Friday, 1 July 2011

*** BÀN VỀ THIỆN VÀ ÁC (PHTQ SỐ 11)

 

Thích Chân Tuệ


Theo từ điển, ác có nghĩa là hành động, lời nói hay ý nghĩ xấu, thường gây tai họa, đau khổ cho chính mình, cho người khác, hoặc cho cả hai, khiến người lánh xa, không ưa thích, có tác dụng xấu, bất lợi, đem đến hậu quả khó lường.

Thiện có nghĩa là hành động, lời nói hay ý nghĩ tốt, thường đem lại an vui, hạnh phúc cho chính mình, cho người khác, hoặc cho cả hai, khiến người thương mến, thích thân cận, có tác dụng tốt, đem đến kết quả mong đợi. Tuy nhiên ranh giới giữa thiện và ác lắm khi không rõ rệt, có thể dễ bị hiểu lầm. 

Chẳng hạn như một vị thầy dạy văn, dạy võ, dạy nghề, hay dạy đạo, thường hay quở trách, la rầy học trò, xem qua có vẻ ác nhưng thực chất là việc thiện lành, vì đem lại tương lai cho đệ tử.


Trái lại, có người ăn nói nhỏ nhẹ, vui vẻ, hành động dễ cảm tình, trông qua có vẻ thiện, nhưng thực chất là việc xấu ác, vì làm hư người khác, dụ dẫn người khác vào chỗ sa đọa, mất hết tương lai. Sách có câu: Giáo đa tất oán. Ngọt mật chết ruồi, chính là nghĩa đó. 

Như vậy, muốn xét thiện hay ác, còn phải xét xem tâm con người muốn gì, khi hành động, nói năng hay suy nghĩ với mục đích gì. Người ngoài cuộc phê bình, phán xét đôi khi không chính xác, nên thận trọng. 

Làm sao biết rõ việc nào thiện, việc nào ác.  Có những điều mà ở thời buổi này, địa phương này, tôn giáo này, xã hội này cho là điều thiện; ở thời buổi khác, địa phương khác, tôn giáo khác và xã hội khác cho là điều ác.  

Trên cõi đời này, cũng có những người phát tâm xin tha, cho phạm nhân đã sát hại tàn nhẫn thân nhân của mình được khỏi tội chết. Tại sao như vậy? Bởi vì người đó, thấm thía hoàn cảnh, thấu rõ cảm giác của sự mất mát người thân thế nào, cho nên không muốn gia đình người khác, dù là phạm nhân, tức là kẻ thù lâm vào cảnh ngộ đau thương tương tự.

Thường thường chỉ có những người đã từng rơi vào hoàn cảnh khốn khổ thảm thương mới biết cảm thông, thương xót người khác.

Những người có tâm đại từ đại bi dường ấy mới có cuộc sống an lạc không có hận thù, không có phiền não và không khổ đau, đồng thời tạo được an lạc hạnh phúc cho mình cho người. 

Ðó là những người thọ Bồ tát giới, hành Bồ tát đạo, sống với tâm Phật, không sống tâm ma, luôn luôn cảnh giác, luôn luôn tỉnh thức. Ðó chính là những người biết sống với Chân Tâm Phật Tánh của chính bản thân.
Ngày xưa, vị Tổ sư thứ hai mươi bốn Aryasimha, trước khi bị vua Kế Tân chém đầu đã phát nguyện: Ngay khi đắc thành đạo quả sau này, người đầu tiên tôi sẽ độ chính là bệ hạ! Tại sao vậy? 

Bởi vì, có gặp tai nạn lớn lao, tai họa khủng khiếp, thậm chí mất mạng, mới có thể chứng minh trình độ tu tập, chứng tỏ quá trình tu chứng của con người.

Không phải chúng ta mong cầu khổ nạn đến để thử thách công phu tu tập của mình. Tuy nhiên, một khi khổ nạn xảy ra, do hiểu sâu nhân quả, chúng ta biết ngay: đã đến lúc phải trả nghiệp quả, từ nghiệp nhân, do chính mình tạo tác, từ nhiều kiếp trước hoặc kiếp này. 

Cho nên, chúng ta vẫn giữ được thái độ bình tĩnh thản nhiên, chấp nhận đền trả quả báo, mới là đáng quý, chứ van xin cầu nguyện có được gì đâu? Phân biệt thiện ác chỗ này chỉ làm loạn tâm mà thôi!

Mỗi thời đại lịch sử, mỗi xã hội, và có thể ngay trong mỗi con người, lại có cách phân biệt thiện ác khác nhau. Có người quan niệm: cái gì hợp với quyền lợi, với phong tục tập quán của ta là thiện, cái gì trái với quyền lợi, với phong tục tập quán của ta là ác. 

Thí dụ, trong xã hội chúng ta hiện nay, nhiều người đang tranh cãi, chưa có kết thúc về chuyện trợ tử, tức là giúp cho bệnh nhân hết cách chữa trị được chết mau chóng, là thiện hay ác, là hợp pháp hay phi pháp?

Thí dụ khác nữa, trong xã hội chúng ta hiện nay, nhiều người thường cho rằng các tôn giáo luôn luôn dạy điều tốt, điều thiện, điều lành.

Nhưng có vài tôn giáo tự cho rằng tôn giáo mình mới thực sự là thiện lành, công chánh, còn các tôn giáo khác là ngoại đạo tà giáo, là yêu ma quỉ quái, phải xa lánh và phải tiêu diệt. 

Cho nên trong việc hôn nhân, có tôn giáo nhân danh cái thiện của tôn giáo mình, ép buộc, cưỡng bách người theo tôn giáo khác phải cải đạo, mới chịu làm phép hôn phối, bất chấp nỗi phiền não khổ đau của hai gia đình và hai người muốn thành tựu hôn nhân và sống cuộc đời lương thiện. Trong trường hợp này, các chức sắc tôn giáo đó là thiện hay ác đây?
 
 Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
“Lấy oán báo oán,
  oán nghiệp chập chùng.
  Lấy ơn báo oán
  oán nghiệp tiêu tan”.

Bị người thù ghét dù thực vô cớ, vô lý quá chừng, chúng ta cũng đừng khởi tâm tức giận, nên hiểu nguyên do, hiểu sâu nhân quả, chắc chắn phải có nhân duyên đời trước, duyên cớ đời này, chỉ vì chúng ta không biết đó thôi. 

Chẳng hạn như là: lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn.

Cạnh tranh nghề nghiệp hay tâm ganh tị, đố kỵ gièm pha… đó cũng là những nguyên nhân dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu ta có dịp giúp đỡ được những người đó trong lúc họ gặp hoàn cảnh khó khăn, hay đang hoạn nạn, chúng ta có nhiều cơ hội hóa giải thù hận oán hờn, biến thù thành bạn.

Như vậy chắc chắn tốt đẹp hơn là tiếp tục tranh chấp, thù hận người ta, để rồi nơm nớp sợ bị trả thù, phập phồng âu lo, đời sống bất an, không lúc nào yên, làm sao sống nổi? 

Ông thiện và ông ác thờ ở trong chùa

Thông thường, làm ơn được coi là việc thiện, gây oán được coi là việc ác. Làm ơn giúp người thường được xem là việc thiện, nhưng giúp người làm chuyện gian dối, phi pháp thì nên xem là việc ác. 

Làm việc thiện nguyện, thiện chí, công quả thường được xem là việc thiện, nhưng gặp trở ngại, khó khăn hay gặp kẻ ác gây rối, phá hoại, bèn khởi vọng tâm tức giận, la lối, mắng chửi, trở thành thô tháo, bất thiện.

Ấn tống kinh sách, băng giảng thường được xem là việc thiện, nhưng nội dung kinh sách hay băng giảng đó không phải là chánh pháp, là tà pháp, thì nên xem là việc ác. 

Chúng ta cần thận trọng khi góp phương tiện hay công sức, in ấn phổ biến các loại gọi là kinh sách hay băng giảng, mà mình chưa biết rõ nội dung, chưa biết chắc là chánh pháp hay tà pháp, như vậy đắc tội không phải phước, gây oán không phải ơn, tạo ác không phải thiện! 

Một người có tuổi phát nguyện vô chùa tu tâm dưỡng tánh là việc thiện, nhưng bất hiếu bỏ cha mẹ vô chùa khi tuổi xế chiều bệnh hoạn không chăm sóc, thì phải xem là việc bất thiện, vô lương tâm, nếu không muốn nói là việc ác.

Bởi vậy cho nên khi làm việc thiện, việc phước mà khởi vọng tâm, khởi tâm sân, khởi tâm kiêu mạn phách lối, thiện biến thành ác! Tu hành cần quan tâm thiện ác, luôn quán sát hành động, lời nói và ý nghĩ của mình không làm tổn hại, gây đau khổ cho người khác vì tâm tham, tâm sân và tâm si.

Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy:

“Chư ác mạc tác.
  Chúng thiện phụng hành.
  Tự tịnh kỳ ý.
  Thị chư Phật giáo”.

Nghĩa là:

“Không làm các điều ác
   Hãy làm các hạnh lành.
  Giữ tâm ý thanh tịnh. 
   Là lời chư Phật dạy”.

Chúng ta thấy rõ chủ yếu của đạo Phật là chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện và thanh lọc tâm cho thanh tịnh.  Cho nên đạo Phật chủ trương chuyển hóa người ác thành người thiện, chuyển hóa phàm nhân thành thánh nhân, chuyển hóa phân rác thành hoa tươi, chuyển hóa nước đục thành nước trong, chứ không chủ trương tiêu diệt tất cả kẻ ác trên đời. 

Bông sen từ bùn nhơ vươn lên tỏa hương thơm ngát là ví dụ tượng trưng cụ thể người xấu cũng có thể chuyển hóa thành người tốt, nếu như biết sám hối ăn năn, quyết tâm chuyển ba nghiệp xấu ác, trở thành ba nghiệp thanh tịnh. 

Trên đời không ai hoàn toàn xấu ác, cũng không ai toàn thiện, cho nên người tu theo Phật cố gắng biết các điều ác nên bỏ, biết các việc thiện nên làm. Được như vậy, mọi người trong xã hội sống chung trong hòa hợp, bình an, và ngăn ngừa các mâu thuẫn, xung đột giữa người với người. 

Tuy nhiên sự khác biệt của đạo Phật với các tôn giáo khác nằm ở câu kệ thứ ba: "Giữ tâm ý thanh tịnh". 

Con người đang tu tập chưa biết "bỏ ác làm thiện" được hoàn toàn chưa, thường vội tự hào cho mình là người thiện, người tốt, người lành, bèn khởi tâm tự đắc đó là vọng tâm, chưa phải minh tâm.

Nếu tâm mình còn nổi sân khi thấy chuyện bất thiện, chuyện chẳng lành trên thế gian, khởi vọng tâm, vọng niệm muốn trừng phạt nặng nề kẻ xấu ác, thậm chí đòi tiêu diệt tất cả kẻ ác trên đời, ước mơ phải chi mình có võ công xuất chúng, có quyền thế vô song, để tung hoành ngang dọc giang hồ với đường kiếm tuyệt luân chém gục hết bọn xấu ác, thì lúc đó không biết: ai ác hơn ai? ...

Bởi vậy cho nên tu theo đạo Phật cốt yếu là luôn luôn sống với bản tâm thanh tịnh, có nghĩa là lúc nào cũng niệm Phật tức là niệm thiện, không khởi niệm ma tức là không khởi niệm ác, không khen mình khinh người, không lợi mình hại người, niệm Phật phải gắng tu, không chạy theo vọng tâm vọng niệm, tự thanh lọc tâm ý mình, cho được minh tâm kiến tánh.

Tu thiện nghiệp hay tu cầu phước, tức là mình đang gieo nhân lành, mình sẽ gặt quả lành, được hưởng phước báu nhân thiên, chứ chưa giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Còn chấp chuyện làm phước phải hưởng phước, niệm Phật phải vãng sanh, cúng đèn được hưởng sáng suốt, cúng hoa được hưởng sắc đẹp, như vậy tâm mình vẫn còn vọng động, bởi dính mắc tâm tham, thi ân còn cầu báo, cho bánh ít đi mong bánh quy lại, nên tâm chưa thanh tịnh, chưa được minh tâm làm sao kiến tánh? 

Muốn thanh tịnh được tâm ý, con người phải vượt qua sự chấp thiện và ác. Tuy vẫn cứu người giúp đời, vẫn làm việc phước thiện, vẫn niệm Phật chuyên cần, vẫn thường xuyên cúng hương đăng hoa quả, vẫn tinh tấn công quả cúng chùa, vẫn nhất tâm kính lễ tôn tượng đức Phật với tâm kính ngưỡng.

Noi gương chư Phật, chư Tổ, nhưng không mong cầu bất cứ điều gì cho bản thân, cho thân bằng quyến thuộc, như thế bản ngã mới dần tiêu mòn, chuyện khổ vì cầu bất đắc không còn. 

Mình không cố chấp thiện và ác, để khỏi khởi vọng tâm chấp kính trọng người thiện, khinh khi kẻ ác, chứ không phải chẳng phân biệt thế nào là thiện, thế nào là ác, như một ít người lầm tưởng.

Vượt qua được sự cố chấp thiện và ác tức là mình thoát khỏi sự trói buộc của thiện nghiệp và ác nghiệp, mới đi đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn.

Trong sách có câu: "Giáo đa tất oán". Nghĩa là dạy nhiều sinh thù oán. Trong đạo cũng như ngoài đời, thường khi những người có lòng, muốn chỉ dạy nhiều cho thế hệ sau, muốn truyền dạy tất cả những điều cần thiết, muốn những người nối dõi đạt được những thành tích khả quan.

Tuy nhiên, chính vì muốn quá nhiều như vậy cho nên chỉ dạy quá nhiều, kỷ luật nghiêm khắc, rèn luyện khổ công, kiểm soát chặt chẽ, sách tấn thường xuyên, nhiều người thế hệ sau chẳng những đã không biết ơn, đã không hiểu thấu tấm lòng của thế hệ trước, trái lại còn sanh tâm oán trách, hờn giận, tệ hơn nữa là sanh tâm thù hận. Ðúng là "làm ơn mắc oán" đó vậy!

Cổ nhơn có dạy: "Người chê ta mà chê phải tức là thầy ta. Người khen ta mà khen phải tức là bạn ta". Ðối với người đời, quan niệm này quả là kim chỉ nam cho bực quân tử trong việc xử thế ở đời.


Tuy nhiên, đối với người biết tu tâm dưỡng tánh, theo quan điểm của đạo Phật, người khác khen hay chê dù phải hay không phải, chúng ta đều tôn trọng họ như bực thầy lành hoặc bạn tốt. 

Còn hơn thế nữa, chúng ta nhìn họ như những bực Bồ-Tát. Tại sao vậy? Bởi vì, người giúp đỡ phương tiện cho mình tu tập, hoằng pháp lợi sanh, cũng như người chuyên phá rối, bằng hành động cũng như bằng lời nói, đều là bực "thiện hữu tri thức" của mình.

**Hạng người thứ nhứt được ví như Bồ-Tát thuận hạnh, chẳng hạn như thầy dạy học hay bạn hữu hằng giúp đỡ chúng ta, thường ban cho những lời khen thưởng thực tình, đúng lúc để khuyến khích, động viên tinh thần, hoặc chê trách hay quở phạt với tất cả tấm lòng từ bi, vì sự tiến bộ của chúng ta, chứ không vì bản ngã của họ. 

**Hạng người thứ hai được ví như Bồ-Tát nghịch hạnh, chẳng hạn như giám khảo trường thi hay trường đời. Những người này nhiều khi khen chê không phải lúc, không phải vì thiện tâm, lại có dụng ý, ác tâm, không phải vì chúng ta, mà vì bản ngã của họ.


Nhờ hạng người thứ nhứt, chúng ta có được sự hiểu biết, có được kiến thức, đạt được giác ngộ, vững tâm tu học, biết đường ngay lẽ phải để noi theo. Nhờ hạng người thứ hai, chúng ta có được bằng cấp ở đời, nếu vượt qua được sự khảo hạch và thi đậu, hoặc chúng ta biết được trình độ tu tâm dưỡng tánh của mình đã đến đâu, đạt được trình độ nào, chăn trâu tới giai đoạn thứ mấy.

Trong các ngôi chùa Việt thường có thờ tôn tượng của cả hai hạng người trên đây: tượng đức Hộ Pháp và tượng Tiêu Diện Ðại Sĩ. 

Tượng đức Hộ Pháp với khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, tay cầm kiếm trí tuệ cắt đứt phiền não, vượt qua khổ đau, đạp lên trên con rắn độc có ba đầu dưới chân, biểu tượng của tam độc: tham sân si, không phải là một vị, mà tượng trưng cho tất cả những người có công với Chánh Pháp, là hạng người thứ nhứt nói trên. 

Tiêu Diện Ðại Sĩ với khuôn mặt dữ dằn, lè lưỡi phun lửa máu, đầu có đội ba ngọn núi, khẩu phún xuất hỏa, đầu thượng tam sơn, không phải là một vị, mà tượng trưng cho tất cả những người có công giúp đỡ Chánh Pháp được sáng tỏ hơn, là hạng người thứ hai nói trên. 

Bởi vậy cho nên, chúng ta luôn luôn chân thành cảm niệm ơn đức của cả hai hạng người nói trên, đã giúp đỡ chúng ta tiến tu trên mọi phương diện.

Tóm lại, khi tu theo Phật, chúng ta không nên khởi vọng tâm, không nên khởi vọng niệm, không mong cầu được điều này, đắc điều kia, không cầu khẩn van xin khấn vái; trái lại phải nên hiểu sâu luật nhân quả, khai mở trí tuệ, hiểu suốt thiện ác. Nghĩa là, khi mình gieo nhân bỏ điều ác, làm việc thiện, tức là chúng ta có đủ phước báu thiện lành, chỉ cần khai mở trí tuệ giác ngộ, đạt bản tâm thanh tịnh, thì hưởng quả giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.
PHẬT A DI ĐÀ

Đó là mục đích chính của đạo Phật. Trong kinh sách có câu: Tam Nghiệp Hằng Thanh Tịnh Đồng Phật Vãng Tây Phương, chính là nghĩa đó vậy. Một điều cần biết thêm, trong kinh sách, chư Phật và chư Tổ có khuyên chúng ta, chỉ nên cầu nguyện đời đời được gặp Chánh pháp, tránh xa tà pháp, để tu hành đến khi giác ngộ và giải thoát, chớ không nên mong cầu đắc thần thông khi chưa đắc đạo. Tại sao vậy? 

Bởi vì, khi con người chưa đắc đạo lại đắc thần thông, thí dụ như đắc thiên nhãn thông hay thiên nhĩ thông, sẽ thấy được chuyện xảy ra cách xa ngàn dặm, nghe được chuyện xuyên sơn cách vách, thường là những chuyện bất như ý, những chuyện mích lòng, chắc chắn con người sẽ nổi tam bành lục tặc liền, vì chưa chưa đắc đạo, nên không nhẫn nổi.

Có thần thông trong tay, hay là hình thức quyền lực của thế gian, con người sẽ khởi bất minh tâm, dù là người tu nhưng chưa đắc đạo đòi tiêu diệt một vài thành phần bất thiện nào đó, hay nghĩ đến chuyện đánh gục hết lũ côn đồ ngang ngược hay bọn tham quan ô lại, xóa sổ tất cả những kẻ xấu ác trên đời, thế là hòa bình không còn, chiến tranh xảy ra, thiên hạ phiền não, chúng sanh khổ đau, hận thù tràn lan, bất ổn triền miên, tội ác chất chồng, than oán ngút ngàn.

Đạo Phật không chủ trương lấy thiện diệt ác. Đạo Phật chủ trương chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện, chuyển hóa ba nghiệp chưa thanh tịnh thành ba nghiệp thanh tịnh, chuyển hóa kẻ hung ác thành người lương thiện. Đạo Phật chủ trương đem lại niềm an lạc cho cá nhân, hạnh phúc cho gia đình và hòa bình cho xã hội.

Người tu theo đạo Phật phải trưởng dưỡng tâm từ bi, phát triển tánh sáng suốt, đạt minh tâm thì được kiến tánh, cho nên không gây thù hận, không có kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm hay hiểu lầm mà thôi. Cảm thông và thương yêu là cửa ngõ an lạc và hạnh phúc.
Từ bi và trí tuệ là yếu tố giác ngộ và giải thoát. 
Tất cả đều ở ngay trên thế gian này.


cutranlacdao@yahoo.com

 
Hãy Sống Với Tâm Biết Ơn
*********************
 
Hãy phát khởi Tâm biết ơn những người khiển trách ta
vì họ khiến cho Giới Định Tuệ của ta tăng trưởng.
Hãy phát khởi Tâm biết ơn những người làm cho ta vấp ngã
vì họ khiến cho ý chí của ta kiên cường hơn.

Hãy phát khởi Tâm biết ơn những người bỏ rơi ta
vì họ đã khiến cho khả năng của ta biết tự lập.
Hãy phát khởi Tâm biết ơn những người đối xử tệ với ta
vì họ đã khiến cho nhận định của ta rõ chánh tà.

Hãy phát khởi Tâm biết ơn những người lường gạt ta
vì họ đã khiến cho kiến thức của ta tăng tiến.
Hãy phát khởi Tâm biết ơn những người vô tình hay cố ý làm hại ta
vì họ đã khiến cho ta cơ hội tốt nhứt thực hành việc tu tập.
Hãy phát khởi Tâm biết ơn tất cả những người giúp ta tiêu tan bản ngã. 

VP.PHTQ.CANADA
Kính mời viếng thăm 
http://phtq-canada.blogspot.com/



Hỏi: 

Kính Bạch Thầy,

Con là Phật Tử ở Germany. Có vị Hòa Thượng thường phán người này được vãng sanh, ngay sau khi làm pháp sự cầu siêu cho người vừa lâm chung đó. Vị Hòa Thượng này vừa làm lễ kỷ niệm 50 năm tu hành, chắc Ngài đã đắc đạo, nên có thần thông biết được người nào được vãng sanh. Như vậy, Ngài phát ngôn có đúng chánh pháp chăng, và căn cứ vào kinh điển nào để xác định việc vãng sanh như thế?

Kính mong Thầy vì hàng Phật Tử u mê chúng con ban cho chánh pháp để giải mối nghi này.

Con cám ơn Thầy và quí Thầy PHTQ.CANADA đã giúp chúng con học hiểu chánh pháp từ trước đến nay.

Con, Phật tử Như Điển Germany.



Đáp:

Kính thưa quí Đạo Hữu,

Đúng như quí ĐH đã biết, tuyên bố người này được vãng sanh, người kia được vãng sanh, đó là ma thuyết, bởi không căn cứ vào bất cứ kinh điển nào cả.

Tu theo Phật là gìn giữ ba nghiệp được luôn thanh tịnh. 

Khi người nào giữ ba nghiệp hằng thanh tịnh thì người đó đồng Phật vãng tây phương.

Không người nào có thẩm quyền tuyên bố hay xác định   người này hay người kia đã được vãng sanh.

Vị tăng nào tuyên bố như vậy chỉ với mục đích thần thánh bản thân, gạt gẫm bá tánh nhẹ dạ, kiếm sự cúng dường hậu hỉ, đúng là ma tăng, dù vị đó ở trong chùa 100 năm, hay thuộc hàng giáo phẩm cao cấp bậc nhất.

Hiện nay, có phong trào niệm Phật vãng sanh, không cần kinh sách, do một cư sĩ ở Úc châu dùng tà thuyết, ma pháp gạt gẫm người không tu, hoặc biếng tu, nhưng muốn được vãng sanh về cõi cực lạc (tâm tham) để dẫn dắt những người đó vào ma đạo.

Kinh sách của Phật giáo, ghi lại những lời dạy của chư Phật và phương pháp tu tập để giải thoát, mà phong trào này chỉ biết dạy niệm Phật cầu vãng sanh, không cần kinh sách, thì đúng là ma giáo, chẳng phải Phật giáo đâu.

Vài hàng giải thích đơn sơ, kính mong quí ĐH tham khảo thêm nơi link:


llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll



Hỏi: 

Kính Bạch Thầy,

Con thấy hiện nay, có nhiều chùa tranh đua nhau làm LỄ TRAI ĐÀN BẠT ĐỘ CHẨN TẾ VONG LINH thu hút rất rất nhiều Phật tử và thu được lợi nhuận rất nhiều, bởi vì nhà nào cũng có thân nhân qua đời, vì nhiều lý do khác nhau.

Đã có nhiều Thầy lên tiếng cho Phật tử biết trai đàn đó là tà pháp, tà giáo, không phải Phật giáo.

Cho nên, hiện nay, nhiều chùa bày ra PHÁP HỘI ĐỊA TẠNG.

Tên gọi có khác, nội dung và hình thức y chang, nhưng được giải thích đó là theo Kinh Địa Tạng.

Kính xin quí Thầy PHTQ.CANADA từ bi giải thích cho Phật tử chúng con được biết PHÁP HỘI ĐỊA TẠNG có đúng chánh pháp chăng?

Chúng con xin tri ân hoằng pháp của quí Thầy và kính chúc quí Thầy tâm được kinh an, chúng sinh dị độ.

Kính,

con Phật tử Tâm Hòa.



Đáp:

Kính thưa quí Đạo Hữu,

Đúng như quí ĐH đã biết, các hình thức cúng kiến trai đàn

kiểu đó, dù tên gọi là gì, cũng là tà pháp, ma pháp truyền từ tà giáo, ma giáo bên tàu, trà trộn vào chốn thiền môn, khiến cho đa số nhầm tưởng đó là sinh hoạt Phật giáo.

Đối với Kinh Địa Tạng, người có học hiểu mới đạt được chánh pháp, bằng không sẽ hiểu sai lạc theo chiều hướng mê tín dị đoan.

Vài hàng giải thích đơn sơ, kính mong quí ĐH tham khảo thêm nơi link:
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll


NGHIỆP THIỆN NGHIỆP ÁC KHI LÂM CHUNG

Đại-Lão Hòa-Thượng
Thích-Thanh-Từ


Trong sử 33 vị Tổ có kể về một vị Tăng Ấn Ðộ, tôi không nhớ rõ tên.

 Một hôm Ngài đi khất thực ngang qua nhà ông Trưởng Giả. Nhưng ông Trưởng Giả đi khỏi. Trong nhà có con chó chạy ra sủa to. Ngài nhìn nó và quở: Ngươi bị bệnh tiếc của mà trở lại làm chó, đã không biết còn sủa om sòm. Nghe nói vậy, con chó buồn bỏ ăn.



Ông Trưởng giả về, thấy con chó cưng của mình bỏ ăn.
Ông liền hỏi lý do và được người nhà kể lại: Hồi sớm mai, có vị Sa Môn đi ngang, nó thấy liền sủa. Rồi không biết ông ấy nói gì với nó, từ đó nó buồn bỏ ăn.


Ông hỏi vị Sa Môn đó ở đâu và ông tìm gặp được Ngài.
Với tâm rất sân hận, ông hỏi: Hồi sáng ông nói gì mà con chó của tôi nó buồn đến bỏ ăn?



Ngài bảo: Ông đừng nóng, để ta nói cho ông nghe. Con chó đó là cha của ông.
Ông càng tức hơn, hỏi: Tại sao con chó đó là cha tôi?

Ngài nói: Nếu không tin, ông hãy về tìm ngay giữa giường nơi cha ông khi xưa ngủ, mà bây giờ là chỗ con chó hay nằm, ông đào xuống sẽ thấy ché vàng.


Vì khi cha ông chết, không kịp trối trăn lại với ông, nên bây giờ tiếc của mới sanh trở lại làm chó để giữ của.
Nếu không tin ta, ông về đào lên sẽ thấy.



Khi ấy, vị trưởng giả không còn lớn tiếng với Tổ nữa, mà trở về nhà đào chỗ Tổ đã chỉ. Quả nhiên ông thấy có một ché vàng.

Ông liền chạy tới xin Tổ cứu cha ông. Tổ khuyên nên đem của đó bố thí cho cha ông hết nghiệp. Trưởng giả nghe lời Tổ dạy liền đem ché vàng bố thí. Sau đó con chó chết.

Như vậy, vì tiền của nên trở lại làm chó để giữ của, đó là điều đáng sợ.

 Nên ở đây, tôi nhắn 3 điều cấm kỵ trước khi lâm chung. Phật Tử phải nhớ đừng để bao giờ xảy ra.


Tôi lập lại: điều thứ nhất là tâm sân giận, điều thứ hai là tâm oán thù, điều thứ ba là tâm yêu tiếc, tức là yêu con, tiếc của.

Nhớ đừng có 3 tâm đó mới khỏi đọa vào con đường khổ. Có 3 tâm đó là nguy hiểm.

 Nếu khi sắp lâm chung mà khởi tâm thiện thì sẽ được điều lành, điều tốt.



Tâm thiện là gì?



- Ðiều thứ nhất, khi sắp lâm chung phát tâm bố thí, giúp đỡ người nghèo, kẻ bệnh, mình có phương tiện tới đâu phát tâm tới đó.



- Ðiều thứ hai, đối với người Quy Y rồi, thì phát tâm cúng dường Tam Bảo, còn chưa Quy Y thì phát tâm Quy Y để thiện tâm tăng trưởng. Làm như vậy là đã hướng về điều thiện và sẽ đi theo con đường thiện.



- Ðiều thứ ba là phát tâm phóng sanh nghĩa là cứu các con vật bị người ta bắt và sẽ bị giết. Mình cứu nó bằng cách mua lại đem thả, hoặc tìm cách nào cứu con vật không bị chết.



Bố thí, cúng dường, phát tâm phóng sanh là tâm lành, nhờ phát tâm lành, tự nhiên lần lần chúng ta sẽ đi theo con đường lành. Ðó là những điều tâm nên khởi khi sắp lâm chung.

Người Phật Tử biết tu, khi sắp lâm chung, cần phải biết ứng dụng Pháp Phật dạy,
gìn giữ tâm mình luôn luôn đi đúng, không bị lệch lạc.

Ðối với người tu Tịnh Ðộ thì chuyên niệm Phật, không quên.

Lúc nào tâm mình cũng hướng về Phật không lơi lỏng, không nghĩ tới con, không nghĩ tới cháu, cũng không nghĩ tới tài sản gì hết.
Ðược như vậy thì sẽ theo Phật không nghi ngờ. Ðó là trường hợp thứ nhất.



Thứ hai, đối với người không chuyên niệm Phật,
mà thường hay xem kinh sách thì phải nhớ một bài kệ.
Chẳng hạn, nếu quí vị thường tụng Kinh Kim Cang, thì phải nhớ một bài kệ,
tức là: nhớ tới Pháp như nhớ tới Phật, niệm Phật vậy.

Chúng ta nghiên cứu kinh điển, học Pháp của Phật thì phải nhớ Pháp, như tụng bài kệ sau đây trong Kinh Kim Cang:



Nhứt thiết hữu vi pháp

Như mộng huyễn bào ảnh

Như lộ diệc như điện

Ưng tác như thị quán



Nghĩa là:



Tất cả pháp hữu vi

như mộng, như huyễn,

như bọt, như bóng,

như sương, như điện,

phải luôn luôn quán như thế.


Chúng ta tụng mãi bài kệ này thì tâm chúng ta được trong sáng, không kinh hoàng khi sắp lâm chung. Ðó là trường hợp thứ hai.

Trường hợp người biết tu Thiền, tâm được yên tĩnh phần nào, thì nhớ lúc sắp lâm chung, mình hằng sống với tâm thanh tịnh, đừng chạy theo vọng tưởng điên đảo.


Nghĩa là nhớ trong thân bại hoại này có cái không bại hoại. Nhờ vậy. chúng ta không kinh hoàng, không sợ sệt mà hằng sống với tâm bất sanh bất diệt của mình.

Thân này chẳng qua là tướng hư ảo, có đó rồi mất đó chớ không bền.
Chỉ cái thể chân thật của mình là thanh tịnh, không sanh không diệt muôn đời.
Ðó là chúng ta biết tu.



Trong ba trường hợp tôi kể trên, người tu niệm Phật thì chuyên niệm Phật, không nhớ chuyện đời. Người chuyên nghiên cứu Pháp thì nhớ bài kệ. Người tu Thiền thì nhớ ngay nơi mình có cái chẳng sanh chẳng diệt, hằng thanh tịnh, không có gì đáng sợ, không có gì đáng lo.



Người biết tu nhớ được những điều ấy không bị mê muội, không có gì sợ hãi, ra đi êm ái nhẹ nhàng.

Bây giờ tôi nói tới hậu sự,
tức là việc sau khi mình chết. Nhiều vị nghĩ rằng, khi mình chết phải trối trăn lại với con cháu làm thế này, làm thế kia. Ðiều đó dư.
Tại sao?


Bởi vì thân này do tứ đại hòa hợp mà thành, chúng ta sống cũng mượn tứ đại mà sống, uống nước giúp cho thủy đại, ăn giúp cho địa đại, thở giúp cho phong đại v.v...
Như vậy bốn đại đó nhờ vay mượn bên ngoài mà tồn tại. Ðến khi chết là không vay mượn nữa thì trả về cho tứ đại. Tứ đại trả về cho tứ đại thì chỗ nào cũng là tứ đại hết.


Tại xứ người, tứ đại cũng là tứ đại, ở quê hương mình thì tứ đại cũng là tứ đại.
Ðừng nghĩ bỏ thân ở xứ người là thiệt thòi. Thiệt thòi nhất là cái tâm, tinh thần của mình ra đi mà không sáng suốt, đó mới thật thiệt thòi. Còn thân tứ đại này bỏ ở đâu cũng được hết.


Người ta hay nói, thân này là thân cát bụi, khi chết trả về cho cát bụi, chứ không phải trả về xứ mình thành vàng thành ngọc gì, cho nên đừng quan trọng nó.



Thân này để con cháu giải quyết bằng cách nào thuận lợi nhất thì tốt, mình khỏi cần dặn dò gì hết. Dặn dò bắt buộc nhiều khi làm con cháu phải lúng túng. Thí dụ nơi đó không có lò thiêu mà bảo phải thiêu, trong khi có đất chôn mà không chịu chôn.
Hay ngược lại, chỗ đó không có đất chôn mà có lò thiêu, mình lại không chịu, nói thiêu nóng lắm, phải tìm đất chôn.


Như vậy con cháu lo sợ không biết tìm đất đâu mà chôn, càng làm cực khổ cho người sống chớ không có ích lợi gì.


Ðã là thân tứ đại, hoại rồi thì còn biết gì nữa mà sợ nóng, còn biết gì nữa mà đòi đem về quê hương. Biết chăng là cái tinh thần, là cái tâm của mình.
Do đó quí vị đừng có lầm lẫn thân này trở về quê hương mới tốt. Nghĩ như vậy là sai lầm.

Chính cái tâm của chúng ta, tâm lành thì đi tới chỗ tốt, điều đó mới quan trọng.
Ðó là những lời nhắc nhở để quí vị biết sau khi chúng ta có trăm tuổi không làm phiền hà con cháu.


Tôi chỉ nói một phần ngắn cho quí vị biết khi đau, bệnh, già và sắp lâm chung.

Theo đó quí vị có hướng lựa chọn, đừng bị tâm phàm tục làm cho mình đau khổ ngay hiện tại và kéo dài sau khi lâm chung.


Ðó là những điều thiết yếu. Mong rằng tất cả quí Phật Tử nghe rồi, khéo ứng dụng để tự cứu mình, đó cũng là lời Phật dạy cho chúng ta thoát khổ. []



Thiền viện Thường Chiếu

1996





TÙY DUYÊN

Mọi việc trên đời này đều tùy duyên.
Việc gì đến - đúng lúc - đúng ngày giờ - đủ duyên - nó sẽ đến.

Tu tâm sẽ đưa con người đến chỗ ngộ đạo (giác ngộ). Khi đạt giác ngộ, con người sẽ giải thoát phiền não khổ đau và được an lạc hạnh phúc. Đạt được bao nhiêu giác ngộ, con người sẽ giảm nhẹ bấy nhiêu phiền não khổ đau. Cũng như mây đen tan biến bao nhiêu, mặt trời tỏ rạng bấy nhiêu.

Mây đen ví dụ cho phiền não. Mặt trời ví dụ cho trí tuệ sẵn có của con người. Con người ai ai cũng có trí tuệ, nhưng do phiền não che lấp, con người trôi lăn trong tâm tham sân si không nhận ra trí tuệ của mình mà thôi. Khi con người bớt phiền não, thì trí tuệ sẽ sáng ra. Điều này không do cầu nguyện mà được.
Làm sao biết mình giác ngộ (ngộ đạo) hay chưa?

Khi ngộ đạo, con người sẽ bật khóc vì xúc động, tâm tư bàng hoàng, không ngờ đạo ở ngay trước mắt, ở ngay trước mặt, tự bấy lâu nay, mà mình không hay, không biết, không nhận ra đó thôi. Đồng thời con người sẽ cảm thấy hoan hỷ, như chưa từng hoan hỷ.

Trái cây (quả) đủ ngày tháng thì sẽ chín tới, không thể sớm hơn hay muộn hơn. Gieo nhân nào thì gặt quả nấy. Đó là cách tu nhân tích phước, tích đức, để chuyển hóa cuộc sống của mọi người.

Thí dụ: Hôm nay, phát tâm ấn tống kinh sách để truyền bá chánh pháp, giúp người khai ngộ, thì chính mình là người được khai ngộ trước tiên. Quả báo phước lành đến ngay khi phát tâm, tuy chưa kịp hành động gì cả. Con người nên hiểu rõ đâu là chân lý, đâu là chánh pháp, để ứng dụng trong cuộc sống hàng ngày.[]

BBT.PHTQ.CANADA




ĐỪNG TỰ LÀM TỔN THƯƠNG CHÍNH MÌNH

Một đêm một con rắn trong khi đang tìm kiếm thức ăn, bò vào một xưởng mộc.

Người thợ mộc vốn khá bừa bộn, đã để lại một số dụng cụ nằm trên sàn nhà, trong số đó có một cái cưa.
Khi con rắn bò lòng vòng trong xưởng, nó trườn qua cái cưa, và bị một vết cắt nhỏ.
Ngay lập tức, nghĩ rằng cái cưa đã tấn công mình, nó quay lại và cắn thật mạnh vào cái cưa khiến cho miệng nó chảy máu.
Điều này khiến con rắn rất tức giận. Nó tấn công một lần nữa, và một lần nữa cho đến khi cái cưa đầy máu
và dường như đã “chết rồi”.
Sắp chết vì những vết thương của mình, con rắn quyết định cắn một cái cuối cùng thật mạnh trước khi bò đi.
Sáng hôm sau, người thợ mộc rất ngạc nhiên khi thấy một con rắn chết trước cửa nhà mình. []
------------------------------
Bài học:
Đôi khi trong lúc cố gắng làm tổn thương người khác, con người chỉ làm tổn thương chính mình mà thôi.

SUY NGẪM

Chúng ta biết rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này, con người thường hay, tranh chấp với nhau, chỉ vì lời nói.
Hai người nói chuyện, với nhau một lúc, không nhường nhịn nhau, không nhượng bộ nhau, chắc chắn đưa tới,
tranh chấp cãi vã.
Người có trí tuệ là người thực hiện được điều sau đây:

Lời nói chẳng động tâm ta.
Dù lời nói ngọt hay là đắng cay.



SỐNG SAO LỢI MÌNH LỢI NGƯỜI
LÀM SAO TU THEO ĐỨC PHẬT
LƯƠNG TÂM VÀ PHẬT TÂM
LỜI DI HUẤN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
PHẬT DẠY CÂU CHUYỆN NĂM NGƯỜI MÙ

CON CHIM TRONG BÀN TAY (ĐỒNG TIỀN HAI MẶT)