TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Sunday 1 January 2012

*** ĐẦU NĂM ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP


Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Theo thông lệ xưa, cứ vào dịp Tết, Nguyên Đán hằng năm, nhiều người Phật Tử, cũng như mọi người, không phải Phật Tử, thường hay đi chùa, lễ Phật đầu năm, hái lộc đầu xuân, thắp hương khấn vái, cầu nguyện chư Phật, chư vị Bồ Tát, tổ tiên ông bà, phù hộ độ trì, năm mới trọn lành, bình yên vô sự, tai qua nạn khỏi, vạn sự kiết tường, muôn sự hanh thông, mọi việc như ý. 
Đó là truyền thống, tín ngưỡng lâu đời, chúng ta giữ gìn, từ thế hệ này, sang thế hệ khác, từ ở trong nước, ra đến hải ngoại. Bất cứ nơi nào, người Việt sinh sống, trước hay là sau, sớm hay là muộn, cũng có cảnh chùa, cũng có tu viện.

Phật đường Thiền đường, tịnh thất thiền thất, đạo tràng tu học, dựng lên phát triển, công sức bá tánh, tịnh tâm tịnh tài, để cho mọi người, có nơi lễ Phật, có nơi tạo phước, có nơi tưởng niệm, tổ tiên ông bà, phát huy văn hóa, có nơi tĩnh tâm, sau những tháng ngày, đấu tranh tranh đấu, kiếm sống vất vã.
Trong suốt cuộc đời, đầy dẫy khó khăn, những sự bất trắc, việc bất như ý, căng thẳng muộn phiền, hệ lụy trầm kha, mất mát vật chất, cũng như tinh thần, thăng trầm sóng gió, quan trọng nhứt là: có nơi tu học, thực hành Chánh Pháp, để đạt mục đích, giác ngộ giải thoát, dứt trừ những chuyện, phiền não khổ đau, thoát ly sanh tử, luân hồi nhiều kiếp. Tuy nhiên nên biết, con người đạt được, cuộc đời bình an, như lời cầu nguyện, hay không đạt được, chuyện đó không tùy, các đấng thiêng liêng, các vị thần linh, ngọc hoàng thượng đế, bất cứ vị nào. Tại sao như vậy? 

Bởi vì sự thực, thánh thần thiên địa, các vị thiêng liêng, nếu là các bậc, chí công vô tư, bất tùy phân biệt, không bao giờ làm, các chuyện bất công, thiên vị kỳ thị, ban cho con người, những điều van xin, cầu nguyện khấn vái, dù là thành khẩn, đến mức độ nào, nếu như người đó, không đáng được nhận, chẳng đáng được hưởng, mà lại không ban, cho bao người khác, xứng đáng hơn nhiều! Thực ra cần biết, tất cả những chuyện, vui buồn sướng khổ, hỷ nộ ái ố, những bước thăng trầm, của cuộc đời này, đều tùy thuộc vào, nghiệp duyên mỗi người, đều tùy thuộc vào, phước báu mỗi người, tạo được từ trước, cho đến giờ này.

Chẳng hạn như là: người nhiều phước báu, cuộc đời của họ, gặp nhiều may mắn, gặp đủ thuận duyên, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, thường gặp người hiền, thiện hữu tri thức, cầu gì cũng được, ít sóng gió hơn, ít phiền não hơn, ít cay đắng hơn, ít ưu tư hơn, ít khổ sở hơn, ít gặp người xấu, ít gặp hiểm nghèo, dù họ đang sống, bất cứ cảnh nào, bất cứ nơi nào, cũng vậy mà thôi.

Trái lại trên đời, những người kém phước, thường gặp xui xẻo, gặp sự hiểm nghèo, thiên tai địa tai, thủy tai hỏa tai, gặp người bất thiện, tổn hữu ác đảng, sa vào nghịch cảnh, sóng gió thường xuyên, khổ sở triền miên, cầu gì chẳng được, làm gì chẳng nên, gia đạo ly tan, tán gia bại sản, người thân gặp nạn, tai họa liên miên. 

Những người ít phước, lao đao lận đận, khốn khổ như vậy, bởi vì không biết, tu nhân tích đức, không chịu chăm lo, tu tâm dưỡng tánh, dù người tuổi già, hay là tuổi trẻ, lại còn tiếp tục, tạo tội tạo nghiệp, tranh chấp hơn thua, mua gian bán lận, bận tâm suy nghĩ, những chuyện vu khống, đặt điều cáo gian, khiến người lầm than, thất điên bát đảo, hại người lương thiện, đòi tiền bồi thường, vài ba triệu bạc, giựt hụi quịt nợ, làm ăn bất chánh, lường người gạt bạn, xúi giục mẹ cha, thưa kiện người ta, tán gia bại sản, thân bại danh liệt, sống dở chết dở, thiệt là tội nghiệp!
 


Bởi vậy cho nên, nhân dịp năm hết, tết đến hằng năm, chúng ta cùng nhau, xét lại cái chuyện, đi chùa đầu năm, hay vào dịp khác, làm sao thực hiện, cho đúng chánh pháp, làm sao cho được, ích lợi thực tế, có thể giúp đỡ, cuộc đời hiện tại, tất cả chúng ta, chuyển hóa tốt đẹp, được may mắn hơn, được an lạc hơn, được hạnh phúc hơn, gặp được thiện nhơn, chỉ đường dẫn lối.

Tìm thấy chánh đạo, biết cách tu tập, theo đúng chánh pháp, tu tâm dưỡng tánh, tránh cảnh chen lấn, giành giựt hái lộc, đi chùa đầu năm, giựt cho bằng được, trái cam trái quít, cành hoa nén hương, để đem về nhà, gọi là lấy hên, đồng thời tránh được, thất vọng não nề, ngay khi nhận ra, những người đi chùa, cũng không khác gì, những người ngoài đời, nhiều khi tệ hại, và nguy hiểm hơn, cũng như tránh được, thất vọng nãn lòng, khi lời cầu nguyện, không được đáp ứng, linh nghiệm như ý, và tránh được cảnh, mê tín dị đoan, tiền mất tật mang, bởi vì tin tưởng, ông bà thầy bói, nói bậy nói bạ, phong thủy địa lý, hý ngôn đủ thứ, tự nhận bừa bải, linh nghiệm như thần, trúng trăm phần trăm, vân vân và vân vân. 
Trước hết cần biết, quan niệm đi chùa, không đúng Chánh Pháp, là như thế nào, nhưng có rất nhiều, Phật Tử cũng như, không phải Phật Tử, hằng năm hằng tháng, vẫn cứ đi chùa, theo như cách đó. Theo như tín ngưỡng, ở trong dân gian, người ta đi chùa, van xin khấn vái, xin xăm xin keo, xem bói xem tướng, xem ngày tốt xấu, quan hôn tang tế, cầu cơ điểm nhãn, lên đồng lên cốt, đốt hình nhân giấy, đốt giấy vàng bạc, đô la mỹ kim, xe hơi nhà lầu, cầu khẩn thần linh, thỉnh bùa buôn bán, tình duyên gia đạo, thỉnh tượng thần tài, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn. Những việc làm này, không thuộc phạm vi, Phật giáo thuần túy, nhưng đã từ lâu, trộn lẫn vào trong, sinh hoạt chùa chiền, tạo nhiều ưu phiền, tạo nhiều nghi kỵ , xa rời Chánh Pháp, lạc sang tà đạo, cần phải chỉnh đốn. 

Trong suốt cuộc đời, năm nào cũng vậy, chúng ta cũng gặp, những chuyện may mắn, vừa ý vui vẻ, cùng với những chuyện, kém may không tốt, khó chịu buồn phiền! Ngay cả cuộc đời, các bậc thánh nhân, các vị giáo chủ, trên thế gian này, cũng không ngoại lệ, có người tán tụng, tung hô khen ngợi, bái phục qui ngưỡng, đồng thời cũng không, tránh khỏi rắc rối, phỉ báng mạ lỵ , vu khống cáo gian. Thậm chí có vị, bị bắt bỏ tù, hay bị xử chết, một cách thê thảm! Tại sao như vậy? Bởi vì thực ra, đã là người ta, dù là thánh nhân, bậc đại tu hành, hay đã đắc đạo, tất cả đều không, ra ngoài nhân quả.

Nói một cách khác, tất cả mọi người, gây tạo nghiệp nhân, do thân khẩu ý, tốt có xấu có, thiện có ác có, lành có dử có, hiền có hung có, trong vô lượng kiếp, hay trong kiếp này, nếu biết ăn năn, sám hối phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ chánh đạo, giải thoát luân hồi. Tuy nhiên vẫn phải, cam lòng đền trả, nghiệp quả đã gieo, mình làm mình chịu, thế mới công bằng, chí công vô tư, bất tùy phân biệt, chứ đừng lập đàn, cầu được bình an, bằng cách vái van, van xin cầu khẩn, uổng công vô ích, đó là quịt nợ! Khi nào nghiệp quả, còn gọi nghiệp báo, hay là quả báo, đến ngày phải trả, dù là thánh nhân, dù là giáo chủ, giáo phẩm chức sắc, quyền cao chức trọng, giàu sang danh vọng, chí đến thứ dân, bần cùng cố nông, cũng không tránh khỏi!

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Dù trốn lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
không ai tránh được.

Người trên thế gian, thường hay nói rằng: "hễ trời kêu ai, thì người ấy dạ!", hoặc là có câu: "lưới trời tuy thưa, mà chưa ai lọt", chính là nghĩa đó.

Chánh điện là nơi trang nghiêm thanh tịnh, là đạo tràng xuất gia và tại gia tu học, hiểu được như vậy đi chùa mới đúng chánh pháp.
 Không phải là nơi tuỳ tiện vui chơi. Để làm vui cho trẻ con, nhiều Tự Viện không còn là nơi tôn nghiêm nữa.
 


Những chuyện vào chùa, cúng chút tiền lẻ, hoặc một nén hương, hay một nãi chuối, một ít trái cây, một chút chè xôi, ôi thôi khấn vái, xin xỏ đủ điều, nhiều khi hái lộc, tay lắc ống xăm, mong được quẻ tốt, tình duyên gia đạo, thảy đều cát tường, thường muốn quẻ thượng, cầu khẩn van xin, khấn vái thần linh, cầu cho trúng số, cầu cho thắng kiện, cầu cho hơn người, đấu tranh thắng lợi, cửu huyền thất tổ, đều được siêu thăng, nội ngoại hai bên, ông bà cha mẹ, con cháu trong nhà, bình yên vô sự, sung sướng tấm thân, sức khỏe dồi dào, tai qua nạn khỏi, thi đâu đậu đó, được làm quan to, giàu sang phú quí. Đem tượng thần tài, vào chùa điểm nhãn, cho được linh hiển, phù hộ làm ăn, buôn may bán đắt, một vốn bốn lời, nhứt bổn vạn lợi, là những việc làm, biểu tượng tâm tham, vô bờ vô bến, thỏa mãn tâm sân, như hỏa diệm sơn, tràn ngập tâm si, vô minh muôn thuở! Tham sân si là, cội nguồn sanh tử, cần phải dứt trừ, chính nghĩa đó vậy.


Bởi vậy cho nên, trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:

Hãy tự thắp đuốc,
Sáng lên mà đi.
Thắp với Chánh Pháp,
Khai mở Trí Tuệ.

Nghĩa là Phật dạy: để dẹp trừ dứt, sinh hoạt mê tín, hiện tượng dị đoan, không đúng Chánh Pháp, Phật Tử chân chánh, thành tâm phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, cầu mong giác ngộ, chánh đạo giải thoát, sanh tử luân hồi, đều cần học hiểu, thực hành Chánh Pháp, ngay trong đời sống, ngay tại thế gian, tất cả mọi người, có thể làm được. Chánh Pháp tại thế gian, không phải do trời ban, chính mình phải cầu học, để có thể áp dụng, trong đời sống hằng ngày, chứ không phải là, những pho kinh điển, để thờ để lạy, không học hiểu được. Đức Phật thị hiện, thế giới ta bà, giảng kinh thuyết pháp, giúp đỡ chúng sanh, thoát ly sanh tử, phiền não khổ đau. Tại sao chúng ta, lại không tìm học, để đặng áp dụng, vào trong cuộc sống?

Ở trong kinh sách, chư Tổ có dạy:
Tu mà không học,
đúng là tu mù.
Học mà không tu,
chỉ là tủ sách.

HAY

Muốn tu thì phải học
Muốn đọc phải biết chữ 

Người không phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, dĩ nhiên gặp nhiều, phiền não khổ đau, mỗi khi nghịch cảnh, xảy đến thình lình. Người đã phát tâm, tu mà không học, không hiểu Chánh Pháp, chỉ thực hành suông, những điều truyền miệng, người trước làm sao, người sau làm vậy, làm sao tránh được, những điều mê tín, những chuyện dị đoan, tam sao thất bổn, xa rời Chánh Pháp, gọi là tu mù. 

Tam tạng kinh điển, là do chư Phật, chư vị Tổ sư, truyền lại nhiều đời, há chẳng ích lợi, gì cả hay sao? Nếu cứ đọc tụng, mà vẫn không hiểu, có thể tìm kiếm, các vị chân tu, các bậc tôn đức, thực học giáo lý, để xin nương tựa, để xin chỉ dạy. Làm được như vậy, chúng ta tránh khỏi, những kẻ ngoại nhân, lợi dụng hình tướng, tu sĩ Phật giáo, lẫn lộn vàng thau, hướng dẫn những điều, huyễn hoặc huyền bí, mê tín dị đoan, xa lìa chánh đạo, chẳng ích lợi gì! Những người thu thập, tam tạng kinh điển, nghiên cứu từ chương, tìm phương phô trương, sở học tri kiến, cũng chẳng ích lợi, cho việc thoát ly, sanh tử luân hồi, giác ngộ giải thoát, chỉ là tủ sách, hay là đãy sách!

Chúng ta không nên, quan niệm sai lầm, xem chùa như là, cái viện dưỡng lão, dành riêng cho người, gần đất xa trời, hay là dành cho, những người chán đời, thất bại trên đường, công danh sự nghiệp, hoặc là dành cho, những người chán chê, tình duyên gia đạo, ở ngoài thế gian. 

Bởi vậy cho nên, những người phát tâm, thay đổi hình tướng, vào tu trong chùa, bất cứ tuổi nào, cần nên phát nguyện, ly thân cắt ái, dứt bỏ hồng trần, lìa tam giới gia, xuất phiền não gia, tự độ độ tha, tự giác giác tha, giác hạnh viên mãn, cầu học Chánh Pháp, tu tập tinh tấn, đến ngày giác ngộ, thấu rõ biết rành, cốt tủy đạo Phật, chứ đừng giải đãi, tụng kinh ê a, lóc cóc leng cheng, như phường hát dạo.
Chuyên chú hình thức, cúng kiến lễ lạy, cúng sao giải hạn, quanh năm suốt tháng, cầu này cầu kia, vía ông vía bà, thực là uổng phí, cả cuộc đời này, lại còn dẫn dắt, bao người lầm lạc, vì tin màu áo, sa vào tà đạo, xa rời chánh đạo, biết đến bao giờ, quày đầu tỉnh ngộ? 

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: 
"Không nên tin ngay, tất cả những gì, người xưa đã nói, tất cả những gì, người có thế lực, đạo cũng như đời, tất cả những gì, người bề trên nói, tất cả những gì, nhiều người tin theo, có ghi trong sách.  
Chỉ nên tin theo, những gì có thể, kiểm nghiệm lại được, đúng với chân lý, đúng với lẽ thực, thông qua trí tuệ, sáng suốt thông minh, thấy có ích lợi, cho bản thân mình, và cho mọi người".


Để tránh sai lầm, cho chính chúng ta, không tin mù quáng, bất cứ lời nào, do những người có, thế lực ngoài đời, cũng như thế lực, trong các tổ chức, tôn giáo thế gian, chúng ta nhứt định, phải biết suy xét, tư duy nghiền ngẫm, đối chiếu so sánh, với tam tạng kinh, tạng luật và luận. Hơn như thế nữa, ở trong Phật giáo, có "Tam Tuệ Học", tức là ba môn học, giúp đỡ con người, phát sanh trí tuệ, thông minh sáng suốt, phân biệt chánh đạo, khác với tà đạo, có được chánh kiến, và có chánh tín, tránh được mê tín, và tránh dị đoan. Ba môn học đó, là: "Văn, Tư, Tu".

Trước hết chúng ta, cần phải lắng nghe, lời giảng thiết tha, của thiện tri thức, phải học kinh điển, và những lời dạy, của chư tôn đức. Xong rồi, chúng ta phải biết, tư duy quán chiếu, suy nghĩ nghiền ngẫm, một cách kỹ lưỡng, một cách tường tận, một cách thấu triệt. Khi nào nhận thấy, những lời dạy đó, quả thực đem lại, an lạc cho mình, ích lợi cho người, chúng ta bắt đầu, tu tập thực hành, vào trong đời sống, hằng ngày hằng giờ, của chính chúng ta.

Chẳng hạn như là: những lời tiên tri, về ngày tận thế, đã từng làm cho, bao nhiêu con người, nhẹ dạ dễ tin, nơi đấng thần quyền, phải chịu điêu đứng, tự sát tập thể, trước năm 2000, biến động vừa qua. Chẳng hạn như là: những chuyện phép lạ, chữa người tê liệt, đi đứng lại được, chữa cho người mù, thấy được ánh sáng, đều là những chuyện, không tưởng hoang đường, chẳng ích lợi gì, cho việc phát nguyện, tu tâm dưỡng tánh, chỉ đem lợi nhuận, thực là kếch xù, cho người lợi dụng, đức tin mù quáng, của mọi người khác. 

Tại sao như vậy? Bởi vì nếu như, có vị thánh nhân, cứu cho người chết, sống trở lại được, thử hỏi sau này, nếu như người đó, lại chết lần nữa, ai cứu họ đây? Lần này chết thiệt! Không sống lại đâu! Tại sao như vậy? Bởi vì cái vị, gọi là thánh nhân, đã phải lìa trần, bị người khác giết, chết mất đất rồi, ai mà cứu nổi! Khi Phật tại thế, có một thiếu phụ, khẩn cầu Đức Phật, cứu sống người con, mới vừa qua đời. Đức Phật bèn bảo, người thiếu phụ đó, đi xin đem về, cho được hột cải, từ gia đình nào, không bao giờ có, người đã qua đời. Dĩ nhiên kết quả, người thiếu phụ đó, không sao tìm được, hột cải như vậy. Bởi vậy cho nên, người thiếu phụ đó, liền giác ngộ được, "lý lẽ vô thường", của cuộc đời này.
 
Không có cái gì, ở trên đời này, tồn tại vĩnh viễn, không có người nào, trẻ mãi không già, sống mãi không chết, dù cho người đó, là bất cứ ai, giàu sang nghèo hèn, thông minh ngu dốt, quan chức thường dân, tu sĩ tín đồ, da đen da trắng, da vàng da đỏ, khỏe mạnh đau yếu, tất cả cũng đều, có ngày bắt buộc, từ giã cuộc đời, hai bàn tay trắng, chỉ đem theo được, cả khối nghiệp báo, đã gây tạo nên, trong suốt cuộc đời, sống trong vô minh, không biết chánh đạo.

Tóm lại chúng ta, khi gặp thuận cảnh, nhiều sự may mắn, cuộc đời an vui, chúng ta nên biết, mình đang hưởng phước, tiếp tục cố gắng, tu tâm dưỡng tánh, tạo thêm phước báu, tránh xa các việc, tạo tội tạo nghiệp, dù trong hành động, dù trong lời nói, hay trong ý nghĩ.  Khi gặp nghịch cảnh, khốn khổ khó khăn, cuộc đời sóng gió, chúng ta biết ngay, mình kém phước báo, phải trả nghiệp báo, không thể tránh khỏi, không thể cầu an, bằng cách vái van, xin xăm bói quẻ, cho nên quyết chí, tu tâm dưỡng tánh, giúp đời giúp người, làm việc phước thiện, nhứt định chuyển nghiệp, chuyển hóa tâm tánh, tu theo chánh đạo, từ bi hỷ xả, bình tĩnh thản nhiên, trước mọi sóng gió, của cuộc đời này.

Chúng ta quyết tâm, từ đây trở đi, đầu năm đi chùa, chánh tín lễ Phật , mỗi năm một lần, hay thường xuyên hơn, mỗi tháng mỗi tuần, đều với mục đích: cầu học Chánh Pháp, gần gũi bạn đạo, thảo luận pháp tu, thọ bát quan trai, hành thập thiện giới, trao đổi kinh nghiệm, đọc kinh đọc sách, thỉnh băng thuyết pháp, đem về tu học. Tinh tấn thường xuyên, nội cần khắc niệm, tạo được công phu, ngoại hoằng bất tranh, tạo nên đức độ, bên trong tĩnh lặng, bên ngoài an vui, cho đến một ngày, giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não, chẳng thấy khổ đau, mặc dù vẫn sống, ngay tại thế gian, như bao người khác, thân tâm tự tại, an lạc hạnh phúc, cư trần lạc đạo.

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ



Kính mời quí vị xem bài viết "QUA CƠN MÊ" theo link:







XIN QUẺ ĐẦU NĂM


- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?
- Như vậy là xui tận mạng rồi chứ còn gì nữa. Con phải đi chùa lạy Phật nhiều, cúng chùa nhiều, mới hóa giải tai ách này được. Nhớ đó.
- Trời ơi! Chết con rồi, trời!
* * *

- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni sư?
- Chào đạo hữu. Đạo hữu hãy an tâm, không có gì xui xẻo hết đâu. Mấy cái quẻ xăm này để lắc cho vui, để những người còn tin chuyện linh thiêng huyền bí, thích cầu khẩn van xin về chùa dịp đầu năm. Chuyện hên hay xui của con người tùy thuộc chuyện làm thiện hay làm ác trong cuộc sống, chứ không phải tùy thuộc nơi quẻ xăm này.
Đó là luật nhân quả.
Người làm việc thiện thì gặp phước báo, gặp may, gặp hên.
Người làm việc bất thiện thì gặp quả báo, gặp xui, gặp nạn tai, trắc trở.

- Nếu muốn tránh xui xẻo, tai qua nạn khỏi con phải làm sao?
- Con người nhiều đời nhiều kiếp vừa làm việc thiện, vừa tạo nghiệp chẳng lành. Cho nên, có khi gặp may, có khi chẳng may. Để tránh xui xẻo xảy đến, con người phải biết sám hối và nguyện không làm chuyện sai trái, đem đau khổ cho người, qua thân (đánh người), miệng (chửi mắng, nói xấu), và ý nghĩ (nghĩ xấu, nghi ngờ).
Thêm nữa, hãy tạo phước báu bằng cách cứu người, giúp đời, tu nhân tích đức, bù lại việc xấu ác đã tạo nghiệp trước kia.
- Nhưng mà con vẫn lo sợ chuyện xui xẻo xảy đến. Vậy con phải làm sao?
- Đạo hữu thử xin quẻ khác xem sao, chắc là quẻ khác?
- Ờ hén, cám ơn Ni sư chỉ dạy rõ ràng. Con sẽ đi chùa thường xuyên để học đạo lý với Ni sư, Ni sư cho phép con nha.
- Mô Phật. Như vậy gọi là đi chùa đúng chánh pháp. Quí lắm. []

Ban Biên-Tập PHTQ
cutranlacdao@yahoo.com
                                              
Kính mời quí vị xem bài viết "Phật Giáo Có Mê Tín Không" theo link: 




XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU
TKN Thích Nữ Chân Liễu
 

Nhân dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.

Một sức sống vui tươi vô cùng kỳ diệu khi nhìn cảnh sắc xinh tươi của "Mùa Xuân", tâm tình ai ai cũng cảm thấy phấn khởi và hoan hỷ đón mừng mùa xuân an lạc hạnh phúc, cát tường như ý. Hương xuân làm con người lạc quan yêu đời, cũng là thời gian mà người tu tâm dưỡng tánh có thể chuyển mình tự đứng lên, vượt thoát quá khứ nhiều phiền não, nhìn về tương lai đầy hứa hẹn.

Đệ tử Phật gia ai ai cũng mong ước được vô lượng an lạc, vạn sự cát tường, Phật sự hanh thông, Phật đạo viên thành và đạt được mùa xuân miên viễn, như những lời chúc đầy đạo vị mỗi khi xuân về.

Mong ước đạt được những điều chúc tụng đầy ý nghĩa trong dịp xuân về, người con Phật nên hiểu rõ ràng về giáo lý nhân quả và sự thực hành đúng chánh pháp, áp dụng giáo lý đạo Phật trong đời sống hằng ngày.

Điều quan trọng vô cùng sâu sắc của Phật pháp, thể hiện qua giá trị nhân cách sống cao thượng chân chánh của người tu, đó chính là "Xuân trong nét đẹp của người tu", kết quả là sự an lạc cát tường như ý, không mong cầu cũng luôn luôn hiện hữu.

NÉT ĐẸP CỦA
NGƯỜI TU XUẤT GIA

Theo sự tích của Đức Phật, hình ảnh thanh tịnh, từ tốn, bước chân an lạc xuất trần của một vị Sa môn, cùng tấm áo cà sa đơn giản, đầu trần chân đất, cuộc sống ung dung tự tại đã làm Thái Tử Tất Đạt Đa xúc động. Xuất thân từ cung vàng điện ngọc, địa vị cao sang quyền quí tột đỉnh, nhưng cuộc sống của vị Sa môn Cồ Đàm đơn giản thuần khiết, cơ cực khổ hạnh thể hiện qua một con người siêu việt xuất thế. Đức Phật là nét đẹp đạo hạnh đầy đủ "Từ bi và Trí tuệ". Sự kính phục tuyệt đối của nhân loại về chân lý đạt đến cứu cánh giải thoát sanh tử, ngàn đời nay đến đời sau đối với Ngài là vô cùng vô tận.

Sống trong giới pháp của Đức Phật, người tu xuất gia không phải bận rộn miếng cơm manh áo, không lo toan chuyện thị phi thế gian, là đang được hưởng gia tài của cha lành Thế Tôn để lại. Trên bước đường hành đạo, có nhiều chông gai trắc trở, đồng thời cũng có nhiều cám dỗ của vật chất danh lợi trong giai đoạn tự chế ngự bản thân, đó là thử thách, rèn luyện công phu tu tâm dưỡng tánh.

Đối với mùa xuân mỗi năm qua mau, kiếp sống con người thật ngắn ngủi, nếp sống thanh tịnh trầm mặc của các vị tu sĩ là khép lại bớt lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.

Mắt: Không thấy vật chất là vĩnh cửu, là quí giá, cần nắm giữ cho riêng mình.

Tai: Không nghe nhiều, không chấp vào tiếng khen chê, sanh tâm thương ghét phân biệt.

Mũi: Không để cho mùi vị, hương lạ làm tâm tán loạn, sanh tâm mê đắm, thích hưởng thụ.

Lưỡi: Không để cho cảm giác ngon dở, ưa thích sai khiến, tạo nghiệp chẳng lành.

Thân: Không hơn thua, đẹp xấu phô trương, sanh lòng khinh mạn đua đòi.

Ý: Không để cho ý sanh vọng tưởng điên đảo, tâm thức tán loạn sẽ rơi vào tội lỗi.

Chứng thực cho sự giải thoát của con người, là được sống thảnh thơi trong an nhàn, tâm an tĩnh, trí sáng suốt, rời xa những bon chen, xô bồ của cuộc sống thường ngày, rời xa vòng danh lợi thế gian, thoát khỏi bể khổ trầm luân. Ấy chính là khi Tâm ta hoàn toàn an tĩnh.

"Nét đẹp của người xuất gia" không phải là hình tướng khác thường bên ngoài, không phải mũ cao, áo thêu áo gấm, đủ màu đủ sắc. Xuân đối với người xuất gia là cái đẹp trong sáng ở nội tâm, khi Tâm thanh tịnh, rời xa được lòng tham lam, sân hận, si mê, nhân cách thuần hậu, nguyện đem lợi lạc cho mình cho người.

Tâm hạnh người xuất gia cao thượng chân thật vô ngã vị tha, ắt sẽ đạt đến Niết bàn vô lượng an lạc, đó là "Xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia", cũng là giá trị hạnh phúc bất tận cho người tu ngay tại thế gian.


NÉT ĐẸP CỦA
NGƯỜI TU TẠI GIA

Đạo Phật không đòi hỏi mọi người đều phải lên Chùa để tu, cầu Kinh sớm hôm và hàng ngày phải ăn chay khổ hạnh hay buộc phải hoàn toàn cắt đứt tất cả tình thương với người thân, mới gọi là biết tu.

Ý nghĩa của chữ TU là tu tâm sửa tánh. Đức Phật dạy: "Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao quý nhất".

Khi những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã dứt sạch, thì sẽ chế ngự được tham lam, sân hận, si mê. Kết quả thực tế, cũng là phần thưởng cho những cố gắng, nổ lực không ngừng của người tu tại gia, trước mắt là những  chuỗi ngày hạnh phúc, vui vẻ, đầy an lạc.

Một người yếu đuối sợ khó khăn, tâm tánh ích kỷ, thích mơ mộng danh lợi, đòi hỏi nhiều về thú vui vật chất riêng bản thân, muốn một cuộc sống "tu tại gia" không dễ dàng thực hiện được. Một ví dụ, như làm cha mẹ muốn tu tại gia, vừa trách nhiệm lo miếng cơm manh áo cho gia đình, cho các con, lại còn phải hộ trì Tam Bảo, tu học Phật pháp, niệm Phật, ngồi thiền, tụng kinh, tự soi rọi thanh lọc tâm, không phải ai cũng làm được. Nếu thực hành vẹn toàn được công phu "tu tại gia", người tu luôn luôn chịu hy sinh rất nhiều cho riêng bản thân mình, tâm ý cao thượng khó làm khó thực hiện, nhưng đó chính là môi trường tu tâm dưỡng tánh tuyệt vời nhất.
Người muốn tu, ở hoàn cảnh nào cũng tu được, nếu hiểu được cách tu theo lời Phật dạy, nghĩa là áp dụng tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ, xả, khoan dung rộng lượng trong đối xử, biết tự kềm chế thú vui vật chất, mạnh dạn hy sinh lợi ích cá nhân, biết xả bỏ ích kỷ nhỏ nhen. Người tu tại gia tự độ và còn có thể độ được cho những người thân trong gia đình và làm tấm gương  cho con cháu noi theo. Sống biết đủ, không đòi hỏi nhiều, không bận rộn vào cuộc vui vô nghĩa, người "tu tại gia" sẽ có rất nhiều thời gian cho việc nghiên tầm kinh điển, tu học để khai sáng trí tuệ, trưởng dưỡng từ bi.

"Nét đẹp của người tu tại gia" là cuộc sống chân thật hồn nhiên, một nhân cách trong sạch và một tâm Bồ Tát tại gia vô chấp vô phân biệt, vượt qua được hình tướng xuất gia, nhưng vẫn có thể thành tựu đạo nghiệp.
Người "tu tại gia" có thể đem lại cho mình, cho những người thân sống chung quanh sự bình yên tuyệt đối trong tâm hồn, sự thoải mái vô cùng qua cung cách cư xử trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm cũng như ý nghĩ. Đó là ý nghĩa vi diệu tuyệt vời "Xuân trong nét đẹp người tu tại gia", ngay từ những điều vô cùng giản dị trong cuộc sống hằng ngày.

Tóm lại, mùa xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia hay tại gia là ở tâm hạnh của Bồ Tát, nhân cách nghiêm tịnh, giới đức khiêm cung.
 Được gần các "Bậc Thiện Nhân" con người sẽ cảm nhận vô lượng an lạc hạnh phúc, như được hưởng gió mát và ánh nắng ấm áp, đầy đạo vị của những cánh hoa xuân tươi đẹp.

- Trang nghiêm giới hạnh, đó là thân đẹp.
- Ăn ở hiền hòa, thủy chung, đó là nết đẹp.
- Cư xử khiêm hạ, từ tốn, đó là cử chỉ đẹp.
- Giúp đỡ người bị nạn hay đói nghèo, đó là tấm lòng đẹp.
- Hiếu với cha mẹ, kính bậc hiền thánh, đó là tâm hồn đẹp.
- Gặp người đau khổ, sợ hãi, nói lời an ủi, đó là ngôn ngữ đẹp.
- Không khởi tà niệm, tâm luôn chánh trực, đó là ý đẹp.
- Biết độ lượng, bao dung, đó là đức hạnh đẹp.
- Khai mở tâm trí, phá trừ vô minh, đó là trí tuệ đẹp.
- Đạt được giác ngộ và giải thoát, đó là nét đẹp tối thắng.

Mùa xuân tuyệt đẹp với một tâm thức an bình tự tại, người biết tu hãy quay trở về nội tâm, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, trưởng dưỡng tâm từ bi, thấy được Phật tánh không sanh, không diệt của mình, để ngộ ra "ý xuân vi diệu" này.

Có như vậy, ta mới có thể thanh thản sống đời, không tự ti cũng không tự tôn, với cái nhìn tự tại, vô úy giữa muôn sự có không, đúng sai, hơn thua, được mất, vinh nhục.

Ở thế gian tất cả các pháp sanh diệt đều là vô thường.
"Mùa xuân trong nét đẹp người tu" mới thật sự đem lại thân tâm an lạc, phước trí trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện, vạn sự cát tường. []


NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

TKN Thích Nữ Chân Liễu

  sống trong hạnh phúc

          Nhà văn nữ người Mỹ Hellen Keller đã từng nói: “Tôi đã khóc vì không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đeo giày.”
          Nếu bạn hỏng xe dọc đường, phải cuốc bộ vài dặm mới tìm ra được người giúp đỡ - Hãy nghĩ tới những ai liệt cả đôi chân, luôn khao khát được bước đi như bạn.
          Đó là lúc khó khăn của bạn, đôi chân của bạn có thể đưa bạn đến bất cứ nơi đâu, đó là hạnh phúc và may mắn khi bạn sinh ra trên đời được có quyền đứng trên đôi chân của mình để đi. Khi không may đôi chân phải nặng nề hơn trên con đường đang bước thì hãy chớ vội nản lòng, khó chịu bởi đằng kia có rất rất nhiều người đang khao khát được bước và được đi như bạn dù chỉ một bước chân....
          Nếu bạn cảm thấy đời mình bị mất mát và băn khoăn về ý nghĩa kiếp người - Xin bạn hãy biết ơn cuộc sống vì có nhiều người đã không được sống hết tuổi trẻ của mình để có những trải nghiệm như bạn.
          Đừng bao giờ nghĩ rằng mình kém may mắn trong cuộc đời này, hãy biết trân trọng từng phút giây khi được sinh ra trên cuộc đời này.
          Nếu bạn cảm thấy mình là nạn nhân của những ai hay cay nghiệt, dốt nát, nhỏ nhen, nghi kỵ - Hãy nhớ rằng việc đời có khi còn tệ hại hơn thế rất nhiều.
          Sống là động nhưng lòng không dao động.
          Mỗi sớm mai thức dậy hãy nở một nụ cười thật tươi để trả lại cho cuộc sống đã cho ta được sinh ra trên cuộc đời này, có được một đôi chân vững chãi để bước đi, có được một đôi tay lành lặn để ôm ấp những người mà ta yêu thương, có được một đôi mắt sáng để nhìn ngắm thế giới xung quanh, có được niềm tin và nghị lực trong mỗi chặng đường đời để cảm thấy mình hạnh phúc dù ở trong hoàn cảnh nào.
Xin nâng niu và trân trọng từng phút giây mà chúng ta đang có để biết yêu thương được đong đầy như thế nào trong cuộc đời mình.

SUỐI NGUỒN BÌNH ĐNG TÁNH


Pháp vũ đồng lưu, lưu bất đoạn

Phật đăng phổ chiếu, chiếu vô cùng

*

Mưa pháp tràn lan, lan chẳng dứt

Ðèn từ rạng chiếu, chiếu không cùng.

(Tổ Khánh Hòa)



Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, Phật Giáo đồ khắp năm châu đã đón nhận ánh sáng khai ngộ của Ðức Phật bằng sự chân thành cung kính và tri ơn vô cùng vô tận. Khi còn là Thái tử Tất Ðạt Ða, nhận thấy cảnh sanh lão bịnh tử, đem đến sự thống khổ cho nhân loại, Ngài quyết tâm ra đi tìm đạo giác ngộ giải thoát cho chúng sinh. Trải qua nhiều chặng đường cầu đạo gian lao, với sáu năm kiên trì khổ hạnh, Ðức Phật đoạn trừ được hết tham ái, lậu hoặc và vô minh, chứng đắc quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác, trở thành Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi đắc đạo, Ðức Thế Tôn nhắn gởi nhân loại thông điệp: “Tất cả chúng sanh đều bình đẳng trong Phật tánh, không phân biệt giai cấp quí tộc hay hạ tiện. Ta là Phật đã thành, tất cả chúng sanh đều có khả năng thành Phật”. Nghĩa là không có giai cấp phân biệt trong Phật tánh, khi mê lầm là chúng sanh, khi giác ngộ sẽ thành Phật. Ai cũng có Phật tánh giống nhau và có thể tu hành để thoát vòng luân hồi sanh tử. Ðó chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật tuyệt đối.



Sự Bình Ðẳng Trong Nhân Gian:

Xưa kia, xã hội sống dưới sự thống trị của giai cấp giàu có và đầy quyền lực. Do đó, tạo ra nhiều bất công và bất bình đẳng về vật chất, quyền lợi và địa vị. Nhân gian thống khổ lầm than, đấu tranh, hận thù, chết chóc luôn xảy ra. Vì phải chịu đựng sự áp bức bất công, đau khổ, nghèo đói, và ly tán, người dân thường hay cầu khẩn, van xin, để được nhiều điều ước muốn bình an như ý. Họ tìm tới những thuật sĩ và đạo sĩ, chuyên dụ dẫn mê hoặc tín đồ nhẹ dạ, nhắm mắt tin tưởng những vị thần thánh huyền thoại tưởng tượng, đầy vạn năng, có thể ban phước giáng họa theo lời cầu khẩn van xin. Dựa vào những ảo tưởng mơ hồ đó, thường không được như ý, con người chìm đắm trong đau khổ và thù hận, chiến tranh bùng nổ khắp nơi. Ngày nay, luật pháp do con người đặt ra, tôn trọng nhân quyền trong xã hội tuy có tiến bộ, bình đẳng được cải thiện trong một số lãnh vực cần thiết về đời sống, đạo đức được đánh giá cao, nhưng đó chỉ là bình đẳng tương đối trong thế gian mà thôi.

                          

Trong đời sống gia đình, giữa vợ chồng, con cái, sự bình đẳng được đặt vào vị trí cho từng thành viên. Ðạo đức giữa vợ chồng là phải có sự tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau. Cha mẹ phải có trách nhiệm về sự trưởng thành của các con. Phận làm con cũng phải vẹn tròn hiếu đạo đối với cha mẹ. Như vậy ngay trong gia đình, sự bình đẳng tương đối đem lại an lành và hạnh phúc. Ðạo đức xã hội được cải thiện, đời sống bớt đi tranh chấp, phân biệt đối xử, phải trái, hơn thua, được mất, giấc ngủ mọi người tương đối được bình yên. Kinh Pháp Cú có dạy:



Người hơn thì thêm oán

Kẻ thua ngủ chẳng yên

Hơn thua đều xả bỏ

Giấc ngủ được bình yên.



Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh Trong Nhân Quả:

Chân lý nhân quả chi phối việc thiện ác từ quá khứ, hiện tại và vị lai, trong nhiều đời nhiều kiếp. Những hành vi thiện ác đều bình đẳng trong nhân quả, không có sự biệt trừ. Ai tạo nhân lành thì hưởng kết quả an vui, ai gieo nhân ác thì lãnh hậu quả đau khổ. Con người nếu biết dừng các nghiệp nhân xấu ác, bất thiện từ trước, ngày nay biết tạo nhiều nghiệp nhân thiện lành phước báu; đến khi nghiệp quả, nghiệp báo xảy đến, còn gọi là quả báo, con người cũng phải đền trả, nhưng nhờ có phước báo nên chỉ đền trả một cách nhẹ nhàng hơn. Ðó chính là “Suối Nguồn Bình Ðẳng TánhTrong Nhân Quả”. Kinh Pháp Cú có dạy:

       

Hận thù diệt hận thù                          

Trên đời không thể có

Từ bi chuyển hận thù

Hận thù sẽ tự diệt.



Như muốn được an lạc hạnh phúc, con người phải biết xả bỏ oán kết với người, lấy ân báo oán, oán nghiệp sẽ tự tiêu tan. Người muốn tạo phước đức, để không phải đền trả quả báo một cách nặng nề do nghiệp nhân cũ, trước hết phải tự thanh lọc thân khẩu ý cho toàn thiện, tự chế tham sân si của bản thân, tu nhân tích đức, giúp đỡ người hoạn nạn. Ðó là phép tu chuyển nghiệp tốt nhất.



“Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh Trong Nhân Quả”, là tự thân mỗi người khi sanh ra trong thế gian này đều khác nhau về hoàn cảnh, phước báo, khả năng, thể chất, tri thức. Hiểu rõ được các sai khác này là sự suy nghĩ chân chánh, trong bát chánh đạo gọi là chánh tư duy. Từ đó, chúng ta sẽ sống vì người, nghĩa là không so đo, không hơn thua, không ganh ghét đố kỵ và không thù hằn vô cớ với người.



Chúng ta cảm thấy vui với hạnh phúc của người, biết chia sẻ nỗi khổ của người bất hạnh, biết cách đối xử với nhau bằng sự chân thật của lòng bình đẳng vị tha. Nếu con người luôn sống đời phạm hạnh đạo đức, tâm tánh bình đẳng khiêm cung, lòng bao dung và bình đẳng với người kém phước hơn mình, chính là nhân lành đem về kết quả an vui. Sống trên đời không ai muốn bị sỉ nhục, tài sản bị chiếm đoạt, hay bị mất thân mạng. Những hành động tốt giúp đỡ người cô thế, an ủi người bị thất bại, lòng tôn trọng người sẽ được người tôn kính trở lại.



* Tôn trọng nhân phẩm người như nhân phẩm của mình

* Tôn trọng tài sản người như tài sản của mình.

* Tôn trọng sinh mạng người như sinh mạng của mình.



Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh Trong Ðạo Phật:

Ðức Phật như một tấm gương sáng ngời, đạo hạnh của Ngài chuyển hóa được xã hội đầy những chia rẽ, bất công, trở về đời sống đạo đức. Giáo lý của Đức Phật là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” công bằng tuyệt đối, đã đem mọi người trong xã hội ngồi gần lại với nhau. Đạo Phật dạy, giữa người với người một cái nhìn khinh mạn, một cử chỉ chê cười cũng không nên có.



Ngày nay, mọi người gặp nhau trong chùa, thường chắp tay chào nhau một cách cung kính, đó là thể hiện sự trân trọng Phật Tánh bình đẳng sẵn có của mỗi người, không phân biệt tại gia hay xuất gia, hoặc tướng giàu, tướng nghèo, địa vị cao hay thấp. Khi chào nhau như vậy, tâm con người trở nên khiêm hạ vô tư, tinh thần bình đẳng tánh trong đạo Phật là không thấy mình lễ và không phân biệt người nhận lễ. Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh. Ðó là hình ảnh thật đẹp và cao quí vô cùng của những người biết tôn trọng “Sự Bình Đẳng Tánh Trong Đạo Phật”.



Căn bản của đạo Phật là sự sáng suốt ngay tự thân tâm thanh tịnh, rèn luyện người tu đức tánh bình đẳng bằng Phật tâm, Phật tánh. Con người muốn tu phải diệt lòng tham lam, sân hận, si mê và ích kỷ ngã mạn, trở về với “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật cao thượng theo lời Phật dạy. Sự tôn trọng nhân phẩm tất cả mọi người, từ hành động thân khẩu ý đều do tâm từ thanh tịnh mà ra. Đạo Phật khuyến khích con người tu tâm dưỡng tánh, khai mở trí tuệ, tăng trưởng thiện căn, tạo nhiều phước đức, an lạc và hạnh phúc khắp mọi nơi. Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy:



Tâm dẫn đầu mọi pháp

Làm chủ và tạo tác

Lời nói hay hành động

Với tâm từ thanh tịnh

Hạnh phúc sẽ theo ta

Như bóng không rời hình.  



Diệu Dụng Của Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh:

Khi bản tánh cao thượng của con người không còn thấy ai hơn ai kém, không còn tánh kiêu căng ngã mạn, con người sống trong Phật tánh sáng suốt của “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh”, nghiã là luôn luôn sống với tâm giống như chư Phật. Sự an lạc chân thật của người có tâm hạnh bình đẳng ảnh hưởng đến những người thân sống chung quanh, cũng là gương giác ngộ sáng suốt lợi tha hiệu quả vô cùng. Tuy con người mê ngộ không đồng, nhưng Phật tánh đều bình đẳng. Người biết cách tu, không phân biệt tại gia hay xuất gia, có được tánh khiêm cung và bình đẳng, sẽ gặt hái được rất nhiều điều lợi ích cho cuộc sống. Muốn có được công đức và phước đức, dùng làm chiếc thuyền vượt qua biển khổ phiền não vô cùng vô tận từ nhiều đời kiếp, chúng ta cố gắng làm được 10 điều sau:



Tâm cầu đạo, nhiệt thành tinh tấn

Biết hổ thẹn, ghê sợ tội lỗi

Không độc hiễm, thù oán hại người

Không ganh tỵ, đức tánh trong sạch

Không bỏn sẻn, tâm từ quảng đại

Không khinh người, nếp sống đạo đức

Tu đạo hạnh, trau giồi Phật pháp,

Làm từ thiện, giúp đời cứu người

Biết hy sinh, vì người quên mình.

Hành việc đạo, sáng suốt khôn ngoan.



Ðức Phật thành đạo ngay cõi ta bà và thuyết pháp độ sanh suốt 45 năm cho đến lúc nhập diệt, để lại bao nhiêu lời dạy vàng ngọc quí báu hơn cả trân châu trong cõi đời. Tâm đại từ đại bi như cha lành thương con, tất cả đệ tử đều phải nương vào giáo lý của đức Thế Tôn trao truyền mà được giác ngộ sáng suốt theo chánh đạo, không đi sai đường vào tà đạo. Ðức Phật dạy ba môn học “Giới Ðịnh Tuệ” làm căn bản, nghĩa là hành giả tu theo Phật phải tự thắp đuốc lên mà đi, để biết đường mà tu, biết đạo mà hành.                                 

   

- Giới là những điều luật giữ cho con người không tạo nghiệp ác.

- Ðịnh là sự hành trì tu tập đoan chánh đi đến nhất tâm không còn

loạn động.

- Tuệ là sự giác ngộ sáng suốt đưa đến giải thoát sanh tử,

đoạn tận vô minh.



Tóm lại, đạo Phật là đạo giác ngộ và giải thoát, đức Phật là bậc từ bi và trí tuệ cao tột. Trí tuệ giác ngộ biết đời sống vô thường, sanh diệt không ngừng, con người chuyển biến từ sanh, lão, đến bịnh, tử; và hiểu được sự bình đẳng vô phân biệt của Phật tánh.



Tâm từ bi đưa con người đến sự giải thoát phiền não của nghiệp chướng nhiều đời kiếp. Người tu biết trưởng dưỡng tâm từ bi, biết giữ giới, tu thiền định, được trí tuệ, tự tu tự độ sẽ được giải thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân hồi. Ðó là con đường thành đạo quả chánh đẳng chánh giác mà Ðức Thế Tôn đã đi và chỉ dạy với tâm đại từ đại bi cao thượng.



Trong Kinh Pháp Hoa, Thường Bất Khinh Bồ Tát đã giác ngộ được Phật tánh bình đẳng cao thượng, gặp ai Ngài cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật”. Suối nguồn bình đẳng tánh là sự giác ngộ và giải thoát của Phật tâm, Phật tánh nơi tự thân mỗi con người. Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa. Chánh pháp của đức Phật mãi mãi là con đường tiến đến tâm hạnh thiện lành trọn vẹn cho người tu, và đem lại đời sống đạo đức cao thượng, để không còn cái ta khổ đau và phiền não nữa. Chân lý tối thượng vượt trên tất cả chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” vô ngã tuyệt đối. []





NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU

 

HÃY LÀM KHI CÓ THỂ


Bạn có từng nghĩ rằng một ngày nào đó những người thương của bạn sẽ không còn sống bên bạn nữa không. Chúng ta không một ai có thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai. Thậm chí, chúng ta cũng không thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào một giờ sắp tới đối với những người thân của chúng ta, hay thậm chí đối với bản thân mình.

Có thể bạn ta mới đến thăm ta ngày hôm qua, mà hôm nay ta được báo tin là người đó đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Nhận được tin ấy mà lòng ta bồi hồi xúc động, và ta dường như không thể tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Ta nói với người đến báo tin với ta rằng “tôi mới nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua kia mà” , hay “chị ấy mới đến thăm tôi và còn tặng quà cho tôi nữa mà”.

Nhưng sự thật vẫn là sự thật. Người bạn ấy của ta đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Và có rất nhiều, rất nhiều trường hợp tương tự như thế. Người ta mới thấy đó nhưng giờ đây đã không còn nữa.


Khi chúng ta giao tiếp, cư xử với người xung quanh với ý thức rằng có thể ngày mai ta sẽ không có cơ hội nghe được giọng nói của người đó nữa. Có thể ngày mai ta sẽ không còn thấy được nụ cười tươi trên khuôn mặt người đó nữa. Thì tự nhiên ta sẽ trân quí sự có mặt của người đó, và ta sẽ không nỡ nói hay làm những gì có thể gây tổn thương cho người đó.

Người đó có thể là ba mẹ chúng ta. Người đó có thể là chồng hay là vợ của chúng ta. Và người đó cũng có thể là con cái chúng ta.

Chúng ta sống với ý thức về sự vô thường, ngắn ngủi của một kiếp người càng sâu sắc, thì cách sống của chúng ta, cách hành xử của chúng ta cũng sâu sắc và yêu thương hơn.


Mỗi người trong chúng ta hay có khuynh hướng nghĩ rằng những người thương của chúng ta sẽ sống với chúng ta hoài, sẽ sống với chúng ta mãi. Chúng ta ít có khi nào nhớ rằng có thể chỉ sau một đêm thôi thì ta sẽ mãi mãi không còn gặp người ấy nữa. Ta muốn nói những lời xin lỗi của ta với người ấy, ta muốn nói lòng biết ơn của ta với người ấy, hay ta muốn thể hiện tình thương của mình cho người ấy - nhưng đã trễ rồi. Người đó đã không thể nghe, và mãi mãi sẽ không thể nghe những gì ta muốn nói dù chỉ một lời.

Vì vậy bạn hãy vui lên đi, bạn hãy cười tươi lên đi khi bạn vẫn có ba, có mẹ còn sống bên bạn. Bạn hãy hạnh phúc lên đi khi những người thương của bạn vẫn còn đó với bạn. Và bạn hãy can đảm để nói cho người thương của bạn những gì sâu kín nhất trong lòng của bạn. Vì có thể bạn sẽ chẳng còn cơ hội nào nữa nếu bạn không nói ra điều ấy.  Và bạn hãy tha thứ cho tất cả những ai đã từng làm hại bạn, làm tổn thương bạn vì có thể ngày mai bạn cũng sẽ không còn có mặt trên cõi đời này nữa.


Điều mà tôi khám phá ra trong cuộc đời của mình cho đến tận bây giờ, điều mà làm cho tôi hạnh phúc đó là tình thương, sự tha thứ, bao dung. Có thể tôi thực tập yêu thương còn kém, có thể sự tha thứ, bao dung trong tôi còn kém, nhưng đó là con đường mà tôi sẽ nguyện đi trên ấy mỗi ngày.


Tôi tự nói với chính mình:  Hãy thương yêu khi có thể, hãy tha thứ, bao dung khi có thể, bởi vì chỉ một giây phút thôi thì những điều này sẽ trở thành không thể”.

Và điều mà làm cho tôi hạnh phúc nhất không có gì khác hơn sau khi bạn đọc những dòng chữ này, thì sự thương yêu, tha thứ, bao dung trong bạn được biểu hiện. Và bạn đến nói với ba bạn, mẹ bạn, những người thương của bạn rằng bạn yêu họ lắm.

Rằng ba mẹ vẫn còn sống bên bạn là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời bạn.

Rằng bạn sẽ không cần gì hơn những điều như vậy. Rồi nụ cười hạnh phúc sẽ nở trên môi của bạn và khi đó bạn cũng biết rằng nụ cười hạnh phúc ấy cũng đang nở trên môi của tôi. []

PHÁP NHẬT




HỎI ĐÁP PHẬT PHÁP


KÍNH CHUYỂN VÀ KÍNH XIN GÓP Ý

Hũ hài cốt là con tin trong chùa
Đúng hay sai ? nên hay không nên ?


Những người Việt sinh sống ở hải ngoại, đối với những gia đình đã ổn định đời sống, khi có người thân qua đời nếu chọn chôn cất tại các nghĩa trang với những thảm cỏ xanh, hoa nở tươi tốt, để người thân đến thăm viếng trong những dịp lễ New Year, Father’s Day, Mother’s Day, Vu Lan, Tết Nguyên Đán, cũng rất là hay và đẹp. 



Cho nên, với câu hỏi là nên chôn (địa táng) hay thiêu (hỏa táng) cha mẹ khi qua đời thì câu trả lời là điều đó còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố, nhất là quan niệm cá nhân về sự sống và chết của con người. Phật Giáo không chủ trương hỏa táng cũng như địa táng. Vì thế việc chọn lựa này là do quyết định của người qua đời, lúc còn sống đã để lại di chúc. Nếu không thì người thân trong gia đình nên bàn thảo để có quyết định chung, tránh sự tranh cãi. Dù thiêu hay chôn thì thân xác của người chết không còn cảm giác nóng hay lạnh.



Khi tứ đại tan rã, hệ thần kinh ngừng hoạt động, thần thức đã ra khỏi thân xác để đi tái sanh sang cõi khác. Những trò hề hộ niệm được vãng sanh hiện nay cũng khá phổ biến, bởi do con người không hiểu rõ chánh pháp, dễ bị gạt gẫm. Sau khi hỏa thiêu, thân xác người chết không còn là gì nữa. Vấn đề được đặt ra là có nên chôn tro cốt xuống đất, hoặc gìn giữ để thờ cúng tại nhà, tại chùa, hay đem rải xuống sông biển. 



Đạo Phật dạy rằng xác thân chỉ là sự duyên hợp của vật chất, gọi là tứ đại, bao gồm: đất, nước, gió, lửa.Sau khi chết, những thứ này lại trở về với đất, nước, gió, lửa. Phần tro cốt còn lại chỉ là biểu tượng của người qua đời, là người thân mà con người thương yêu. Con người nên kính trọng, tuy nhiên, không nên quyến luyến quanh những biểu tượng này, không nên sống mãi với quá khứ.  Một số người thích thờ cúng tro cốt tại chùa hay tại nhà. Một số người khác lại đem chôn, hoặc đem tro cốt rải xuống biển, hay xuống sông, hay rải xuống rừng, hay một nơi nào đó theo ý muốn. 



Con người ai ai cũng phải chết, và đi đầu thai qua kiếp khác, hoặc thiên đàng hay địa ngục, đều do nghiệp thiện hoặc nghiệp ác, con người đã làm ra khi sanh tiền. Chính con người quyết định kiếp sau đầu thai chốn nào, cõi nào, lành hay dữ, tịnh độ hay ác đạo, chứ không phải do thượng đế hay thần linh nào khác - cũng không do các ban hộ niệm cầu vãng sanh tào lao hiện nay rất nhiều. 



Con người quyết định đời sống kiếp này và kiếp sau bằng các hành động qua thân, khẩu, ý hàng ngày, hàng giờ, hàng phút trong cuộc sống hiện tại. 



Là Phật tử chúng ta đừng nghĩ rằng để tro cốt ở những nơi thiêng liêng như chùa chiền, người quá vãng sẽ được an toàn, được nghe câu kinh tiếng kệ và không bị nghiệp lực lôi kéo. Khi còn sống, con người không chịu nghe kinh kệ, không chịu tu tâm dưỡng tánh, khi chết rồi, các hủ tro biết nghe, biết tu hay sao? Thiệt là nằm mơ khi còn trời sáng. Mấy nhà sư còn sống sờ sờ cũng vẫn bị nghiệp lực lôi kéo - nếu đạo lực không vững mạnh. Việc để tro cốt trong chùa không có ý nghĩa gì hơn là sự biểu lộ niềm kính trọng và thương yêu của người thân đối với người đã khuất. Chấm hết.



Hũ tro cốt là con tin trong các chùa:


Câu hỏi: 

Hiện nay, một số người giàu, có nhiều tiền, muốn báo hiếu cho thân nhân của mình, nên đến các chùa có diện tích đất rộng, bỏ tiền ra mua một miếng đất để xây một cái mồ, rồi đưa xác thân nhân về chôn cất ở đó, hoặc gửi tro vào tháp hài cốt trong chùa. Nhà chùa gặp cơ may này làm giàu, tính giá rất cao cho những người cần nhà chùa làm lễ cầu siêu độ cho các vong linh. Các người này họ rất hoan hỷ được đưa thân nhân về chùa “nằm trong đất chùa, được nghe kinh, được theo Phật”.

Kính thưa Thầy, ý nghĩa của việc làm nầy thật sự là thế nào đối với người quá vãng, với thân nhân của họ và đối với nhà chùa? Chúng con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.



Câu trả lời:

Đó chỉ là tín ngưỡng trong dân gian, cho rằng người chết được chôn trong đất chùa hoặc gửi nắm tro tàn trong tháp hài cốt thì hằng ngày linh hồn sẽ được nghe kinh, nhờ đó được siêu thoát lên cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Khi còn sống con người theo tổn hữu ác đảng, tạo bao ác nghiệp. Lúc chết thì linh hồn người đó chịu theo Phật hay sao? Nếu con người thực sự muốn báo hiếu, trước hết nên tự mình tu tâm dưỡng tánh, sau đó nên lo lắng, chăm sóc, hướng dẫn việc tu hành cho cha mẹ, khi còn hiện diện trên trần gian này. Khi cha mẹ qua đời thì nên đem tài sản của cha mẹ bố thí, cứu người giúp đời và hồi hướng công đức và phước đức cho cha mẹ.



Do lòng thương yêu và sự hiếu hạnh - nhưng không học hiểu chánh pháp - khiến cho con người không còn sáng suốt, theo tà pháp, nên nghe quí thầy, quí cô trong chùa, bảo sao làm vậy chứ không có suy nghĩ chín chắn. Quí thầy quí cô này cũng ngu dốt, u mê, đời trước bảo sao, đời sau làm vậy, chẳng rõ chánh tà khác nhau ra sao. Các tăng ni không học hành dẫn dắt theo bao nhiêu người khác đọa lạc - tai hại vô cùng là chỗ này. Đầu tàu lạc đường, hay trật đường rầy, cả đoàn tàu không đến được mục tiêu mong muốn. Bởi vậy bọn trọc đầu đọa lạc dưới địa ngục nhiều hơn người có tóc, chính là nghĩa đó vậy.


Sự tin tưởng thiếu thực tế, không trí tuệ của một số người đã làm giàu cho các chùa và biến các chùa thành một nơi sinh hoạt mê tín chứ không còn là nơi chốn tu hành của tăng ni và cư sĩ nữa. Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt, khi có thân nhân chết, người ta đem thiêu xác, gửi vào chùa. Khi gửi nắm tro tàn như vậy thì phải tốn bao nhiêu tiền đóng vào và còn phải cúng dường tiền cho chùa rất nhiều 



Kính thưa Thầy Chân Tuệ,

Con là sa di Thích-Phước-Hỷ, chùa Hải Quang (VN). Vì mới xuất gia, con được giao nhiệm vụ "cúng xuất sinh" trong những buổi ăn ngọ. Thầy trụ trì dạy con đọc kệ, mà không giải thích cho con hiểu gì cả, khi hỏi lại bị rầy la, nên con không dám hỏi nữa. Sau con bèn vào các trang nhà, thì tìm thấy "Đạo Phật Ngày Nay" có bài viết sau:



Đại bàng kim sí điểu,
Khoáng dã quỷ thần chúng,
La-sát quỷ tử mẫu,
Cam lồ tất sung mãn,
Án, mục-đế sa-ha.



Đại bàng kim xí điểu



Đây là bài thiền kệ, dành cho thầy chủ lễ trong Trai đường. Tập tục cúng này có điển tích mang tính niềm tin như sau. Con đại bàng cánh vàng, mỗi ngày, sẽ biến các con vật nhỏ hơn nạp mạng cho sự sống của nó; các loài quỷ quậy phá cuộc sống con người. Để chận đứng nghiệp sát và nghiệp bất thiện này, thầy chủ lễ sẽ quán tưởng các hạt cơm này biến khắp mười phương, như cam lộ ngọt mát, có nhiều dưỡng chất để ma quỷ chốn hoang vu, mẹ con quỷ La-sát và độc ăn vào no đủ, nhờ đó, không giết các loài động vật nhỏ bé hơn.




Kính thưa Thầy, càng đọc con càng sanh thêm nhiều thắc mắc hơn, chứ không làm con sáng ra gì cả.!! Vì chỉ vài hạt cơm và vài giọt nước làm sao no bụng, hay có thể chận đứng nghiệp sát và nghiệp bất thiện của chúng sinh (hơi mê tín? có phải là cho thì ít, mà bảo nhận nhiều rồi đó??). Thầy trụ trì còn dặn con rằng nhớ đọc đúng 3 lần, nếu không đủ thì ma quỉ nó về nó phá chùa chết luôn?...Có không Thầy?.Mình là người tu sao lại sợ ma quỉ cõi vô hình???



Chắc có lẽ con vô phần nên muốn tu muốn học mà quá u tối phải không Thầy?... Con đọc rất nhiều bài viết cuả Thầy ở trên "Blog PHTQ" và email Thầy gởi, nên con biết Thầy là vị Thầy có tâm rộng lớn và chân thành, Thầy không ngại nói  thật, nói rõ và mạnh mẽ, nhưng rất thực tế về những sai lầm từ nhiều đời trong sinh hoạt Phật giáo. Con rất thích cách giảng giải của Thầy, con cũng thấy nhiều vấn đề không đúng, nhưng rất sợ và không dám nói đâu. Nói nhẹ nhàng thì không ai muốn nghe, nói mạnh thì bị chửi chết luôn.



Sự thật là con cảm thấy hổ thẹn, khi có một Phật tử đến hỏi con:

- Hồi nảy Thầy cầm cái chén cúng, Thầy đọc gì vậy?.

Con lúng túng không biết trả lời sao hết mà chỉ biết nói:

- Chuyện nầy trong chuà thường làm là vậy đó!!

Người Phật tử tỏ vẽ thất vọng, nhưng không nói gì, rồi bỏ đi.

Chuyện tuy không có gì nghiêm trọng, nhưng khi con mặc áo của Thầy tu, nhiều Phật tử đâu có biết con tu lâu hay mới, nên hỏi câu đơn giản như vậy mà không trả lời được thấy cũng hơi hổ thẹn.

kính trân trọng cám ơn Thầy, con biết Thầy phải bỏ thì giờ quí báu đọc thư con. Rất mong được Thầy hồi âm và chỉ dạy cho con tỏ tường. Nếu Thầy không ngại thì con có thắc mắc gì có thể mạnh dạn xin được y chỉ giáo pháp của Thầy được không?



Kính Thầy, mong Thầy "phước trí vô biên, chúng sanh dị độ".

Con, Sa Di Thích-Phước-Hỷ 




ĐƯỜNG ĐẾN AN BÌNH THẬT SỰ
CHUYỂN HÓA KHỔ ĐAU THÀNH HẠNH PHÚC
TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP
NỖI SỢ MUÔN THUỞ
ĐỜI ĐÁNG YÊU HAY ĐÁNG CHÁN
BIẾT SỐNG TRONG VÔ THƯỜNG
TU PHƯỚC VÀ TU HUỆ