TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday 1 October 2011

*** TỨ NHIẾP PHÁP (CTLĐ TẬP 3)


TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, không pháp môn nào không nhằm "mục đích lợi sanh".  Hạnh lợi sanh luôn luôn là hạnh chủ yếu của mười phương chư Phật, chư vị Bồ Tát thị hiện ra đời, thực hành, để đem lại ích lợi, đem lại lợi lạc, cho tất cả chúng sanh. 
Cho nên, trong tất cả phương tiện giáo hóa, khuyến tu, chúng ta cần tìm hiểu một cách tường tận pháp môn gọi là "Tứ Nhiếp Pháp".  Đó là pháp môn thực hành để dẫn dắt chúng sanh tồi tà phụ chánh, tức là bỏ việc gian tà sai trái, theo đường ngay lẽ phải, đi vào chánh đạo. Tứ nhiếp pháp là pháp môn nhiếp hóa chúng sanh, căn cứ vào lòng từ bi để khuyến hóa chúng sanh bỏ tà theo chánh, có công năng nhiếp phục và giác ngộ chúng sanh. 
* * * 
Tứ nhiếp pháp gồm bốn điều là: bố thí, ái ngữ, lợi hành, đồng sự.  Pháp môn này không những dành cho Phật Tử xuất gia là các bậc tu sĩ, hay dành cho các Phật Tử tại gia cư sĩ, mà bất cứ ai cũng có thể áp dụng, tu tập, thực hành, để có cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, để được giác ngộ và giải thoát.  Tứ nhiếp pháp có giá trị cao đẹp, biểu lộ ý chí cao thượng của chư Phật, chư Bồ Tát. 

I.- Trước hết là bố thí. 
 Bố thí có nghĩa là cho một cách rộng rãi.  Cho một cách rộng rãi có hai nghĩa: một là, cho tất cả mọi thứ đến tất cả mọi người và hai là, cho với tất cả tấm lòng rộng rãi, bất tùy phân biệt.  Tại sao chúng ta phải tu hạnh bố thí?  Tu hạnh bố thí là để kiến tạo một kho tàng phước báu, là tu tập nghiệp lành. Phước báu có công năng tiêu trừ đau khổ, làm cho tâm trí được an vui, thảnh thơi, hạnh phúc.  Tu hạnh bố thí được người đời thương mến, dễ thu phục lòng người, phát triển lòng từ bi.  Bố thí là gốc rễ của tất cả các thiện pháp.  Bố thí là pháp tu mà những người kém phước đức và trí huệ cần noi theo.  Chư vị hiền thánh nhơn kim cổ đều trải qua các hạnh tu bố thí. 

Chúng ta sống trên thế gian này gặp nhiều phiền não và khổ đau từ nhiều nguyên do, trong đó lòng tham lam là yếu tố hàng đầu. Do lòng tham lam, con người không bao giờ thấy đủ. Có được chín đồng thì con người cố kiếm cho đủ mười đồng, nói rằng để dành khi hữu sự cần dùng, hay để dưỡng lão mai sau.  Đến khi có được chín trăm ngàn thì con người vẫn cố làm việc, cố dành dụm, cố đấu tranh, cố giành giựt, bất chấp thủ đoạn, để có nhiều thêm nữa, dù rằng lúc đó tuổi tác đã già nua, gần đất xa trời.  Đó là lòng tham tiền tài, lợi lộc. 

Lòng tham danh, háo danh cũng thúc đẩy, sai khiến nhiều ông bà già tiếp tục bon chen trên đường đời, tiếp tục giở những thủ đoạn bất chánh, những tuyệt chiêu điêu luyện, những kinh nghiệm hại người, để đoạt cho kỳ được, giữ cho thực lâu các chức vụ hay danh vị nào đó trong các tổ chức bất vụ lợi trá hình, đôi khi đó chỉ là các chức dõm, danh hàm, danh hão mà thôi, chẳng có chút giá trị nào cả.  Lòng tham lam luôn luôn thúc đẩy con người đấu tranh, giành giựt, bất chấp thủ đoạn, thì làm sao cuộc sống thực sự được an lạc và hạnh phúc? 
Người biết tri túc, biết an phận với những gì đang có, biết cần kiệm, biết sống một cuộc sống đơn giản, an nhàn, trong sạch là người được an lạc và hạnh phúc lớn nhất.  Nếu chúng ta không có những gì mình thích thì chúng ta hãy thích những gì mình đang có.  Được như vậy thì cuộc đời đâu còn gì gọi là khổ đau. 

Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý. 
Nghĩa là: Người biết thế nào là đủ, tuy nằm trên đất cũng thấy an vui, lạc thú. Người không biết thế nào là đủ, tuy thân ở trên cảnh giới thiên đường, tâm ý vẫn không thỏa mãn! 

Sách cũng có câu: 
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn. 
Nghĩa là: Người biết thế nào là đủ thì tức thời thấy đủ, biết thế nào là nhàn thì tức thời thấy nhàn. Như vậy "cái đủ, cái nhàn" thực ra rất cần thiết, rất quan trọng cho cuộc đời, nhưng chúng ta không bao giờ đạt được "cái đủ, cái nhàn", nếu không có "biết đủ, biết nhàn". Bởi vậy, cho nên Đức Phật dạy pháp bố thí, để dẹp bớt lòng tham lam, đòi hỏi, bỏn sẻn, keo kiệt, bần tiện của con người.  Pháp bố thí gồm có ba thứ: "tài thí, pháp thí, vô úy thí". 

A) Về tài thí có hai phần: ngoại tài thí và nội tài thí
 Chúng ta có thể cho những gì bên ngoài thân thể, như là tiền bạc, của cải, cơm gạo, quần áo, thuốc men, vật chất nói chung, gọi là "ngoại tài thí".  Khi thực hành ngoại tài thí,  chúng ta cần chú ý các yếu tố đúng người, đúng thời và đúng lượng. Chẳng hạn như người nào cần tiền bạc, chúng ta giúp tiền bạc; người nào cần thuốc men, chúng ta giúp thuốc men và chỉ giúp lúc cần thiết với số lượng hợp tình, hợp lý mà thôi.  Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc quá nhiều, có thể làm cho người nhận sanh tâm ỷ lại, sanh lòng lười biếng, không thích làm việc, không thích chịu cực, không kham nỗi những khó khăn trong cuộc sống.  Nhiều khi giúp đỡ tiền bạc đưa đến chuyện hại người nếu chúng ta không biết người nhận xử dụng số tiền đó với mục đích sai lạc, mục đích xấu. 
Chúng ta có thể đem cho những gì thuộc về thân thể, thân mạng của mình, hoặc các bộ phận trên cơ thể như là mắt, tim, gan, phèo, phổi, gọi là "nội tài thí".  Điều này, khi còn sống thì khó thực hiện được, nhưng chúng ta có thể làm được khi vừa mới tắt thở.  Có rất nhiều người không theo đạo Phật, không hiểu giáo lý đạo Phật, nhưng họ đã ký sẵn giấy cam đoan cho các bộ phận trên cơ thể của họ hoặc cho luôn thân xác của họ, cho bất cứ ai cần đến, hoặc cho các viện y khoa, để giải phẩu nghiên cứu, học hỏi, tìm hiểu, ngay khi họ vừa mới tắt thở. 

Điều này giúp chúng ta hiểu rằng, trong tận cùng thâm tâm của mỗi con người,"thiện tâm" đều giống nhau, ai ai cũng có, không phân biệt con người theo bất cứ tôn giáo nào trên thế gian này. 
Ngày nay chúng ta ít người thực hành nổi hạnh bố thí thân mạng như người xưa.  Tuy nhiên, chúng ta có thể dùng thân mạng để làm những việc ích lợi cho người, như công quả trong chùa, góp công sức trong các cuộc lạc quyên cứu giúp người gặp nạn bão lụt, gặp hỏa hoạn.  Thực ra, từ xưa đến nay, có biết bao nhiêu người xả thân cứu người, nhiều khi gặp hiểm nguy đến tánh mạng.  Đó cũng gọi là "nội tài thí". 

B) Về pháp thí có hai nghĩa:
Một là, đem cho tất cả mọi việc, đem cho tất cả các pháp trên thế gian này và hai là, cho giáo pháp của Phật, còn gọi là Phật Pháp.  Chúng ta có thể cho tất cả những gì khác, không thuộc phần nội tài thí và ngoại tài thí nói trên.  Chẳng hạn như chúng ta có sở học, có tài năng, có kiến thức, có sự hiểu biết về một vấn đề nào đó, về một phương diện nào đó, về một ngành nghề nào đó, chúng ta có thể đem ra chỉ bảo, hướng dẫn, truyền dạy, giúp đỡ cho người, một cách bất vụ lợi, không mong cầu báo đáp, không kể lể ơn nghĩa.  Việc này bất cứ ai cũng có thể làm được, không tốn đồng xu cắc bạc, chỉ cần tấm lòng vị tha, chỉ cần tấm lòng "vì người quên mình" mà thôi. 

Đối với hàng tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia có học hiểu giáo pháp của Phật, đem ra giảng giải cho mọi người được biết để áp dụng, để xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời.  Theo nghĩa này, pháp thí là điều quan trọng hơn cả.  Tại sao vậy?  Bởi vì khi chúng ta giúp người về vật chất, như tiền bạc, cơm gạo, có thể làm cho người được qua cơn khó khăn trong ngắn hạn, trong một thời gian nào đó mà thôi.  Khi chúng ta giúp người về tinh thần, như dạy chữ, chỉ dạy nghề, hướng dẫn cách sống đúng phép vệ sinh chẳng hạn, có thể làm cho người được qua cơn khó khăn trong một thời gian nào đó, thậm chí có thể giúp họ sống còn, sống khỏe một đời này mà thôi. 

Còn nếu chúng ta có học hiểu giáo pháp của Đức Phật, còn gọi là Phật Pháp, đem ra giảng giải cho mọi người được biết, để áp dụng trong cuộc sống, thì có thể giúp con người được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, ngay kiếp này, cao hơn nữa là giúp con người được giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi khổ đau vĩnh viễn muôn kiếp.  Bởi vậy, cho nên Đức Phật dạy hàng Phật Tử tại gia "pháp cúng dường" chư Tăng Ni, để các vị xuất gia yên tâm tu hành, không phải lo chuyện sinh sống, chuyên tâm nghiên cứu kinh điển, rồi đem ra giảng giải cho mọi người biết, để tu hành theo đúng Chánh Pháp.  Pháp cúng dường như vậy là thanh tịnh nhất, dành cho các bậc chơn tu thực học, thanh tịnh trang nghiêm.  Đó là một dạng khác của sự bố thí. 

Tuy nhiên, không phải giáo pháp luôn luôn cần hơn cơm gạo, hoặc ngược lại.  Việc này chúng ta gọi là "tùy duyên".  Trong một buổi Đức Phật thuyết pháp, có một người nghèo khó đến dự.  Đức Phật liền bảo dọn cơm cho người đó ăn trước, rồi mới giảng pháp cho nghe sau.  Khi nghe xong thời pháp đó, người nghèo khó ngộ đạo, chứng ngay quả dự lưu tu đà hoàn.  Do đó, ngày nay chúng ta có câu: "Có thực mới vực được đạo".  Nghĩa là phải được tạm no lòng thì mới hy vọng hiểu được đạo lý cao siêu.  Chúng ta không thể đem giáo pháp cao siêu ra giảng dạy cho những người đang đói khổ, đang cần cơm gạo trước hết.  Cũng như không thể đem giáo pháp cao siêu dạy ngay cho người sơ cơ, mới học đạo.  Nhu cầu tại thế gian của con người đi từ vật chất đến tinh thần, rồi sau đó mới bàn đến chuyện tâm linh xuất thế gian. 

C) Về vô úy thí
Có nhiều nghĩa rộng rãi, cao siêu hơn.  Vô là không, úy là sợ, thí là cho.  Vô úy thí là đem cho sự không sợ hãi.  Hay nói cách khác, vô úy thí là làm sao giúp đỡ cho con người bớt sự lo lắng, sợ sệt, sợ hãi, hay phiền muộn.  Vô úy thí có nghĩa là giúp người qua cơn sợ hãi mọi thứ, bớt sự lo lắng mọi điều trong tâm trí trong các biến cố, trước các điều hiểm nguy, và còn có nghĩa là chúng ta không nên gây não phiền, không nên gây bực dọc cho bất cứ ai, khiến họ được an vui, yên ổn. 

Con người sống trên thế gian này có rất nhiều điều lo âu, sợ hãi hay phiền muộn. Nào là sợ thiếu tiền, sợ thiếu ăn, sợ thiếu mặc, sợ bệnh hoạn, sợ thiên tai, sợ mất công ăn việc làm, sợ mất hạnh phúc gia đình, sợ đủ mọi thứ chuyện trên trần đời. Nhưng nỗi lo sợ lớn nhất của con người, chính là sợ chết! 
Tự cổ chí kim, từ người nghèo hèn cho đến người sang trọng, từ người bình dân cho đến người học thức, từ người trẻ cho đến cụ già, từ người thường dân cho đến vua quan hay hàng quí tộc, từ giới phàm phu tục tử cho đến các bậc hiền triết thánh nhơn, nào có ai tránh được cái chết đâu, mặc dù con người vốn tham sinh úy tử, tức là ham sống sợ chết! 

Con người thường hay nghĩ "đời còn dài", cho nên chỉ bận tâm đến chuyện mưu sinh, chuyện tranh danh đoạt lợi, chuyện đấu tranh tranh đấu, chuyện hơn thua, thị phi, đúng sai, phải quấy, đủ thứ chuyện linh tinh lang tang.  Đến khi sắp từ giã cuộc đời mới giựt mình tỉnh giấc thì đã quá muộn màng.  Thực ra, con người có thể chết bất cứ lúc nào, bất cứ cách nào, bất cứ nơi nào.  Còn đối với sự sợ chết, chúng ta khuyến hóa mọi người tu hành, phát tâm tìm hiểu đạo lý và cầu đạo giác ngộ giải thoát.  Tại sao vậy?  Bởi vì chỉ có giáo pháp của Đức Phật mới có thể chỉ bày cho con người hiểu rõ ràng, tường tận "pháp vô sanh", tức là chỉ dạy đường lối tu hành để giác ngộ và giải thoát, không còn sanh phiền não và khổ đau, không còn sanh tử luân hồi nữa, chứ đạo Phật không phải chỉ có các hình thức cúng kiến, lễ nghi, cầu nguyện mà thôi. 

Thực hành hạnh vô úy thí còn có nghĩa là giúp chúng sanh khắc phục tư tưởng sợ hãi,  khiếp nhược yếu hèn, tự ti mặc cảm, giúp chúng sanh hiểu được điều Đức Phật giác ngộ dưới cội cây bồ đề và giảng dạy khắp tam tạng kinh điển. 
Đó chính là: "Tất cả chúng sanh ai ai cũng đều có Phật Tánh như nhau, tất cả đều bình đẳng, và tất cả chúng sanh đều sẽ thành Phật, giải thoát mọi khổ đau phiền não, nếu biết tu tập, thực hành đúng Chánh Pháp". 
Trong các kinh điển Phật giáo, đó là bốn bước: khai, thị, ngộ, nhập.  Nghĩa là Đức Phật khai mở cánh cửa giải thoát; chỉ thị cho con người thấy được, hiểu được "pháp vô sanh", đó là cái "bất sanh diệt", đó là "con người chân thật" của tất cả chúng ta, chứ không phải cái xác thân giả tạm đang có; giúp cho con người làm sao giác ngộ được "pháp vô sanh" và cuối cùng chỉ dạy đường lối tu hành làm sao chứng nhập được "pháp vô sanh" đó. 

Con người sở dĩ sợ chết, bởi vì con người sợ mất cái thân tứ đại mấy chục ký lô giả tạm này, mà không hề biết mình có cái không hề chết, không hề bị tiêu diệt mất, đó chính là "con người chân thật bất sanh diệt" của tất cả chúng ta vậy. 
Chúng ta biết rằng khi thọ hưởng một tài sản hay của cải, vật chất nào, không nên chỉ dùng cho riêng mình.  Chúng ta nên bố thí ra, chia xẻ với mọi người, để tạo an vui lợi ích cho những người chung quanh và cũng tạo an vui ích lợi cho chính chúng ta nữa.  Cái gì chúng ta ăn, chỉ được nhứt thời.  Cái gì chúng ta tích trữ, dành dụm, chỉ được nhứt đời mà thôi, chắc chắn chúng ta sẽ bỏ lại tất cả khi ra đi. 
Nhưng những gì chúng ta cho ra, những gì chúng ta bố thí, sẽ trở lại với chúng ta, dưới dạng quả báo lành, sự bình an, sự may mắn, còn gọi là phước báo, giúp chúng ta được tai qua nạn khỏi.
Nói cách khác, cái gì chúng ta đã tiêu xài, bây giờ không còn nữa.  Cái gì chúng ta đã mua sắm, bây giờ phải để lại cho người khác, một khi ra đi.  Chỉ có cái gì chúng ta "đã cho, đã bố thí"  là vẫn còn "thuộc về chúng ta" khi từ giã cõi đời. Đó chính là nghiệp lành, là phước báo, là quả báo tốt, là sự may mắn, là sự bình yên, là an lạc và hạnh phúc, tất cả luôn luôn theo cùng với chúng ta như hình với bóng.

  Danh ngôn Tây Phương cũng có câu: "If you continually give, you will continually have". 

Trong Kinh Địa Tạng, phẩm thứ mười, khi Bồ Tát Địa Tạng từ chỗ ngồi đứng dậy, chắp tay cung kính và bạch Phật rằng: 
 "Bạch Đức Thế Tôn, con xem chúng sanh trong nghiệp đạo, so sánh công đức bố thí, hiệu quả có sự nhiều ít khác nhau, có người được hưởng phước một đời, có người được hưởng phước mười đời, có người được hưởng phước hàng trăm, ngàn đời, lợi lạc lớn lao. Tại sao như thế, cúi xin Đức Thế Tôn từ bi giảng trạch cho chúng con được biết".
Đức Phật dạy tóm lược như sau:
"Bất cứ ai gặp những người già yếu, bần cùng, hèn mạt, tàn tật, câm ngọng, đui mù, ngây điếc, không được toàn vẹn, mà tự tay đem bố thí với lòng từ bi, thương xót, dùng lời mềm mỏng an ủi họ tử tế, khiến cho họ được an ổn, vui vẻ, thì được hưởng phước báo vô lượng.
Tuy nhiên, nếu làm được những việc thiện như thế mà đem hồi hướng cho khắp pháp giới chúng sanh thì những người làm công đức ấy được hưởng những sự vui sướng nhiệm mầu hàng trăm ngàn đời, nếu đem công đức ấy hồi hướng cho quyến thuộc nhà mình, hay muốn tự mình hưởng những lợi ích, thì ba đời được vui vẻ, làm một phần thì được hưởng vạn phần".

Tại sao vậy?  Bởi vì những người làm công đức đó đã phát lòng đại từ, đại bi, lại phát tâm rộng lớn, đem "hồi hướng" cho khắp pháp giới chúng sanh, không cứ công đức ít nhiều, không dành riêng cho mình và người thân của mình, đó chính là những người đã "diệt được lòng tham", cho nên được sự "giải thoát hoàn toàn", cho nên được hưởng quả "phước báo lớn lao" như vậy.  Còn người nào chỉ phát tâm hạn hẹp, đem công đức ấy hồi hướng cho người thân hay cho chính mình mà thôi, thì sẽ được hưởng quả phước báo hạn chế hơn, tùy theo tâm lượng còn nhỏ hẹp của chính mình. 

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật cũng có dạy:
"Nhược bồ tát ư pháp, ưng vô sở trụ hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thanh, hương, vị, xúc, pháp, bố thí.  Bồ tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng.  Nhược bồ tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng". 

Nghĩa là nếu chúng ta không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được. 
Không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, có nghĩa là: khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta không nên thấy có mình là người cho, để cầu mong được báo đáp, được cám ơn, được tán thán; chúng ta không nên thấy có người nào là kẻ nhận sự bố thí đó, để kể lể chuyện ơn nghĩa; chúng ta không nên thấy có bao nhiêu người đã nhận sự bố thí đó, để khoe khoang, và chúng ta cũng không nên thấy có vật gì, điều gì đã được đem cho, để khỏi tiếc nuối về sau, có khi tiếc của, đi đòi lại!  Nếu được như vậy, sau khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta sẽ an trụ được tâm của chúng ta.  Chúng ta sẽ không bực dọc khi gặp những người bội bạc, không biết ơn, thậm chí còn trở mặt với chúng ta nữa.  Lòng từ bi của chúng ta sẽ không bị hạn chế, nếu không còn nhớ là đã bố thí bao nhiêu tiền của, đã bố thí cho bao nhiêu người, đã dành bao nhiêu thời giờ để làm hạnh bố thí đó. 

Muốn hàng phục được tâm ý của chính mình, chúng ta phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có chúng sanh nào được độ.  Bố thí xong rồi thì thôi, đừng nhớ nghĩ gì nữa.  Khi chúng ta xả bỏ được hết tất cả vọng niệm, các tạp niệm, để an trụ tâm, để thanh tịnh tâm, tức là chúng ta đã thực hành được hạnh bố thí ở mức độ cao nhất, mà ít người hiểu được. Hàng phục được tâm ý của chính mình thì mau tiến đến chỗ giải thoát. Cho nên Đức Phật dạy: thực hành được hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được, chính là nghĩa đó vậy. 

Không chấp sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp, có nghĩa là: khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta không chấp vào sắc tướng là tốt đẹp hay không tốt đẹp, không chấp vào âm thanh dễ nghe hay khó nghe, không chấp vào mùi hương dễ ngửi hay khó ngửi, không chấp vào mùi vị dễ nếm hay khó nếm, không chấp vào xúc chạm dễ chịu hay khó chịu, không chấp vào sự việc, ý tưởng vừa ý hay không vừa ý, thích hay không thích, ưa hay ghét. 
Sở dĩ tâm ý của chúng ta thường hay bất an, hay loạn động, bởi vì chúng ta thường hay dính mắc với sáu trần.  Hễ mắt thấy bất cứ sắc gì thì liền khởi vọng niệm phê phán đẹp hay xấu, hễ tai nghe bất cứ tiếng gì thì liền khởi vọng niệm phê phán dễ nghe hay khó nghe, hễ mũi ngửi bất cứ mùi gì thì liền khởi vọng niệm phê phán dễ ngửi hay khó ngửi, hễ lưỡi nếm bất cứ vị gì thì liền khởi vọng niệm phê phán ngon hay dỡ, hễ thân xúc chạm bất cứ vật gì thì liền khởi vọng niệm phê phán dễ chịu hay khó chịu, hễ ý nhớ tưởng bất cứ chuyện gì thì liền khởi vọng niệm phê phán hài lòng hay bực bội.  Cứ như thế, tâm ý của chúng ta luôn luôn bất an, loạn động. 

Chúng ta thực hành hạnh bố thí với tất cả tấm lòng rộng rãi, với tất cả tấm lòng vì người quên mình, với tất cả tấm lòng từ bi, cung kính, không cầu danh, không cầu báo đáp, không vì hơn thua, không vì mê hoặc lòng người, không chọn lựa món xấu đem cho, món tốt giữ lại, tức là không trụ sắc; cho rồi không cần nghe lời khen, tiếng cám ơn, tức là không trụ thanh, v.v.. và của đem bố thí phải thanh tịnh, chơn chánh; người nhận bố thí phải được tôn trọng, bình đẳng.  Đó chính là sự bố thí thanh tịnh, trong sáng, bất tùy phân biệt nam phụ lão ấu, tu sĩ hay người đời, đẳng thí vô sai biệt, phổ đồng cúng dường, chư Phật chư hiền thánh, hạ cập lục đạo phẩm, như vậy sẽ đem lại phước báo vô lượng, vô biên, cho nên được gọi là "bố thí ba la mật". 
** 
II.- Sau bố thí là ái ngữ.
 Ái ngữ là lời nói dịu dàng, êm ái, ngọt ngào, dễ nghe, phát xuất từ lòng từ bi, thương người như thể thương thân, chứ không phải là lời nói đầu môi chót lưỡi, lời nói hoa mỹ, khách sáo, cốt sao cho đẹp lòng người nghe. 
Ái ngữ có tác dụng đem lại an vui, bình yên, thanh thản cho người nghe, có tác dụng an ủi vỗ về những người đang bị nhiệt não, âu lo, sợ sệt.  Sách có câu: 
Lời nói không mất tiền mua.
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. 
Trong cuộc sống trên thế gian này, nếu mọi người đều nhớ nằm lòng câu trên đây, thì cuộc đời hạnh phúc biết là bao nhiêu, dầu cù là và thuốc nhức đầu chắc là không bán chạy! Trong gia đình, vợ chồng con cái, trên thuận dưới hoà, không có tranh cãi, không có xào xáo.  Trong xã hội, không có chuyện mất trật tự, an ninh vì những cuộc cãi vã, đưa đến ấu đả và án mạng có thể xảy ra.  Trong quốc gia, hòa bình chắc chắn được bền vững, lâu dài. 
Chúng ta cũng biết rằng, ngoài danh và lợi, trên thế gian này con người thường hay tranh chấp vì lời nói.  Hai người nói chuyện với nhau một lát mà không biết nhường nhịn nhau, tương nhượng nhau, thì hay đưa tới tranh cãi. 
Bởi vậy cho nên, chư Tổ có dạy: 
 Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức. 
Nghĩa là: Bên trong chúng ta cần luôn luôn khắc chế, khắc phục tâm niệm lăng xăng, lộn xộn, đó chính là công phu tu tập của người Phật Tử. Bên ngoài, chúng ta luôn luôn giữ hạnh nhẫn nhịn, không tranh cãi, dù chuyện lớn chuyện nhỏ cũng vậy, đó chính là đức độ của của người Phật Tử chúng ta vậy. 
Lời nói đôi khi có những tác dụng không thể lường trước được. Có những lời nói có thể đem lại an vui, hạnh phúc cho người. Có những lời nói có thể đem lại ly tán, đổ vỡ hạnh phúc của người khác, đôi khi tan nát hạnh phúc của chính người nói nữa. Có những lời nói làm cho người nghe mĩm một nụ cười tươi tắn, vui vẻ, khỏe khoắn. Có những lời nói làm cho người nghe ngất xĩu, hay đau đầu, nhức óc, nhói tim, mất ngủ, hay ít ra cũng phải đi xức dầu cù là!  Có những lời nói có thể cứu người, cũng có những lời nói có thể hại người một cách dễ dàng. 

Thí dụ như lời nói của một luật sư có lương tâm có thể cứu một bị cáo thoát khỏi tội oan, hoặc lời nói của một nhân chứng trước tòa, ngay hoặc gian, có thể làm cho người khác phải bị tù tội.  Một vị bác sĩ khéo lựa lời nói, khuyến khích, khuyên lơn, an ủi, động viên tinh thần, có thể giúp bệnh nhân yên tâm dưỡng bệnh, chóng qua cơn hiểm nghèo, sớm được bình phục; bằng như ngược lại, lời nói của vị bác sĩ có thể làm cho bệnh nhân tắt thở ngay tức thì. 
Cũng như lời nói của các nhà ngoại giao, của các sứ thần, của các sứ giả có thể đem lại hòa bình giữa hai nước, hoặc làm cho chiến tranh lan tràn khắp mọi nơi. Nhiều khi lời nói của một người có sức mạnh hơn cả một sư đoàn quân đội. Con người có thể thương yêu súc vật như chó, mèo, chim chóc chẳng hạn, nhưng lắm khi không thể chịu đựng được, nhịn được người chung quanh, chỉ vì lời nói của người đó. Tại sao vậy?  Bởi vì súc vật không biết nói tiếng người, cho nên không bị mích lòng! Người đời thường nói: hai con gà ghét nhau vì tiếng gáy, hai con chó ghét nhau vì tiếng sủa.  Hai cô ca sĩ có bao giờ thương nhau! 

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
Dù nói hàng ngàn lời vô ích,
không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp,
có ích lợi làm cho người nghe được an tịnh. 
Ở những xứ có nhiều sắc dân khác nhau cùng chung sống.  Người ta có thể không hiểu người khác nói gì, vì bất đồng ngôn ngữ, nhưng người ta có thể đoán được người khác muốn nói gì qua sắc mặt và giọng nói.  Cho nên sắc mặt và giọng nói của chúng ta cũng đóng một vai trò quan trọng qua ngôn ngữ, trong các cuộc giao thiệp, tiếp xúc hằng ngày. Một giọng nói êm ả, lễ độ, ngọt ngào, từ tốn, dễ thu phục lòng người, hơn là giọng nói ồm ồm, chanh chua khế chát, the thé khó nghe.  Lời nói từ hòa, thân mật, thành thật, ngay thẳng, rõ ràng, sáng suốt, rất dễ cảm hóa lòng người, có thể hướng dẫn người vào chánh đạo. 

Sách có câu: "Nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy". 
Nghĩa là một lời nói ra, bốn ngựa không thể đuổi theo kịp.  Có những lời nói nhẹ tựa lông hồng, có những lời nói nặng tựa núi non.  Có những người nói ra thì tất cả mọi người đều tin tưởng, nghe theo.  Có những người nói ra thì không một ai tin tưởng, nghe theo cả. 
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:
 Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói.
Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp,
ích lợi cho mình cho người. 
Sửa đổi được lời nói, sửa đổi được giọng nói, sửa đổi được cách nói, tức là chúng ta đã đổi được tâm tánh, giảm bớt khẩu nghiệp, rất nhiều rồi vậy. Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta tăng trưởng tâm từ bi của chính mình.  Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta dẹp được tâm sân hận, tâm ganh ghét, tâm đố kỵ, tâm ganh tị, tâm hiềm khích, tâm tật đố, tâm hơn thua. Thực hành được "ái ngữ" là chúng ta tu tập theo hạnh nguyện đại từ đại bi của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, tầm thinh cứu khổ chúng sanh.  Chúng sanh đau khổ vì những lời nói của nhau.  Thực hành được "ái ngữ" là đem lại an lạc và hạnh phúc cho mọi người chung quanh, đem nước cam lồ trong bình thanh tịnh của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, rưới vào những tâm hồn đang nhiệt não, rót vào tai những người đang đang phiền muộn những âm thanh dịu dàng, êm ái, có công năng chuyển hóa tâm hồn những con người đang khỗ não, thành tâm hồn an vui, tự tại.  Nói cách khác, người không có lòng từ bi bác ái, không thể nào có "ái ngữ" được.  Thực hành được "ái ngữ" như vậy tức là chúng ta đang tiến trên đường giải thoát. 
* * 

III.- Sau ái ngữ là lợi hành. 
 Lợi hành là hành động có ích lợi cho người.  Nếu con người có lời nói dễ nghe ngọt ngào, có vẻ từ bi bác ái, nhưng hành động không tốt, lợi- mình-hại-người, thì những lời nói trên chỉ là thứ "miệng thì nói tiếng nam mô, bụng thì chứa cả một bồ dao găm", hoặc là "năng thuyết bất năng hành", tức là nói được mà chẳng làm được, mà thôi, không hơn không kém. 
Cổ nhơn có dạy: 
 Những gì mình không muốn người khác làm cho mình,
thì mình đừng làm cho người khác. 
Nghĩa là mình muốn người khác hành động như thế nào có ích lợi cho mình, thì mình phải nên hành động có ích lợi cho người như vậy.
Thế nào là hành động có ích lợi cho người?  Đó là hành động theo đúng lời Đức Phật dạy trong các kinh điển. Thí dụ như chúng ta khuyên người làm lành lánh dữ, tụng kinh niệm Phật và chúng ta cũng hành động đúng y như lời nói của chúng ta vậy. Khi nào lời nói và hành động của con người nhất như, tương ưng, không khác, thì người đó đã có công phu tu tập khá rồi, trong kinh điển gọi là "ngôn hạnh tương ưng". 
Sách có câu: 
Đừng nghe những gì người ta nói. 
Hãy nhìn những gì người ta làm. 
Chỉ khi nào lời nói của chúng ta đi đôi với hành động có ích lợi cho người về mọi phương diện thế gian và xuất thế gian như trên, thì chúng ta mới nhiếp phục được lòng người mà thôi, chứ nói lý thuyết suông, chẳng đem ích lợi thiết thực gì cả. 
Thiện hữu tri thức là người bạn hiền, có học hiểu giáo pháp, và biết khuyên bạn mình hành động đúng như lời Đức Phật dạy, chứ không phải hành động theo những lời nói sai trái, xằng bậy, phi pháp.  Lợi hành trong công việc hằng ngày là hành động trực tiếp đem lại ích lợi cho chúng sanh về vật chất và tinh thần.  Nhưng lợi hành trong việc tu hành là hành động giúp người tiến tu, trên đường học hiểu giáo pháp, để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, cho đến khi đạt được giác ngộ và giải thoát.  Nói cách khác, lợi hành có nghĩa là chúng ta có thể hành động ích lợi cho chúng sanh, ngay trong hiện tại, về vật chất cũng như tinh thần, và hành động ích lợi cho chúng sanh, trong tương lai gần, trong kiếp này, và tương lai xa, nhiều kiếp về sau, qua hành động khuyến tu giải thoát. 
* * 

IV.- Cuối cùng là đồng sự
 Đồng sự có nghĩa là cùng làm chung việc với người, để giúp đỡ người và cảm hóa người theo lẽ phải, theo chánh đạo.  Thí dụ như muốn dạy người biết bơi, chúng ta phải xuống nước cùng với họ, mới có thể chỉ dạy một cách dễ dàng, nhanh chóng và hữu hiệu được.  Chúng ta không thể đứng trên bờ quơ tay, quơ chân, la hét, gào thét mà có kết quả như ý được đâu.  Cũng như những vị chỉ huy xuất thân từ hàng binh sĩ, những chủ nhân, cai thợ xuất thân từ giới công nhân, thường thấu hiểu tâm tư, tình cảm, nguyện vọng, cảm nghĩ, tâm lý, yêu cầu, đòi hỏi của cấp dưới, cho nên dễ dàng thành công trong nghệ thuật lãnh đạo hơn, kết quả thường là khả quan hơn, tốt đẹp hơn. 

Chư Tổ ngày xưa vì muốn độ hạng người bần cùng trong xã hội, các Ngài cũng phải hòa mình sống chung cuộc sống cực khổ với họ, mới có thể giáo hóa họ được.  Cho nên, những vị tu sĩ xuất gia từ lúc còn tấm bé, hay khi còn là đồng nam, đồng nữ, thì rất đáng trân quí và có công phu tu tập dài lâu hơn, nhiều năm tháng hơn, nhưng các vị xuất gia sau khi trải qua nửa đời người với cuộc sống tại gia, thì có thể hiểu được tâm lý của người Phật Tử tại gia hơn, cho nên dễ cảm thông hơn, có thể dễ dàng hành đạo hơn, dễ dàng hoằng pháp lợi sanh hơn.  Nhưng điều này chỉ là tương đối, còn tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy sở học và hiểu giáo pháp, tùy căn cơ, tùy khả năng giảng dạy và tiếp thu giáo pháp, tóm lại là "tùy duyên" mà thôi, "không có gì cố định cả".  Trong kinh điển, Đức Phật dạy "quán các pháp vô ngã", chính là nghĩa đó vậy. 
* * * 
Tóm lại, tứ nhiếp pháp là một pháp môn rất cụ thể, rất thực tế, rất cần thiết, rất dễ áp dụng, đúng với mọi hoàn cảnh, đúng với mọi nơi, mọi thời, mọi lứa tuổi, mọi trình độ, hoàn toàn vì mục đích hoằng pháp lợi sanh. Đó là nền tảng của các nghiệp lành, nghiệp thiện, giúp con người sống trong chánh đạo, dẹp bỏ được tam độc: tham lam, sân hận, si mê. 
Những người muốn có cuộc sống thực sự an lạc và hạnh phúc hiện đời phải luôn luôn quán tứ nhiếp pháp một các tường tận, sâu sắc và luôn luôn áp dụng tứ nhiếp pháp trong cuộc sống hằng ngày, chắc chắn cuộc đời này sẽ giảm bớt nhiều khổ đau và phiền não. 


Pháp môn này, nói chung, mọi người ai ai cũng có thể thực hành được, nhưng muốn thực hành cho đến mức độ cao thâm rốt ráo, trong kinh sách gọi là ba la mật, thì chúng ta phải phát tâm bồ đề kiên cố, dũng mãnh, bất thoái chuyển, tức là phát tâm lượng của các bậc Bồ Tát và Đại Bồ Tát vậy. 




Sen Hồng Một Đóa

Thích Nữ Chân Liễu
  
Lò lửa sen hồng mấy kẻ hay
Mây che nguyệt rạng chẳng phô bày
Ngọc lành ẩn đá không phai sắc
Bể thánh nguồn chơn mặc tỉnh say.


B ốn câu thơ trên là của Ni trưởng Như Thanh, một bậc tài năng xuất chúng được sự ngưỡng mộ và khâm phục trong ni giới Phật giáo Việt Nam. Như ngọn đuốc sáng bừng trong đêm tối, Ni trưởng là một bậc chân tu vì đạo quên mình, sanh năm Tân Hợi 1911, tại huyện Thủ đức, Gia định. Thiện duyên đưa đến, Ni trưởng xuất gia năm 22 tuổi, đệ tử của Tổ Pháp Ấn, chùa Phước Tường, Thủ đức. Với trí thông minh và lòng hiếu học, cộng thêm nhẫn lực vô biên, Ni trưởng đã đạt được nhiều thành quả trên đường tham học Phật pháp từ Nam ra đến Huế và Hà nội. Năm 1972, Ni trưởng được Giáo hội giao trọng trách Vụ trưởng Ni bộ Bắc tông, và giữ vai trò Cố vấn tối cao trong các nhiệm kỳ kế tiếp. Ni trưởng viên tịch năm 1999, để lại bao thương tiếc cho hàng đệ tử xuất gia và tại gia.

Vài trang giấy không đủ nói lên hết được đạo hạnh và gương sáng của người, nhưng để chia sẻ với những người đang học Phật và tu Phật, những lời dạy quí báu của người ghi lại trong quyển sách “Cuộc đời và sự nghiệp của Sư trưởng Như Thanh” xem như một nhân duyên thiện lành đặc biệt. Thành kính đảnh lễ giác linh Ni trưởng với tấm lòng tri ân và niềm cảm phục của hàng hậu học.

N ếu như xưa kia, khi đồng ý cho bà di mẫu Maha baxà bađề (Kiều Đàm) cùng 500 người nữ xuất gia trong giáo pháp, đức Thế tôn tuyên báo rằng chánh pháp vì vậy sẽ diệt vong sớm 500 năm. Không ai có thể đoán rằng chánh pháp tồn tại bao lâu để làm bài toán trừ 500 năm đó. Khi đề cập đến quá trình lịch sử đức Phật không cho phép người nữ xuất gia một cách dễ dàng, Ni trưởng đã có một cái nhìn tuệ giác như sau:

“Vì trách nhiệm của người xuất gia rất nặng nề, khó nhọc, mà phạm hạnh cũng khó thực hành, bởi thế đức Phật không hứa cho người nữ xuất gia một cách dễ dàng. Đây là bổn ý của đức Phật muốn mở rộng con đường hóa đạo cho tất cả người nữ sau này. Bởi sự giáo dục của người nữ thời ấy chưa được phát triển, nên họ ở trong thế gian bị nhiều sự chướng ngại buộc ràng, làm cho tâm tính không được sáng tỏ, ý chí không được sâu rộng. Đức Phật vì muốn cho hàng Tỳ kheo ni chứng đến các pháp thiệt tánh mà Ngài đem tâm bình đẳng phương tiện dẫn dắt, khiến cho mọi người đều được tăng trưởng thiện báo, tiêu trừ ác nghiệp, sửa đổi phong hóa ở thế gian trở nên tốt đẹp. Hàng Tỳ kheo ni ở trong chánh pháp của đức Phật gặp được cơ hội mở mang, truyền bá, làm cho ánh sáng Phật pháp được chói rạng, tạo công đức vô lượng”.

Đạo Phật đã đi sâu vào cuộc đời. Đạo Phật không phải là lý thuyết suông để bàn luận. Đạo là sống và hành. Đạo là sự chân thật, sáng suốt, đậm đà và thanh thoát. Để dẫn dắt người nữ tu vượt qua được bản tánh nhi nữ thường tình, nhờ khép mình trong giới pháp, vượt qua mọi trở ngại thuận nghịch bằng khả năng tu chứng, thì người nữ tu vẫn có thể phụng sự và xiển dương Chánh pháp. Ni trưởng chủ trương một căn bản đào tạo ni tài, lập nguyện kiên cường cho ni chúng, trao truyền tam học: Giới, Định, Tuệ.

Ni trưởng dạy rằng:

-         Giới học là giềng mối của người tu Phật.
-         Định học là phép tắc điều phục tâm trí.
-         Tuệ học là năng lực bạt trừ nghiệp chướng si ái.

Ni trưởng Như Thanh đã trải thân phục vụ đạo pháp, khiến cho pháp âm truyền bá khắp nơi. Người là một bậc Ni trưởng đạo cao, đức trọng, làu thông kinh luật, trước tác, dịch thuật nhiều tác phẩm có giá trị. Ni trưởng đã dẫn dắt hàng ni chúng hậu học thoát khỏi những mặc cảm tự ti, sợ hãi, nhút nhát và khai sáng trí tuệ cho hàng đệ tử. Công đức của người thực vô lượng, vô biên.
Ni trưởng luôn luôn quan niệm, để chia sẻ gánh nặng hoằng pháp, người xuất gia, không phân biệt tăng hay ni, đều có trách nhiệm góp phần công đức để đền đáp công ơn sâu dầy của đức Thế tôn.

Khi nói lên phạm hạnh cao quí của hàng xuất gia, trong tác phẩm “Giới đức khiêm ưu”, Ni trưởng đã viết như sau:

“Phẩm hạnh cao quí của tăng già là do công phu tu dưỡng gồm đủ sự lý, đối với tất cả chúng sanh, tìm đủ các chước phương tiện làm lợi ích cho mọi người, như khát thì cho uống, đói cho cơm ăn, bịnh cho thuốc uống, lạnh cho áo ấm, gặp sợ sệt giúp đỡ an ủi hết sợ sệt, thiếu trí tuệ giúp đỡ mong cho tâm trí trở nên sáng suốt, cho đến bỏ mình cho cọp đói ăn cũng gọi là đức hỷ xả bố thí. Trong hoàn cảnh nhịn khổ chịu nhọc, trăm phen bẻ gảy mà lòng vẫn dai bền, việc khó nhọc là cố gắng học tập, việc khó làm cố gắng siêng làm. Dẫu có người khuấy rối, dằn ép cũng chẳng căm tức, giận hờn, hình dung vẫn tự nhiên, chẳng tác sắc nóng nảy bứt rứt”.

Với khả năng, đức độ, tâm từ bi của người đã tạo cho hàng ni chúng xuất gia tiến trên con đường giác ngộ và giải thoát. Sự tương kính nhau như tỷ muội, dùng tâm niệm bình đẳng đối xử, phẩm hạnh của người tu trong chúng nên tự xét lại mình để chừa bỏ lỗi lầm, thay vì phóng tâm  nghĩ đến hơn thua, phải quấy, đúng sai, được mất, biểu lộ đức tính hiền từ, lễ độ, khiêm cung, khoan dung, hòa lạc, khiến người xung quanh sanh lòng quí mến như hoa sen nở hương thơm ngát.

Huynh đệ cùng nhau gắng học hành
Lời qua tiếng lại nhớ đừng tranh
Quyết lòng sửa tánh cho thanh tịnh
Xuân đến đời ta đặng tiếng thanh.
(Hoa Đạo)

Trải qua trong cõi phù sinh
Học rành chữ nhẫn hữu hình ngại chi
Nhẫn là phước quả từ bi
Giúp ta thâm ngộ vô vi đạo mầu.
(Hoa Đạo)

Lời thơ của người là khuôn vàng thước ngọc. Thơ văn của một bậc chân tu đầy đạo tình đạo vị, người đọc cần lắng lòng tỉnh ngộ. Ni trưởng còn khuyên nhắc về trách nhiệm của Tỳ kheo ni về sự nghiệp hoằng pháp như sau:

1)   Xuất gia vì mục tiêu giải thoát tự thân và tha nhân.
2)   Thiết tha cầu học chánh pháp giữa biển sống vô thường.
3)   Thể hiện nghiêm túc nếp sống phạm hạnh Giới-Định-Tuệ,
4)   Phát triển văn huệ, tư huệ và tu huệ.
5)   Tích cực tiếp dẫn hàng hậu học.
6)   Thao thức vì sự nghiệp độ sanh, hưng khởi chánh pháp.

Ni trưởng là một vị Bồ tát dấn thân từ ni giới, mang tâm niệm cứu khổ chúng sanh, thức tỉnh mọi người quay về với tình thương vô hạn trong giới pháp của đức Thích ca mâu ni. Dòng pháp nhủ của Ni trưởng Như Thanh là dòng nước cam lộ của đức Quán thế âm, làm dịu mát những nhiệt não của thế gian, khơi dậy ngọn đèn trí tuệ, không bị tham sân si trói buộc, sai khiến, hành xử lợi mình lợi người, sống với tâm Phật không còn bị vô minh che lấp.

Trong tác phẩm “Hành Bồ Tát Đạo”, Ni trưởng đã đem tâm huyết của mình để truyền trao lại cho người xuất gia cũng như tại gia. Ni trưởng viết:

“Nếu trong một lúc nào đó, chúng ta lắng yên được tâm thức, để cho nó vắng lặng rỗng rang, chẳng khởi lên một niệm suy tính so lường, thì tất nhiên trong sát na ấy, chúng ta nhìn rõ được bản lai diện mục của mình, thấy rõ chân tâm thể tánh của mình vốn bất sanh bất diệt, nó xóa bỏ mọi ranh giới ngã và nhơn, thiện và ác. Trong giây phút linh diệu ấy, tâm thức chúng ta bổng nhẹ nhàng, cõi lòng mở rộng với muôn ngàn thương yêu, tình cảm trong sáng dịu dàng, nó chẳng phải là thứ tình cảm hạn hẹp, phát sinh từ lòng ái dục, mà phát xuất từ tâm bi, nên nó bao la, tươi nhuần và bình đẳng, vô phân biệt. Bấy giờ cái nhìn của chúng ta đối với vạn vật cũng trong suốt và bình đẳng như thế. Đây là giây phút mà tâm ta vô trụ, không vướng mắc, hoàn toàn tự do. Nếu sống mãi với tâm vô trụ như thế, chúng ta đã được giải thoát, được an nhiên tự tại”.

Chư Phật không có tâm phân biệt đây là tăng, đây là ni, đây là tướng nam, đây là tướng nữ, tướng đẹp tướng xấu, tướng giàu tướng nghèo. Chư Phật bình đẳng tuyệt đối trong phong cách hóa độ chúng sanh. Bổn phận người tu phải nhận ra con đường chư Phật đã đi và đã đến.

Đức Phật đã dạy chúng ta hãy mồi ngọn đuốc chánh pháp của Ngài để tự thắp sáng trí tuệ, thấy đường mà tu, thấy đạo mà hành. Các đấng Tôn sư đã tha thiết giảng dạy, khuyến tu, chớ nên đợi khi vô thường đến, không phân biệt già trẻ, sang hèn, tuổi đời càng chồng chất, đau yếu bệnh tật sanh ra, làm cho con đường đi đến giác ngộ ngày càng thêm khó khăn, trắc trở. Bao nhiêu đời kiếp đã qua, con người mãi trôi lăn trong sanh tử luân hồi, không biết đến kiếp nào mới vượt thoát được.

T óm lại, Ni trưởng Như Thanh như một đóa sen hồng vượt ra khỏi mặt nước với vẻ đẹp cao quí của một bậc giác ngộ. Tư tưởng nhập thế cứu khổ của người đã để lại cho đời một tấm gương sáng. Ni trưởng đã vân du khắp mọi miền đất nước, để thuyết giảng không hề mệt mỏi. Cho đến ngày thanh thản ra đi, để lại cho đời và cho đạo  nhiều tác phẩm có giá trị tu học, Ni trưởng vẫn còn mong các đệ tử Phật gia phải giống như hoa sen rạng ngời ánh sáng trí tuệ, đem ngọn đuốc chánh pháp soi rọi khắp thế gian u tối, giúp mọi người thoát khỏi bùn nhơ khổ đau phiền não, vượt lên trên mặt nước như những đóa sen hồng tỏa hương thơm tinh khiết của sự giác ngộ và giải thoát. []

Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.


CỐT TUỶ CỦA ĐẠO PHẬT
 

Muốn tu tiến bộ, cần học giáo lý, hiểu rõ chánh pháp, nắm vững cốt tủy của đạo Phật, và tinh tấn thực hành trong đời sống hàng ngày. Sự vi diệu mầu nhiệm chính là nơi giáo pháp. Các hình thức nghi lễ, các chùa chiền hay các tôn tượng giúp người tu giữ gìn giới bổn, bình an và thiền định, phát triển trí tuệ hay tuệ giác để giác ngộ và giải thoát. Trong Phật giáo, không có nghi lễ nào, chùa chiền nào, tôn tượng nào hay nhà sư nào gọi là linh thiêng, huyền bí hay phép lạ có thể cứu người lâm nạn, thay đổi vận mạng con người. Chỉ có tự lực mới thực là tu, thanh lọc và chuyển hóa tâm thức.



Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc. Hiện tại tâm bất khả đắc. Vị lai tâm bất khả đắc". Nghĩa là: Chuyện quá khứ đã qua rồi, nhớ nhung, xót xa, tiếc nuối, chẳng ích lợi gì. Chuyện hiện tại thấy đó rồi cũng qua mau, luyến tiếc, luyến lưu, chẳng ích lợi gì. Chuyện vị lai chưa tới, lo lắng, ưu tư, chẳng ích lợi gì. Như vậy, chỉ chuốc khổ vào thân, nhức óc, mệt tim.

Nhờ sự phát tâm tùy hỷ này, chánh pháp được truyền bá rộng rãi đến nhiều người hữu duyên khắp nơi, đang mong cầu học hiểu ánh sáng Từ Bi & Trí Tuệ của Đức Thế Tôn.

Nguyện đem Công Đức & Phước Đức cúng dường thanh tịnh hồi hướng TAM BẢO chứng minh và thùy từ gia hộ cho toàn thể bửu quyến được thân tâm an lạc, sức khoẻ dồi dào, trí tuệ khai mở, vạn sự cát tường, giác ngộ giải thoát, và Cư Trần Lạc Đạo.



NAM MÔ HOAN HỶ TẠNG BỒ TÁT MA HA TÁT

NAM MÔ CÔNG ĐỨC LÂM BỒ TÁT MA HA TÁT



Trong các sinh hoạt hay nghi lễ của Phật giáo, các hình tượng chư Phật, chư Bồ Tát luôn luôn được tôn trí nơi trang nghiêm thanh tịnh nhất, để  mọi người chiêm ngưỡng, lễ bái, cầu nguyện và phát khởi tín tâm.



Các hình tượng được làm bằng bất cứ vật liệu nào, đơn sơ như gỗ, đá, xi măng, thạch cao, hay quí giá hơn như vàng, bạc, đồng, ngọc thạch, đá quí, kim cương, cũng chỉ có giá trị vật chất, giúp cho việc hành lễ được long trọng, trang nghiêm, giúp cho người tu theo Phật tăng trưởng sức tinh tấn tu tập theo chánh đạo, hướng tín tâm ban đầu theo chánh tín và chánh kiến.



Giá trị tinh thần đích thực chính là Giáo Pháp của đức Phật.



Người tu theo Phật nương theo hình tượng chư Phật, để lễ bái, cầu nguyện, cúng dường, phát tín tâm tìm hiểu những lời dạy của đức Phật để tu tập và áp dụng vào trong thực tế đời sống hàng ngày.



Nhờ đó, người tu theo Phật mới thấy và cảm nhận được pháp vị mầu nhiệm thực tế của chánh pháp.  Từ đó, người tu theo Phật ngộ đạo, thoát khỏi cảnh vô minh, tà kiến, mê tín, dị đoan, không còn ngộ độc như bấy lâu nay.



Người tu theo Phật khi đã khai mở được trí tuệ bát nhã, khác với trí thức thế gian, sẽ thấy giáo lý đạo Phật rất hữu ích cho đời sống thực tế của mọi người, giúp con người vượt qua được những phiền não và khổ đau, không phân biệt là Phật tử hay không là Phật tử.



Nói một cách khác, một người không phải là Phật tử, không cần đi đến chùa lễ bái thường xuyên, không cần phải thờ lạy tượng Phật, nhưng luôn luôn thực hành lời dạy:

 1. Không làm các điều ác.

2. Siêng làm các điều thiện.

3. Giữ tâm luôn thanh tịnh.



Người này sẽ sống đời an lạc và hạnh phúc. Tiến thêm bước nữa, sẽ được giác ngộ và giải thoát.

 Cho nên, chúng ta cần ghi nhớ: trong đạo Phật không có hình tượng nào gọi là linh tượng, theo nghĩa linh thiêng huyền bí, cầu gì được nấy, cũng không có hình tượng nào gọi là thánh tượng, theo nghĩa các vị thánh là bậc bề trên không ai đạt được, chuyên ban phước giáng họa.




Trong đạo Phật, chỉ có tôn tượng, theo nghĩa hình tượng để tôn thờ, lễ bái, noi theo gương tu hành và công hạnh cao quí, đáng tôn kính, để sống đời và tu tập đúng chánh pháp, hành đúng chánh đạo, cuối cùng là trọn thành Phật đạo. Cũng có những hình tượng gọi là bảo tượng, theo nghĩa hình tượng quí báu, vật chất và tinh thần, hoặc có giá trị theo chiều dài lịch sử.


Bởi thế cho nên, cốt tủy của đạo Phật là phải tìm cho ra (giác ngộ) phần tâm thật (chân tâm).

Những hình thức cúng kiến, cầu an cầu siêu, các nghi lễ rườm rà trai đàn bạt độ, trong khắp các chùa, chỉ là hình thức của một tôn giáo để mọi người tìm đến, cần thiết nhưng không thật, giả đó.
Tham dự xong rồi, con người thông minh phải phát tâm học đạo như ĐH Lệ Hằng hiện nay.

Khi tâm con người không còn vọng động, không còn lăng xăng lộn xộn, không còn mong điều này,
không còn muốn điều kia, thì chân tâm (tâm thật) hiển lộ. Khi chân tâm hiển lộ, đời sống con người bớt phiền não khổ đau.

Cũng ví như mặt biển sóng to khi có gió lớn (tâm con người giận dữ khi gặp chuyện bất như ý)
nhưng khi hết sóng to gió lớn, thì mặt biển trở nên thanh bình, phẳng lặng,
có thể trông xa, thấy rộng bốn phương, đến tận chân trời góc biển.

Các tôn tượng của chư Phật đều có con mắt thứ ba, nằm giữa 2 con mắt thường, thường tượng trưng bằng chấm đỏ, hay viên ngọc quí. Con mắt thứ ba này gọi là con mắt thông minh trí tuệ (tuệ nhãn). Tuệ nhãn chỉ có được khi tâm con người không còn vọng động, không còn những chuyện tham sân si, không còn loạn động với cảnh trần hàng ngày, duy nhất, tâm chỉ còn trạng thái phẳng lặng, tịch tịnh, gọi là nhất tâm bất động, hay nhất tâm bất loạn.

Tùy theo tâm con người dẹp được, bớt được bao nhiêu tham sân si vọng tâm, thì trí sáng chân tâm (hay tuệ nhãn) hiển lộ bấy nhiêu. Ví như mây đen (vọng tâm, phiền não) tan biến bao nhiêu, thì mặt trời (tuệ nhãn hay chân tâm) hiển lộ ánh sáng bấy nhiêu. Tất cả đều do công phu tu tập của mỗi cá nhân, theo từng thời gian ngắn hay dài, mau hay lâu.

Cho đến khi vọng tâm hoàn toàn biến mất, chân tâm hoàn toàn hiển lộ, thì con người hoàn toàn giác ngộ và giải thoát, không còn sanh tử luân hồi, gọi là đắc đạo. Đây chính là cốt tủy của đạo Phật.

Muốn thành công, đạt được mục tiêu nầy (đáo bỉ ngạn) con người phải nổ lực hàng ngày, không phải dễ dàng trong vài tháng, hay vài năm, nhưng cũng không phải không ai đạt được đâu. Trong lịch sử các nước, nhiều vị chân tu thực học đạt được cảnh giới này, không phân biệt tại gia hay xuất gia, không cần phải tu ở trong chùa, không phải là đệ tử của vị nầy hay của môn phái nọ. Nhưng các vị không ai nói ra, các vị chỉ tu hành và dẫn dắt người hữu duyên tu hành. Người nào nói rằng họ đạt được như vậy, như vậy, nhờ pháp này hay pháp kia, toàn là những người muốn tự tôn làm lãnh tụ, muốn tự đánh bóng để được tôn sùng, gạt gẫm mọi người, không ngoài mục đích danh và lợi mà thôi.
Những chuyện vu vơ khác, xin miễn bàn để khỏi bị loạn tâm trong thế giới đảo điên xưa nay.

TK THÍCH CHÂN TUỆ
PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật.
 


THA THỨ
TK THÍCH CHÂN TUỆ

Một thiền sinh hỏi:

“Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”

Vị sư phụ đáp:

“Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết cho họ”.

Vài hôm sau, người đệ tử trở lại:

“Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như xong!”

Sư phụ đáp:

“Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết lòng ra thương yêu họ”.

Người đệ tử gải đầu:

“Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại phải thương yêu họ thì… Thôi được, con sẽ làm”

Một tuần sau, người đệ tử trở lại, mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.

Sư phụ gật gù bảo:

“Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm linh như vậy”.

Người đệ tử trở lại, lần nầy tin tưởng rằng mình đã học xong bài vở.

Anh tuyên bố:

“Con đã học được và ghi ơn hết mọi người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”

Sư phụ cười:

“Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé. Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không tha thứ.”

SUY NGẪM:

Câu chuyện thật ý nghĩa, chúng ta có thể nhận ra rằng tha thứ giúp cho chúng ta đóng lại những đau thương, bất công trong quá khứ và nhìn nhận các sự việc rõ ràng để buông xuống.

Tha thứ giúp cho chúng ta mở rộng lòng yêu thương, giúp cho ta nhìn lại chính mình đã làm hao phí năng lượng khi đánh mất lòng khoan dung.

Tha thứ chính là một tiến trình tiến hóa tích cực của nội tâm, khi chúng ta thật sự đối diện và buông xuống những đau thương, mất mát, bất công… chúng ta sẽ không còn mang lòng oán hận, giận dữ…

từ đó giúp cho chúng ta không nuôi dưỡng những niềm cay đắng, phẫn uất, trả thù…

để rồi tạo thêm những điều bất thiện ở hiện tại và tương lai lại phải nhận sự khổ đau.

Qua đó, chúng ta nhận rõ tha thứ giúp cho chúng ta sống an ổn hiện tại và tương lai.

Vì vậy, có thể nói rằng “tha thứ cho người khác chính là tha thứ cho chính mình”,

vì khi chúng ta buông bỏ lòng thù hận, sẽ giúp cho tâm mình luôn bình an.

Tâm bình an sẽ là chất liệu để tạo dựng nên lòng yêu thương từ bi cho mình và cho tất cả.

Đọc và suy ngẫm câu chuyện một lần nữa, chúng ta thấy rõ như một trình tự khi bạn biết tha thứ , bạn sẽ có lại tình thương với những đối tượng đã gây cho mình đau khổ mà bấy lâu mình đánh mất vì thiếu lòng khoan dung , hiện khởi Tâm Từ Bi rộng lớn, nhớ ơn tất cả đã cho chúng ta sự thành tựu này và chợt nhận ra rằng “vạn pháp vốn bình đẳng”.

Trên bước đường tu tập của người con Phật, chúng ta phải cảm ơn những bậc thiện hữu tri thức đã đưa đến cho mình nghịch duyên để chúng ta có cơ hội nâng cao đời sống tâm linh của chính mình.

Nghịch tăng thượng duyên là vậy!

Thật vậy, nếu lúc nào cũng thuận duyên, cũng đều được quí mến thì ta dễ dàng bị ru ngủ trong niềm tự hào, hãnh diện , ta đang biến mình thành nô lệ cho sự cống cao ngã mạn… tự đánh mất chính mình lúc nào không hay.

Vì vậy, vị Sư đã dạy người học trò của mình phải biết ghi ơn những người đã đem đến cho mình những phiền não, oan uổng…. để chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, thực hành và chuyển hóa nội tâm, để nhận chân sự thật “chẳng có ai là người tha thứ và được tha thứ cả!”

Với tôi, việc học cách tha thứ và hành theo những lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ không phải đơn giản và dễ dàng nhưng cũng không phải là quá khó nếu mình muốn và tôi đã bắt đầu cho những sự việc nhỏ nhất từ trong cuộc sống của chính mình với mọi người xung quanh…để có được sự bình an hạnh phúc chân thật!

Cổ Đức có câu này:   

Càng buông bỏ dưới chân này.Ấy là chỗ đứng càng ngày càng cao.

Tha thứ hay không tha thứ là lối suy nghĩ nhị biên.

Con người thường sống trong thế giới nhị biên nên thường phiền não và khổ đau.

Thế giới nhị biên là sự suy nghĩ: thị/phi, đúng/sai, phải/quấy, tốt/xấu, trắng/đen.

Người nào đạt được "thế giới bất nhị" hay hiểu được và hành được "pháp môn bất nhị"
người đó đạt an lạc và hạnh phúc, xa hơn, người đó đạt được "giác ngộ và giải thoát".



Mỉm cười để đón nhận tất cả 

Khi tất cả mọi chuyện đau buồn đổ lên đầu bạn, hãy mỉm cười để đón nhận nó, vì chỉ có như thế, bạn mới có thêm dũng khí để bước tiếp con đường đời mà mình đã chọn… Khi có một chuyện thật vui đến với bạn, hãy mỉm cười để đón nhận nó, để niềm vui, niềm hạnh phúc được nhân đôi, để mọi người có thể vui cùng niềm vui của bạn…
  
Khi có một ai đó rời xa cuộc đời của bạn, hãy mỉm cười để chia tay họ, vì dù cho đó là một cái kết thúc vui hay buồn, thì nó cũng là một cái kết thúc, và ngay sau nó là một khởi đầu mới cho cả hai người, mỉm cười để chúc cho cái khởi đầu ấy sẽ thật tươi sáng và vui vẻ…

Khi có một ai đó đến với cuộc đời bạn, hãy mỉm cười để chào đón họ, để chúc cho tình cảm giữa hai người sẽ thật tốt đẹp, để họ sẽ không bao giờ phải nói lời chia tay với bạn như bao người trước đo'...

Khi bạn đánh mất niềm tin vào một người
 nào đó, hãy mỉm cười để chấp nhận điều ấy. Ai cũng là con người, cũng có lúc sai lầm, có lúc vấp ngã, và hãy mỉm cười để biết rằng mình đã hiểu họ thêm một phần…



Kính thưa quý đồng hương Phật tử

Tôi là một Phật tử, pháp danh Trí Giác.

Một số bạn Công Giáo và Tin Lành hỏi tôi: “Đạo Phật các anh sao lại làm đại nhạc hội, ca hát, buôn bán, xổ số làm tiền um sùm ở trong chùa, trong khu vực chùa. Như vậy có đúng luật đạo Phật không”.

Tôi nghe hỏi mà cảm thấy xót xa, đau khổ, và xấu hổ cho đạo Phật. Vì tôi cũng đã thấy nhà thờ Công giáo, Tin Lành và nhà thờ Đạo Cao Đài, ngay cả Đạo Hồi, không bao giờ làm đại nhạc hội, buôn bán, xổ số để làm tiền nơi chốn thiêng liêng.
Chùa là nơi thanh tịnh già lam. Đến chùa để lắng lòng, nghe kinh, niệm Phật, học đạo, chuyển mê thành ngộ. Nghe được tiếng chuông U Minh lòng nhẹ nhàng thanh thoát.

  
Hình ảnh nầy diễn ra trong khuôn viên chùa Việt Nam Houston, Texas, 
chắc chắn không chuyển mê thành ngộ được !

Là Phật tử khi chúng ta tập tu 24 giờ Bát Quan Trai Giới, ai cũng nhớ và phải giữ giới thứ 6 là: Không được trang điểm, thoa dầu thơm. Múa hát và xem múa hát. Đó là hàng Phật tử tại gia, tập tu mà không được nghe ca hát. Huống gì, trong lúc chùa là nơi thanh tịnh, mà lại tổ chức đại nhạc hội, buôn bán, xổ số. Vị thầy xuất gia mà ngồi nghe ca sĩ sexy hát múa, ỏng ẹo nhạc đời. Thì còn gì phá đạo hơn nữa. Phật tử đã đau lòng khi thấy trong nước một số chùa thờ tượng Hồ Chí Minh cùng với Phật Thích Ca. Ngoài nước thì chùa chiền biến thành Siêu thị Phật. Quý thầy ở hải ngoại mạnh ai làm nấy. Một mình một chùa. Không cần giới luật. Hởi ôi! Thật quá đau lòng cho đạo Phật.

Son phấn thơm lừng, ăn mặc hở hang, đại diện Tịnh Xá Ngọc Hòa San Jose, chào đón Ông bà chủ nhân Phật ngọc trong buổi chiêm bái Phật ngọc tại San Jose, Calfornia.

Ở Portland có vị thầy đã chết với cái tên là Ông Thầy Đại Nhạc Hội, Phật tử nghe đồng hương nói như vậy thật là xấu hổ và đau xót cho đạo.
Cúi xin quý tăng ni suy nghĩ lại. Phật tử mong quý tăng ni nên nói với nhau giữ tròn giới luật để Phật giáo trường tồn và để Phật tử khỏi xấu hổ.
Đến lúc đồng hương Phật tử đã lên tiếng, không phải quý tăng ni muốn làm gì thì làm.


Khuôn viên tịnh xá nầy hàng năm tưng bừng tổ chức đại nhạc hội vào các dịp đại lễ như Phật Đản, Vu Lan v.v...đàn trống xập xình, chạy theo lợi dưỡng, 
làm biến tướng Bát Chánh đạo

Vừa qua đồng hương Phật tử rất hoan hỷ và tâm đắc, thật hạnh phúc khi đọc được bài thơ đăng trên Oregonthoibao mấy tuần trước đây của Thi sĩ Hàn Thiên Lương


Thi sĩ Hàn Thiên Lương, là một Phật tử 13 năm tù CS, thuộc lớp người cao tuổi, vợ chồng anh rất thích đi chùa nhưng bây giờ không còn muốn đi tới chùa nữa, thì buồn biết là bao. Anh trở về tu ở “Trở Lại Vườn nhà”. Xin đồng hương Phật tử đọc lại nguyên văn bài thơ của anh để thông cảm tâm trạng của anh và cùng nhau xót xa, đau khổ vì đạo.


Trở Lại Vườn Nhà.

Tuổi thời gian đã cuối mùa
Nên tôi cố gắng đến chùa nghe kinh
Xa đời tránh cõi phù sinh
Quên đi những chuyện của mình của ai.

Nhân sinh lắm nỗi sầu đầy
Bon chen chìm nổi sông này biển kia
Vội quên tiếng hẹn lời thề
Dối gian quên mất ngõ về nghĩa nhân.

Chao ôi tôi rất ân cần
Vào chùa nghe tiếng chuông ngân tịnh hồn
Mong vơi đi những nỗi buồn
Cuối mùa được thấy con đường thênh thang.

Nhưng thôi tôi lại hoang mang
Thiền môn còn cảnh khoe khoang sang giàu.
Bày trò gây qũy xôn xao
Thêm trò đấu giá thấp cao ồn ào.

Em Xi khéo móc hầu bao
Tội cho Phật tử bụng đau cũng đành!
Cũng vì một chút hư danh
Cho nên có chuyện cạnh tranh ở chùa!

Thôi tôi trở lại vườn nhà
An nhiên dưới cội thông già tĩnh tâm
Giữ lời giữ ý âm thầm
Quanh đây lặng lẽ tháng năm yên bình!

Mới hay trong cõi nhân sinh
Niết Bàn, Bồ Tát trong tim mình mà thôi!

Hàn Thiên Lương

BÁT CHÁNH ĐẠO (CTLĐ 1)
BỘ SÁCH CƯ TRẦN LẠC ĐẠO 3 TẬP
CHUỖI NGỌC TRÂN BẢO PHÁP THÍ
CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ ĐÂU