TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday 7 May 2011

TAM BẢO: Sáng Suốt - Chân Chánh - Thanh Tịnh (PHTQ SỐ 13)

Mọi người đều có khả năng
sáng suốt,
chân chánh


thanh tịnh

Đó là TAM BẢO TỰ TÂM

Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
-o0o-
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính quí Ðạo Hữu,  
Lời đầu thư, chúng tôi hoan hỷ kính chào quí ÐH, kính cảm niệm quí ÐH đã dành thời giờ viết email và kính mong quí ÐH thông cảm việc hồi âm không sớm này. Lý do: chúng tôi vừa làm xong Phật sự gửi đi khắp nơi tất cả Tập san Phật Học Tịnh Quang (Từ Bi & Trí Tuệ) số 12, phát hành nhân dịp Tết Nguyên Ðán Canh Dần 2010. Tập san PHTQ được phát hành miễn phí hoàn toàn, mỗi năm 3 số, nếu quí ÐH hoan hỷ nhận, xin cho biết địa chỉ bưu điện, văn phòng PHTQ sẽ gửi kính biếu.  
Bây giờ chúng tôi xin được bàn về Bát nhã tâm kinh theo đề nghị của quí ÐH. ÐH Hoang Le có email <batnhabalamatda@yahoo.com> chắc là thâm cứu và thâm hiểu bản kinh cốt tủy ngắn, gọn, súc tích và nhiệm mầu này. Nơi đây, chúng tôi chỉ nêu lên những gì học được, biết được, trong tinh thần học hỏi lẫn nhau là điều tốt quá, và là duyên lành trên bước đường tu học và tìm hiểu chánh pháp.  
Ðiều trước tiên chúng ta cần hiểu rõ là: do nghiệp lực dẫn dắt, chúng sinh phải chịu sự sinh tử luân hồi, nhiều đời kiếp trong lục đạo (lục đạo là 6 cõi: thiên, nhân, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh). Nghiệp lực là sức mạnh do nghiệp dẫn đi, tức là thói quen tạo nên trong cuộc sống hằng ngày, rất khó dừng lại, rất khó cưỡng lại, do nơi thân - con người tạo nghiệp, do nơi khẩu - con người tạo nghiệp, và nhất là do nơi ý - con người tạo nghiệp; gọi chung là tam nghiệp thân khẩu ý. Ðây là điều căn bản khác biệt giữa đạo Phật với các tôn giáo hay tín ngưỡng khác.  
Các tôn giáo hay tín ngưỡng khác thường tôn thờ một vị thượng đế hay thần linh tưởng tượng nào đó, họ cho là đấng toàn năng, có khả năng sáng tạo hay hủy diệt vũ trụ và muôn loài (người, vật, cỏ cây); và là đấng toàn quyền, có khả năng ban phúc cho người tuân phục thờ phượng và giáng họa cho những ai không công nhận vị thượng đế không tưởng đó.  
Các tôn giáo hay tín ngưỡng khác thường cho rằng: con người chỉ có đời này thôi, cuối đời không còn gì cả (gọi là chấp đoạn); con người cuối đời này hoặc lên nước thiên đàng gặp thượng đế vĩnh viễn, hoặc đọa hỏa ngục đời đời, vì bất khâm tuân thượng đế (gọi là chấp thường).  
Trái lại, đạo Phật không chấp hai bên (gọi là nhị biên) như thế. Cốt tủy của đạo Phật là chỉ cho con người thấy rằng: mọi người đều có khả năng sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh, để giác ngộ trở thành một vị chánh đẳng chánh giác; còn gọi là đắc đạo, thành đạo, hay thành Phật. Trong kinh Hoa Nghiêm, có câu: Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tánh, chính là nghĩa đó vậy.   

Cái khả năng sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh, để giác ngộ đó, tạm gọi là Chân tâm, hay Phật tánh. Cái khả năng này người nào cũng có, không dành riêng cho bất cứ ai, không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, sắc tộc, màu da, xuất xứ, quốc gia, già trẻ lớn bé, giàu sang hay nghèo hèn, học thức hay bình dân. Nghĩa là không biệt gì cả, gọi là bất tùy phân biệt.  
Làm sao nhận ra rằng mình có cái khả năng đó, chính là các pháp môn tu tập. Mục đích chính của các pháp môn là giúp con người, bất tùy phân biệt, trở lại với bản tâm bản tánh thanh tịnh đó. Mặt trời luôn sáng tỏ, chỉ vì bị mây đen che khuất tạm thời thôi. Cũng vậy, bản tâm bản tánh con người luôn sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh, chỉ vì bị tham lam, sân hận và si mê che khuất tạm thời thôi. Các pháp môn giúp con người từ từ dẹp tan mây đen (tham, sân, si), dần dần bản tâm bản tánh con người trở về nguyên trạng. 

Khi đó, con người vẫn sống như bao nhiêu con người khác trên thế gian này, hình tướng bề ngoài không khác, nhưng nội tâm trở về sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh (gọi là tam bảo). Khi thái tử Tất đạt đa thành đạo, trở thành một vị Phật, tâm của ngài hoàn toàn thanh tịnh khác hẳn trước đây, nhưng hình tướng bề ngoài vẫn chỉ là một vị tu hành, gọi là sa môn Cồ đàm. Chỉ có những người chân thật, những vị giác ngộ mới nhận ra được một vị Phật đang sống trên thế gian này như mọi người, hình tướng không khác mọi người. Như vậy nghĩa là: một vị Phật không phải là thần linh, thượng đế không tưởng.
Bát nhã tâm kinh tuy là bản kinh ngắn gọn, nhưng bản kinh này chỉ rõ đầy đủ thế nào và làm sao nhận ra rằng mình có cái khả năng đó. Muốn nhận ra cái khả năng vô hình tướng đó, con người cần phải thấy rõ thân xác (hình tướng) của con người là không thật - không tồn tại mãi mãi. Con người khi sinh ra đời là có hình tướng, đẹp xấu khác nhau, tùy theo nghiệp báo mỗi người khác nhau. Con người trải qua sinh lão bệnh tử, là hình tướng kia bị hủy diệt.   
Thêm nữa, muốn nhận ra cái khả năng vô hình tướng đó, con người cần phải thấy rõ tâm thức (vô hình tướng, có khi gọi là tâm linh, tâm tư, tâm trạng, ..) của con người là không thật - không tồn tại mãi mãi. Tâm thức của con người thay đổi liên miên, nay thương mai ghét, nay thân mai thù, nay tốt mai xấu, nay hiền mai dữ, nay bồ tát mai dạ xoa, nay bảo vệ chánh pháp mai phá hoại chánh pháp, nay huynh đệ mai đối nghịch, nay tán dương mai cơ bài, nay ngồi cùng bàn mai cưa cẳng ghế. Tâm thức lăng xăng lộn xộn như vậy gọi là vọng tâm (kinh Lăng nghiêm).  
Lắng hết mọi vọng tâm nhờ các pháp môn tu tập, chân tâm sáng suốt thanh tịnh hiển bày, hiển lộ. Khi mọi cơn sóng to gió lớn trên biển (ví như vọng tâm) lặng hết, mặt biển bao la thanh tịnh hiện ra trước mắt (gọi là chân tâm hiển lộ). Khi mọi cặn cáu trong ly nước đục lắng hết, nước trong hiện ra rõ ràng. Mặt biển sóng gió cuồng nộ đen tối và mặt biển phẳng lặng thanh bình sáng sủa, tuy khác trạng thái nhưng không phải là hai (pháp môn bất nhị). Nước trong sạch dùng trong sinh hoạt có nguồn gốc từ nơi sông hồ không trong sạch, sau khi thanh lọc trở thành nước trong sạch.  
Cũng vậy, một con người dù có quá khứ không tốt, không sạch (do vô minh, nên tạo nghiệp), nếu biết tu tâm dưỡng tánh, quyết tránh các điều xấu ác, quyết làm các việc thiện lành, quyết giữ tâm ý thanh tịnh, người đó chuyển hóa thành vị Phật. Cho nên, đạo Phật chủ trương chuyển hóa tam nghiệp bất thiện thành tam nghiệp thanh tịnh, chuyển hóa phàm nhân thành thánh nhân, chứ đạo Phật không chủ trương tiêu diệt tất cả người xấu ác, như các tôn giáo hay tín ngưỡng khác. Một vị Phật tùng địa dũng xuất, nghĩa là từ nơi tâm địa chuyển hóa từ xấu thành tốt mà thành Phật. Câu nói: đồ tể buông dao cũng thành Phật, chính là nghĩa như vậy. 
Do đó, bông sen từ bùn nhơ ngoi lên, cố vượt qua thế giới đen tối, vươn lên trong không gian tỏa hương thơm ngát, là hình ảnh tượng trưng cho sự tu tập, cố gắng vượt bực để chuyển hóa từ phàm phu thành một vị giác ngộ hoàn toàn, gọi là toàn giác.

Cái khả năng vô hình tướng đó không phải là cái thân xác này, cho nên không có mắt tai mũi lưỡi (gọi là: vô nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt). Cái thân xác có lục căn (nhãn, nhĩ, tĩ, thiệt, thân, ý) và cảnh trần bên ngoài trên đời có lục trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp). Cho nên, khi lục căn (nơi con người) tiếp xúc với lục trần (6 cảnh trong trần đời), con người sanh ra lục thức (gọi chung là tâm thức, gồm có: nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức).  
Ví dụ: mắt (nhãn căn) của con người nhìn thấy lượng vàng (sắc trần), sanh tâm tham, muốn chiếm đoạt (gọi là nhãn thức). Ví dụ: tai (nhĩ căn) của con người nghe thấy tiếng (thanh trần), sanh tâm khen chê hay dở (gọi là nhĩ thức). Tương tự như thế, các căn khác như: mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với các trần cảnh như: hương, vị, xúc, pháp, bèn sanh vọng tâm thương ghét, khen chê, thị phi, phải quấy. Chính đây gọi là nghiệp lực, là động cơ, là nguyên nhân chính của sự sinh tử luân hồi.  
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: "Tâm cảnh không dính nhau là giải thoát". Nghĩa là: Chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên trần đời, trong kinh điển gọi là: kiến văn giác tri, nếu tâm không dính mắc, thì không phiền não. Không phiền não tức là giải thoát. Thật là hết sức đơn giản! Lý lẽ tuy cao siêu vi diệu, nhưng hết sức thực tế. Bất cứ ai cũng có thể làm được, không cần phải thờ lạy, cúng kiến, không phân biệt tôn giáo, sắc tộc, ngôn ngữ, nghề nghiệp, xuất xứ, học thức, nam nữ, già trẻ, bé lớn, giàu nghèo, sang hèn, tại gia hay xuất gia. Tâm không phan duyên chạy theo cảnh trần là: giải thoát! 
Tu theo Phật không cần phải cố chấp thờ lạy Phật hình tướng một cách mê tín, tu mù, với vọng tâm mong cầu điều nọ điều kia cho riêng mình, gia đình mình, đoàn thể mình, giáo hội mình, dân tộc mình, tôn giáo mình, không cần chọn chùa to tượng lớn, không cần theo giáo hội giáo phái nào, không cần phải là giáo phẩm cao thấp, không cần phải xưng là chính thống hay tiếm danh, không cần phải xưng là Phật tử hay không là Phật tử, không cần được khen thuần thành thường hay đi chùa, không cần khoe gõ mõ, tụng kinh bao nhiêu bộ, không cần hành tam bộ nhất bái, nhất tự nhất bái, không cần phải niệm Phật om trời vang vang chính điện, không cần vỗ ngực tự xưng đã tu và làm việc Phật sự năm bảy chục năm, không cần khoe khoang đã xây năm bảy chục cảnh chùa, không cần khoe có năm bảy chục hay hằng trăm đệ tử, không cần tự hào là danh môn chánh phái, đệ tử của vị này vị kia, không cần phải quì lụy, van xin thế quyền, giáo quyền, tìm kiếm chức phẩm danh vị trong đạo cũng như trong đời, không cần tất cả hình thức nghi lễ rườm rà của một tôn giáo, kể cả Phật giáo !  
Tu theo Phật là để giác ngộ cái khả năng (vô hình tướng) thành một vị chánh đẳng chánh giác và thoát ly khỏi sanh tử luân hồi. Người nào phát tâm tu cũng được, bất tùy phân biệt !
Tóm lại, Bát nhã tâm kinh là bài kinh tuy ngắn gọn, nhưng giải thích để hiểu rõ tường tận thật không thể ngắn gọn, tùy theo mỗi người, mỗi hoàn cảnh và sở thích của cá nhân. Bài viết này chỉ đơn giản, sơ lược đại ý mà thôi. Chúng tôi đề nghị quí ÐH tham khảo thêm các bài viết khác để vấn đề được sáng tỏ hơn, thấu đáo hơn.

 Chúng ta nên nhớ một điều khá quan trọng trong lịch sử của đức Phật Thích ca mâu ni là: Thái tử Tất đạt đa ra đi tầm đạo giải thoát năm 29 tuổi và thành đạo năm 35 tuổi, trong khi các vị tu sĩ thời bấy giờ cao tuổi hơn nhiều, tu lâu năm hơn nhiều, nhưng vẫn không giác ngộ và giải thoát như Ngài.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật  
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG
108 - 123 RAILROAD ST.
Brampton, ON, L6X 1G9, CANADA
Tel: 647-828-1016
Email: cutranlacdao@yahoo.com




Nhân nào quả nấy

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều thắc mắc, có nhiều vấn đề cần phải giải quyết, chẳng hạn như là: Qua sự việc chính quyền Taliban, xứ A Phú Hãn (Afghanistan), phá hủy các tượng Phật cổ ngàn năm, có người thắc mắc: Phật giáo chưa từng đi xâm chiếm bất cứ nước nào, nhưng ở điểm này sẽ hiểu thế nào về: "Nhân nào quả nấy"?  Phật giáo đại thừa phải chăng không thiết thực, nên dễ bị những nước khác xâm chiếm, bởi vì các nước Hồi giáo hiện nay là của Phật giáo đại thừa trước kia.  Và tình trạng của Phật giáo Tây Tạng ngày nay? 
* * *
Trước hết, chúng ta chia câu hỏi trên đây thành bốn phần, để tìm hiểu được rõ ràng:
1)                  Luật nhân quả.
2)                  Vấn đề chính quyền Hồi giáo Taliban phá hủy các tượng Phật cổ.
3)                  Phật giáo đại thừa và tiểu thừa.
4)                  Phật giáo Tây Tạng.
1) Luật nhân quả.  Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về luật nhân quả.  Luật nhân quả thường được tóm gọn bằng bốn chữ: "Nhân nào quả nấy". 

Thực đúng như vậy, trên phương diện khoa học thực nghiệm, nếu gieo hạt nhân cam, sau một thời gian, chúng ta có được cây cam và sẽ gặt được quả cam, cộng thêm với một số điều kiện cần thiết, thường được gọi là trợ duyên, chẳng hạn như: phân bón, ánh nắng, nước tưới, thuốc trừ sâu, công chăm sóc.  Không thể nào có chuyện gieo nhân cam ngọt lại gặt quả chanh chua, hoặc ngược lại.

Luật nhân quả được áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.  Có khi gieo nhân trong quá khứ, hiện tại mới gặt quả.  Có khi gieo nhân trong hiện tại, gặt quả ngay trong hiện tại.  Có những gieo nhân trong hiện tại, vị lai mới gặt quả.  Thí dụ như: gieo nhân tu tập lâu dài, một cách kiên tâm trì chí, mới gặt được kết quả cuộc sống an lạc hạnh phúc, cao hơn nữa, đạt được giác ngộ và giải thoát.  Trái lại, sinh sự sự sinh, đánh người người đánh, chơi dao đứt tay, chơi lửa phỏng lửa, ngay trong hiện tại, cho nên thường được gọi là quả báo nhãn tiền.

Tuy nhiên, có người gieo nhân thiện lành, trong hiện tại, như là: tụng kinh, niệm Phật, đi chùa, bố thí, cứu người, giúp đời, ăn hiền, ở lành, hiếu thảo, nhưng thường gặp phải những quả chẳng lành, trong hiện tại, như là: xui xẻo, tai nạn, thất bại, con cái hư hỏng, gia đạo bất hòa, cửa nhà suy sụp. 

Trái lại, có người gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong hiện tại, như là: trộm cắp, gian giảo, lừa đảo, ngậm máu phun người, vu khống cáo gian, sang đoạt của cải, tâm địa hiểm độc, đâm bị thóc thọc bị gạo, làm nhiều việc thất nhơn ác đức, nhưng lại gặp nhiều quả tốt lành, trong hiện tại, như là: giàu sang, quyền thế, ăn nên làm ra, sự nghiệp phát triển, thế lực ngày càng lớn lao, địa vị ngày càng vững mạnh.

Trường hợp trên, gieo nhân lành trong hiện tại, nhưng quả lành chưa kịp trổ ngay hiện tại.  Trong khi đó, gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong quá khứ, hiện tại đang trổ quả báo.  Thêm nữa, nhiều người tu mà không học, chỉ biết tụng kinh, niệm Phật, làm lành, nhưng không thấu hiểu giáo lý một cách rõ ràng, để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. 

Nhiều khi làm được một vài việc lành, như là: giúp người một việc, trích dẫn một bài kinh, tìm giúp một cuốn sách, rồi đâm ra kênh kiệu, ngã mạn, tưởng rằng đã làm phước nhiều rồi, đòi được đền đáp, đòi được trân trọng!  Tụng kinh niệm Phật, mà không biết đối xử từ bi hỷ xả, không áp dụng giáo lý trong cuộc sống hằng ngày, thì trách sao gia đạo chẳng bất hòa, con cái chẳng hư hỏng, người khác chẳng trân trọng!

Trường hợp sau, gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong hiện tại, nhưng quả báo chưa kịp trổ ngay hiện tại.  Trong khi đó, gieo nhân lành trong quá khứ, hiện tại đang trổ quả lành.  Tuy nhiên, khi những quả lành chấm dứt, nghĩa là phước báo hết, con người phải đền trả những nghiệp báo xấu ác, chẳng lành, đã tạo hiện tại hay trước đây. 

Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi đọc tin tức về một nhà triệu phú bị khánh tận tài sản, vợ con phản phúc, bạn bè trở mặt, đến nỗi phải quyên sinh, tự vẫn để thoát nợ đời!  Hoặc tin tức về các nhà lãnh đạo chính trị, hay tôn giáo, bị lật đổ, bị đão chính, bị ám sát, bị hành hình thê thảm, chết không chỗ chôn thây!  Hoặc tin tức về các công nương, quận chúa, hoàng tử gặp tai nạn trên xa lộ, chết chẳng toàn thây, gặp tai nạn trên biển cả, chết mất luôn xác!


Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
·        Dù cho lên non, xuống biển vào hang,
·        nghiệp báo đã mang, vẫn theo con người,
·        như hình với bóng, không ai có thể,
·        tránh được thoát được. 

2) Vấn đề chính quyền Hồi giáo Taliban phá hủy các tượng Phật cổ.  Hiểu rõ luật nhân quả như trên, chúng ta biết ngay rằng: việc chính quyền Hồi giáo Taliban xứ Afghanistan hiện tại (năm 2001) cho phá hủy các tượng Phật cổ, không phải là "quả" của nhân thiện lành "chưa từng xâm chiếm bất cứ nước nào" trước đây. 

Chúng ta nên thấu hiểu rằng: Luật nhân quả luôn luôn đúng trong ba thời, không hề sai chạy, không có ngoại lệ.  Chỉ hiềm một nỗi, chúng ta chưa đắc Phật nhãn, để thấy rõ tường tận, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã ba, ngã tư đường, mà thôi!  Cho nên, chúng ta không nên khẳng định: đâu là nhân, đâu là quả, trong trường hợp này!

Chỉ có những tượng Phật trang nghiêm, điêu khắc khéo, nét thanh tịnh, đáng được chiêm ngưỡng, thờ phượng.  Các tượng Phật hay tranh Phật bị hư hỏng, bị mối mọt gặm nhấm, mất trang nghiêm, cần nên hủy bỏ.  Có nhiều Phật Tử không nắm vững giáo lý, không dám hủy bỏ đi, cứ thắc mắc, động tâm mãi về chuyện này! 
 
Thêm nữa, chúng ta nên biết mọi sự sự vật vật trên thế gian này có hình tướng, chẳng hạn như là: cái bàn, cái nhà, tượng Phật, quả đất, đều trải qua bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không.  Nghĩa là: tượng Phật cổ thành hình do công sức xây dựng của con người có tâm thành trước đây, trụ thế được hai ngàn năm nay, đã tới thời kỳ bị hư hoại với thời gian, với nắng mưa, và giờ đây trở về hư không, cũng do công sức phá hoại của con người.  Thành trụ hoại không, còn được biết là: sinh, trụ, dị, diệt.  Thế thôi!  Chúng ta không nên bận tâm, không nên động tâm về những chuyện xảy ra trên thế gian như vậy.
  
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
·        Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. 

Nghĩa là: Phàm ở đời, cái gì có hình tướng thảy đều là hư vọng, là vô thường, không tồn tại vĩnh viễn, chính là nghĩa như vậy.  Ngay xác thân tứ đại của Ðức Phật Thích Ca cũng phải đem đi thiêu, sau khi nhập diệt.  Các đệ tử đã chuyển niềm tiếc thương ngậm ngùi thành sức mạnh, đem chánh pháp truyền bá đến muôn người, thuộc muôn thế hệ sau, cho được lợi ích không thể nghĩ bàn.  Nhờ đó, chánh pháp được lưu truyền mãi mãi cho đến ngày nay và ngàn sau.
 
Chúng ta nên biết rằng: Con người chỉ có khả năng hủy diệt tượng Phật, dù bằng vàng, bằng đá, bằng đồng, hay bất cứ vật liệu nào, chứ chẳng ai tiêu diệt được Phật Tánh. Tại sao như vậy?  Bởi vì, Phật Tánh không có hình tướng và mọi người đều có Phật Tánh một cách bình đẳng.
 
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
·        Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật Tánh. 
Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh. 
 
3) Phật giáo đại thừa và tiểu thừa.  Ðây chỉ là cách gọi các tông phái Phật giáo truyền đi từ các miền của xứ Ấn Ðộ, qua các xứ sở lân cận ở châu Á, còn được gọi là: Bắc tông và Nam tông.

Phật giáo đại thừa, còn được gọi là Phật giáo phát triển, bởi vì, du nhập vào bất cứ quốc độ nào, Phật giáo phát triển một cách hòa bình, hội nhập với văn hóa địa phương, không có sự tranh chấp hay kỳ thị, thường biến thành Phật giáo của xứ sở đó.  Chúng ta thấy có Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Ấn Ðộ, đều có bản sắc riêng biệt. 

Phật giáo tiểu thừa, còn được gọi là Phật giáo nguyên thủy, chủ trương giữ nguyên cách hành đạo thời Ðức Phật còn tại thế, cũng truyền bá một cách bình yên, an lạc, như là: Phật giáo Tích Lan, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Miến Ðiện, Phật giáo Ai Lao, Phật giáo Cao Miên.
 
Dù là tông phái nào, Bắc tông hay Nam tông, nói chung Phật giáo đều có tính thiết thực, thực tế, có thể áp dụng được trong cuộc sống hằng ngày, dù là Phật Tử hay không phải là Phật Tử, để thăng hoa cuộc sống, chuyển hóa tâm linh, biến bất an thành an lạc, biến khổ đau thành hạnh phúc. 

Phật giáo chủ trương con người phải tự cất bước trên con đường tu tâm dưỡng tánh, không có bất cứ ai làm thay mình được.  "Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng", đó là sự thực công bằng tuyệt đối.  Khi thực hành đến mức độ rốt ráo, ba la mật, chúng ta sẽ thấy mọi sự sự việc việc đều dung thông vô ngại, lý sự viên dung.

Ðức Phật chỉ cứu độ con người hữu duyên, tức là con người chịu tu học theo đúng chánh pháp, chứ không cầu nguyện van xin, để được Ðức Phật ban ơn cứu giúp.  Tại sao như vậy?  Bởi vì, van xin cầu nguyện thực sự có được gì đâu, chỉ làm cho con người được an tâm, bình an trong tâm hồn, trong khoảng thời gian bị nhiệt não mà thôi.

Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
·        Hãy tự thắp đuốc, tự mình bước đi.
·        Thắp sáng trí tuệ, ngọn đuốc chánh pháp.

Nghĩa là mọi người phải tìm hiểu, học hỏi chánh pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc trí tuệ Phật, bằng cách nghe giảng giáo lý, nghiên tầm kinh điển, rồi tự suy nghĩ, ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn giới luật, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ bát nhã.  Nhờ giữ gìn giới luật nên tâm trí được thanh tịnh và trí tuệ bát nhã khai mở.

Trong Phật giáo, đó là: tam vô lậu học "Giới Ðịnh Tuệ" và tam tuệ học "Văn Tư Tu", có khả năng đưa chúng ta đến chỗ giác ngộ và giải thoát.  Ðó chính là tính thiết thực của Phật giáo vậy.

4) Phật giáo Tây Tạng.  Còn việc các nước trước đây theo Phật giáo, nay biến thành Hồi giáo, mọi việc thay đổi, đổi thay chỉ chứng minh cuộc đời là vô thường, đúng lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển mà thôi. Riêng Phật giáo Tây Tạng gặp nạn phải lưu vong, đó là việc bất hạnh. Tuy nhiên, trong cái bất hạnh có cái hạnh lành, trong cái rủi có cái may, trong cái xui có cái hên, đó là: Phật giáo Tây Tạng hiện nay phát triển mạnh tại khắp nơi trên thế giới. 

Cũng như người Việt chúng ta sống khắp nơi trên thế giới hiện nay, không có gì gọi là: tủi nhục hay không tủi nhục. Tủi nhục hay an lạc không hẳn tùy thuộc nơi chốn, hay hoàn cảnh, mà tùy thuộc vào tâm thức của con người.  Tâm còn nhiều loạn động, con người còn thấy tủi nhục và đau khổ.  Tâm được bình an, thiền định, con người cảm thấy an lạc tự tại. 

Trong kinh sách có câu: "Tùy theo chỗ ở thường an lạc". 
Chúng ta thoát ra khỏi cảnh giới nhị biên đó, sẽ tìm được hướng tích cực, đó là: đem nhân lực, tài lực, vật lực, trí lực, từ mọi nguồn trên khắp thế giới, về phục vụ quê hương tổ quốc, khi hội đủ nhân duyên thuận tiện.  Ðó là cách chúng ta chuyển hóa nhân chẳng lành thành quả lành. 

Trong Kinh Hoa Nghiêm Ðức Phật có dạy:
·        Nhất thiết duy tâm tạo. 
 
Nghĩa là: cảnh giới thiên đàng niết bàn hay địa ngục trần gian, tất cả đều tùy thuộc vào tâm trạng của con người, do chính tâm của con người tạo ra.  Chẳng hạn như là: muốn được tâm Phật thì tự mình phải bỏ tâm ma.  Muốn được yên ổn thì tự mình phải bỏ tâm hay gây sự.  Bởi vì, sách có câu: "sinh sự thì sự sinh".  Do đó, đạo Phật mới có tam tạng kinh điển, chỉ dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn, để giúp đỡ con người được giác ngộ và giải thoát. 

Tóm lại, các điểm sau đây chính là tính cách thiết thực của đạo Phật, mà Ðức Phật dạy trong các kinh điển:
 
·        Hãy chuyển hóa phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc.
·        Hãy chuyển hóa thế gian ta bà khổ thành cõi tự tại niết bàn.
·        Hãy chuyển hóa phàm phu vô minh thành bực giác ngộ, 
·        chánh đẳng, chánh giác.    _ 


TỰ TÁNH TAM BẢO - VIÊN NGỌC MINH CHÂU



TKN Thích Nữ Chân Liễu
5.10.2011

Các vị Tổ khi xưa tu đắc đạo nhưng thân còn tại thế. Vì muốn hóa độ dễ dàng hơn, các Ngài thường vẽ ra hình tượng các vị Bồ Tát, để diễn tả các pháp tu, để khuyên dạy và giáo hóa chúng sanh. Người thế gian nếu chấp những hình tượng Bồ Tát đều là linh tượng, thánh tượng theo thần quyền, có thể ban phước giáng họa, cầu nguyện van xin, thì không lợi ích gì cho con đường tu tập bản thân. Chẳng những vậy, điều cố chấp này còn làm cho con người yếu hèn, sanh tâm ỷ lại, thêm tâm ích kỷ, ham muốn lợi riêng cho bản thân mình, gia đình mình. Rồi từ đó, con người sống cuộc đời với tâm tranh chấp hơn thua, đấu tranh và đau khổ triền miên.

Khi vô thường đến cướp mất người thân yêu, hay là chính bản thân đứng trước cửa tử, lúc bấy giờ tâm con người bất an, đau đớn, hoảng loạn, kêu cứu, giờ phút đó không biết rơi vào cảnh giới xấu tốt nào, địa ngục hay thiên đàng, Phật ở đâu, Bồ Tát ở đâu, sao không thấy? Làm sao giữ được bình tĩnh để ra đi an lành trong giờ phút đó? Câu hỏi này chúng ta cần phải tìm cho được giải đáp ngay bây giờ, trong lúc thần thức còn sáng suốt, tâm trí còn ổn định. Sanh tử sự đại. Đó mới là sự cần thiết quan trọng bậc nhất.
Trong các chùa chiền, tự viện, tu viện, tôn tượng trang nghiêm được an trí bên cạnh Đức Phật Bổn Sư Thích Ca, vị Bồ Tát thân đắp cà sa, hình tướng một vị tăng xuất thế, tay phải cầm tích trượng, tay trái nâng viên ngọc minh châu tỏa sáng. Đó là hình ảnh tôn tượng đại bi, đại nguyện, đại thánh, đại từ, bổn tôn Địa Tạng Vương Bồ Tát. Ngài phát đại nguyện: Địa ngục vị không, thệ bất thành Phật. Tâm nguyện Bồ Tát không muốn an hưởng Niết Bàn khi thấy chúng sanh còn quá nhiều đau khổ.

Địa: sâu dầy, chắc cứng, kiên cố, sâu kín, tối tăm.
Tạng: chứa đầy đủ, không hạn định, không đo lường.

Trong đạo Phật, Địa Tạng hàm ý đại địa bao la, tượng trưng cho tạng thức và căn tánh con người có thể dung chứa tất cả thiện ác, tốt xấu, có chân thật, có giả dối. Tâm con người có địa ngục và tâm con người cũng có niết bàn.
 


HÌNH TƯỚNG TRANG NGHIÊM VỊ TĂNG XUẤT THẾ
(TỰ TÁNH TĂNG BẢO - THANH TỊNH)



Tinh thần mạnh mẽ vô úy, lý tưởng vị tha của một vị hình tướng xuất gia, luôn dấn thân để cứu độ chúng sanh đang chịu khổ cảnh địa ngục kinh hoàng bởi vô minh. Hình ảnh thân đắp cà sa, gương mặt đôn hậu từ ái, lòng đại từ đại bi cao cả, là tấm gương sáng cho tất cả chúng sanh, tượng trưng cho “Tăng Bảo”, một trong ba ngôi tam bảo quí hiếm. Tăng bảo là người tu xuất gia, là kho chứa châu báu diệu pháp, mồi ngọn đuốc từ bi trí tuệ nơi Đức Thế Tôn, đem lợi lạc cho chúng sinh, mở sáng trí tuệ cho người tu học Phật.



Mặc dù sống trong nhà phiền não, nhưng người xuất thế tục gia được người đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường vượt qua rừng u minh tăm tối. Tâm từ bi độ lượng bao dung của người tu, như thửa ruộng hạnh phúc  an vui cho cuộc đời. Những lời thuyết pháp của Tăng bảo có sức mãnh liệt phá tan những vọng tâm, vọng tưởng sâu kín tận trong tâm thức của những người đang mê ngủ với thú vui tạm bợ, làm cho họ thức tỉnh.



Thân đắp cà sa có ý nghĩa kham nhẫn, sống đời phạm hạnh thanh tịnh và còn là sức mạnh của giới pháp, ngăn ngừa những tội lỗi của ác pháp. Chiếc áo cà sa che chở cho người tu trong cuộc sống xã hội đầy tham vọng, sân hận và si mê. Người xuất thế tục gia có nghị lực mạnh mẽ phát triển các thiện pháp, tự giải thoát cho bản thân, phát tâm hạnh Bồ Tát vì người, không phải chuyện dễ dàng ai cũng làm được.



Trong 37 phẩm trợ đạo dạy người tu cần phải có sức mạnh của Ngũ Căn (Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ), gọi là “Ngũ Lực” gồm có:



1. Tín Lực:       Sức mạnh của sự tin tưởng vào chánh pháp không thối chuyển.

2. Tấn Lực:       Sức mạnh của sự tinh tấn, quyết tâm thành tựu phạm hạnh trên    

                        đường tu.

3. Niệm Lực:Sức mạnh của tâm niệm, luôn ghi nhớ xa rời điều ác, giữ giới

                        trong sạch.

4. Định Lực:     Sức mạnh của sự quán sát tâm và tập trung vào thiền định, an

nhiên tự tại.

5. Tuệ Lực:       Sức mạnh của sự sáng suốt, trí tuệ mạnh mẽ đi đến bờ giác ngộ.          



Tu là ở nơi nội tâm có chánh tín sáng suốt và tư duy thanh tịnh, không phải ở hình tướng bên ngoài. Con người dù thân còn tại gia nhưng tâm xuất gia đều có thể thực hành “Ngũ Lực” mạnh mẽ và phát hạnh nguyện Bồ Tát như người xuất gia đắp y giải thoát vậy.



Tu là noi theo hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng, thấy được trong tâm địa con người có nghiệp lành, có nghiệp dữ, có tốt có xấu, có địa ngục, có niết bàn và có tự tâm tự tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh. Từ đó có thể tự tu, tự giác ngộ giải thoát cho chính bản thân và mọi người hữu duyên, như hạnh nguyện của người xuất gia đắp y giải thoát vậy.

Người biết cách tu, phải tự lực, tự giác ngộ, tự chuyển đổi tâm địa của chính bản thân, đến khi hoàn toàn không một tạp niệm nào sinh khởi nữa, tức là địa ngục đã trống không, lúc đó được giải thoát.


Đó chính là Tự Tánh “Tăng Bảo” thanh tịnh, mà ai ai cũng có.



TÍCH TRƯỢNG PHÁ CỬA ĐỊA NGỤC: CHÁNH PHÁP
(TỰ TÁNH PHÁP BẢO - CHÂN CHÁNH)



Địa ngục không nhất  thiết khi con người chết đi mới thấy, địa ngục ở ngay cõi đời ngũ trược ác thế. Địa ngục sanh ly tử biệt, địa ngục tù giam cấm cố tra tấn, địa ngục bịnh hoạn, đau đớn, rên xiết. Thật là quá nhiều địa ngục ngay trước mắt, con người phải chịu đền trả quả báo gây tạo ra nhiều đời nhiều kiếp trong lục đạo luân hồi.



Bồ Tát Địa Tạng tay cầm Tích Trượng biểu dương sức mạnh của Chánh Pháp. Năng lực của Tích Trượng hay Thiền Trượng là tâm đại từ đại bi của Bồ Tát, dùng chánh pháp chuyển hóa tâm địa con người đầy tham lam, hận thù, đố kỵ, si mê mù quáng có thể thức tỉnh kịp thời. Như những cánh hoa sen nở thơm tho thanh khiết, kết tụ của sự giác ngộ giải thoát, hoa sen đều từ gốc bùn tanh. Mục đích của người tu là phải có chánh pháp, hiểu tận tường thấu đáo, thực hành đúng theo lời Phật dạy. Chánh pháp chính là hiệu quả của “Tích Trượng phá cửa địa ngục”, là gậy vàng đập tan gông cùm xiềng xích trói buộc của địa ngục phiền não đau khổ.



Xuất gia hay tại gia đều có thể tự tu theo pháp “lục độ ba la mật”, trang nghiêm thân tướng với bố thí, trì giới, kham nhẫn, tinh tấn, thiền định và trí tuệ, để đạt tự tánh “Pháp Bảo” chân chánh. Từ đó phát sanh trí tuệ, phá vỡ cửa địa ngục vô minh nhiều kiếp luân hồi, tâm luôn hướng về Bồ Tát hạnh để cứu khổ chúng sinh. Người tu theo con đường chân chính của Đức Phật chỉ dạy, sống trong chánh pháp được an lạc hạnh phúc. Dù chưa thành Phật, chưa an hưởng niết bàn, nhưng ở mọi cảnh giới đều có thể tự độ và độ tha như hạnh nguyện Bồ Tát Địa Tạng. Còn sống trên đời, còn khỏe mạnh, con người nên dành nhiều thì giờ vào việc tu học, tự quán sát, tự soi vào tâm địa chính bản thân, bởi vì Phật dạy thân người khó được và được thân người là dễ tu nhất.



Trên đường tu học đạo, con người thường phải trải qua nhiều chông gai thử thách. Nào trùng độc, rắn dữ, cám dỗ của ngũ dục (tài, sắc, danh, thực, thùy), tiền của, sắc đẹp, danh lợi, ăn uống, ngủ nghỉ, ngày tháng rong chơi, ai nói gì cũng tin, ai bảo làm gì cũng nghe theo. Những thứ tà pháp đó dẫn dắt con người lạc vào con đường tà đạo đầy bóng tối tội lỗi. Chánh pháp là cứu cánh tận diệt tội lỗi, dứt trừ thói quen tạo nghiệp đua đòi và nhiều tật xấu tiềm ẩn trong kho tàng tâm thức con người. Khi hiểu tận tường giáo pháp trong kinh điển, thực hành và suy ngẫm thấu đáo lời Phật dạy, chuyển hóa tâm địa si mê sâu nặng trong tàng thức và tâm ích kỷ mù quáng, con người thức tỉnh kịp thời, đó là giải thoát.



Đức Phật dạy: "Phải luôn luôn quán chiếu nội tâm, thúc liễm vọng tâm vọng thức để tự giác ngộ. Tâm làm chủ mọi hành động, mọi nghiệp lực. Tâm là địa ngục, tâm cũng là niết bàn. Con người phải hứng chịu mọi quả báo an lạc hay đau khổ do chính mình tạo ra. Chính tự thân mới có đủ năng lực đưa mình ra khỏi địa ngục đau khổ mà thôi".



Địa Tạng là tâm địa sâu kín chân thật của con người, khi thức tỉnh biết tàm quí, sám hối tội lỗi, chấm dứt nghiệp dữ. Chuyển hóa, sửa đổi tâm niệm xấu ác thành thiện lành chính là con đường giải thoát ra khỏi luân hồi, tam đồ ác đạo: địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh. Hiểu được đạo lý như vậy thì rất có lợi lạc cho việc tu nhân, tích phước, kiệm đức, cứu người giúp đời. Người đời có thể che giấu được tâm tốt hay xấu với người xung quanh, nhưng không gạt được tâm địa của chính mình.


Nhận ra được chân lý sống, con người biết dùng chánh pháp làm phương tiện thanh lọc những tư tưởng ô nhiễm bám vào tâm thức nhiều đời nhiều kiếp. Thực hành lời Phật dạy, suy tư và tinh tấn phát huy định lực tự thân, vững bước tu tập cho đến khi đạt được Tự Tánh “Pháp Bảo” chân chánh, thân tâm được tự tại giải thoát khỏi cảnh giới địa ngục.



 

VIÊN NGỌC MINH CHÂU - TRÍ TUỆ
(TỰ TÁNH PHẬT BẢO - SÁNG SUỐT)



Bồ Tát Địa Tạng tay nâng viên ngọc Minh Châu, tượng trưng cho vật thể vô cùng quí giá, ánh sáng của ngọc Minh Châu có thể soi sáng trong bóng tối vô minh. Hình tượng Phật và Bồ Tát thường được diễn tả những tia hào quang, chiếu sáng xung quanh đầu hay toàn thân, chính là nghĩa đó.



Theo kinh sách, ánh sáng mang ý nghĩa là trí tuệ cao tột và sự sáng suốt thanh tịnh của những bậc giác ngộ siêu phàm, các vị chứng chánh đẳng chánh giác mới có được. Chư Phật, Chư Bồ Tát và Chư Tổ đắc đạo được người đời tin tưởng, là bậc thầy chỉ đường, cứu giúp con người vượt qua rừng u minh tăm tối. Con người nhờ được chỉ  dẫn, cố gắng tìm cho ra viên ngọc Minh Châu tượng trưng cho trí tuệ sáng ngời của tự tâm.


Viên ngọc Minh Châu tiêu biểu cho Phật tánh sáng suốt bất sanh bất diệt của con người mà ai cũng có. Trí tuệ cũng do từ bản tâm tự lực con người thanh tịnh mà được. Muôn pháp đều ở tại tâm, tùy tâm biến hiện.



Viên ngọc Minh Châu là ý nghĩa sự tỉnh thức giác ngộ của Phật tánh có công năng chiếu rọi vào sâu tận tâm địa của con người, vượt lên trên tất cả sự thấy biết của phàm phu. Nhưng con người vì sống trong sáu cõi luân hồi nhiều đời nhiều kiếp mê mờ nên không thấy được cái quí giá của tự thân, cứ lo mãi tìm Phật, cầu Bồ Tát bên ngoài.



Người có được ý chí mạnh mẽ, phát huy tinh thần tự giác, sống không chọn ăn ngon mặc sang, không hơn thua tranh chấp, biết sợ nhân quả, hiểu rõ vô thường, thân này trăm năm rồi cũng tan rã. Nếu tất cả những đòi hỏi của con người biết tùy theo khả năng và chỉ là phương tiện cần thiết, biết đủ cho cuộc sống, thì đạt được sự tự do và giải thoát khỏi sự trói buộc ngục tù của lòng tham sân si.



“Phật Bảo” là một trong ba ngôi báu của Tự Tánh Tam Bảo sáng suốt nhất, là kho chứa đựng châu báu rạng ngời và cao cả nhất. Tinh thần của đạo Phật không chấp nhận sự dựa dẫm, ỷ lại vào các hiện tượng linh thiêng huyền bí hay cầu nguyện vì lòng tham lam và ích kỷ. Người tu theo Phật phải có ý chí cương quyết phá tan mọi cám dỗ của danh lợi, không bị sáu trần (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) trói buộc, tìm cho được tự tánh “Phật Bảo” sáng suốt của tự tâm. Tâm mê là chúng sanh, tâm giác là Phật. Tâm mê ở địa ngục, tâm giác ở niết bàn.


Trong Kinh Kim Cang, Lục Tổ Huệ Năng ngộ được Tự Tâm Tự Tánh Tam Bảo sẵn có nơi tự thân mỗi người:

       

Bất ưng trụ sắc sanh tâm

            Bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm,

            Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm.



Nghĩa là: Con người không chấp giữ bất cứ việc gì cho riêng mình, đừng thấy sắc sanh phân biệt thương ghét, đừng vì cao lương mỹ vị mất cảnh giác, đừng vì lợi dưỡng sung sướng sanh tâm tham đắm. Không có chỗ dính mắc thì không có địa ngục khổ đau phiền não, tâm được nhẹ nhàng an lành giải thoát. Tâm “vô sở trụ” là tâm bồ đề, là ngọc Minh Châu sáng ngời trí tuệ. Đó chính là Tự Tánh “Phật Bảo” sáng suốt, dù sống ở cảnh giới nào cũng được an vui tự tại.

*

Tóm lại, Bồ Tát Địa Tạng một tay nắm vững tích trượng (từ bi), một tay nắm chắc viên ngọc (trí tuệ), không phải là vị thần linh, và không có khả năng phá cửa địa ngục cứu chúng sanh theo nghĩa đen, bởi vì như vậy trái với luật nhân quả và hiểu như vậy kinh Bát Nhã gọi là vọng tưởng điên đảo. Bồ Tát Địa Tạng biểu trưng chánh tín đủ hai yếu tố Từ Bi và Trí Tuệ. Người tu theo lời Phật dạy cần có chánh tín. Không có chánh tín, con người sẽ dựa vào thần quyền, dựa vào tha lực, nghĩ rằng tiền của, tài sản có thể mua chuộc được thần linh, và cầu nguyện Bồ Tát Địa Tạng cứu vớt sau khi chết. Cho nên người mê tín không quan tâm đến chánh pháp, suốt đời chỉ lo hơn thua tranh đấu, tạo nghiệp, chứ không sớm biết tu tâm dưỡng tánh, dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Từ đó, con người sẽ rơi vào trầm luân đau khổ của sanh tử không thoát ra được.


Người sáng suốt biết quan tâm đến chánh pháp, sớm thức tỉnh, rốt ráo thanh lọc thân tâm, vun bồi công đức, dụng công tu tập càng nhiều thì minh tâm kiến tánh càng sớm đạt thành. Thấy được Phật Pháp Tăng tự tâm tức là hằng sống trong “Tự Tánh Tam Bảo”.



TỰ TÁNH PHẬT BẢO:

Viên ngọc Minh Châu quí hiếm, là trí tuệ viên mãn, là Phật tánh sáng suốt, có công năng phá trừ vô minh và đạt chánh đẳng chánh giác.

TỰ TÁNH PHÁP BẢO:

Tích trượng Chánh Pháp nặng ngàn cân, là sức mạnh từ bi chân chánh vô úy của các pháp, có công năng tự giải thoát khỏi địa ngục đau khổ của thân tâm.

TỰ TÁNH TĂNG BẢO:

Tướng xuất gia và Tâm thanh tịnh. Tuy sống tại thế gian, nhưng Tâm xuất gia, hành Bồ Tát đạo, tự độ độ tha, chính là các vị chân tu thật học, một lòng không thối chuyển.



Khi mê mờ: Chúng con khổ - nguyện xin cứu khổ.

Khi giác ngộ: Chúng con khổ - nguyện xin tự độ. []



NAM MÔ U MINH GIÁO CHỦ BỔN TÔN ĐỊA TẠNG VƯƠNG BỒ TÁT.

TKN Thích Nữ Chân Liễu

thichnuchanlieu@gmail.com
  



Mang y bát đẹp bị Phật quở

Tác giả: Quảng Tánh


Đăng ngày 30 - 06 - 2015 - Lúc 09 : 42 : 10 (GMT+7)

Người ta vẫn thường nói “Chiếc áo không làm nên nhà tu nhưng nhà tu không thể thiếu chiệc áo”. Xem ra, chiếc áo của người tu cũng lắm vấn đề để bàn…..

Một thời, Thế Tôn trú tại Sàvatthi. Rồi Tôn giả Nanda, đắp những y khéo ủi, khéo là, bôi vẽ mắt, cầm bát sáng chói, đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên.

Thế Tôn nói với Tôn giả Nanda như sau:

Như vậy không xứng đáng cho ông, này Nanda, là con nhà lành, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, lại mang những y khéo ủi, khéo là, bôi vẽ con mắt và cầm bát sáng chói. Như vậy là xứng đáng cho ông, này Nanda, là con nhà lành, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình sống không gia đình, tức là sống trong rừng, sống bằng khất thực, sống mặc y phấn tảo và sống không mong đợi các dục vọng.

Thuyết giảng xong, Thế Tôn nói thêm: Ta mong được nhìn thấy; Nanda sống trong rừng; mặc y phục phất tảo; sống với những đồ ăn; biết là đã vứt bỏ; không mong chờ dục vọng.

Rồi Tôn giả Nanda, sau một thời gian trở thành vị Tăng sống trong rừng, ăn đồ ăn khất thực, mặc y phục phất tảo, không mong đợi các dục vọng.

(ĐTKVN, Tương Ưng Bộ II, chương 10, phần Nanda, VNCPHVN ấn hành 1993, tr.491)


LỜI BÀN:

Người ta vẫn thường nói “Chiếc áo không làm nên nhà tu nhưng nhà tu không thể thiếu chiếc áo”. Xem ra, chiếc áo của người tu cũng lắm vấn đề để bàn…..

Đối với Tăng sĩ Phật giáo thì y bát là những pháp khí rất quan trọng, được trân quý giữ gìn cẩn thận như tròng con mắt, là vật bất ly thân của mỗi Tỷ kheo. Thời Thế Tôn tại thế, y bát của Tỷ kheo sử dụng có tính tùy duyên, do gia chủ cúng dường, tốt xấu đủ loại. Ngoài ra, có khá nhiều Tỷ kheo nguyện mặc y phấn tảo, bằng cách lượm lặt những mảnh vải liệm xác chết quăng bỏ ngoài nghĩa địa hoặc vải hư rách nơi bãi rác, sau đó giặt sạch, nhuộm cho hoại sắc (không còn chính sắc) và kết lại thành y.


Tuy nhiên, thời Thế Tôn cũng như bây giời, một vài Tỷ kheo quá chú trọng đến hình thức bên ngoài, vẽ mày tô mặt, y láng bát trơn….như Tôn giả Nanda từng làm và đã bị Thế Tôn quở trách nặng nề. Đành rằng, một Tỷ kheo, bậc mô phạm “thầy của trời người” tất yếu cần phải trang nghiêm. Tuy vậy, sự trang nghiêm đúng nghĩa phải là “trang nghiêm tức phi trang nghiêm, thị danh trang nghiêm” (kinh Kim Cang). Phẩm chất đích thực của vị Tỷ kheo là nơi tâm trang nghiêm tỏa sáng làm nên vẻ trang nghiêm bên ngoài dù hình thức chỉ là một kẻ ăn xin (khất sĩ) tầm thường mặc y phấn tảo.


Vì thế, một khi nội tâm chưa thật sự thúc liễm để đạt được thanh tịnh thì sự xun xoe áo mão bên ngoài trong chừng mực nào đó cũng cần nhưng không thiết thực. Việc Tôn giả Nanda sau khi nghe lời dạy của Thế Tôn đã chuyển sang mặc y phấn tảo, sống đời khất thực, đoạn trừ dục vọng phải chăng là bài học quý giá cho những người con Phật hậu thế suy ngẫm và noi gương?

Nguồn: www.thuvienhoasen.org




Thế nào là một vị Chân Tu
Hỏi:

Thưa Thầy, thế nào một vị chân tu? Làm sao nhận định, đánh giá, biết được?

Đáp:

Đây là một vấn đề tế nhị, rất sâu rộng, khó giảng giải. Nơi đây bài viết nêu lên những nét đơn giản, khái quát.

Theo quan niệm Phật giáo, một vị chân tu là người thực tâm tu học, hành đạo chân chánh, hiền lương đạo đức. Muốn nhận định, biết được, hay đánh giá một vị chân tu, bản thân người này phải chân thực nắm vững chánh pháp, hiểu rõ thế nào là tu tập và hành đạo, nhất là phải tiếp xúc và thân cận lâu dài.

Chân tu không hẳn phải là vị tu trong chùa lâu năm, danh tiếng, nắm giữ các chức vụ cao, đệ tử đông, chùa to tượng lớn. Chân tu có thể ở nơi vắng vẻ tĩnh mịch hay ở nơi phố thị ồn ào để hoằng pháp độ sanh, tùy theo tâm nguyện và năng lực tu hành. 
Đạo tràng của vị chân tu có thể là các nơi tu viện yên tịnh, trang nghiêm, cũng có thể là nơi nhiều phiền não. Và cuối cùng, vị chân tu có thể mang cả hai hình tướng:

xuất gia hay tại gia.

Nhiều vị tu sĩ già nua tuổi tác ở chùa lâu năm lên chức lão làng, được người tán tụng là tùng lâm thạch trụ, thực chất chỉ là một đứa nhỏ 7 tuổi bị quăng vô chùa, do chiến nạn hay nghèo đói. Lớn lên ra đời không được vì ngu dốt, các đứa nhỏ này không học sách đời, lười học sách đạo, không siêng tu hành, tranh danh đoạt lợi, giành giựt địa vị, mê tín dị đoan, tỏ vẻ như ta đây chứng đạo, gạt gẫm bá tánh, mưu cầu lợi dưỡng. Một vài tổ chức thiền môn gặp phải mấy đứa nhỏ này quậy phá cho nát tan luôn.

Chuyện đời như chuyện đạo có hai mặt thuận và nghịch. Tu tập theo Phật giáo có thể qua hai giai đoạn: từ bi hỷ xả và giác ngộ giải thoát. Hành đạo theo Phật giáo có thể có hai hình thức: mặc áo cà sa hay mặc áo giấy, tùy cơ ứng biến. Nếu vị chân tu nắm giữ nhiệm vụ trụ trì một tu viện hay tự viện thì hành sự theo nghĩa «Trụ trì tức trụ Pháp Vương gia, trì Như Lai tạng». Nghĩa là người nào ở nhà Phật thì phải giữ đúng lời Phật dạy.

Nơi đây cũng nên lưu ý, hiện nay có nhiều kinh điển hay tài liệu nói «đây là lời Phật», nhưng thực ra không phải. Vị chân tu phải nắm vững để hướng dẫn bá tánh hiểu rõ hiểu đúng chánh pháp, theo đúng chánh đạo. Rất nhiều nghi lễ hình thức cúng kiến trong các chùa hiện nay là tà pháp, nhưng thu được quá nhiều lợi dưỡng, nên các tà sư vẫn lan truyền, như một loại bệnh dịch. Chẳng hạn như: lễ trai đàn bạt độ chẩn tế bình đẳng giải oan thủy lục thập loại cô hồn, lễ vớt vong như vớt bèo trên sông, lễ rãi tro, lễ phóng sanh thực chất là hại sanh. Tiếc thay nhiều vị lãnh đạo các giáo hội, các giáo phái xưng là thiền sư có khá đông đệ tử cũng bày trò này. Thật là lầm lẫn cho người tu theo. Họ ăn mặc sặc sở phi chánh pháp rất dễ nhận ra. Chỉ có những người u mê, tôn thờ sư phụ, nhắm mắt khâm tuân tự thân lạc vào tà đạo, còn lôi kéo thêm khá nhiều người khác.

Đức Phật có dạy:  
Nước đại dương chỉ có một vị mặn. Đạo lý chỉ có một vị duy nhất là giải thoát.
Do đó tu tập theo Phật, chân tu phải dẹp trừ cả ngã chấp và pháp chấp,
thực hành theo những pháp môn, phương thức
dẹp trừ bản ngã.

Chân tu là vị tu sĩ hay cư sĩ có khuynh hướng tu tập dẹp trừ bản ngã để thể nhập vào thể tánh chân tánh vắng lặng vô biên, không màng ái dục và lợi danh tầm thường. Vị chân tu chưa giác ngộ và giải thoát, chưa tìm được nương tựa cho tâm linh và chưa tự làm ngọn đuốc soi sáng, nên trở thành người đàng hoàng, đứng đắn, mô phạm, đạo đức, sống an hòa trên cuộc đời, nghiêm trì giới luật, tuân thủ các qui tắc, mô phạm và luật pháp của
thế gian, không tổn hại ai.


Các vị chân tu phát tâm xuất gia tu hành, phát tâm tu tập tại gia, coi thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì không quan trọng chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo.  Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.  Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập, hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia.  Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.

Đừng nghĩ hễ là chân tu thì phải nổi tiếng hoặc vị nào nổi tiếng thì phải là chân tu.

Người u mê ham danh tiếng hão nên không nhìn ra được những vị chân tu rất bình dị,  chơn chất, giản dị, không chùa chiền, không phép lạ, chẳng tiếng tăm, không bằng cấp,
hay danh vọng gì cả.

Không có thứ thước đo nào của thế gian có thể lượng định được chân giá trị của một bậc chân tu. Muốn nhận chân giá trị của một người tu, vị đó phải là bậc chân tu giác ngộ, đắc đạo. Muốn đánh giá, chấm điểm thí sinh, vị đó phải là giáo sư giám khảo,
năng lực hơn hẳn, vượt trội thí sinh kia.

Chỉ có chìa khóa duy nhất, tinh thần vô ngã vô úy, đức Phật dạy từ hơn hai ngàn năm trước, là có thể mở ra cho người môn đệ nguồn hứng cảm vô tận của sự giải thoát và giác ngộ. Vị chân tu phải là người bát phong suy bất động. Những người thân cận bậc chân tu cảm nhận sự bình an trong nội tâm và tinh tấn trong sự tu tập.

Tuy nhiên, phân biệt giửa vị chân tu và kẻ giả tu hay tu giả, cần phải có thời gian. Nhiều người xuất gia học đạo với một vị thầy, tưởng đâu là chân tu, đạo cao đức trọng, qua tuổi tác già nua, chùa to tổ đình lớn, danh vọng thế lực, nhưng sau một thời gian dài thân cận, nhận chân sự thật, đành phải ra đi, có lời từ giả hoặc không.

Có vài tiêu chuẩn tối thiểu và căn bản để nhận xét một vị chân tu, 

chẳng biết đúng hay không. Chẳng hạn như:

Có những người tu lâu năm, thường đi chùa, niệm Phật, ăn chay, ngồi thiền, theo học giáo lý với nhiều vị thầy nổi tiếng, nhưng chẳng biết đức Phật dạy điều gì.

Có những người tu chỉ thích đến chùa làm công quả, hoặc thích tạo chùa to, tượng lớn, nhưng không hiểu chánh pháp.

Có những người tu ham thích có nhiều chùa, đông đệ tử, nhưng không dạy dỗ gì cả.

Có những người tu thích học lấy nhiều bằng cấp thế gian, không hề học chánh pháp.

Có những người tu thích bản thân được nổi tiếng, không thích kẻ khác nổi tiếng.

Có những người tu ham tài sản, danh lợi, sắc dục, luôn kêu gọi cúng dường.

Có những người tu còn dễ nổi sân, giận dữ, bực tức khi gặp chuyện trái ý, luôn chê trách người khác quá động.


Có những người tu kiêu căng ngã mạn, thích khoe khoang, điều khiển kẻ khác, thích được khen ngợi, tâng bốc, không thích kẻ khác hơn mình.

Có những người tu chấp vào thầy của tôi, hay pháp môn của tôi là hay hơn hết, tâm tư hẹp hòi, ưa chia rẽ, bè phái, thích tu tướng chẳng biết tu tâm.

Có những người tu học hay đọc nhiều kinh sách, hiểu biết giáo lý, nói đạo rất hay, không biết làm phước, bố thí, keo kiệt, bỏn sẻn, bo bo bám chặt vào tài sản, tiền bạc của mình.

Có những người tu học đạo lâu năm, không nói lời ái ngữ, không giữ gìn khẩu nghiệp, ăn nói xả láng, chê bai, chỉ trích, vu khống, bịa đặt, phỉ báng kẻ khác, kẻ khác không được đối đáp.

Có những người tu thích kẻ khác khiêm cung và lễ độ, cái ngã của kẻ khác phải nhỏ dần và kẻ khác phải biết cung kính tôn trọng bản thân như là các bậc tôn túc, bậc trưởng thượng, bậc đại lão.

Có những người tu thích các danh xưng đại sư, đạo sư, tăng giáo trưởng, pháp sư niên trưởng, thiền sư, vô thượng sư, hòa thượng, thượng tọa, đại đức, dù tư cách không hơn chú tiểu.

Tóm lại, vị chân tu phát huy được tính chất
tam bảo của bản tâm:
 
sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh.[]

BBT.PHTQ.CANADA



TIỀN LÀM ĐỘNG TÂM, TIỀN SINH BẤT TỊNH
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ.

Tu hành trong hoàn cảnh kinh tế thị trường hiện nay rất khó.

Tu trong xã hội Âu Mỹ với nền kinh tế thực dụng càng khó hơn.

Dịch xây chùa và phấn đấu làm trụ trì của các tu sĩ Việt nam tại các xứ Âu Mỹ đang diễn ra như một chiến trường.

Tiền! Tiền! Tiền! trở thành tiếng réo gọi, át tiếng cầu kinh và niệm chú.

Các Thầy đã biến chùa chiền thành các “siêu thị Phật”. 

Thầy chưa có chùa thì lo vận động chạy đôn chạy đáo mua đất mua nhà xây chùa dựng tượng.

Thầy có chùa rồi thì có bao nhiêu là dự án xây dựng để kêu gọi Phật tử đóng góp.

Đồng tiền đã làm cho cửa Thiền thành chợ Trời buôn thần bán thánh.

Không có cách kiếm tiền phàm tục nào ngoài đời mà không có trong các chùa: 

Xổ số, lô tô, đại nhạc hội, tiệc ăn uống gây quỹ, bán đấu giá, ký sổ cúng dường hàng tháng, mượn vốn không lời… đang trở thành bệnh dịch

biến cửa chùa là nơi tôn nghiêm thành nhà hàng bán đồ ăn,

biến sân chùa thành sân khấu cho ca sĩ hát hỏng nỉ non uốn éo,

biến Phật đài trang nghiêm thành nơi bán và ký gởi tượng Phật.

Tất cả những phương tiện hoằng dương chánh pháp thiêng liêng của Phật giáo Đại thừa

đang biến thành dịch vụ thương mãi.

Cầu siêu: tiền. Dâng sớ cầu an: tiền. Ma chay, giỗ kỵ: tiền.

Xuống cấp thấp nhất là các Thầy thu tiền và bỏ tiền vào túi.

Hình ảnh đọa lạc nhất là có những Thầy chuyên nghiệp lên sân khấu, cầm micro thay vì nói pháp thì thao thao nói lời thuyết phục vận động xin tiền.

Ôi, hồng ân Tam Bảo, long thần hộ pháp làm sao mà tha thứ được.

Những Phật tử mê tín, đầu óc mù mờ u tối đã xem các thầy chùa như Phật Thánh.

Họ không hiểu rằng đưa phương tiện vật chất vào tay nhà tu là đang làm thay cho ma quỷ tới phá đường tu
thanh tịnh của quý Thầy.

Khi đầu óc đã dính mắc lo nghĩ tới tiền, tới chùa to tượng lớn, tới thế giới màu mè hình tướng

thì vô hình chung nhà tu đã không còn an trú trong giới luật.

Đạo Phật Việt Nam đang đi sai đường trầm trọng vì đang lâm vào hai tình trạng cực đoan.

Số các Thầy sống ở “cõi trên” thì lo nói toàn những chuyện cao siêu huyển hoặc.

Số các Thầy đang đọa lạc vào tham ái thì biến đạo Phật thành mê tín dị đoan để làm phương tiện kiếm tiền.

Thật ra, các Thầy ra ngoài giới luật chỉ là nạn nhân.

Thủ phạm chính là những người mang danh Phật tử mà không chịu hiểu Phật, đem vật chất làm sa đọa
các Thầy.

Xin các Thầy tỉnh táo lại để khỏi trể đường tu.

Xin các đạo hữu Phật tử hãy cùng nhau đứng ra xây chùa dựng tượng.

Nhưng tuyệt nhiên xin đừng làm sa đọa quý Thầy bằng cách đưa tiền, chính là đưa thuốc độc đến
cho bậc chân tu.

Đức Phật và Thánh chúng ngày xưa ngày ngày khất thực,

chỉ cần có miếng ăn đạm bạc ngày một bữa mà nuôi sống xác thân để thanh tịnh tu hành.

Các Thầy ngày nay ăn uống có kẻ hầu người hạ, bữa chính bữa phụ thật là đã lạc đường quá xa về xứ Phật.

Đôi điều chân thật nói ra, xin các Thầy và Phật tử hoan hỷ suy gẫm.

VP.PHTQ.CANADA

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Posted by: VP.PHAT HOC TINH QUANG CANADA



Kính mời tham khảo




CÔ HỒN VÔ THƯỢNG SƯ FASHION SHOW


Kính mời xem tiếp:





ÂN OÁN CÕI ĐỜI
AN TÂM (HT THIỆN SIÊU)
BÁT NHÃ TÂM KINH
BẤT TÙY PHÂN BIỆT
BÀN VỀ THIỆN VÀ ÁC
BÀI HỌC BỔ ÍCH
BÁT CHÁNH ĐẠO (CTLĐ 1)
BỘ SÁCH CƯ TRẦN LẠC ĐẠO 3 TẬP