Saturday, 18 February 2012

*** THÔNG BÁO TẬP SAN "PHẬT HỌC TỊNH QUANG" SỐ 19 ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 5.5.2012



 

THÔNG BÁO 

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG 19

ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 5.5.2012


Tập san PHTQ số 18 (Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn) đã phát hành và hiện nay không còn tại Văn phòng.
VP.PHTQ.CANADA chân thành cảm tạ sự ủng hộ của quí vị.
Ban Biên Tập đang chuẩn bị nội dung Tập san PHTQ số 19 và sẽ phát hành hoàn toàn miễn phí nhân ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 5.5.2012.

NỘI DUNG:
- Tuyên dương chánh pháp, giải thích chân lý tối thượng không phân biệt tôn giáo, kể cà Phật giáo (còn hình thức tôn giáo là còn mê tín).
- Tìm hiểu đời sống an lạc & hạnh phúc trong ánh sáng từ bi & trí tuệ.
- Bài trừ mê tín lẫn lộn trong Phật giáo chẳng hạn như: dâng sớ cầu an, tiền mất tật mang, cúng sao giải hạn, tai nạn vẫn tới, niệm chú 108 biến vào chai nước, vào cát mạn đà la, úm ba la trị tà ma, trị bá bệnh, xem ngày tang lễ, xem tuổi tang chủ, cho bùa làm ăn, nhất bổn vạn lợi, bùa gọi người về, hóa giải tai kiếp, soi căn xem tướng.

Quí vị thiện hữu, phát tâm góp bài, đóng góp ý kiến, khởi tâm bảo trợ, hùn phước ấn tống, cúng dường tịnh tài, tùy duyên thỉnh sách, xin gửi cước phí $10/quyển, qua thư bưu điện, không qua điện thoại, gửi về VP.PHTQ.CANADA trước 30.4.2012. Hoan hỷ liên lạc:

 Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ,
 108 - 123 Railroad St.,
 Brampton, ON, L6X-1G9. Canada.
 Tel: 647-828-1016.

Trân trọng thông báo,
Ban Biên-Tập
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
**


PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 19

KÍNH MỜI QUÍ VỊ THAM KHẢO
"Quan Điểm và Chủ Trương của PHTQ"
theo link:
Tâm nguyện của PHTQ.CANADA
là tạo thiện duyên, hiểu Phật Pháp tại thế gian, được an lạc hạnh phúc, giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não khổ đau. Chân lý tối thượng vượt qua các nghi lễ, các hình thức của tôn giáo, nhất là vượt qua tâm cố chấp, giúp con người sống đời an nhiên tự tại.
PHTQ.CANADA không giữ bản quyền. Quí độc giả tùy nghi, tùy thích, tùy duyên thưởng thức và xử dụng các bài viết.
Quan điểm của Phật-Học Tịnh-Quang Canada:
Các tôn giáo, tuy qua các hình thức lễ nghi phức tạp để phổ cập vào đại đa số quần chúng, đều có giá trị cao sâu. Người tin theo tôn giáo đó - dù là tu sĩ cấp cao - cũng chưa chắc đã hiểu rõ, nắm vững và thực hành trọn vẹn, huống là người theo tôn giáo khác.

Điều gì tôn giáo này công nhận, địa phương này chấp nhận, dân tộc này tuân theo; nhưng các tôn giáo khác không công nhận, các địa phương khác không chấp nhận, các dân tộc khác không tuân theo, đều chưa phải là chân lý tối thượng.

Chân lý tối thượng phải vượt lên trên tất cả các tôn giáo - kể cả Phật giáo - vượt lên trên tâm cố chấp của con người, chính là phương pháp mang lại sự bình an hiện tại trong tâm tư của cá nhân, hạnh phúc hiện tại trong gia đình và sự hòa bình hiện tại trong nhân loại.

Chân lý tối thượng đó phải được mọi người công nhận, không phân biệt màu da, sắc tộc, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, xuất xứ hay địa phương.

Phật-Học Tịnh-Quang Canada chủ trương:
Trong sự bàn cãi, tranh luận, chỉ nên xét việc - không xét người, chỉ nên góp ý về một vấn đề nào đó - không xét cá nhân, tác giả; và hoan nghênh, tiếp nhận các bài viết, tài liệu nhằm mục đích đem lại sự bình an cho cá nhân, hạnh phúc cho đời sống gia đình và hòa bình trong cộng đồng người Việt và nhân loại.
Phật-Học Tịnh-Quang Canada không chấp nhận các bài viết có tính cách gây chia rẽ, tạo hiềm khích, khiến bất an trong các diễn đàn, dù phát xuất bất cứ từ đâu.

Chủ Nhiệm Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
Các câu hỏi liên quan đến Lễ Phật Ðản:
1) Kính mong PHTQ CANADA giải đáp thắc mắc sau đây của một số Phật Tử thường đi chùa lễ Phật tụng kinh: Hằng năm vào dịp rằm tháng tư âm lịch, khắp nơi tổ chức Lễ Phật Ðản một cách long trọng, thành kính và trang nghiêm. Tuy nhiên, có nhiều người theo đạo Phật vẫn cảm thấy chán đời vì cuộc đời đầy đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo. Việc tổ chức các buổi Lễ Phật Ðản có ý nghĩa gì, có ích lợi gì cho mọi người?

2) Trong các buổi Lễ Phật Ðản, có nghi thức "tắm Phật", nhưng Phật Tử không hiểu ý nghĩa, kính mong PHTQ CANADA vui lòng giải thích.

3) Nhân dịp Lễ Phật Ðản, kính mong PHTQ CANADA hoan hỷ giải thích thắc mắc sau đây: Bức tranh vẽ Ðức Phật đản sanh bước trên 7 đóa hoa sen, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, có ý nghĩa gì?

4) Kính mong PHTQ CANADA hoan hỷ giải thích sự khác nhau giữa Phật Lịch 2556 và Phật Ðản 2636?

PHẦN GIẢI ĐÁP:
Giải đáp 1:  Năm nay, ngày rằm tháng tư (15-4) âm lịch, nhân lễ kỷ niệm lần thứ 2636 Ðức Phật Thích Ca đản sanh, nhằm ngày 5-5-2012 (Phật lịch 2556), chúng ta cùng nhau ôn lại lịch sử và tìm hiểu ý nghĩa thâm trầm của ngày lễ trọng đại này.
 
Ðức Phật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc xứ Ca Tỳ La Vệ, được gọi là Thái tử Tất đạt đa (hay Sĩ đạt tha), con của đức vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Ma Gia. Ngài lớn lên trong hoàng cung, vâng lệnh song thân lập gia đình với Công chúa Gia du đà la và hạ sanh Thái tử La hầu la. Trong các chuyến xuất cung du ngoạn ngoại thành, Ngài chứng kiến các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử trong nhân gian. Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát. 

Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già và 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm Ngài được 35 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ. Toàn bộ lịch sử của đức Phật Thích ca từ ngày đản sanh, đến thành đạo và nhập niết bàn, cũng như toàn bộ giáo lý của Phật giáo, không phân biệt tông phái, nêu lên những điểm quan trọng như sau:

1) Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc sáng suốt giác ngộ, không phân biệt nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ già, thời đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết tu tập theo đúng chánh pháp. Có hằng hà sa số các vị Phật, từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai. Chứ không phải chỉ có một vị Phật duy nhất làm giáo chủ là đức Phật Thích ca, còn tất cả các loài chúng sanh khác đều phải thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực. Ðây chính là ưu điểm nổi bậc của đạo Phật.
  
2) Ðức Phật không phải là vị thần linh, hay thượng đế tưởng tượng, chuyên ban phước ra ơn hay giáng họa trừng phạt. Cho nên những ai cúng kiến, tin tưởng, thờ lạy đức Phật theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực, dù ở chùa hay ở nhà, đều không đúng chánh pháp, không đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, xin xỏ nhiều thì thất vọng nhiều, cúng kiến nhiều thì buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì đau khổ nhiều. Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những lời dạy của đức Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy đức Phật hay không, dù có theo tông phái nào hay không, thảy đều được an lạc và hạnh phúc hiện thời, giác ngộ và giải thoát mai sau. Ðây chính là điểm bình đẳng tuyệt đối của đạo Phật.

3) Từ trước thời đức Phật xuất hiện trên thế gian này, cuộc đời vẫn thường đầy dẫy những sự đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa đảo, chứ không phải chỉ có thời hiện tại mà thôi. Do đó, giáo lý của đạo Phật thường được ví như chiếc thuyền, gọi là thuyền bát nhã, dùng từ bi và trí tuệ giúp đỡ con người vượt qua bể khổ, sông mê, lướt qua bát phong của cuộc đời, đến bến bờ giác ngộ và giải thoát. Ðức Phật vẫn sống ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao nhiêu khổ nạn của cuộc đời, nhưng tâm trí của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không cần phải đợi đến lúc vãng sanh về tây phương cực lạc hay thăng lên thiên đàng! Ðây chính là cốt tủy của đạo Phật.

4) Ðạo Phật là một tôn giáo, cho nên cũng có những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện, để giúp đỡ những người đang đau khổ trên thế gian này tìm đến với đạo, trong những bước ban đầu. Nếu như con người, dù tại gia hay xuất gia, đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời, cho rằng như vậy là đủ rồi, không chịu bước thêm bước nữa, bước đó là: tìm hiểu xem Ðức Phật dạy những gì để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, chánh pháp ở đâu, thì đau khổ vẫn hoàn khổ đau, có khác chi bao nhiêu người khác đâu? Ðây chính là ứng dụng thực tế của đạo Phật.

5) Các buổi lễ của Phật giáo, quan trọng nhứt là Lễ Phật Ðản, đều nhằm mục đích dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc đời. Và mục đích quan trọng hơn hết là: "hãy bước vào cửa đạo", hay "Phật Đạo", chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hoặc vẫn cứ đi lang thang, lòng vòng bên ngoài, bằng lòng với các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi văn nghệ xổ số, các cuộc hành hương thương mại, các cuộc vận động cầu vãng sanh lưu xá lợi, kêu gọi đóng góp tạo chùa to tượng lớn, chiêm bái tượng Phật Ngọc, lễ hội Quán Âm đam mê chuyện trời rải hoa mạn đà la, hoa mạn thù sa, hay hoa trời linh thiêng, thích chuyện linh thiêng huyền bí hấp dẫn, mà không quan tâm việc tu học, tu tâm dưỡng tánh, không biết đến chánh pháp là gì? 

Bước vào cửa đạo, viên thành Phật đạo, nghĩa là phải biết tu học theo lời đức Phật dạy trong các kinh sách, để đạt giác ngộ và giải thoát, chứ không phải tu mù, ai bảo sao làm vậy, ai nói sao nghe vậy, hết sức mê tín dị đoan! Ðây chính là cứu cánh mầu nhiệm cao siêu của đạo Phật.

Kính mời quí vị tham khảo bài viết 
SÁNG SUỐT CHÂN CHÁNH THANH TỊNH
 theo link:


Giải đáp 2:  Theo truyền thuyết, ngay khi Thái tử Tất đạt đa đản sanh, có hai vị Long vương đến phun hai dòng nước tắm cho Thái tử. Một vị phun dòng nước lạnh và một vị phun dòng nước nóng. Hai dòng nước lạnh nóng tượng trưng cho hai cảnh giới thuậnnghịch của cuộc đời, hai cảnh giới vui và buồn, sướng và khổ của cuộc sống hằng ngày, mà tất cả mọi người sanh ra trên thế gian này phải chịu đựng. Thái tử Tất đạt đa đã chịu đựng được hai dòng nước lạnh nóng, cho nên sau này Ngài trở thành đức Phật Thích ca. 

Trong kinh sách, đức Phật dạy rằng: người nào chịu đựng được những sự thuận và nghịch của cuộc đời, mà tâm vẫn bình thường, bình tĩnh thản nhiên, an nhiên tự tại, thì người đó sẽ là một vị Phật trong tương lai. Ðó là ý nghĩa hết sức thâm sâu vi diệu của đạo Phật.

Trong kinh sách, những cảnh thuận và nghịch của cuộc đời được gọi là: Bát Phong. Bát là tám, phong là ngọn gió. Bát phong chia làm bốn cặp, mỗi cặp gồm hai cảnh giới đối nghịch, đó là: lợi và suy,  hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc. 

Lợi là những điều thuận lợi, đem lợi lộc, tài lợi đến cho con người. Suy là suy tàn, suy sụp, đem đến sự thua lỗ, mất mát cho con người. Cả hai điều này đều làm cho tâm của con người bị động, bất an. Hủy là hủy báng, chê bai làm cho tâm con người bị động. Dự là danh dự, khen tặng cũng làm cho tâm con người bị động, bất an.

Kế đến là xưng cơ, nghĩa là xưng tán, tán tụng, nói tốt, và cơ bài, bài bác, chỉ trích, nói xấu. Hai ngọn gió này của cuộc đời cũng làm cho tâm của con người bị động, bất an.
Cuối cùng của bát phong là khổ nạn và lạc thú trên trần gian. Trên đời này, cảnh khổ quá nhiều, sanh lão bệnh tử là khổ, cầu mong không được cũng khổ, thương yêu phải chịu chia ly là khổ, thù ghét gặp nhau cũng khổ, thân thể ốm đau là khổ, tâm loạn động nhiều, bất an cũng khổ. Còn lạc thú trên đời cũng không ít việc đưa đến phiền não khổ đau. Chẳng hạn vui thú trò chơi bài bạc đỏ đen thường dẫn tới hoàn cảnh tiền mất tật mang, vợ bỏ con chê, cửa nhà tan nát, lâm cảnh bần cùng túng thiếu!

Trong Phật giáo, có nhiều hình thức nghi lễ nhằm mục đích truyền bá giáo lý sâu rộng trong nhân gian, giúp đỡ mọi người xây dựng cuộc sống hiện đời được an lạc và hạnh phúc hơn.  Nhân ngày rằm tháng tư âm lịch hằng năm, khắp nơi tưng bừng tổ chức lễ kỷ niệm ngày đức Phật đản sanh, để ghi nhớ công đức của đấng cha lành tìm ra con đường cứu độ chúng sanh được giác ngộ và giải thoát khỏi phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi. 

Trong phần nghi lễ kỷ niệm ngày đức Phật đản sanh, luôn luôn có tiết mục tắm Phật. Mọi người đều hoan hỷ sắp hàng, tâm niệm Phật, miệng niệm Phật, chờ đến phiên mình tiến lên lễ đài để múc nước tắm cho tôn tượng đức Phật đản sanh. Việc làm này mang nhiều ý nghĩa vi diệu, có ích lợi lớn cho việc tu học, có thể chuyển hóa tâm trạng của con người từ phiền não và khổ đau thành an lạc và hạnh phúc. 

Nghi lễ tắm Phật dựa vào truyền thuyết hai vị Long vương phun hai dòng nước, một dòng nước lạnh và một dòng nước nóng, tắm cho Thái tử Tất đạt đa trong ngày đản sanh. Khi múc gáo nước đầu tiên tắm cho tôn tượng đức Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp thuận cảnh, vừa lòng, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên.  Khi múc gáo nước thứ hai, tắm cho tôn tượng đức Phật đản sanh nhỏ nhắn, chúng ta tâm nguyện rằng: dù trên đời có gặp nghịch cảnh, phiền lòng, tâm của chúng ta vẫn bình tĩnh thản nhiên. Ðây mới chính là ý nghĩa sâu xa của nghi lễ tắm Phật vậy.

Giải đáp 3:  Bức tranh đó được vẽ theo truyền thuyết: Ngay khi đản sanh, đức Phật bước đi 7 bước, có 7 đóa hoa sen đỡ chân, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, và tuyên bố:
"Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn".

7 đóa hoa sen tượng trưng cho thất chúng trong đạo Phật, đó là: Tỳ kheo, Tỳ kheo ni, Thức xoa ma na ni, Sa di, Sa di ni, Phật tử nam và Phật tử nữ. Nói chung là toàn thể con người, dù tại gia hay xuất gia đều có thể áp dụng giáo lý của đạo Phật trong cuộc sống hằng ngày để được an lạc hạnh phúc và giác ngộ giải thoát. Muốn được như vậy, con người phải chứng ngộ được bản tâm thanh tịnh, được ví như đóa hoa sen, gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn, cho nên vẫn sống trong trần đời, mà chẳng cảm thấy phiền não khổ đau.
 
Khi thành đạo dưới cội cây bồ đề, đức Phật ngồi trên thảm cỏ, nhưng trong hình vẽ hay tôn tượng, đức Phật đều ngự trên tòa sen, tượng trưng cho bản tâm thanh tịnh. Ngài đã giác ngộ được rằng: tất cả mọi chúng sanh đều có bản tâm thanh tịnh đó, cho nên đều có thể trở thành một vị Phật, nếu biết thực hành đúng pháp môn tu tâm dưỡng tánhBản tâm thanh tịnh trong kinh sách Phật giáo được gọi với nhiều danh từ khác nhau, chẳng hạn như là: chân ngã, chân tâm, chân tánh, Phật tâm, Phật Tánh, bản lai diện mục. Do đó, câu nói: "Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn", có nghĩa là: trên trời dưới đất, hay nói cách khác, trong 6 cõi luân hồi: trời, người, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh, chỉ có chân ngã, tức là bản tâm thanh tịnh, là đáng tôn kính. Người giác ngộ được điều này, sẽ giải thoát được phiền não khổ đau và sanh tử luân hồi.

Tóm lại, bức tranh vẽ đức Phật đản sanh đi 7 bước có hoa sen đỡ chân, ngụ ý: con người trải qua lục đạo luân hồi (6 cảnh giới: thiên, nhơn, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh) nếu biết tu tập sẽ giác ngộ giải thoát, đắc đạo thành Phật (bước sen thứ bảy).

Người nào hành động, nói năng, suy nghĩ các điều phải, điều đúng, điều tốt, tức là tam nghiệp thanh tịnh, thì tâm nhẹ nhàng, khinh an, đi lên (tay phải chỉ trời).
Người nào hành động, nói năng, suy nghĩ các điều trái, điều sai, điều xấu, tức là tam nghiệp chưa thanh tịnh, thì tâm nặng nề, bất an, đi xuống (tay trái chỉ đất).
Và trong lục đạo luân hồi, trải qua sanh lão bệnh tử, chúng sanh khổ là do chấp ngã; khi giác ngộ lý vô ngã, tức đạt được chân ngã, hay bản tâm thanh tịnh, tam nghiệp hằng thanh tịnh, tức đồng Phật vãng tây phương, tức đắc đạo, thành Phật vậy.

Giải đáp 4:  Khác nhau giữa Phật Lịch 2556 và Phật Ðản 2636.
Phật lịch tính kể từ năm đức Phật nhập diệt, tức 544 năm trước dương lịch.
Muốn tính Phật lịch, cộng thêm 544 năm vào dương lịch 2012. Cho nên năm nay, Phật lịch là PL.2556. Tuổi thọ của đức Phật là 80 tuổi, cho nên Phật lịch cộng thêm 80 năm sẽ được Phật đản. Do đó, năm nay đại lễ Phật đản lần thứ 2636 = Pl.2556 + 80.



 
Bộ sách "CƯ TRẦN LẠC ĐẠO" gồm có tập 1,2,3
Quí vị muốn thỉnh sách vui lòng liên lạc tác giả:

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ,
 108 - 123 Railroad St.,
 Brampton, ON, L6X-1G9. Canada.
 Tel: 647-828-1016.
**
Kính mời quí vị tham khảo theo link:
BỘ SÁCH CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TRỌN BỘ 3 TẬP

Saturday, 11 February 2012

*** PHẢI ĐẦY ĐỦ TRÍ TUỆ MỚI MONG VÃNG SANH




                                                            
2010/6/11 Hao
Adiđàphật.

Thầy ạ. con muốn hỏi, Thầy thấy việc hộ niệm giúp người vãng sanh từ chỗ người lâm chung có biểu hiện trên khuôn mặt dễ sợ sau khi hộ niệm tám hay mười sáu tiếng thì có sự thay đổi về nét mặt cũng như màu da, như vậy thì theo Thầy giải thích thế nào?  còn các ban hộ niệm được thành lập liên châu á hoặc châu âu hoặc toàn thế giới chẳng hạn thì có hỗ trợ nhau được chăng? 
Vấn đề này thật mới mẻ đối với con, nhưng không lạ đối với Thầy. xinThầy hoan hỷ. Những câu chuyện vãng sanh để lại xá lợi rất nhiều từ Đức Phật cho đến các đệ tử của ngài, ngay VN mình cũng có rất nhiều như vua Trần, hai chú cháu nhà Sư ở chùa đậu, trái tim xá lợi của vị sư nữa.... đấy là những bằng chứng sống động không ai có thể phủ nhận và các cuộc triển lãm xá lợi Phật khắp nơi, và mới đây VN đã được vinh dự rước xá lợi về chùa Bái đính từ Ấn độ. con rất mong Thầy có điều dạy bảo và chỉ dẫn cho con nhiều hơn. con ngưỡng mong Thầy thân tâm thường an lạc.


kính thư.
phật tử Đồng niệm -Quảng Diệu Thiện.
-------------------------------------


Kính quí ĐH,
Việc hộ niệm giúp người vãng sanh là một việc làm cao quí, xuất phát từ tâm từ bi của mình, trưởng dưỡng được tâm từ bi là phước duyên lớn trên đường tu tập. Tuy nhiên, nhiều nơi hiện nay có Phật Tử hiểu lầm về việc này, bởi có những người lợi dụng tín tâm của mọi người, để tổ chức các Ban hộ niệm, rồi gây quỹ kiếm tiền, dựng niệm Phật đường.

Chúng ta trong suốt cuộc đời, tu nhân tích đức, ăn hiền ở lành, tụng kinh niệm Phật, còn chưa chắc vãng sanh, huống là có những người cả đời chẳng tu hành gì, chẳng biết kinh Phật dạy điều gì để áp dụng, chỉ cần Ban hộ niệm giúp đỡ là vãng sanh được sao? Con người phải khai mở trí tuệ để sáng suốt tu hành cho đúng chánh pháp, mới thanh lọc được thân tâm và hành xử với tâm từ bi độ lượng, thì mới hy vọng vãng sanh chứ, phải không quí ĐH?


Tóm lại, phải luôn luôn nhớ: đầy đủ TỪ BI & TRÍ TUỆ, thì mới nói chuyện vãng sanh, bằng như người nào nói khác, chính là phỉ báng Phật pháp, giảng sai Pháp môn niệm Phật, dụ dẫn Phật Tử với ý đồ không thiện lành. []



Thầy Chân-Tuệ PHTQ CANADA

Kính mời xem bài viết "Suy Ngẫm Về Sự Tụng Kinh Siêu Thoát" theo link:
PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN



- Thưa Thầy, kính xin Thầy giải thích câu:
"Phật pháp tràn đầy trong thế gian".


- Đức Lục Tổ Huệ Năng, trong Kinh Pháp Bảo Đàn, có dạy:

Phật pháp tại thế gian
Bất ly thế gian giác
Ly thế mích bồ đề
Kháp như tầm thố giác.



Nghĩa là:
Người đời thường nghĩ Phật pháp là chuyện trên trời dưới biển, xa vời đâu đâu, không có thực tế, hoặc chỉ dành cho Phật tử hay người tu trong chùa mà thôi. Không ngờ rằng:  Phật pháp tràn đầy ngay tại thế gian này, ngay trước mắt, trong đời sống hàng ngày, áp dụng bình đẳng, đồng đều cho tất cả mọi người, không phân biệt Phật tử hay không Phật tử.  Nếu sống cách ly thế gian, con người không thể giác ngộ chân lý, cho nên không giải thoát phiền não khổ đau được.


- Tại sao vậy? Bởi vì lìa thế gian thì mất sáng suốt.  Khác chi đi tìm sừng thỏ!
Người nào nhận ra được như thế, tất sẽ được an lạc và hạnh phúc hiện đời, giác ngộ và giải thoát sau này.


- Kính xin Thầy giảng rõ hơn.
- Ví dụ, luật nhân quả có ngay tại thế gian, không cần đi tìm đâu xa. Gieo nhân nào, gặt quả nấy. Người gieo nhân hạt cam, chăm sóc, bón phân, tưới nước, tất sẽ gặt hái được quả cam, không thể nào được quả khác.
- Luật nhân quả đem lại an lạc và hạnh phúc như thế nào?
- Hiểu và tin sâu luật nhân quả, con người sẽ không buồn giận khi gặp nghịch cảnh (vận xui, bất trắc, nghe lời chướng tai, thấy cảnh gai mắt) và không vui mừng khi gặp thuận cảnh (vận hên, như ý, nghe lời tán tụng, thấy người hạp nhãn).
- Tại sao vậy? Bởi vì khi gặp nghịch cảnh, chúng ta hiểu ngay rằng: đó là nghiệp quả, nghiệp báo (quả báo) do chính mình đã tạo nghiệp nhân xấu ác trước đây. Khi gặp thuận cảnh, chúng ta hiểu ngay rằng: đó là phước báo do chính mình đã tạo nghiệp nhân thiện lành trước đây.  Buồn giận hay vui mừng đều làm tâm loạn động. Tu theo Phật, cốt tủy là giữ bản tâm thanh tịnh. "Mình làm mình hưởng. Mình làm mình chịu".


Đây là luật nhân quả, chí công vô tư, không do cầu nguyện mà được hưởng may mắn, không do cầu nguyện mà tránh được xui xẻo. Trước đây, vì chưa hiểu Phật pháp, con người lỡ gây bao tạo nghiệp xấu ác, bất lương thiện, trong ý nghĩ, hành động và lời nói. Chẳng hạn như nghi ngờ, nghĩ xấu người khác, giựt hụi quịt nợ, vu khống cáo gian, ganh tỵ đố kị, gièm pha phỉ báng, chửi rủa mắng nhiếc, đâm bị thóc, thọc bị gạo, chờ người làm sẵn cho mình được hưởng, tìm nhẹ lánh nặng.

Giờ đây con người hiểu biết luật nhân quả, hết lòng sám hối, không gây thêm nghiệp nữa, nhưng rất lo sợ phải gánh chịu nghiệp báo nặng nề, nếu không thể van xin cầu khẩn mà tránh được, thì phải làm sao ?
Theo kinh sách, Phật dạy: chỉ có phước báo mới có thể giảm thiểu, hoặc tiêu trừ quả báo mà thôi.


- Kính xin Thầy giảng rõ thêm.
- Phước báo là kết quả tốt đẹp trở lại với mình, do các điều thiện lành tạo ra phước báu. Chẳng hạn như tụng kinh, niệm Phật, bố thí cúng dường, cứu người giúp đời, thấy người làm việc phước đức, từ thiện, mình sanh tâm hoan hỷ, hoặc làm theo nếu có khả năng, bên ngoài luôn tránh việc tranh cãi, bên trong luôn khắc chế các tâm niệm không tốt, khi khởi lên niệm xấu về người khác liền ngưng và biết tàm quý (xấu hổ).

Cũng giống như lấy công chuộc tội, hay dùng tiền tiết kiệm để trả nợ xưa vậy. Nhờ đó, chuyện lớn sẽ hóa nhỏ, chuyện nhỏ sẽ hóa không. Ví dụ như đáng lẽ mình phải trả nghiệp báo nặng đến mức tán gia bại sản, thân bại danh liệt, tai nạn chết người, nhưng nhờ có phước báo che chở, mình chỉ gặp bất trắc nhẹ hơn, có thể vượt qua được, người đời thường gọi là may mắn, hay số hên. Đây là chân lý không dành riêng ai. []   


Kính mời quí vị xem bài viết "Phật Pháp Tại Thế Gian" theo link:


 KHÔNG NÊN TIN BÓI TOÁN  
(Phật Học Tịnh Quang Số 15)

- HỎI: Tôi năm nay 52 tuổi,trước đây không tin lắm vào chuyện tâm linh. Nhưng nay nhờ duyên lành, tôi đã có niềm tin vào Tam bảo, biết đi chùa lễ Phật. Có một lần theo bạn đi xem bói, thấy thầy bói nói đúng từ chuyện công danh đến tình duyên, khiến tôi cảm thấy rất hoang mang. Theo thầy bói, chuyện tình duyên sau này của tôi là do "oan gia kiếp trước", phải gánh chịu là do số phận mà không thể trách ai. Tôi cảm thấy rất lo buồn và không biết phải làm sao vì chuyện tình cảm của tôi hiện nay không được suôn sẻ lắm! Không biết tôi có nên hy vọng hay đành phải chấp nhận số phận?
THỦY TRÚC
****************
- ĐÁP: Người Phật tử, ngoài niềm tin Tam bảo và thực hành tụng kinh, niệm Phật, lễ bái, điều cần yếu là phải học tập giáo pháp để phát huy tuệ giác, nhằm soi sáng cho mọi hành xử trong đời sống hàng ngày. Một trong những nguyên tắc sống căn bản và quan trọng nhất của người Phật tử là phải trau dồi sự thấy biết, nhận thức, quan điểm đúng chánh pháp (chánh kiến). Nhận thức đúng mới có thể nói năng và hành động đúng, nhằm tạo đời sống hạnh phúc, an vui.

Do đó, việc bạn đi xem bói rồi hoang mang theo những lời phán truyền vô căn cứ là hoàn toàn không nên. Một số người bị thuyết phục vì những tuyên bố về các việc đã qua khá đúng (điều này không mấy khó đối với thầy bói), nên nhắm mắt tin theo những tiên đoán về tương lai. Chính điểm yếu này nên không ít người mê xem bói bị kẻ xấu lợi dụng.
Nhẹ thì bị lo lắng, thấp thỏm, bất an và sợ hãi. Nặng thì bị lừa gạt đến thân bại danh liệt, tiền mất tật mang.

Theo lời dạy của Đức Phật, tất cả các pháp đang vận hành, biến đổi không ngừng. Nhân thay đổi thì chắc chắn quả sẽ thay đồi. Nếu hiện tại có sự tỉnh thức hướng thiện thì chắc chắn sự chuyển hóa theo hướng tích cực sẽ xảy đến trong tương lai. Trong quá trình chuyển hóa ấy, con người giữ vai trò chủ động, tự quyết định đời sống của chính mình. Phật giáo không có quan niệm số phận, định mệnh, nên không ngồi yên để chờ phận số an bài và cúi đầu chấp nhận. Người Phật tử tin vào nghiệp lực do chính mình tạo ra, và chính mình có thể chuyển hóa được nhờ nỗ lực tu học trong hiện tại.


Nếu thấy rằng hai người chưa hợp để tiến tới hôn nhân thì phải có thêm thời gian tìm hiểu, giúp nhau chuyển hóa những bất đồng, nhược điểm. Nếu không được, thì không nên tiến tới, để tránh bất hạnh về sau. Con người có toàn quyền định đoạt đời mình, chấp nhận hay khước từ, và dĩ  nhiên chịu trách nhiệm về những quyết định ấy.Người Phật tử luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng, nhờ hiểu biết giáo pháp. Sự cố gắng tu học, hướng thiện của tự thân là nền tảng tốt đẹp cho hạnh phúc, an vui trong hiện tại và vị lai. []


TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ


NHÂN NÀO QUẢ NẤY
Con người hưởng quả lành, chính do đã gieo nhân lành.
Con người lãnh quả báo xấu chính do đã gieo nhân xấu.
Mình làm mình chịu.
Mình làm mình hưởng.
Đó là chân lý tối thượng.[]


Những gì con người làm ngày nay, con người có quyền thừa kế ở ngày sau.
Làm tốt, thừa kế chuyện tốt. Làm xấu, thừa kế chuyện xấu. Nhân nào quả nấy. Thật là hợp lý, công bằng, khoa học, vô tư. Con người làm chủ cuộc đời mình. Không do số mệnh, không do ông Trời, không thể đổ thừa cho ai hết. []

Không có cái gì xấu hoàn toàn. Mỗi kinh nghiệm là một bài học. Ta có thể là thủ phạm làm điều ác trong một kiếp nào đó nhưng cũng có thể là nạn nhân trong một kiếp khác. Và cứ như thế, con người sống từ đời này qua đời khác cho đến khi nào họ học được bài học.

Mỗi một kiếp người là một lớp học để trở thành Chân Thiện Mỹ. Muốn lên lớp, hay muốn ở lại? Mọi chuyện trong bàn tay quyết định của con người.

Hiểu như vậy, còn chấp gì tử sinh? Chừng nào đi thì đi. An nhiên & Tự tại.
Tử sinh không còn là đại sự. Nếu tử sinh nhẹ như lông hồng thì chuyện buồn vui hờn giận mỗi ngày còn cần gì để tâm cho mệt? []


Thường thường ai cũng thắc mắc:
- Tôi từ đâu tới đây?
- Đến đây để làm gì? Mục đích của đời sống là gì?
- Chết rồi tôi sẽ đi đâu? Tại sao?
Có nhiều người không thể một sớm một chiều mà tìm được lời giải. Họ cần phải trải qua nhiều biến cố nữa trước khi thấy cái nghiệp của mình. Cho đến khi mình thấy được, hiểu được cái nhân từ đời trước, mình mới có thể giải quyết giải quyết cái quả của đời này.
Nếu một người muốn sẵn sàng tha thứ, muốn quên hận thù cũ thì người đó đã được một sự chuyển hóa tâm linh cao và có thể hóa giải được.
Nhưng nếu người nào nói ra rằng:
"Đừng nói đến chuyện tha thứ những quân dã man đó. Tôi sẽ không bao giờ tha thứ cho họ. Tôi thù ghét họ". Thì đừng tìm cách giúp họ tha thứ vì tâm họ chưa sẵn sàng. []


Có phải chính mình tự quyết định, tự chọn đời sống của mình không?
- Đúng vậy. []
Chính con người tự chọn con đường mình đi, dễ dàng hay chông gai là cũng do mình. Một khi con người nhận chân được sự thật đó và chấp nhận mục đích của đời sống hiện tại thì hoàn cảnh chung quanh có thể thay đổi.


Nếu một người biết nhận trách nhiệm của mình thì người đó có thể giải quyết được nhiều vấn đề. Còn những kẻ ngu muội không biết nhận trách nhiệm của mình mà cứ đổ lỗi cho người khác thì họ chưa sẵn sàng thay đổi. []
Có thể nói rằng: "Nếu chị thật tình thương yêu và muốn cải hóa chồng thì chị không nên dùng giọng lời gay gắt với chồng mà nên bộc lộ tình thương, ăn nói dịu dàng thì ông ấy sẽ thay đổi". Có nhiều bà nghe lời và đã thành công. []


BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG
cutranlacdao@yahoo.com
Kính mời xem bài viết "Luật Nhân Quả" theo link:
Từ Bi & Bạo Lực
Trích
Tập san PHTQ. số 1
Đại Lễ Phật Đản năm 2006


Trong thành Xá Vệ (xứ Kosala), ai cũng biết Angulimala là một kẻ sát nhân nguy hiểm. Khi nghe tin Angulimala xuất hiện trong thành phố, mọi người đều kinh sợ. Vua Ba Tư Nặc nghĩ rằng đối với Angulimala, phải huy động cả quân đội mới có thể bắt được. Dân chúng xem Angulimala như ác quỉ, không có tình thương. Tất cả dân chúng trong thành người nào cũng đồng ý là gặp Angulimala thì phải giết, phải tiêu diệt. Chỉ trừ có một người. Người đó nghĩ rằng trong Angulimala vẫn còn có hạt giống thiện. Người đó là đức Thế Tôn. Nhưng chưa ai có khả năng khơi dậy hạt giống đó, cho nên Angulimala chưa có cơ hội để quay đầu trở thành con người tốt.
Angulimala đã giết rất nhiều người. Mỗi khi giết một người, anh ta cắt một ngón tay, rồi xỏ xâu đeo vào cổ. Nghe nói anh ta đã có 99 đốt xương rồi. Anh ta muốn giết thêm một người nữa cho đủ số 100, để có xâu chuỗi nạp cho tà giáo. Chữ ‘mala’ trong danh từ Angulimala có nghĩa là xâu chuỗi. Tên thật của Angulimala là Ahimsaka (Kẻ vô tội). Một buổi sáng, đức Thế Tôn vào thành, đang bưng bát đi khất thực từng bước thảnh thơi thì nghe có tiếng chân chạy phía sau. Ngài biết rằng Angulimala đang đuổi theo, nhưng vẫn bình thản bước đều.
Đức Thế Tôn không cần phải thi thố phép thần thông. Ngài có niềm tin lớn nơi tình thương và trí tuệ của mình để vượt khỏi những tình trạng khó khăn.
 Angulimala lớn tiếng gọi:
- Tu sĩ kia, đứng lại!
Thế Tôn vẫn tiếp tục đi, không mau hơn, không chậm hơn. Phong độ của Ngài rất an nhiên tự tại. Thấy vậy, Angulimala lớn tiếng hơn:
- Đứng lại! Tu sĩ kia, đứng lại!
Đức Thế Tôn thản nhiên tiếp tục bước đi, vẻ tự tại vô úy. Angulimala chạy mau hơn chỉ trong khoảnh khắc đã đuổi kịp và la lên:
- Tôi bảo ông dừng lại, tại sao không dừng?
Thế Tôn vẫn bước đi, nói với giọng điềm tĩnh:
- Này Angulimala! Ta đã dừng lại từ lâu rồi, chính anh mới là người chưa dừng lại.
Chưa bao giờ nghe một câu nói kỳ lạ như vậy, Angulimala ngạc nhiên hỏi:
- Ông nói sao? Ông đang đi rõ ràng mà tại sao nói ông đã dừng lại?
Đức Thế Tôn từ tốn nói:
- Này Angulimala, trên con đường tạo tác những ác nghiệp thì ta đã dừng lại từ nhiều kiếp rồi. Còn anh, anh vẫn còn đang tiếp tục, anh nên dừng lại!
Lúc đó đức Thế Tôn đứng lại. Angulimala cũng đứng lại. Đức Thế Tôn nhìn thẳng vào Angulimala mà nói:
- Anh biết không, ở đời ai cũng sợ đau khổ, ai cũng muốn sống, ai cũng sợ chết. Mình phải biết thương người!
Angulimala la lên:
- Trên đời này có ai thương tôi đâu, mà bảo tôi thương họ? Loài người là loài độc ác nhất ở trên đời, tôi muốn tiêu diệt hết loài người cho hả dạ tôi.
Đức Thế Tôn nói:
- Này Angulimala, tôi biết anh đã chịu nhiều đau khổ. Cuộc đời đã bạc đãi anh, người ta đã không tử tế với anh, đã làm khổ anh. Anh đâm ra hận thù cuộc đời! Nhưng anh nên biết: hận thù chỉ làm cho mọi người thêm khổ đau, chỉ có tình thương mới đem lại hạnh phúc cho đời mà thôi.
Angulimala la lớn:
- Tình thương hả? Ai là người có tình thương, ông chỉ cho tôi coi?
Đức Thế Tôn vẫn dịu dàng:
- Anh đã từng gặp vị tỳ kheo hay tỳ kheo ni nào chưa? Các vị đó không những tôn trọng sinh mạng của con người, họ còn tôn trọng sự sống của loài vật. Họ tôn trọng các loài cỏ cây và đất đá nữa. Nếu anh gặp được họ, anh sẽ thấy rằng tình thương là cái gì có thật. Khi có tình thương trong lòng, người ta không còn đau khổ nữa. Hận thù là một khối lửa đốt cháy con người, đốt cháy thế gian. Anh nên quay đầu lại, từ khước bạo lực, trở về với con đường cảm thông và yêu thương.


Những lời nói của Thế Tôn tràn đầy từ bi, phát xuất từ trái tim. Angulimala là một con người thông minh nhưng bị hận thù che lấp. Nghiệp thiện ngày xưa của Angulimala tác động vào tư tưởng, và anh ta biết rằng mình đang đứng trước mặt Đức Phật Thích Ca. Ngài đã vì lòng thương xót mà đến cứu anh ra khỏi vòng tội lỗi.  Anh ta vứt gươm xuống đất, xin Đức Phật cho được xuất gia.
 Đức Phật chỉ nói một câu đơn giản:
 - "Ehi! Bikkhu" (Hãy đến! Tỳ kheo).


Thế nhưng, mặc dù xuất gia, tinh thần của Tỳ kheo Angulimala vẫn không được yên ổn. Thường xuyên, ông bị ám ảnh bởi tiếng kêu khóc của những người bị ông sát hại. Có hôm, đi khất thực, ông bị quần chúng đuổi đánh, ném đá, ông trở về tu viện, lỗ đầu, chảy máu. Đức Phật giải thích cho biết, đó là Angulimala trả nợ nghiệp ác cũ của mình. Sau này, Angulimala tu chứng thánh quả A la hán. Chúng ta thấy câu chuyện Angulimala gặp đức Thế Tôn là một cuộc đấu gươm rất ngoạn mục. Angulimala có thanh gươm của bạo lực và hận thù. Đức Thế Tôn có thanh gươm của từ bi và trí tuệ. []


Kính mời quí vị xem bài viết "Chánh Kiến Và Chánh Tín" theo link:

SUY NGẪM
Tu theo đạo Phật cốt tủy là tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Ngược lại, nhiều người tại gia cũng như xuất gia ưa chuộng hình tướng bên ngoài, bày vẽ các nghi lễ, cách trang phục rườm rà, phức tạp, thích nghe và truyền bá các chuyện linh thiêng, huyền bí, mê tín, huyễn hoặc, như hoa mạn đà la, hào quang chiếu sáng trên nóc chùa, trên tượng lộ thiên, thường ngày không lo tu tập.


Người tại gia giả dạng nhà sư, nhà sư đội lốt người thường để đâm bị thóc thọc bị gạo, ăn nói, hành động và suy nghĩ theo nghiệp bất thiện, tâm địa tàn độc, nham hiểm, dối trá, không thích hợp đối với người đời thường, huống là các nhà sư thuộc hạng lão làng, hàng giáo phẩm cao cấp, nắm giữ các chức vụ lãnh đạo các tổ chức giáo hội.


Tu theo đạo Phật cốt tủy là nổ lực chuyển hóa tâm niệm bất thiện, thành tâm niệm thiện lành, chuyển hóa tam nghiệp thân, miệng, ý hằng thanh tịnh. Tam nghiệp hằng thanh tịnh, đồng Phật vãng tây phương. Không cần phải mong cầu. Không cần phải van xin. Đạo Phật rất thực tế. Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng. Con người phải nổ lực tự tu, tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp, trong suốt đời sống hàng ngày, để trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ và đạt được thành tựu tốt đẹp, hoàn mãn. []

TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA

PHTQ Số 1 đến số 19
Quí vị muốn thỉnh sách "Phật Học Tịnh Quang" vui lòng liên lạc theo địa chỉ sau đây:


Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016

Mục Lục Bộ sách "CƯ TRẦN LẠC ĐẠO" TẬP 1,2,3 theo link:
Kính mời vào website: 
http://phathoctinhquang.chuaphat.com/


Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật

Kính thư,
----------------------------------