TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Monday 1 August 2011

*** BẤT TÙY PHÂN BIỆT (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 1)



TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Trên phương diện tự do tư tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên đời này, có nhiều ý kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao hiểu rộng, kiến thức uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng tỏ ra mình rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc, cùng một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình. "Không ai giống ai". Không ai chịu nhường bước ai. Không ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự biết tôn trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách quyết liệt, đôi khi còn đi xa hơn!

Sách có câu: "Năm người mười ý! ". Nghĩa là một người có ít ra là hai ý kiến trong cùng một vấn đề. Một người có ý kiến thế này, nhưng một lúc sau hay một ngày sau, chính người đó lại có ý kiến thế khác, thay đổi ý kiến của chính mình. Bởi thế cho nên con người đấu tranh, cãi vã nhau để bênh vực ý kiến chủ quan "nhứt định là đúng không sai" của mình, võ mồm võ miệng không xong thì xử dụng võ lực, nếu sống trong tình trạng chậm tiến, kém phát triển. Còn nếu như sống trong thế giới văn minh hơn, tiến bộ hơn, phát triển hơn ở các nước Âu Mỹ, con người thưa kiện nhau ra ba tòa quan lớn, quan nhỏ để đòi bồi thường cho bằng được một đô la danh dự hão, sau khi đã tiêu pha gần hết cơ nghiệp thực, đã vất vả gầy dựng bấy lâu nay trong các chi phí kiện tụng.

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là bể khổ. Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai ghét, nay ghét mai lại thương. Thương thương ghét ghét như những sợi dây xích trói buộc con người trong vòng phiền não khổ đau, như những lượn sóng cao ngất trời vùi dập con người trong sinh tử triền miên. Biển khổ sông mê mênh mông, chuyện này chưa dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối nhau, cao ngất trời, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong kinh sách có câu: "Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba". Tuy nhiên, đạo Phật không dừng ở chỗ thế gian thường than trời trách đất, kêu khổ, khổ ơi là khổ đó. Ðạo Phật chỉ dạy cho con người nhận định rõ ràng: Cuộc đời khổ nhiều vui ít, cuộc đời sống nay chết mai, cuộc đời nay còn mai mất, không ai biết trước cuộc đời ngày sau sẽ ra sao? Nhưng đạo Phật không có ý tiêu cực, bi quan, chán nản, yếm thế. Ðạo Phật chỉ dẫn con đường giác ngộ và giải thoát, chứ không dẫn dắt con người đến chỗ yếu đuối, bạc nhược, chỉ biết đặt đức tin vô căn cứ vào thượng đế tưởng tượng, cầu nguyện van xin.
 
Ðạo Phật chỉ dạy rất nhiều phương pháp, gọi là vô lượng pháp môn, con người ứng dụng để tự giác ngộ và giải thoát mọi phiền não và khổ đau của chính mình một cách tích cực, một cách thiết thực, nhằm xây dựng cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Trong vô lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là "Bất Tùy Phân Biệt". Pháp môn này được Ðức Phật chỉ dạy trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật Tử, mà còn dành cho tất cả những ai trên đời muốn tìm hiểu cội gốc của phiền não và khổ đau, cùng những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau và phiền não đó. Trước hết, từ ngữ "bất tùy" có nghĩa là: không theo. Còn hai chữ "phân biệt", tùy theo chỗ dùng, được tạm giải thích có nghĩa là: kỳ thị, so đo, suy lường, tính toán, hơn thua, phải quấy, thị phi, cố chấp, thành kiến, định kiến, thường kiến, đoạn kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến. Vậy, "bất tùy phân biệt" có nghĩa là trong cuộc sống, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng ta không nên để tâm niệm chạy theo những tư tưởng tính toán, so đo, hơn thua, thị phi, phải quấy, không nên có đầu óc kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên này hay bên kia, bênh vực con mình gièm pha con người khác, không cố chấp một ý nghĩ cố định nào của mình là chân lý tuyệt đối. Một hạt minh châu, hạt châu như ý, có thể phát ra nhiều sắc sáng khác nhau, tùy theo góc cạnh nhìn của mỗi người.

Ở đây, xin nói ngay, "bất tùy phân biệt" không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết, không phân biệt được thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu. Tức là không phải chúng ta không có trí tuệ để có thể phân biệt được thế nào là đúng hay sai, thế nào là thực hay giả, thế nào là thiên lệch hay viên mãn, thế nào là rộng lớn hay nhỏ mọn. Trái lại, chúng ta đã hiểu biết một cách tường tận muôn sự muôn vật đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải vượt qua trình độ hiểu biết căn bản đó, đạt được sự hiểu biết khá hơn, giác ngộ cao siêu hơn, mới gọi là "bất tùy phân biệt" được.

Chúng ta hiểu biết rõ ràng thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu, nhưng chúng ta không hề cố chấp vào đó để đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì tâm phân biệt, kỳ thị già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, không thể nào đem lại an lạc và hạnh phúc, chỉ đưa chúng ta đến phiền não và khổ đau mà thôi. Ở đời, chúng ta thường trách người khác có tâm phân biệt, nhưng ít khi chịu phản quan tự kỷ, xét lại xem chính mình có tâm phân biệt như vậy hay không? Bởi vì khi chúng ta nói người này, người kia có tâm phân biệt, tức là chúng ta đã có tâm phân biệt rồi đó.

Ðối với một sự việc nào đó, chúng ta thường không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có tâm phân biệt già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, để đi đến kết luận một cách thiên lệch, không đúng chơn lý, không đúng lẽ phải, không đúng sự thực. Thí dụ như với người thân thích, chúng ta luôn luôn bênh vực, sao cũng cho là đúng! Còn với tất cả những người khác, thế nào cũng cho là sai. Với người đồng đạo hay cùng tổ chức, chúng ta luôn luôn bênh vực, cho là đúng, cái gì cũng đúng! Nhưng với người khác đạo, khác tổ chức thì cho là sai, cái gì cũng sai, tất cả đều sai! Tâm kỳ thị, tâm thiên lệch "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện", thực ra đã có tự ngàn xưa. Ðó chính là tâm phân biệt của con người vậy.

Mục đích tối thượng của đạo Phật còn chỉ dạy chúng ta một điều hết sức cao siêu, vi diệu. Ðó là ngoài những hình tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, tất cả mọi người trên thế gian này đều có một điều giống nhau, một điều thật giống nhau, một điều hết sức giống nhau, một điều muôn đời giống nhau, một điều khắp nơi giống nhau. Dễ hiểu như là máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, bộ xương cùng trắng, lục phủ ngũ tạng không khác. Con người thuộc mọi sắc dân trên khắp thế giới đều như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Ðiều giống nhau, đồng nhau đó là cái gì?

Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Ly nhứt thiết tướng thị danh thực tướng". Nghĩa là khi xa lìa tất cả mọi hình tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp, đừng có tâm phân biệt nam nữ, nghèo giàu, già trẻ, đẹp xấu, chúng ta mới có thể nhận ra rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều có một bản thể giống nhau, đồng nhau, tạm gọi là "con người chân thật". Muốn hiểu được, thấy được, giác ngộ được "con người chân thật" của chính mình, chúng ta phải lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê. Cũng như mặt hồ nước có phẳng lặng mới có thể soi thấy mặt trăng rằm trong đáy nước. Cũng như không có những đám mây tham sân si che lấp, thì mặt trăng chân thật mới hiển lộ vậy.

Thế nào là "con người chân thật"? Ðó là con người sáng suốt, có trí tuệ bát nhã, đủ năng lực giải thoát mọi phiền não và khổ đau. Ðó là con người không tham lam, không sân hận, không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh thức. Ðó là con người bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Ðó không phải là cái thân xác nặng nề của chúng ta đang có hiện nay. Ðó cũng không phải là cái tâm lăng xăng lộn xộn, suy nghĩ vớ vẫn vẫn vơ của chúng ta hiện nay. Thật vậy, những lúc tâm chúng ta lăng xăng lộn xộn, lo lắng bất an, chúng ta không thể sáng suốt suy nghĩ điều gì, nhớ điều gì cả. Chỉ khi nào chúng ta sống được với "con người chân thật" thì khi đó mới thực sự có được an lạc và hạnh phúc của cảnh giới thiên đàng, cảnh giới niết bàn mà thôi. "Con người chân thật" chính là con người không có tâm phân biệt. Nói cách khác, con người có tâm "bất tùy phân biệt" chính là "con người chân thật" vậy.



Tâm phân biệt, cố chấp, thị phi, phải quấy, đúng sai, hơn thua, thường đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì trên thế gian này có điều gì đúng hay sai tuyệt đối đâu. Chẳng hạn như chữ hiếu đối với dân tộc này là nuôi dưỡng cha mẹ già yếu cho đến lúc mãn phần. Còn chữ hiếu đối với dân tộc khác là khi thấy cha mẹ già thì họ cho leo lên cây, rồi con cháu xúm lại rung gốc cây. Nếu cha mẹ còn khỏe mạnh leo trở xuống được, con cháu vui mừng tiếp tục nuôi dưỡng. Bởi lẽ họ quan niệm rằng cha mẹ còn khỏe mạnh thì mới vui sống và yêu đời. Cũng vậy, hiện nay vấn đề phá thai là nhân đạo hay vô nhân đạo? Vấn đề bác sĩ có quyền giúp bệnh nhân nan y, hết thuốc chữa, đau đớn thập phần, được chết theo ý muốn của họ hay không? Ðâu là câu trả lời đúng nhất, hợp tình, hợp lý, hợp luật, hợp lệ nhất? Trong nhiều vấn đề, chúng ta có thể chỉ đúng một phần thôi, hãy lắng nghe ý kiến của người khác, như vậy mới đúng là tinh thần của người biết tôn trọng chân lý. 

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy:"Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn". Nghĩa là chúng ta ai ai cũng có tri kiến, tức là có sự hiểu biết. Nhưng nếu chúng ta chấp chặt tri kiến của mình là đúng, là độc nhứt vô nhị, sự chấp chặt đó là gốc của vô minh phiền não. Nếu không cố chấp như vậy, nhứt định chúng ta sống trong cảnh giới niết bàn cực lạc không nghi. Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu Pháp Tứ Y, Ðức Phật dạy trong Kinh A Hàm, gồm có: Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y trí bất y thức, Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.

*1)  "Y pháp bất y nhân". Nghĩa là chúng ta nên xét theo sự việc chứ không xét theo con người. Thí dụ như một người ăn hiền ở lành đúng tiêu chuẩn, thì phải được lên thiên đàng, không phân biệt, không chấp cứ người đó là có đạo nào hay ngoại đạo. Chứ lên thiên đàng mà cũng phe đảng như vậy hay sao? Cũng vậy, Niết bàn không dành riêng cho giới tu sĩ. Ðó chính là cảnh giới của tất cả những ai thực hành đúng theo lời Ðức Phật đã dạy, không phân biệt là Phật Tử, hay không phải là Phật Tử.
 
Tâm phân biệt người này thế này, người kia thế khác cũng dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Con người phân biệt màu áo tu sĩ với cư sĩ, phân biệt có đạo với ngoại đạo. Nếu là tu sĩ thì lên Niết bàn, nếu là người có đạo thì lên thiên đàng. Còn số đông đại chúng muôn vạn triệu triệu người, thì có chỗ dành sẵn dưới địa ngục! Hởi ơi, đâu là lòng từ bi và bác ái trong những con người có tâm phân biệt như thế! Chúng ta thường hay chấp chặt, tin ngay lập tức những gì giáo chủ dạy, những gì người tự nhận đại diện thượng đế nói, mà không chịu xét xem những lời dạy đó, những lời nói đó có đúng lẽ thực, có hợp chân lý hay không, cứ tin bừa bãi, tin một cách mù quáng, hết sức mê tín dị đoan, gọi đó là đức tin! Như vậy, chúng ta đã "y nhân", dù là thượng đế, chứ không "y pháp", dù là chân lý. Bởi vậy, cho nên ở Âu Mỹ hiện nay, những trung tâm hướng dẫn thiền định thu hút rất nhiều người đến thực tập, không phân biệt sắc dân hay tôn giáo gì cả. Ở những nơi đó, con người tư duy chân lý, quán sát lẽ thực, thực hành Chánh Pháp. Người nào thực tập đúng pháp môn thiền định thì đạt được cảnh giới an lạc và hạnh phúc đó, một cách bất tùy phân biệt! Như vậy chính là "y pháp bất y nhân".

*2) "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là đừng chấp những lời nói, ngôn ngữ, bài viết không có ý nghĩa gì, chúng ta sẽ không phiền não và khổ đau. Thí dụ như có người hỏi chúng ta rằng: Sao dạo này anh chị mất uy tín quá vậy? Câu hỏi đó không có ý nghĩa gì cả, chỉ nhằm mục đích chọc tức chúng ta mà thôi. Chúng ta nghe rồi thì thôi, hoặc có thể lờ đi như không nghe thấy, bởi vì chúng ta hiểu tường tận thế nào là "vô ngã", không thấy có "bản ngã", nên không thu nhận câu đó vào trong tâm trí. Như vậy chúng ta sẽ không thấy phiền não và khổ đau. Hoặc giả khiêm nhường hơn, chúng ta có thể từ tốn đáp: Chúng tôi có uy tín hồi nào đâu để mất cơ chứ! Thí dụ như có người mắng chúng ta giống như con bò. Nếu chúng ta thu nhận câu đó vào tâm trí, rồi sanh phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Câu nói đó không căn cứ vào đâu cả, chúng ta giận làm gì cho mệt. Hoặc là, có người phê bình chúng ta nóng tánh mà chúng ta tức giận lên tiếng cãi chánh, quả thực người đó nói chẳng sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí, nếu có người viết bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ, chưởi bới, vu khống, sỉ vả, khiêu khích, lăng nhục, bôi lọ, chụp mũ, bịa chuyện, mà chúng ta chỉ "y nghĩa bất y ngữ", thì họ làm gì có thể xúc phạm, làm sao có khả năng gây phiền não và khổ đau cho chúng ta được, phải không thưa quí vị!

Người ta đưa lửa tới đốt, nếu chúng ta không đáp ứng, không đưa thân đưa tâm ra lãnh đủ, thì họ chỉ đốt "hư không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì chúng ta cả. Chửi bới hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy gì về phía chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn nếu chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, biện bạch, cũng giống như chúng ta thổi hơi vào lửa đỏ, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây cảm hứng, tạo duyên cớ cho họ làm tới mà thôi. Lúc Ðức Phật còn tại thế, khi Ngài bị người ngoại đạo theo quấy rầy, Ngài vẫn thản nhiên cất bước, như không có chuyện gì xảy ra cả. Người đó thấy Ðức Phật cứ tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Ðàm, có chịu thua chưa? Lúc đó, Ðức Phật từ tốn nói bài kệ như sau: "Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành" .

Như vậy, nếu chúng ta không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói tim, khỏi uống thuốc chẳng cần dầu cù là, nghĩa là chúng ta không phiền não và khổ đau. Chẳng hạn như khi chúng ta đi dự tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà biếu tặng, nếu chúng ta không nhận thì chủ nhà phải giữ món quà đó lại. Cũng vậy, người đời thường tặng chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận thì sẽ được ăn ngon ngủ yên.
 
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Ðức Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước ngọa". Nghĩa là những chuyện thương thương ghét ghét, chẳng làm bận lòng, chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc trăn trở, nằm đếm một hai, cho đến trăm ngàn! Khỏe re! Như vậy chính là "y nghĩa bất y ngữ".
 
*3)  "Y trí bất y thức". Nghĩa là chúng ta nên xét sự việc theo trí tuệ bát nhã, chứ không xét theo tình thức, tình cảm thiên lệch của con người. Tâm phân biệt sắc tướng đẹp hay xấu, tiếng nói dễ nghe hay khó nghe, mùi hương dễ chịu hay khó chịu, món ăn ngon hay dở, bài văn khen tặng hết lời hay phê phán nặng lời, thường dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì sắc tướng đẹp hay xấu thực sự không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy người đối diện, tùy cảm tình của con người mà thôi. Món ăn ngon hay dở cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang đói bụng hay không mà thôi. Khi đói lòng, một củ khoai cũng thấy ngon, nhưng khi no đủ quá rồi thì sơn hào hải vị cũng chẳng ngon bằng một lọ tương! Khen tặng hay phê phán cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang nịnh bợ, tâng bốc để thủ lợi, hay đang quạu quọ vì không còn hưởng lợi, như lời giao kết trước đây nữa mà thôi.
 
Người nào hiểu được như vậy, thực tập đúng pháp môn thiền định, không để cho những tình thức phân biệt dẫn dắt đến chỗ sai lạc, đến chỗ phiền não và khổ đau, người đó đạt được "trí tuệ bát nhã". Nói cách khác, trí tuệ bát nhã là trí tuệ phát sanh do tâm "bất tùy phân biệt", do công phu trì giới, tu tập thiền định mà hiện ra. Trí tuệ bát nhã khác với trí tuệ của thế gian do công phu học tập trong học đường mà đạt được, thể hiện qua các bằng cấp cao thấp. Trí tuệ bát nhã là trí tuệ sẵn có nơi tất cả mọi con người, không phân biệt già trẻ, lớn bé, nghèo giàu, nam nữ, xuất xứ, học thức, thân sơ, thương ghét, dân tộc hay tôn giáo gì cả. Do sự lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê, chúng ta sẽ đạt được "trí tuệ bát nhã". Như vậy chính là "y trí bất y thức".
 
*4)  "Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa". Nghĩa là chúng ta chỉ nên căn cứ theo những sự việc có ý nghĩa, những điều nào rõ ràng, minh bạch, chứ đừng chạy theo những sự việc mơ mơ hồ hồ, những chuyện không có căn cứ vào đâu cả. Thí dụ như chúng ta thường nghe một câu chuyện truyền miệng, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải, người kia quấy. Hoặc những tin đồn dĩa bay xuất hiện, thần thánh hiện ra nơi này nơi khác, có người thi triển thần thông phép lạ chữa hết bệnh nan y, không thể kiểm chứng được, chúng ta không cần quan tâm. Vã lại, những câu chuyện như vậy không có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh, chỉ làm loạn tâm chúng ta mà thôi.
 
Ðối với những chuyện thị phi trên thế gian này, chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu sự thực, đã vội vàng kết luận, nhứt định không đúng vậy. Ðối với những sách gọi là kinh Phật, chúng ta cũng cần nên dè dặt. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy 37 phẩm trợ đạo, để giúp con người tiến bước trên con đường giác ngộ và giải thoát. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy lý nhân quả, lý vô thường, vô ngã, chơn không diệu hữu, để giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau. Những cuốn sách có nội dung: cúng sao giải hạn, cầu gì được nấy, bói toán mê tín, tin tưởng thánh thần, cầu nguyện van xin, tình duyên gia đạo, coi phong thủy, xem nhà cửa, chọn đất đai, đều không phải là kinh điển ghi lời Ðức Phật dạy. Vấn đề này còn có phần tế nhị, bởi vì Ðức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh, cho nên kinh điển có quyền có thực, có hiển có mật. Kinh Phật vô lượng nghĩa, không có cao thấp, tùy theo công phu tu học đến đâu, con người hiểu kinh Phật đến đó.
* * *
Tóm lại, để kết thúc bài này, chúng tôi ghi lại hai câu sau đây của Thiền sư Hoàng Bá: Nhược bất nhứt phiên hàn triệt cốt Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.

Nghĩa là:"Nếu không một phen sương thấm lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương thơm". Sau khi trải qua một mùa đông lạnh thấu xương, hoa mai mới hội đủ thời tiết nhân duyên để nở rộ và tỏa mùi hương thơm ngát khắp nơi nơi. Cũng vậy, chúng ta cần phải trải qua những thử thách cam go của cuộc đời, mới có được bài học nhẫn nhục, nhẫn mà không thấy nhục. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành". Hiểu đạo rồi, chúng ta có thể nói: "Một sự nhịn muôn vạn sự lành". Con người chỉ học được và nếm được chút hương vị từ bi sau khi trải qua những giai đoạn khổ đau của cuộc đời. Khi nào bắt đầu thấy được giữa tuyết trắng và bùn nhơ không khác, không có cái gì xấu, không có cái gì đẹp, lúc đó con người bắt đầu biết nhìn sự vật với tâm bất tùy phân biệt, cũng là lúc con người hiểu được và hành được tâm đại bi. Người có tâm đại bi tức là không có tâm phân biệt, không có tả không có hữu, không có bạn không có thù, không có thân không có sơ, không có thị không có phi, không có thương không có ghét. Tuy nhiên tâm đại bi không phải là vô tri, mà chính là sức mạnh mầu nhiệm đem lại an lạc và hạnh phúc cho cuộc đời.

Hiểu được rõ ràng thế nào là "vô ngã", thế nào là "con người chân thật", chúng ta mới tìm được an lạc và hạnh phúc trên cõi đời này. Hơn thế nữa, chúng ta cần phải trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, mới nhận thấy được những lời dạy của đức Phật không dành riêng cho bất cứ ai sống trên đời này. Không phân biệt tôn giáo, không phân biệt sắc tộc, bất cứ người nào thực tâm lắng nghe, lắng lòng suy nghĩ, đem những lời dạy quí báu đó áp dụng trong cuộc sống. Nhứt định người đó sẽ sống một cuộc đời an lạc và hạnh phúc với "con người chân thật" của chính mình vậy. 


Kính mời quí vị xem bài viết  "Bát Chánh Đạo" CTLĐ tập 1 theo link:

Quí vị muốn thỉnh bộ sách "CƯ TRẦN LẠC ĐẠO" gồm 1,2,3 tập vui lòng liên lạc địa chỉ sau:

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016



*** TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP



TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU 

TKN. Thích Nữ Chân Liễu
Tồn tại trên 2500 năm lịch sử trong một thế giới có rất nhiều tôn giáo, điều đó nói lên tính ưu việt của đạo Phật, một tôn giáo không có giáo điều mà chỉ tùy duyên truyền đạt, xuyên qua kinh nghiệm bản thân chứng đắc giác ngộ của Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và chư lịch đại Tổ Sư đắc đạo.

Đức hạnh từ bi hỷ xả cao cả, cung cách thuyết giảng và hành xử của Đức Phật vượt ra ngoài mọi đối đãi nhị biên, phá bỏ mọi chấp thủ, giải tỏa mọi phiền não, chế ngự được tâm lý sôi nổi và kích động đầy sai lầm của con người. Lời giáo huấn của Đức Phật từ bi lắng dịu, tinh khiết, trong sạch, không có tham ái ô nhiễm, dễ điều phục và luôn tỉnh giác. Vì vậy đạo Phật sẽ mãi mãi thăng hoa, tồn tại và tiếp tục được sứ mệnh hóa giải khổ đau cho nhân loại cho nhiều thế hệ sau nữa.

Đức Phật đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni nước Ấn Độ. Phật tử Việt Nam ở xa xôi ngàn dặm mà lại có duyên hạnh ngộ với Phật Pháp, còn một số rất nhiều con người sanh sống ngay tại Ấn Độ, nhưng hoàn toàn không biết gì về Phật và cũng không nghe được lời giáo huấn của Ngài.

Hoàng đế Võ Tắc Thiên là vị nữ hoàng Trung Hoa đã phải thốt lên rằng: “Bá Thiên Vạn Kiếp Nan Tao Ngộ”, trăm ngàn muôn kiếp không dễ gì mà gặp được. Một sự kiện chân thật, vô cùng hiếm hoi quí giá đến bực nào để có thể giác ngộ và hiểu được lời Đức Phật dạy.
                                 
ĐẠO PHẬT BÌNH ĐẲNG VÀ TỰ DO

Đạo Phật bình đẳng và tự do chọn lựa các pháp môn tu, miễn sao hợp với căn cơ, hoàn cảnh và khả năng hiểu biết của từng người. Không có sự cưỡng ép hay áp đặt hù dọa, hoặc phân biệt giai cấp chủng tộc trong Phật giáo chân chánh. Trong đạo Phật có nhiều pháp môn tu, ba pháp môn tu điển hình và thực hành nhiều nhất có thể kể là: Tu thiền, niệm Phật và trì chú. Tất cả các pháp môn đi từ nhiều con đường, nhưng đều nhắm mục đích cứu cánh Đức Phật dạy là: Giác Ngộ và Giải Thoát. Giác Ngộ Chân Lý và Giải Thoát Sanh Tử.


1.- Tu thiền: Hành giả tu thiền thực tập chánh niệm, oai nghi trong sự đi, đứng, nằm, ngồi, chung qui là trụ tâm nơi hiện tại, loại bỏ vọng tâm, thanh tịnh thân khẩu ý, phương tiện của giới định tuệ. Điều phục tâm bình khí hòa, bình thường tâm là đạo.

2.- Nim Pht: Hành giả tu hướng tâm theo Phật, niệm Phật cầu vãng sanh, đi đứng nằm ngồi đều niệm Phật, niệm thiện giới, loại bỏ niệm bất thiện, niệm ma, an tịnh thân khẩu ý, phương tiện của giới định tuệ. Chánh tâm biệt niệm, tịnh tâm thì có tịnh độ.

3.- Trì chú: Hành giả trì chú, đi đứng nằm ngồi đều trì chú, trụ tâm nơi thần chú, loại bỏ tâm lăng xăng vọng động, tập trung vào sự tỉnh thức không bị mê loạn, không cần phải đếm mới là trì, phương tiện của giới định tuệ. Thanh tịnh thân, tâm sáng trí thông.

Người thấm nhuần chánh pháp
Thanh lọc thân và tâm
Sống trong niềm hạnh phúc
Thiền định thật an lạc
Như kẻ tìm kho báu
Được lợi lớn cho mình
Hiền trí điều phục tâm
Tham ái chẳng mong cầu
Như tảng đá kiên cố
Bão tố không lay động.
                                
                   ĐẠO PHẬT THỰC TẾ VÀ CHÂN THẬT

Một Phật tử giác ngộ Phật tâm Phật tánh chân thật sáng suốt, nhận biết giữa đúng sai, thiện ác và không bị mê lầm điên đảo chấp chặt thành kiến, nhận sự ảo mộng là thật.

Đạo Phật làm biến đổi sự suy nghĩ vô minh của người kiêu mạn, nóng nảy, cố chấp. Giáo lý đạo Phật giúp thấy rõ bản chất thực tế của luật vô thường và luật nhân quả chi phối con người trong nhiều đời kiếp sanh lão bịnh tử.

Lời dạy của Đức Phật thực tế vô cùng, thích hợp mọi hoàn cảnh mọi trình độ và căn cơ của chúng sinh. Thân tâm bớt loạn động, bớt phiền não, dứt nghiệp chướng, thì điều phục được tâm tham, tâm sân, tâm si, chủ động được “thân khẩu ý”.

Giới-Định-Tuệ. Giữ gìn tịnh giới, tập tu thiền định, phát sanh trí tuệ. Những việc khó có như rùa mù nổi lên mặt nước gặp bọng cây, nhưng được thân người lại có nhiều phước duyên nghe được  giáo huấn Phật dạy qua kinh điển, cố gắng hành trì thì cũng sẽ thắp sáng được ngọn đuốc trí tuệ.

1. Hiểu được kinh Phật là khó.
2. Bần cùng bố thí là khó.
3. Bỏ danh sắc rất là khó.
4. Nhục không sân là khó.
5. Quyền thế không khinh người là khó.
6. Tâm hành bình đẳng là khó.
7. Không dính cảnh thị phi là khó.
8. Gặp thiện tri thức là khó.
9. Chánh tín học đạo là khó.
10. Bỏ thân hành đạo là khó.

Hằng ngày trong cuộc sống, nơi công sở nếu mọi người biết áp dụng Phật pháp với lòng bao dung, tâm hỷ xả, không ngã mạn cố chấp, bình tỉnh, cư xử tốt với đồng nghiệp, bớt ganh tị đố kỵ, bớt hơn thua, thì bớt phiền não và sẽ cải thiện được môi trường sống, xung quanh trở nên thân thiện tốt đẹp hơn.

Trong mọi tình cảnh khó khăn nào, nếu thực hiện sự chánh niệm tỉnh thức, tâm được an thì sự thông minh sáng suốt, năng lực về tinh thần tăng gấp bội, công nhân viên chức sẽ cống hiến được nhiều sáng kiến tiến bộ, việc làm bền vững hoàn hảo, đem lợi ích nhiều cho bản thân, gia đình và cho xã hội.



Tóm lại, Phật giáo không hứa hẹn là có thể thỏa mãn khát vọng hạnh phúc vĩnh cửu phàm tục chứa đầy nghiệp báo cho riêng bất cứ ai. Nhưng kết quả từ giáo lý thực tế và chân thật của đạo Phật luôn luôn đem lại hòa bình hạnh phúc và an lạc cho mọi người. Sự bình an hạnh phúc bền vững chỉ tìm thấy ở tâm thiền định, thanh tịnh và trí tuệ sáng suốt của người đã đạt được giác ngộ.

Nếu như xã hội có nhiều người tu theo lời Phật dạy, phát tâm thiện lành, lòng tràn đầy nhân ái của bậc thánh nhân và bồ tát, cõi thiên đàng cực lạc tại thế gian, ngày an lành đêm an lành, giấc ngủ được bình yên, thánh thiện.

Qua nhiều niên kỷ và thời đại con người đã có dịp kiểm nghiệm vai trò tôn giáo của đạo Phật qua thực tế áp dụng trong đời sống hằng ngày. Những vị đắc quả A La Hán sinh ra đời thời Đức Phật, bản thân cũng tự giác ngộ được những tri kiến như Phật, để lại tam tạng kinh điển dạy người đời sau đường lối tu chứng.

Khi liễu ngộ được sự nhiệm mầu vi diệu của Phật Pháp, con người dĩ nhiên đã không ngớt lời tán thán Đức Thế Tôn là bậc Thầy chỉ đường cho người chưa có phương hướng trong cuộc sống, đem đèn sáng vào trong bóng tối. Nói một cách khác, Đức Phật là một lương y đại tài, chữa được hằng vạn tâm bịnh khác nhau của chúng sinh.

Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp
Bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ
Ngã kim kiến văn đắc thọ trì
Nguyện giải Như Lai chân thiệt nghĩa.
***
Pháp Phật vi diệu lại cao sâu
Trăm ngàn muôn kiếp khó tìm cầu
Con nay nghe thấy, chuyên tu học
Nguyện hiểu Như Lai nghĩa nhiệm mầu.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT

*** XIN CÁM ƠN CUỘC ĐỜI




 “Cám ơn đời… mổi sớm mai thức dậy
ta có thêm ngày mới để yêu thương”(*)
có vườn cây xanh bóng mát quê hương
đang rụng xuống hồn tôi hoa trái ngọt


Cám ơn đời…những lần nghe tiếng hát
trong vườn xưa chim vọng lại oanh ca
thắp bình minh sáng nghĩa mẹ tình cha
đang soi bước cho con tìm nguồn sống

Cám ơn đời… những núi cao biển rộng
như tấm lòng trải khắp chốn bao dung
mùi lúa thơm ngào ngạt gió bay tung
trao truyền đến cho đời nhiều sinh lực

Cám ơn đời bậc sanh thành dưỡng dục
con vươn lên phơi phới một cành xuân
không mong nhiều chỉ mơ ước một lần
được đền đáp tình sông cùng nghĩa biển

Cám ơn đời… mỗi phút giây hiện diện
được làm người là hạnh phúc vô biên
gặp bậc thiện nhân sống một đời hiền
là chung lối trên đường chân thiện mỹ
Cám ơn đời… với tình thầy nghĩa bạn
đã cho ta những tình cảm khôn lường
dẫu mai nầy còn trên bước tha hương
vẫn cảm thấy bóng đời đang sưởi ấm

Cám ơn đời… như cành hoa tôi ngắm
sẽ tăng thêm nguồn cảm thật mến yêu
dù tuổi đang như bóng rụng theo chiều
nhưng lòng vẫn muôn đời còn tha thiết

Cám ơn đời… đấng cao minh hiền triết
đang chở che cho những kẻ lạc đường
vơi nỗi buồn theo ngày tháng ly hương
và được thấy còn đây nguồn sống mới

(*) hai câu thơ trên một bức thi họa.
Trần Đan Hà

*** LÒNG BAO DUNG CỦA NGƯỜI MẸ



Trong lúc các báo đua nhau khai thác mọi ngóc ngách của vụ án Hoàng Hùng, người bị sát hại bởi
chính bàn tay của vợ mình thì ở một góc riêng nào đó, bà cụ già 74 tuổi vẫn vẫn mở lòng bao dung...
Theo dõi vụ án, từ nhiều ngày nay qua các phương tiện thông tin, chưa ai ghi nhận được một lời nói nào, một cử chỉ
nào từ phía gia đình anh Hoàng Hùng nhằm lên án hay thóa mạ thủ phạm gây ra cái chết đau thương này.

Mọi việc về pháp lý đã có cơ quan chức năng lo liệu. Vấn đề ở đây là tấm lòng của những người trong cuộc.
Cụ bà Nguyễn Thị Kim Nga  (ảnh Huỳnh Hải – báo Dân Trí)


Anh Hoàng Hùng là con đầu trong số 6 người con của cụ Nguyễn Thị Kim Nga.
Cụ Nga hàng ngày thui thủi một mình tại căn nhà lá trống trước hở sau ở ấp 4, xã Nhị Thành, huyện Thủ Thừa.
Mặc dù đông con nhưng vì sinh kế, họ đều ra riêng (ở riêng), thi thoảng mới ghé về thăm cụ.
 Điều đáng ghi nhận ở đây là tất cả các anh em của Hùng đều đùm bọc nhau, đều thương mẹ
nhưng vì cuộc sống đều phải cắn răng chịu đựng không một ai muốn gây ra điều tiếng gì để khiến mẹ phải buồn phiền.

Tin anh Hùng mất đến với cụ Nga như sét đánh ngang tai. Suốt một tháng trời ròng rã, dư luận báo chí, dư luận

của người chung quanh đều hướng về thủ phạm là người thân trong gia đình. Cụ Nga không muốn tin điều đó.
Nhưng khi đứa cháu nội báo tin, "bác hai tự thú rồi" thì trước mặt cụ đất trời như sụp đổ.

Bây giờ đối mặt với sự thật, cụ không thể phủ nhận điều con dâu là thủ phạm giết con trai cụ.
Đôi mắt cụ thẫn thờ lạc điệu.

Những sợi tóc trắng phau phất phơ như sương khói, trên gương mặt cụ hiển hiện một tấm lòng độ lượng.
Cụ bày tỏ rằng mình không hề oán giận hay căm thù một đứa con dâu con rể nào cả, cho dù chúng gây ra thảm kịch.
Cái đáng tiếc ở đây cụ muốn nhấn mạnh là con dâu của cụ (bà Thúy Liễu), tuổi đã qua nửa đời người
nhưng vẫn còn nông nổi dại dột gây ra cảnh tan đàn xẻ nghé.
Cụ thương hai đứa cháu nội vừa mất cha nay phải xa mẹ sẽ sống ra sao trước búa rìu dư luận
ngày một nhiều ?

Có lẽ, người đau khổ nhất trong vụ án này là ông Trần Văn Mến. Ông Mến là cha bà Thúy Liễu,

 nhạc phụ của anh Hùng.

Vừa mang nỗi đau mất rể, vừa mang mặc cảm là cha của thủ phạm, ông Mến đã quì lạy cụ Nga:

“Tôi làm cha mà không dạy được con để gây ra bi kịch này. Xin chị tha thứ...”.

Đỡ ông Mến dậy, cụ rót đầy chung trà:

 “Xin dùng trà thay rượu, uống cạn chung này mình vẫn là sui gia với nhau.
Hãy dồn sức lo cho cháu ngoại anh và cháu nội tôi anh nhé”.

Không phải ông Mến bất ngờ mà cả những ai có mặt tại đây trong giây phút này cũng hết sức ngỡ ngàng

 trước lòng vị tha bao la của cụ Nga...

Các cụ tự động viên nhau rằng, mất mát đã mất mát rồi. Đau thương cũng đã đau thương rồi.

Oán giận, thù hằn để làm gì khi trước mắt còn nhiều vấn đề phải làm...

Người chết đã nằm xuống. Người gây nên tôi đã vướng vào vòng lao lý.

Cái lo của cụ Nga quả là cái lo rất đáng để mọi người quan tâm. Hai đứa trẻ tuổi đời còn quá nhỏ
cùng một lúc nhận được những hung tin dồn dập.
Có thể chúng chưa đủ sức để thấu hiểu, nhưng ngày một lớn lên,
những hệ lụy của cuộc đời sẽ gặm nhấm tâm hồn chúng.
Trước mắt, đứa lớn đã bỏ học trước khi bà Liễu ra đầu thú vì những câu hỏi của người lớn,
 của bạn đồng song:
“má đốt ba?”.


"Hãy dồn sức lo cho cháu ngoại anh và cháu nội tôi" 
Cần phải nghĩ đến tương lai của hai đứa trẻ nhất là trong lúc này. Những người như cụ Nga, ông Mến,
các cô dì chú bác của hai cháu
 sẽ phải làm gì để đưa hai cháu vượt qua ?
 Đó là vấn đề đáng nói hơn là giữ trong lòng sự thù hận oán ghét.
 "Cháu nội tôi và cháu ngoại anh",
câu nói của cụ Nga hàm chứa nhiều tình yêu thương và trách nhiệm...

Riêng với bà Thúy Liễu, thời gian vừa qua, lương tâm đã day dứt bà nhiều rồi.

 Tiếp sau, những ngày tháng trong trại giam bà sẽ còn đối mặt với sự dày vò cắn xé.
Bà đã không chiến thắng được mình, sa ngã vào những việc làm không chính đáng để rồi
cái giá phải trả quá đắt.
Nếu có dịp trở lại với đời sống bình thường liệu bà sẽ trả lời sao với các con?
Bà sẽ làm gì trước thái độ rộng mở của các đấng sinh thành và những người thân yêu?

Cụ Nga quả là người phụ nữ đầy tính nhân văn và lòng bao dung. Không giận, không thù, không ghét,

có lẽ cũng phù hợp với ý nguyện của anh Hùng, không hề hé môi cho bất cứ ai biết thủ phạm khi
 vẫn còn trên giường bệnh? 

Trần Chánh Nghĩa; vietnamnet.vn