện trên sàn diễn. Nhạc lễ như Tây Tạng sử dụng để nâng tầng sóng tâm thức lên một đẳng cấp tâm linh trong buổi cầu nguyện, và nhạc lễ Phật giáo Việt Nam cũng từng xuất hiện trong các lễ thường nhật mà Phật giáo Huế là chiếc nôi đặc trưng.

Dùng ca sĩ thế tục truyền đạt nội dung vẫn hiệu quả hơn một ca sĩ xuất tục mà chiếc áo thầy tu chưa quen mắt với quần chúng ở những nơi trần tục. Không  thiếu những ca sĩ bỏ nghề để chọn con đường tâm linh, thì ngược lại một tăng sĩ đam mê bỏ quên tâm linh để bước vào nghề ca xướng!

Một số đạo tràng, để giúp vui và khích lệ trong thời gian tu tập cho quần chúng, một vài thầy cô cũng trình bày những nhạc đạo mà không ai phản bác, nghĩa là  âm nhạc xuất hiện trong môi trường thích hợp với chiếc áo thì có tác dụng nhất định, ngược lại sẽ bị phản tác dụng nếu ở một  diễn trường công cộng gồm nhiều thành phần tin ngưỡng, trình độ khác nhau, mà nhất là diễn trường đó thường xuyên diễn xuất văn nghệ  mang tính trần tục.

Đây là lý do thầy Pháp Như bị "ném đá" và chương trình bị chỉ trích. Nhạc Trịnh Công Sơn cũng từng được ca ngợi trên văn đàn học thuật nhà chùa, ngay cả Đạo tràng Mai Thôn, Thiền sư Nhất Hạnh cũng từng phân tách tinh thần Phật giáo trong nhạc Trịnh, thế thì quần chúng phản đối không phải vì âm nhạc mà vì một Tăng sĩ trình diễn âm nhạc nơi không thích hợp với chiếc áo và cái đầu.

Âm Nhạc chỉ là một trong nhiều bộ môn nghệ thuật, như võ thuật, thư pháp, hội họa, trà đạo…Thế gian pháp tức Phật pháp có nghĩa biết chuyển hóa những pháp thế gian theo chiều hướng tâm linh chứ không phải tâm hồn chạy theo thế gian pháp tỏ ra xuất chúng như một chuyên nghiệp.

Các Tăng sĩ trẻ gần đây thể hiện tài năng và sở thích một cách cuồng nhiệt mà quên cả luật giới, hình ảnh và vị thế của mình trong xã hội. Mong rằng nghệ thuật nâng cao tâm thức tu sĩ, nhưng tu sĩ không nên thể hiện nghệ thuật

SƯU TẦM




Hàng ngàn người

đổ xô đi xem ổ mối

hình Phật

Bình Dương - Ngày 30/6 tại vườn cao su thuộc Nông trường Cao Su huyện Bến Cát, công nhân nông trường trong khi cạo mủ đã phát hiện một gò mối có hình dáng giống Đức Phật đang ngồi thiền.
Gò mối này cao khoảng 40cm, có hình dáng như tượng Đức Phật Thích Ca đang trong tư thế tọa thiền. Ngay sau khi "điều kỳ diệu" này được phát hiện, hàng nghìn người dân tại địa phương và các tỉnh lân cận đã kéo nhau đến đốt hương cúng vái.

Chị Hoàng Thị Minh, người dân ấp Rạch Bắp xã An Tây huyện Bến Cát cho biết: "Đây quả là hiện tượng lạ không biết sao lý giải. Tôi nghĩ có thể đây là điềm lành đến với người dân nên ai cũng muốn ra đây để chiêm bái".

Để bảo vệ gò mối có hình Đức Phật một số người dân tại địa phương đã giăng dây rào để tránh bị phá hoại. Tuy nhiên càng về chiều số lượng người hay tin tìm đến ngày càng đông, gây mất trật tự cả một vùng.

Trước tình hình đó đến 15h cùng ngày, chính quyền địa phương đã nhờ Ban Đại diện Phật giáo huyện Bến Cát dời "hình tượng" này về ngôi chùa tổ Long Hưng, xã Tân Định trong huyện để cho mọi người chiêm bái, đảm bảo an ninh trật tự tại địa phương. []

Theo Thiện Hưng - Hoài Lương (DT)

Lời bàn: Đạo Phật truyền bá tại Việt Nam hàng ngàn năm, trở thành tín ngưỡng phổ cập trong dân gian. Người theo đạo Phật, đạo giác ngộ và giải thoát, cần nên tìm hiểu giáo lý, có chánh kiến và chánh tín, để áp dụng trong đời sống hàng ngày, tránh sự mê tín dị đoan thường thấy ở trong nước và ngay ở hải ngoại.

Nhiều người cứ tưởng rằng chỉ có giới bình dân trong nước, vì ít học, nghèo khó, khi gặp bệnh tật không đủ tiền chạy chữa, hoặc khi gặp hoàn cảnh khó khăn, trắc trở, mới tìm đến các ông bà thầy bói, thầy rờ, thầy mò, thầy pháp, chữa bệnh tuy nói không lấy tiền, nhưng vẫn nhận của tùy hỷ.

Không ngờ, người trí thức thế gian, tuy có bằng cấp, có địa vị trong xã hội, nhưng không chịu tìm hiểu chánh pháp của đạo Phật, cho nên vẫn bị vô minh chi phối. Bản ngã  càng cao, con người càng ích kỷ, chỉ biết lo cho mình, gia đình mình, nên cầu nguyện khấn vái lung tung, cũng vì mình!

Tệ hại hơn nữa, các vị tuy mang hình tướng tu sĩ, hoặc cư sĩ Phật giáo, nhưng vì lợi dưỡng, vì phe nhóm bênh vực nhau, bất kể đạo lý, vẫn hùa nhau truyền bá, bênh vực các hiện tượng mê tín dị đoan, trên các trang nhà Phật giáo.

Đối với chánh pháp nhà Phật, các hiện tượng lạ, kỳ bí, người đời cho là điềm lành, cho là linh thiêng, chẳng có nghĩa lý gì cả, bởi chẳng có ích lợi gì cho việc tu tập để được giác ngộ và giải thoát. Chẳng hạn như hoa mạn đà la, xá lợi, hào quang trên nóc chùa, trên đỉnh tượng bồ tát chỉ linh thiêng đối với các nhà sư và dân mê tín mà thôi! []


CHUYỆN TRONG ĐỜI


-        Chị Hai à! Tôi thương nhớ con gái tôi quá chừng, mà thằng rể tôi nó không chịu dẫn vợ con nó về thăm tôi thường. Chị nghĩ xem có tức không chứ ?!

-        Chị Ba ơi! Tôi nói điều này chị nghe nha. Chị thương con gái, thì chị nên thông cảm thằng rể, thông cảm con gái của chị luôn. Chúng nó sống với nhau có hạnh phúc, êm ấm, thì chị mừng cho chúng nó. Bấy nhiêu đó đủ rồi, đừng đòi hỏi hơn nữa, ảnh hưởng tới hạnh phúc gia đình của con gái, chắc chị đâu muốn, phải không?

-        Ờ hén! Chị giải bày hay quá, tôi hiểu rồi. Như vậy mới thiệt là tôi thương con gái tôi há! Trước đây, tôi nghĩ tới tôi nhiều quá, may là chưa xảy ra chuyện gì không hay. Cám ơn chị hai nhiều lắm lắm, nha! []

PHÁP MÔN NIỆM PHẬT

TÌM HIỂU:

-        Tu theo pháp môn tịnh độ chỉ cần biết 6 chữ: NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT.

-        Thế thì mình có cần học giáo lý đạo Phật không?

-        Không, học giáo lý chỉ loạn tâm thôi!

-       Không thể đơn giản hóa đạo Phật đến thế! Ngoài 6 chữ niệm Phật ra chẳng còn biết gì khác sao?  Nói như thế chỉ là ngụy biện cho tánh lười biếng, không chịu học hỏi giáo lý thì làm sao biết được những điều hay, quí báu đức Phật dạy trong kinh điển?

Đức Phật ra đời, tu hành, đắc đạo, thuyết pháp. Chánh pháp ghi lại trong kinh điển để làm gì?  Mình không học hỏi làm sao biết cách thực hành cho đúng Chánh pháp, khỏi nhầm tà pháp, khỏi lạc tà đạo, làm sao biết đâu là đúng, đâu là sai, đâu là thiện, đâu là ác? 

Hơn nữa, niệm Phật hay ngồi thiền chỉ là phần thực hành,  công phu hành trì, để định tâm. 

Người phát tâm tu hành nhất thiết phải cần phần lý thuyết, tức là phải học hỏi giáo lý.

Không thấm nhuần giáo lý, khi gặp trắc trở trên đường đời, cũng như trên đường tu tập, làm sao biết đức Phật dạy ứng xử, đối phó như thế nào cho phải đạo, cho đúng Chánh pháp.    Tóm lại, sách có câu:

Muốn tu thì phải học
Muốn đọc phải biết chữ.
----------------------------------------------------------------


NGUỒN GỐC CỦA SỰ MÊ TÍN
LÀM SAO TÌM THẤY PHẬT
KHOA HỌC VÀ KIẾN THỨC TRONG PHẬT GIÁO
CON CHIM TRONG BÀN TAY
TÌM HẠNH PHÚC Ở ĐÂU
THƯ NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 20
THUYẾT TRÌNH VÀ HỘI THẢO CHƯƠNG TRÌNH ĐI TÌM HẠNH PHÚC
PHẬT PHÁP TRỊ TÂM BỊNH CỦA CHÚNG SINH
HẠNH PHÚC NHỜ BIẾT BUÔNG XẢ