(HT.Thích Thanh Từ)
Muốn phá vô minh phải dùng minh.
Trong kinh nói: “Căn nhà tối cả ngàn năm, muốn hết tối thì phải thắp đèn lên.
Nhà dù tối ngàn năm mà thắp đèn lên thì sáng liền.” Cũng vậy chúng ta mê vô
lượng kiếp rồi, nhưng bây giờ tỉnh, thì ngay đó là giác, là hết vô minh. Nhà
Phật cũng thường nói câu “hồi đầu thị ngạn”, tức xoay đầu lại là bờ giác chớ
không đâu xa. Vì vậy mê thì dẫn đi trong luân hồi sanh tử, giác thì trở lại bờ
Niết-bàn.
Hôm nay tôi được mời về
giảng cho Ni chúng cũng như quý Phật tử một thời pháp. Tôi thường nói, làm sao
cho tất cả người phát tâm tu đều biết được chánh pháp và thực hành đúng chánh
pháp, đó là nguyện vọng của tôi.
Đề tài của thời pháp này là
Vô minh. Khi biết rõ vô minh rồi, chúng ta mới có thể tìm cách tiêu diệt
nó. Tiêu diệt được vô minh rồi, chúng ta sẽ giải thoát sanh tử. Chúng ta ai
cũng biết trong mười hai nhân duyên, đức Phật nói cái đầu là vô minh. Từ vô
minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh sắc, danh sắc duyên lục nhập,
lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái, ái duyên thủ, thủ duyên hữu,
hữu duyên sanh, sanh duyên lão tử ưu bi khổ não.
Như vậy đau khổ cuối cùng
của sanh già bệnh chết gốc từ vô minh mà ra. Vì vậy chúng ta muốn tu cho được
kết quả, tu đến giải thoát sanh tử thì gốc vô minh chúng ta phải biết rõ. Biết
rõ rồi chúng ta trừ diệt nó. Như vậy mới là người biết cội gốc tu hành.
Trước tiên, tôi định nghĩa
vô minh là gì? Vô là không, minh là sáng. Vô minh tức là không sáng. Cái khổ
của sanh tử gốc từ vô minh mà ra. Vô minh hiểu theo nghĩa mê lầm, đen tối là
nghĩa đen. Vô minh còn có nghĩa khác mà trong kinh đức Phật giải thích rất rõ
ràng.
Nghĩa khác thế nào? Như đức
Phật dạy trong các kinh A-hàm: “Thấy các pháp, không biết đúng như thật gọi đó
là vô minh.” Nghĩa là chúng ta thấy mọi sự vật ở trên đời mà không biết đúng
như thật, chỉ biết bằng cách tưởng tượng sai lầm, đó là vô minh. Cho nên trong
các bộ kinh A-hàm luôn luôn nói “vô minh là không thấy, không biết đúng như
thật”. Nói rõ hơn không biết, không thấy đúng như thật pháp Tứ đế: khổ đế, tập
đế, diệt đế, đạo đế, gọi là vô minh. Đó là lời giải thích trong kinh A-hàm.
Kinh Viên Giác giải nghĩa
khác, có một vị Bồ-tát hỏi: “Bạch Thế Tôn, thế nào là vô minh?” Phật dạy: “Vô
minh nghĩa là đối với thân tứ đại duyên hợp tưởng lầm là thật, là quý. Đối với
tâm duyên theo bóng dáng sáu trần cho đó là tâm thật. Như vậy là vô minh.” Chấp
thân tứ đại là thật, chấp tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là thật, đó là vô
minh. Tôi xin hỏi Ni chúng và Phật tử ở đây, quý vị có vô minh không? Chắc ai
cũng đồng ý có vô minh. Tại vì tất cả đều thấy thân mình là thật, thấy tâm nghĩ
tưởng việc này, việc nọ là tâm mình thật. Thấy hai cái đó thật là vô minh.
Chúng ta vì vô minh lôi dẫn
mà sanh tử đến ngày nay không dừng. Người tu Phật là người cầu được phước lên
cõi trời, hay cầu đời sau sang giàu? Người tu Phật là người cầu giải thoát sanh
tử. Muốn giải thoát sanh tử thì phải dẹp sạch vô minh. Nếu không hết vô minh
thì không làm sao ra khỏi sanh tử được.
Vì vậy tất cả chúng ta đều
phải cố gắng, đều phải nhận định cho chín chắn, rõ ràng về vô minh. Nếu không
biết nó, không dẹp nó thì muôn kiếp tu là tu, chớ không ra khỏi sanh tử được.
Nên bài giảng này rất quan trọng đối với việc tu hành của chúng ta. Quý vị cố
gắng nghe thật kỹ, nhớ thật rõ để ứng dụng tu thì sẽ có lợi lạc lớn.
Nhà Phật chia vô minh làm
hai phần: căn bản vô minh và chi mạt vô minh. Căn bản là cội gốc, chi mạt là
ngọn ngành hay nhánh nhóc. Trong mười hai nhân duyên cái gì là căn bản vô minh,
cái gì là chi mạt vô minh? Thường ai cũng biết Phật nói vô minh duyên hành. Tức
từ vô minh phát ra nghiệp, nghiệp dẫn thần thức đi thọ sanh v.v… Vậy vô minh
ban đầu là gốc của sanh tử, nên gọi là căn bản vô minh.
Kế đến cái gì là chi mạt vô
minh? Chúng ta thử ôn lại: vô minh duyên hành, hành duyên thức, thức duyên danh
sắc, danh sắc duyên lục nhập, lục nhập duyên xúc, xúc duyên thọ, thọ duyên ái,
ái duyên thủ… Ái và thủ chính là chi mạt vô minh.
Bây giờ chúng ta tu, không
thể diệt được căn bản vô minh vì căn bản vô minh là vô minh ban đầu, nó thuộc
về quá khứ đã qua rồi. Nên hiện tại chúng ta tu là làm sao tiêu diệt được chi
mạt vô minh. Phá được chi mạt vô minh rồi thì chúng ta sẽ dứt được sanh tử. Còn
nếu chưa phá được nó thì chúng ta đi mãi trong sanh tử.
Trở lại căn bản vô minh.
Như trong kinh A-hàm nói: “Biết không đúng như thật về khổ đế, tập đế, diệt đế,
đạo đế gọi là vô minh.” Tất cả quý vị đối với Tứ đế đã biết đúng như thật chưa?
Nếu biết đúng như thật về Tứ đế thì chúng ta đã ngộ, đã nhận được giáo lý giải
thoát của pháp Tứ đế dạy rồi. Nhưng bây giờ chúng ta còn mơ màng, chưa nhận
chân sự thật nên chưa hiểu thấu được lý Tứ đế.
Trong Tứ đế, đế đầu tiên là
Khổ đế. Chúng ta thấy cuộc đời này khổ hay vui? - Khổ. Nhưng chỉ khổ lúc có
người làm phiền, làm cho ta tức giận thôi. Còn lúc được người tâng tiu, khen
ngợi đâu có khổ. Nghĩa là chỉ khổ lúc buồn tủi, còn khi được tán thán khen ngợi
thì quên khổ.
Phật nói Khổ đế vì tất cả
con người sanh ra trên thế gian này có tám thứ khổ, gồm bốn phần thuộc vật
chất: sanh, lão, bệnh, tử và bốn phần thuộc tinh thần: ái biệt ly, oán tăng
hội, cầu bất đắc, ngũ ấm xí thạnh. Trong tám khổ, chúng ta có ai qua khỏi
không?
Xét về thân thì ai rồi cũng
già, cũng bệnh, cũng chết. Quý vị thấy già khổ không? - Khổ. Bệnh khổ không? -
Khổ. Chết khổ không? - Khổ. Nhưng sao tôi già, tôi không khổ. Già khổ nếu mình
không biết tu. Bởi không biết tu nên thấy thân hơi mỏi mòn, bệnh yếu, rồi đi
đứng lọng cọng… đủ thứ hết nên thấy khổ.
Nếu biết tu thì già là một
lẽ thật, nó phải tới tự nhiên thôi, không ai trốn tránh được, kể cả Phật cũng
không trốn được. Nếu Phật trốn được thì thân tứ đại của Ngài đâu có mất. Ai có
thân thì cũng phải già bệnh chết. Vì đó là quy luật của thế gian, chúng ta
không ai chối cãi được. Đã là quy luật thì sợ có khỏi được không? Nếu không
khỏi được thì sợ chi cho vô ích. Thay vì sợ mình cười chơi cho vui, khỏe hơn
không. Như vậy thì đâu có gì khổ. Tại chúng ta sợ nó cho nên khổ. Nên biết già
chỉ khổ đối với những người không biết tu thôi.
Đến bệnh khổ, tại sao bệnh
khổ? Ví dụ như đau bụng có khổ không? Khổ toàn thân hay chỉ cái bụng khổ? Đau
chỗ nào thì khổ chỗ đó thôi. Lâu nay chúng ta hay hiểu lầm, cứ nghĩ đau cái
chân thì cả thân đều đau nên rên rỉ “đau quá chịu không nổi”. Nếu hỏi cái gì
đau thì nói “tôi đau”. Nhưng thật ra tôi đau hay cái chân đau? Chân đau thì chỉ
đau một chút dưới chân, còn các một bộ phận khác đâu có đau. Nếu bụng đau thì
chỉ một chút ở bụng, còn các chỗ khác đâu có đau, tại sao phải khổ dữ vậy?
Chúng ta có bệnh đồng hóa
khi chân đau nghĩ là mình đau, nên quằn quại rên xiết. Cái đau chỉ ở một nơi,
một chốn chớ không phải mình. Mình là cái gì quý vị biết không? Nếu mình là tứ
đại thì mai mốt tứ đại hết thở, mình đi đâu, có còn không? Tứ đại là mình thì
tứ đại rã, mình cũng phải rã theo chứ. Nhưng tứ đại này rã không phải là hết,
mình vẫn còn. Cho nên tứ đại đau chớ mình đâu có đau.
Có một Thiền sư khi bệnh,
thầy Tri sự vô thăm hỏi:
- Hòa
thượng bệnh, có cái không bệnh chăng?
Thiền sư trả lời:
- Có.
Thầy Tri sự hỏi tiếp:
- Cái gì không bệnh?
Thiền sư kêu lên:
- Ui da, ui da!
Như vậy là sao? Bệnh chỉ là
thân thôi, cái biết rên “ui da” đó không có bệnh. Chúng ta bệnh, chúng ta khổ
nhưng còn có cái không bệnh không khổ mà mình không biết. Vì vậy chúng ta cứ
lầm lẫn một bộ phận đau coi như toàn thân đau, rồi khổ sở, lăn lóc rên rỉ. Nếu
bộ phận nào đau, chúng ta cứ nhìn xem nó đau ra sao. Ví dụ chân đau, nhìn xem
nó đau ra sao. Nhìn một hồi nó quên đau. Còn nếu mình quằn quại rên rỉ thì đau
cả người.
Chúng ta tu phải có nhận
định đúng đắn không sai lầm thì hết khổ. Nhiều người hay nói, mấy cô còn nhỏ
đau, thì bệnh chừng năm mà thêm cái nhõng nhẽo nữa. Bệnh chừng năm mà rên quá
nên thành mười. Đó là không can đảm, không sáng suốt. Chúng ta bệnh phải nhìn
lại, xem nó hành làm sao, đau nhức thế nào. Phải luôn luôn can đảm thấy rằng
đau là một bộ phận đau, chớ mình không đau, như vậy sẽ bớt đau. Được thế thì
đau không còn khổ nữa. Ngược lại, nếu thấy đau là mình thì khổ liên miên. Nay
nhức đầu, mai đau bụng, lúc nào cũng thấy khổ. Như vậy bệnh là khổ.
Đến chết có khổ không? Phật
nói chết là khổ, đó là nói theo con mắt của thế gian. Bởi vì người phàm tục rất
quý thân, lúc nào cũng muốn sống mà bây giờ phải chết thì khổ. Vậy chết khổ là
đối với người quý chuộng thân, muốn giữ nó mãi. Còn người tu đạt đạo rồi, chết
không có khổ. Cho nên người thế gian gần chết thì khóc rên giãy giụa, còn các
Thiền sư chết thì cười.
Vậy chết nhất định là khổ
chăng? - Không hẳn thế. Người nào nhận chân được lẽ thật, thấy được chân lý rồi
thì không khổ. Người nghĩ thân này là mình, mất rồi không còn nữa thì người đó
sẽ khổ. Thân này giả dối, tạm bợ, đủ duyên nó tụ, hết duyên nó tan, còn cái
chân thật của mình không tan không mất bao giờ. Nên khi thân sắp tan, nhìn nó
cười thôi không có gì sợ hết.
Phật nói Khổ đế là căn cứ
trên người mê lầm. Nếu chúng ta khéo tu, vượt qua không còn chấp thân nữa thì
không còn khổ. Cho nên người tu là người không khổ. Nhưng bây giờ người tu còn
khổ hay hết khổ? Chắc là còn khổ. Sao dở vậy? Tu là để giải khổ hết khổ, mà
mình tu lại khổ. Tại sao? - Tại tu mà chưa lãnh hội được nguồn cội của Phật dạy
cho nên thấy khổ.
Người hiểu thấu đạo lý rồi,
mỗi ngày tu là mỗi ngày vui. Đi đâu cũng cười hoài vì được tu là chuyện hi hữu.
Ở thế gian bao nhiêu thứ trói buộc, vô chùa đâu có gì trói buộc. Thảnh thơi tự
tại quá, mà khổ là sao? Khổ là tại vì thấy người này được thầy thương, còn mình
không được thương nên buồn giận sanh khổ. Thấy người kia được Phật tử cúng
dường, còn mình không ai cúng hết nên khổ. Khổ này là do bỉ thử nhân ngã mà
sanh.
Chúng ta nhớ người xuất gia
là hành hạnh siêu thoát, kẻ trần tục không làm được. Phật tử ham tu, nhưng vẫn
còn bị gia đình trói buộc, không tự do. Nhìn lại quý thầy quý cô thảnh thơi
quá, họ khen thầy cô thật là phước lớn. Được khen mà quý vị lại than khổ. Người
ta mơ ước như mình, mà mình được rồi lại khổ là chuyện vô lý quá.
Là người tu, chúng ta phải
biết lý do gì mình đi tu. Tu để tiến tới đâu, cầu cái gì? Thấy cho rõ như vậy
thì sự tu hành mới tới nơi tới chốn, mới giải thoát sanh tử được. Nếu cứ nhìn theo
tâm phàm tục thương ghét v.v… thì quý vị sẽ khổ hoài, không bao giờ hết khổ.
Như vậy Khổ đế là do chúng ta chưa thấy được như thật. Đó là tôi nói căn bản vô
minh để quý vị nắm đại khái.
Kế đến tôi nói về chi mạt
vô minh.
Tất cả chúng ta đã bị vô
minh thúc đẩy tạo thành hành nghiệp dẫn đi trong sanh tử nhiều đời. Bây giờ đã
có thân thì đối với cái vô minh ban đầu không thể dẹp vì nó thuộc về quá khứ.
Cho nên dẹp là dẹp chi mạt vô minh, tức cái ngọn ngành trong hiện đời. Vậy ngọn
ngành của vô minh là gì? - Là ái, thủ.
Ái là ái cái gì? Thường
trong nhà Phật nói ái nặng nhất, nguy hiểm nhất là ái ngã. Ái ngã tức là thương
mình, thương mình là số một. Trong truyện xưa, vua Ba-tư-nặc hỏi Mạt Lợi phu
nhân: “Trên thế gian này ái khanh thương ai
nhiều nhất?” Vua nghĩ hỏi vậy, phi sẽ trả lời: “Thương Bệ hạ nhiều
nhất.” Nhưng ngược lại bà nói: “Thiếp thương mình nhiều nhất.” Vua thất vọng
hỏi: “Tại sao ái khanh thương mình nhiều nhất?” Bà giải thích: Vì thương mình
nhiều nhất nên thiếp mới quý trọng Bệ hạ, bởi Bệ hạ làm cho thiếp được sung
sướng, giàu sang.” Vua nghe thấy có lý, nên gật đầu khen phải.
Rõ ràng như bà phi đã nói,
bà thương Vua là vì bà, chớ không phải vì Vua. Quý vị ở đây có ai thương người
khác nhiều hơn thương mình không? Chắc là không. Ví dụ mình bệnh, có huynh đệ
chăm sóc chu đáo. Mình thấy huynh đệ đó tốt nên thương. Do người đó săn sóc
mình trong lúc bệnh nên mình mới thương, chớ đâu phải bỗng dưng mà thương. Vậy
thương người đó là qua mình, chớ đâu phải tự người đó được thương.
Xét kỹ tất cả cái thương
người khác đều là qua mình hết, không bao giờ người ta chửi mình mà mình thương
họ. Dầu người đó tu hay cũng mặc, hễ họ mắng nhiếc mình thì mình vẫn không
thương như thường. Vậy thương mọi người đều qua cái ngã của mình. Cho nên nói
ái ngã là số một. Bởi thương mình nhiều, nên thân này sắp hoại mình khổ, khổ vì
sợ mất nó. Do đó khi nó hoại rồi, mình hoảng tìm thân khác để tựa vào, vô minh
sanh hành là như thế.
Từ vô minh chi mạt là ái
ngã, nên tìm thân khác để tựa vô rồi sanh ra ngã kế tiếp, vì vậy nó dẫn mình đi
trong sanh tử. Do ái ngã mà sanh tử tiếp nối không cùng. Dẹp được ái ngã thì
vòng sanh tử đời sau không còn. Nếu dẹp không được thì khó mà đi trên đường
giải thoát. Tuy nhiên dẹp ái ngã là chuyện rất cay đắng. Mặc dù nó không ra gì nhưng
dẹp nó rất khó, bởi vì ai cũng thương mình hết. Thương mà muốn dẹp thì làm sao
dẹp được? Phải không thương mới có thể dẹp chứ. Do đó Phật dạy phương pháp để
chúng ta không thương ngã nữa.
Phật dạy thân này vô ngã,
tức không có cái ta thật. Nếu biết thân này không có cái ta thật thì bớt thương
nó. Còn thấy thân này là ta thì nhất định phải thương, không nghi ngờ. Vì vậy
Phật dạy phải quán các pháp vô ngã. Các pháp vô ngã thì thân này cũng vô ngã.
Không có cái thật ta thì thương cái gì. Nhờ thế phá trừ được ngã chấp.
Do ái ngã nên tất cả vật
chung quanh ngã, mình cũng ái theo. Ái ngã nên ái luôn sở hữu của ngã. Mình
thương mình nên mới thích đồ ăn ngon, nếu không thương mình thì ăn cái gì cũng
được. Thương mình nên mới thích mặc đồ đẹp. Tóm lại tất cả những gì đáp ứng cho
ngã sử dụng được tốt, được vừa ý thì mình thương hết. Cho nên nói ái ngã thì ái
pháp.
Nếu không ái ngã thì có ái
pháp không? Ví dụ mình coi mình không ra gì, khi thấy người ta có món ăn ngon
mình đâu cần xin. Còn thấy thân này quý, nên người ta có món ăn ngon mình cũng
thèm, thèm thì muốn xin. Vì quý ngã nên phải tìm những vật dụng bổ túc cho ngã
được sung mãn. Cho nên thương mình thì sẽ thương tất cả sự vật chung quanh
mình, đó gọi là ái ngã và ái pháp. Đây chính là nhân để đi trong sanh tử luân
hồi. Phật dạy muốn dứt sanh tử phải phá trừ ngã. Ngã hết thì sanh tử theo đó mà
dứt. Ngã còn thì sanh tử không bao giờ hết được. Đó là một lẽ thật.
Tôi nói qua về vô minh căn
bản và vô minh chi mạt rồi.
Từ vô minh ban đầu đưa đẩy
chúng ta đi vào vòng sanh tử. Đã đi trong sanh tử rồi thì phải chịu đau khổ. Vì
vậy chúng ta tu là làm sao biết rõ gốc vô minh, để chuyển từ mê lầm sanh tử trở
về giải thoát an lạc, đó là minh. Trong kinh Pháp Hoa có nói: Chàng cùng tử bỏ
cha mẹ đi lang thang, đi mãi. Càng đi thì càng khổ sở, càng nghèo túng. Đến lúc
anh ta cảm thấy xa cha mẹ khổ quá muốn quay đầu trở về. Trở về và được cha trao
cho gia tài rồi thì trở thành ông trưởng giả giàu có, sang trọng.
Như vậy do đâu mà chàng
cùng tử bỏ cha mẹ ra đi? Do niệm sai lầm ban đầu tức là vô minh. Từ niệm sai
lầm ban đầu dẫn chúng ta đi trong đau khổ không cùng. Khi biết lang thang lăn
lộn là khổ, muốn trở về tìm cha cho bớt khổ. Xoay trở về tìm cha là hơi minh một
chút rồi đó. Bỏ cha mẹ ra đi là vô minh. Khi thức tỉnh, giật mình xoay về tìm
cha là minh.
Vậy minh là nhân đưa mình
đến chỗ hết khổ đau, vô minh là nhân dẫn mình đi tới khổ đau. Người tu phải
tiêu diệt vô minh để trở về với minh. Vô minh sạch rồi thì đau khổ theo đó hết,
vô minh càng nhiều thì đau khổ càng đậm. Nên chúng ta phải thức tỉnh, phải trở
về được với cái minh.
Muốn trở về với cái minh
phải làm sao? Ngày trước chàng cùng tử bỏ cha đi càng xa càng khổ, bây giờ trở
về gặp cha thì càng về gần càng ít khổ. Tới chừng gặp được cha rồi, được trao
gia tài thì hoàn toàn hết khổ. Chúng ta do vô minh lôi dẫn, đưa đẩy đi trong
sanh tử triền miên, không có ngày cùng. Cho nên khi thức tỉnh được trở về, là
đi trên con đường minh, con đường ánh sáng rồi đó. Ni chúng đang tu hành như
vầy là đang từ bỏ vô minh để hướng về minh. Biết trở về và trở về đến nơi đến
chốn thì quý vị hết khổ. Đó là điều hết sức rõ ràng.
Nếu chúng ta mê thì cứ thả
trôi muôn đời muôn kiếp trong sanh tử. Một khi tỉnh tìm về đường giải thoát rồi
thì hết mê. Tôi dẫn lời đức Phật dạy về vô minh trong kinh Viên Giác: “Cái gì
là vô minh? Thấy thân tứ đại là thật, tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là
thật, đó là vô minh.” Thân là do tứ đại hợp mà thấy là mình thật, tâm duyên
theo bóng dáng sáu trần mà cho là tâm mình thật. Hai thứ chấp đó là vô minh.
Bây giờ muốn minh phải làm
sao? - Phải xả. Xả thế nào? Chẳng lẽ tự tử. Không phải vậy. Biết như thế rồi,
ta quán chiếu thấy rõ thân tâm này không thật, nên không đắm luyến, không sợ
mất nó. Như vậy là minh.
Người mê với người tỉnh
khác nhau chỗ nào? Ví dụ trong nhà có đèn sáng, bên ngoài trời tối. Nếu mở cửa
thì ánh đèn chiếu sáng ra ngoài. Một người đứng ở cửa nhìn ra ngoài thấy tối,
nhìn ngược vô trong thấy sáng. Nếu nhìn ra ngoài rồi cứ phóng đi mãi thì càng
đi càng tối. Tối mãi cho đến chừng nào thấy sợ thì quay trở lại ánh sáng. Càng
về gần thì càng sáng nhiều, đến khi bước vô cửa nhìn thấy trong nhà đèn sáng
choang. Cũng vậy ai thả trôi thân mình, tâm mình theo vòng sanh tử thì cứ chìm đắm
mãi không cùng. Ai biết xoay trở lại tìm về ánh sáng ban đầu sẽ được sáng.
Người đứng ở cửa nhìn ra
thì tối, xoay vô thì sáng, vậy tối sáng cách nhau bao xa? Chỉ là biết xoay đầu.
Xoay đầu lại thì sáng, nhìn ra thì tối. Người xưa thường nói: “hồi đầu thị
ngạn”, tức xoay đầu lại là bờ giác, nhìn ra ngoài là bến mê. Mê và giác chỉ là
một cái xoay đầu. Thả trôi theo dòng tối thì tối mãi, biết xoay ngược trở lại
tìm về ánh sáng thì sẽ được sáng. Tất cả chúng ta tu là phải làm sao chính mình
thức tỉnh, chính mình giác ngộ. Thức tỉnh, giác ngộ là không còn mê mà trở về
giác.
Chúng ta cạo tóc vào chùa
tu là đã thức tỉnh, bỏ lối mê quay về con đường sáng. Đã về đường sáng thì còn
muốn quay lại lối mê nữa không? Chắc không bao giờ dám quay lại. Mà phải cắm
đầu đi thẳng cho đến bao giờ về đến nơi, thấy và sống trong ngôi nhà sáng sủa
ấy mới yên lòng. Đó là mục đích của người tu.
Muốn trở về con đường sáng
phải làm sao? Tôi nói lại Phật dạy: “Chấp thân năm uẩn này là ta, đó là vô
minh. Chấp tâm duyên theo bóng dáng sáu trần là tâm, đó là vô minh.” Do đó,
muốn trở về con đường sáng chúng ta phải phá hai thứ chấp này. Phá chấp bằng
cách tu theo Bát-nhã. Bát-nhã là trí tuệ, trí tuệ là sáng.
Bát-nhã chia làm ba phần:
Văn tự Bát-nhã, Quán chiếu Bát-nhã và Thật tướng Bát-nhã. Ví dụ người muốn qua
sông nên phải xuống thuyền. Mục đích xuống thuyền là để qua sông. Nhưng xuống
thuyền rồi cứ ngồi ì trên đó hoài, không chèo không bơi thì chừng nào qua tới
bờ bên kia? Xuống thuyền rồi kế đó phải chèo, phải cầm dầm bơi thì mới đưa
thuyền đến bờ kia được. Chiếc thuyền dụ cho Văn tự Bát-nhã, chèo dầm dụ cho
Quán chiếu Bát-nhã, đến bờ bên kia là Thật tướng Bát-nhã, tức cái thể chân
thật. Ngồi trên thuyền không cựa quậy chắc tới thuyền mục qua cũng không được,
đó là điều hết sức rõ.
Nếu quý vị chỉ tụng kinh
chớ không quán chiếu gì hết, chỉ là Văn tự Bát-nhã. Trong Bát-nhã chỉ nơi câu
này mà khéo tu thì sẽ hết khổ: “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã
ba-la-mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách.” Chúng
ta đọc thuộc làu mà chưa bao giờ chiếu kiến, chưa chiếu kiến làm sao hết khổ
ách, nên tu mà không hết khổ. Muốn hết khổ phải chiếu kiến năm uẩn: sắc uẩn,
thọ uẩn, tưởng uẩn, hành uẩn, thức uẩn. Năm uẩn có hai phần: phần vật chất là
sắc; phần tâm là thọ, tưởng, hành, thức.
Thân do tứ đại hòa hợp
không có Tánh thật, đó là chiếu kiến sắc uẩn giai không. Sắc uẩn này không thật
tánh nên nói nó là không. Không nhưng do duyên hợp giả có. Cái gì giả thì không
quý, thật mới quý. Soi thấy thân tứ đại này Tánh không, duyên hợp giả có nên
không phải quý.
Thọ uẩn, thọ là những cảm
giác nhận được. Nếu ở lưỡi thì thọ vị, thức ăn ngon dở hay không ngon không dở.
Thọ có là do thức ăn để vào lưỡi. Lưỡi là căn, thức ăn là trần. Căn trần gặp
nhau mới sanh cảm giác ngon, dở, không ngon, không dở. Vậy cảm giác ngon dở
không thật. Vì trước khi đưa thức ăn vào lưỡi, ta có cảm giác gì đâu. Nhờ có
thức ăn, nhờ có lưỡi nên ta mới có cảm giác ngon dở, nên cảm giác ngon dở ấy
không thật. Vậy mà chúng ta ăn món gì ngon thì khen, dở thì chê, rõ ràng chúng
ta lầm thọ uẩn là thật. Nếu dùng trí tuệ nhận thấy thọ uẩn do căn trần hợp lại
nên có cảm giác. Cảm giác ngon dở nuốt qua liền hết, đâu phải là thật. Nên quán
thọ không thật chỉ là giả tướng.
Tưởng uẩn là tưởng những
chuyện đã qua hay chưa tới. Do nghĩ chuyện quá khứ, chuyện vị lai rồi tưởng
tượng nên hình ảnh dấy khởi. Quá khứ đã qua là đã mất, vị lai chưa đến là không
có. Quá khứ đã qua là không, vị lai chưa đến cũng là không, mà tưởng tượng có
thật. Nên chiếu kiến tưởng uẩn tánh không, duyên hợp giả có, chỉ bóng chớ có
thật đâu. Hiểu như vậy mới biết tưởng uẩn không thật.
Hành uẩn là nghĩ suy của
mình. Ví dụ trước khi đi chợ, quý vị tính ra chợ mua hành, mua hẹ, mua rau cải
gì đó… tính rồi đến chợ mới mua. Vậy suy tính nghĩ cái này tới cái kia, giống
như từng bước từng bước đi của mình, không có thật. Hành uẩn là những suy tư,
nghĩ tính của mình. Sự suy tư, nghĩ tính đó khi gặp duyên thì nó phát ra, hết
duyên nó mất. Như vậy hành uẩn sanh diệt như dòng nước chảy không thật. Đó là
quán hành uẩn.
Thức uẩn là phân biệt như
phân biệt đẹp xấu, trắng đen v.v… Thức uẩn tự nó phân biệt hay phải có duyên
tác động mới phân biệt? Trong là mắt, ngoài là sắc trần, sắc trần tiếp xúc với
nhãn căn sanh ra nhãn thức phân biệt. Nhĩ thức, thiệt thức v.v… cũng đều như
vậy. Nên thức tự nó không có mà phải do căn, trần tiếp xúc mới có nên nó cũng
không thật.
Rõ ràng thọ, tưởng, hành,
thức là tâm không thật. Sắc do tứ đại hợp cũng không thật. Thấy rõ thân không
thật, tâm không thật như trong kinh Viên Giác nói: nếu chấp thân thật, tâm thật
là vô minh. Nếu thấy thân không thật, tâm không thật thì hết vô minh. Vô minh
hết nên trong kinh nói: “chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”,
nghĩa là soi thấy năm uẩn đều không liền qua hết tất cả khổ nạn.
Chúng ta tu mà không chiếu
kiến nên tuy tu nhưng vẫn còn khổ nạn. Đọc thuộc lòng Bát-nhã mỗi đêm mà khổ
không hết. Bây giờ chúng ta phải khéo dùng trí tuệ chiếu soi năm uẩn không
thật, thấy rõ tường tận như vậy thì phá được vô minh, liền thoát khỏi sanh tử.
Không biết phá vô minh thì minh không bao giờ có. Tụng Bát-nhã là học trí tuệ
mà tự mình không có trí tuệ thì chừng nào ra khỏi sanh tử? Đó là điều chúng ta
cần phải biết cho thật rõ.
Người tu phải làm sao soi
sáng được chính mình, chớ không phải chỉ đọc suông lời của Phật được. Nếu thấy
thân năm uẩn là thật thì mê, nếu thấy thân năm uẩn do duyên hợp hư giả là tỉnh.
Giả sử có ai chửi, chúng ta thấy lời chửi của họ cũng không thật nên nhịn được.
Thân hư giả mà người chấp cho là quý thì mình thương, chớ không giận. Vì vậy
Phật thương chúng sanh, thương là thương cái gì? Thương chúng sanh ngu si, cái
không thật tưởng là thật, cái không quý tưởng là quý. Cứ như vậy mà trôi mãi
trong luân hồi sanh tử.
Khi nào chúng ta tu thấy rõ
thân năm uẩn không thật thì qua hết khổ ách. Qua rồi nhìn lại thấy ai còn trong
khổ ách mình thương. Thương thì tất nhiên phải độ họ. Lúc đó tình thương khác
với thương vì mình hay thương của ái ngã. Thương ái ngã là thương có điều kiện.
Khi nào người khác giúp mình, mình mới thương vì thấy thân mình thật. Nếu tỉnh
giác rồi, thấy ai mê mình thương đó là lòng thương của từ bi. Từ bi là thương
bình đẳng, không có điều kiện.
Nên biết ái ngã làm cho
chúng ta có nhiều xấu dở. Thứ nhất, vì ái ngã nên ai giúp cho ngã thì thương.
Thứ hai, vì ái ngã nên ai chọc phá ngã thì giận ghét. Thứ ba, vì ái ngã mà cứ
nối tiếp luân hồi, mất thân này chụp thân kia, không có ngày cùng. Nếu chiếu
kiến năm uẩn không thật, biết rõ không lầm không mê, lúc nào cũng thấy thân này
không thật, hư dối thì tất cả những gì đến với mình, mình đều không khổ. Già
không khổ, chết không khổ. Bởi cái hư giả hoại đi đâu có gì tiếc, còn thấy thân
thật thì tất cả khổ theo đó mà còn.
Như vậy tu theo Bát-nhã là
chấp không chăng? Ví dụ cái đồng hồ là thật có hay thật không? Thật không thì
sao nó có ở đây, nên nói thật không không được. Nếu nói thật có thì khi mở từng
phần ra, tìm cái đồng hồ không được. Nên nói thật có không được. Chỉ khi nào
duyên hợp thì tạm có, duyên hết hoàn không. Nên nói Bản tánh của đồng hồ là không.
Nếu đồng hồ có sẵn thì đâu cần đợi duyên hợp. Vì đồng hồ không có sẵn nên nói
Tánh không. Chữ không là Tánh không.
Tôi ví dụ thêm như chỗ này
có cái khay là có, chỗ không có khay gọi là trống rỗng. Chỗ này không, chỗ kia
có là do mắt thấy. Mắt thấy có không, đó là có không đối đãi. Còn đồng hồ đang
có mà nói Tánh không, thì biết rõ tánh nó là không, đó là thấy bằng trí tuệ.
Tánh không là ngay trong có mà thấy không, chớ không phải đợi không mới thấy
không. Vì vậy kinh Bát-nhã nói: “sắc tức thị không”. Từ không, do duyên hợp mới
có là: “không tức thị sắc”. Hiểu như vậy mới hiểu Bát-nhã. Nói không mà không
phải thật không, chỉ là không “Thể tánh”, chớ giả tướng vẫn có. Nói có nhưng là
giả tướng nên chẳng phải thật có.
Thân này Tánh không hay
Tánh hữu? Tánh không mà có là vì duyên hợp giả có. Người thấy rõ ràng như vậy
tức là có trí tuệ Bát-nhã, có trí tuệ Bát-nhã là hết khổ. Vậy tu rất dễ, không
tốn công bao nhiêu, cũng không phải trèo núi qua sông, lặn lội vô rừng tìm mới
có, mà ngay nơi thân này dùng trí tuệ chiếu soi năm uẩn không thật thì qua hết
khổ nạn. Qua hết khổ nạn là giải thoát sanh tử.
Cho nên tụng Bát-nhã là để
quán chiếu, để thấy rõ thân này từ thể xác đến tinh thần là duyên hợp hư giả
không thật. Hiểu không thật rồi, chúng ta mới xem thường, không quý trọng thân
nữa. Do không quý trọng thân nên hết ái ngã. Hết ái ngã mới dứt được luân hồi
sanh tử. Như vậy người muốn tiến tới giải thoát sanh tử phải thấy rõ năm uẩn
đều không.
Thấy được Tánh không thì
không còn đối đãi. Không đối đãi mới là nghĩa trung đạo, là chân lý. Còn không
đối với có là thấy một bên, gọi là biên kiến. Vì vậy nhiều người tu không biết,
nên nói tụng Bát-nhã, Kim Cang là chấp không, đó là sai lầm. Chúng ta tu hành
phải sáng suốt, nhận cho kỹ, thấy được sự vật hiện có, biết tánh của nó là
không, duyên hợp hư giả tạm có thôi. Thấy như vậy là người trí tuệ, trí tuệ là
sáng suốt. Ngược lại, không thật mà tưởng thật là si mê, si mê là vô minh.
Muốn phá vô minh phải dùng
minh. Trong kinh nói: “Căn nhà tối cả ngàn năm, muốn hết tối thì phải thắp đèn
lên. Nhà dù tối ngàn năm mà thắp đèn lên thì sáng liền.” Cũng vậy chúng ta mê
vô lượng kiếp rồi, nhưng bây giờ tỉnh, thì ngay đó là giác, là hết vô minh. Nhà
Phật cũng thường nói câu “hồi đầu thị ngạn”, tức xoay đầu lại là bờ giác chớ không
đâu xa. Vì vậy mê thì dẫn đi trong luân hồi sanh tử, giác thì trở lại bờ
Niết-bàn.
Tu là hồi đầu, xoay đầu
lại. Từ lâu chúng ta mê nên đi trong đau khổ tử sanh, khi tỉnh chúng ta trở lại
thì hết đau khổ. Nên tu là giải khổ cho mình, cứu khổ cho chúng sanh. Nếu mình
còn khổ thì làm sao cứu khổ cho người được. Nếu hiểu tu là chỉ lo cứu khổ cho
chúng sanh nên ai mời làm gì, rước đi đâu cũng nghe theo, đó là họa. Ví dụ cầu
an là cứu khổ cho người sống, cầu siêu là cứu khổ cho người chết v.v… nhưng mình
chưa hết khổ thì làm sao cứu họ hết khổ được. Muốn cứu khổ cho người trước phải
giải khổ cho mình. Mình hết khổ rồi mới cứu khổ cho người được.
Nhiều Phật tử có chuyện
buồn, nhờ thầy an ủi khuyên lơn cho bớt buồn bớt khổ. Rồi mai chiều thầy có
chuyện buồn Phật tử thấy thương an ủi lại. Như vậy chỉ là sự an ủi lẫn cho nhau
chớ không ai hết khổ cả. Cho nên chúng ta tu là phải giải khổ cho mình, giải
khổ cho mình rồi mới cứu khổ cho người. Còn chưa tự giải khổ được, mà đi cứu
khổ cho người là chuyện không có thật.
Phản chiếu lại để thấy năm
uẩn đều không, gọi là “phản quan tự kỷ”, nghĩa là soi sáng lại chính mình. Soi
sáng để thấy rõ mình, nên không lầm không chấp. Khi đã sáng rồi, mới chỉ lại
cho người khác không lầm không chấp. Ngồi soi sáng lại chính mình là ngồi
thiền. Bởi vậy nói thiền quán là ngồi lại để soi sáng chính mình, thấy rõ mình
thật hay giả, thấy rõ mình thanh tịnh hay ô uế v.v... Thấy rõ mình như vậy thì
mình mới không lầm, không lầm mình thì mình mới chỉ cho người khác tu không
lầm. Nếu mình không chiếu soi mình, không biết rõ mình thì dạy người là dạy cái
gì. Cho nên nhà Phật nói phải luôn quán chiếu, phải soi sáng chính mình hay
phản quan tự kỷ. Đó là hướng tu trong nhà Phật thường chỉ dạy.
Cho nên Tăng Ni ở các Thiền
viện mỗi đêm phải ngồi thiền để quán chiếu lại mình. Thấy rõ từng tâm niệm của
mình không thật, mới dẹp được nó. Còn tưởng nó là đúng, là thật thì không bao
giờ dẹp phá được. Không dẹp phá nó được thì phải chịu đi trong luân hồi sanh tử
thôi. Như vậy minh là trí tuệ, vô minh là si mê. Trí tuệ là sáng, si mê là tối.
Có trí tuệ thì hết si mê. Nhà tối chỉ thắp đèn mới trừ được tối. Chúng ta vì vô
minh nên phải sanh tử, muốn hết sanh tử phải phá vô minh. Phá vô minh thì phải
dùng trí tuệ.
Khi đã nắm vững đường lối,
phương pháp tu chúng ta phải cố gắng tu. Tu cho được giải thoát để cứu độ chúng
sanh đó là bản nguyện của tất cả người xuất gia theo Phật vậy.
XIN ĐỪNG HIỂU SAI VỀ ĐỨC PHẬT
Chánh Pháp Thịnh
Phật là tiếng xưng hô đơn giản nhưng lại bao hàm ý nghĩa về nhân cách. Đức Phật vốn tên là Tất-đạt-đa, họ là Gô-ta-ma, sau khi xuất gia tu hành được mọi người gọi là Thích-ca-mâu-ni, nghĩa là Thích ca tộc ẩn. Sau khi giác ngộ, mọi người gọi là Phật-đà gọi tắt là Phật có nghĩa là người giác ngộ chân lý. Như vậy, Phật chỉ là tên gọi chung những người đã giác ngộ.
Người người đều có thể thành Phật, ở đâu cũng có Phật, không phải chỉ thế giới này mới có Phật mà vô số các tinh cầu trong vũ trụ đều có thể có Phật (đương nhiên có cả chúng sinh)
Phật và chúng sinh đều là những người bình thường. Phật có thể tu hành ngộ đạo thì ngàn vạn chúng sinh cũng có thể tu hành ngộ đạo (tức là ngộ ra đại đạo nhân sinh trong vũ trụ)
Lục tổ Huệ Năng giải thích Phật qua câu trả lời : “Vô Phật, vô tổ, Đạt-ma là miếng thịt thối, Thích ca Mâu-ni, một nắm phân khô, Văn Thù, Phổ Hiền là kẻ gánh phân”
Mới nghe câu trả lời, ai cũng nghĩ Huệ Năng chẳng biết trời cao đất dày là gi, dám phủ định Phật. Nhưng chính câu trả lời phản ánh một người thấu triệt, lĩnh hội cái huyền cơ của Phật tính (bản tâm là Phật, bản tính cũng là Phật), mục đích là để ai nấy hiểu rằng mình có thể thành PHẬT.
Đức Phật: người thầy, còn thầy thế nào là nhờ bạn đánh giá dùm.
Đây chỉ là một người thầy dạy cách diệt trừ lậu hoặc cho loài người. Kinh thứ 12, Lohicca, thuộc Trường Bộ kinh, cho biết có 3 hạng đạo sư đáng bị khiển trách là:
- Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, lại còn để cho học trò không chú tâm học hỏi, sống phóng dật.
- Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, học trò có chú tâm học hỏi nhưng lại sống trái ngược với giáo pháp giảng dạy.
- Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, học trò chú tâm học hỏi nhưng lại không sống theo những điều đã nghe thuyết giảng.
Đức Phật tự nhận mình là một đạo sư không đáng bị chỉ trích hay bị khiển trách vì đã thành tựu quả vị A-la-hán, các đệ tử của Ngài đều chú tâm học hỏi và thực hành giới định tuệ hướng đến kết quả thù thắng của hạnh sa môn.
Kinh thứ 12, Đại sư tử hống, thuộc Trung Bộ kinh viết về các năng lực và trí tuệ siêu phàm của đức Phật như sau:
- Sa môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy có khả năng hướng thượng, dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.
- Ngài có đầy đủ khả năng siêu việt như lục thông, tam minh. Ngài có đầy đủ 10 như lai lực là:
1. Biết rõ xứ và phi xứ
2. Biết rõ quả báo tuỳ thuộc nhân duyên các nghiệp quá khứ, hiện tại và vị lai.
3. Biết rõ con đường đưa đến các cảnh giới.
4. Biết rõ thế giới với nhiều cảnh giới, nhiều chủng loại, nhiều căn tánh khác nhau.
5. Biết rõ chí hướng sai biệt của các chúng sanh.
6. Biết rõ căn tánh cao thấp của con người và các loài hữu tình.
7. Biết rõ sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh và sự xuất ly về thiền, giải thoát và định.
8. Thành tựu túc mạng minh nhớ đến nhiều kiếp quá khứ.
9. Thành tựu thiên nhãn minh thấy rõ quả báo tái sanh khác nhau của các loài chúng sinh tuỳ thuộc nghiệp lực.
10. Thành tựu lậu tận minh thấy rõ bốn thánh đế và các lậu hoăc, hướng đến giải thoát và giải thoát tri kiến.
Đức Phật là người bằng xương bằng thịt duy nhất trên thế gian này biết cách khám phá thế giới bên trong. Trong hơn 45 năm thuyết giảng độ chúng sinh, Ngài đã dạy cho hàng vạn người tự mình giải thoát mình ra khỏi phiền não, khổ đau và sợ hải để lại cho đời những pháp môn chuyển hoá một con người bình thường trở thành người siêu phàm với các lục thông, tam minh khiến nhiều người coi là thần thánh. Chính đức Phật cũng bị coi là thần thánh, điều mà lúc sinh thời, Ngài triệt để bác bỏ.
Kinh Giáo huấn vắn tắc của Phật lúc sắp nhập diệt do Hoà thượng Trí Quang dịch là một phần trong bộ Kinh Nguyên thuỷ đã viết:
“Trong rừng sala, giữa cây song thọ, đức Phật sắp nhập diệt, Ngài đã vì đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp: “Này các tỳ kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các thầy phải tôn kính tịnh giới như mù tối mà được sáng mắt…Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự 5 thứ giác quan, không cho phóng túng vào 5 thứ dục lạc. Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát nên Như Lai mệnh danh là Ba-la-đề-mộc-xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định và nhờ giới mà trí tuệ có năng lực huỷ diệt thống khổ. Thế nên, các thầy tỳ kheo hãy giữ tịnh giới đừng cho vi phạm thiếu sót…
Năm thứ giác quan do tâm chủ động vì vậy mà các thầy phải thận trọng chế ngự tâm mình…hãy nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình”.
Các thầy tỳ kheo thọ dụng đồ ăn thức uống hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy trì cho khỏi đói khát…Ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, nữa đêm lại phải tụng niệm để tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi”.
Này các thầy tỳ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kềm chế tâm mình đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dử nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Thực hành đức nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh…
Phật và chúng sinh đều là những người bình thường. Phật có thể tu hành ngộ đạo thì ngàn vạn chúng sinh cũng có thể tu hành ngộ đạo (tức là ngộ ra đại đạo nhân sinh trong vũ trụ)
Lục tổ Huệ Năng giải thích Phật qua câu trả lời : “Vô Phật, vô tổ, Đạt-ma là miếng thịt thối, Thích ca Mâu-ni, một nắm phân khô, Văn Thù, Phổ Hiền là kẻ gánh phân”
Mới nghe câu trả lời, ai cũng nghĩ Huệ Năng chẳng biết trời cao đất dày là gi, dám phủ định Phật. Nhưng chính câu trả lời phản ánh một người thấu triệt, lĩnh hội cái huyền cơ của Phật tính (bản tâm là Phật, bản tính cũng là Phật), mục đích là để ai nấy hiểu rằng mình có thể thành PHẬT.
Đức Phật: người thầy, còn thầy thế nào là nhờ bạn đánh giá dùm.
Đây chỉ là một người thầy dạy cách diệt trừ lậu hoặc cho loài người. Kinh thứ 12, Lohicca, thuộc Trường Bộ kinh, cho biết có 3 hạng đạo sư đáng bị khiển trách là:
- Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, lại còn để cho học trò không chú tâm học hỏi, sống phóng dật.
- Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, học trò có chú tâm học hỏi nhưng lại sống trái ngược với giáo pháp giảng dạy.
- Đạo sư không thực chứng một quả vị tu hành nào, học trò chú tâm học hỏi nhưng lại không sống theo những điều đã nghe thuyết giảng.
Đức Phật tự nhận mình là một đạo sư không đáng bị chỉ trích hay bị khiển trách vì đã thành tựu quả vị A-la-hán, các đệ tử của Ngài đều chú tâm học hỏi và thực hành giới định tuệ hướng đến kết quả thù thắng của hạnh sa môn.
Kinh thứ 12, Đại sư tử hống, thuộc Trung Bộ kinh viết về các năng lực và trí tuệ siêu phàm của đức Phật như sau:
- Sa môn Gotama thuyết pháp, pháp ấy có khả năng hướng thượng, dẫn người thực hành diệt tận khổ đau.
- Ngài có đầy đủ khả năng siêu việt như lục thông, tam minh. Ngài có đầy đủ 10 như lai lực là:
1. Biết rõ xứ và phi xứ
2. Biết rõ quả báo tuỳ thuộc nhân duyên các nghiệp quá khứ, hiện tại và vị lai.
3. Biết rõ con đường đưa đến các cảnh giới.
4. Biết rõ thế giới với nhiều cảnh giới, nhiều chủng loại, nhiều căn tánh khác nhau.
5. Biết rõ chí hướng sai biệt của các chúng sanh.
6. Biết rõ căn tánh cao thấp của con người và các loài hữu tình.
7. Biết rõ sự tạp nhiễm, sự thanh tịnh và sự xuất ly về thiền, giải thoát và định.
8. Thành tựu túc mạng minh nhớ đến nhiều kiếp quá khứ.
9. Thành tựu thiên nhãn minh thấy rõ quả báo tái sanh khác nhau của các loài chúng sinh tuỳ thuộc nghiệp lực.
10. Thành tựu lậu tận minh thấy rõ bốn thánh đế và các lậu hoăc, hướng đến giải thoát và giải thoát tri kiến.
Đức Phật là người bằng xương bằng thịt duy nhất trên thế gian này biết cách khám phá thế giới bên trong. Trong hơn 45 năm thuyết giảng độ chúng sinh, Ngài đã dạy cho hàng vạn người tự mình giải thoát mình ra khỏi phiền não, khổ đau và sợ hải để lại cho đời những pháp môn chuyển hoá một con người bình thường trở thành người siêu phàm với các lục thông, tam minh khiến nhiều người coi là thần thánh. Chính đức Phật cũng bị coi là thần thánh, điều mà lúc sinh thời, Ngài triệt để bác bỏ.
Kinh Giáo huấn vắn tắc của Phật lúc sắp nhập diệt do Hoà thượng Trí Quang dịch là một phần trong bộ Kinh Nguyên thuỷ đã viết:
“Trong rừng sala, giữa cây song thọ, đức Phật sắp nhập diệt, Ngài đã vì đệ tử mà nói tóm tắt những điều cốt yếu của chánh pháp: “Này các tỳ kheo, sau khi Như Lai diệt độ, các thầy phải tôn kính tịnh giới như mù tối mà được sáng mắt…Ai giữ tịnh giới thì người đó có thiện pháp. Đã ở trong tịnh giới thì phải chế ngự 5 thứ giác quan, không cho phóng túng vào 5 thứ dục lạc. Giới thì chính thuận với căn bản của sự giải thoát nên Như Lai mệnh danh là Ba-la-đề-mộc-xoa. Nhờ giới mà phát sinh thiền định và nhờ giới mà trí tuệ có năng lực huỷ diệt thống khổ. Thế nên, các thầy tỳ kheo hãy giữ tịnh giới đừng cho vi phạm thiếu sót…
Năm thứ giác quan do tâm chủ động vì vậy mà các thầy phải thận trọng chế ngự tâm mình…hãy nỗ lực tinh tiến mà chiết phục tâm mình”.
Các thầy tỳ kheo thọ dụng đồ ăn thức uống hãy coi như việc uống thuốc, ngon không ham, dở không bỏ, vừa đủ duy trì cho khỏi đói khát…Ban ngày thì nỗ lực thực tập thiện pháp, không để thì giờ lướt mất, nữa đêm lại phải tụng niệm để tiêu trừ điều ác, sinh trưởng điều thiện. Đừng vì lý do ngủ nghỉ mà để đời mình trôi đi, không được một chút ích lợi”.
Này các thầy tỳ kheo, nếu ai cắt xả thân thể các thầy ra từng đốt, các thầy cũng phải tự kềm chế tâm mình đừng cho giận dữ. Lại phải giữ lấy miệng lưỡi, đừng để phát ra lời tiếng không tốt. Tâm giận dử nổi lên là tự hại đạo nghiệp, hư mất công đức. Thực hành đức nhẫn mới được mệnh danh là bậc thượng nhân có sức mạnh…
Các thầy tỳ kheo, phải biết kẻ ham muốn nhiều thì nhiều sự cầu lợi nên khổ não cũng nhiều…Thực hành đức tính ít ham muốn thì lòng bình thãn, không lo sợ thiếu thốn.
Muốn giải thoát khổ não thì các thầy phải biết vừa đủ. Không biết vừa đủ thì bị 5 thứ dục lạc lôi kéo.
Muốn cầu yên tỉnh vô vi và an lạc, các thầy hãy ở đơn độc và ở một cách thư thái và thanh vắng.
Này các thầy tỳ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì hãy đắp đê sửa bờ cho khéo, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.
Này các thầy tỳ kheo, có trí tụê thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như Lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền vững chắc nhất vượt biển sinh lão bệnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bệnh tật, là búa sắc chặc cây phiền não…
Như Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi của lương y, lại như người dẫn đường rất tốt, chỉ dẫn đường lối cho người, nhưng thấy rồi mà không đi thì không phải lỗi của người chỉ đường.
Này các thầy tỳ kheo, tập trung tâm lại thì tâm sẽ ở trong thiền định. Tâm ở trong thiền định thì có thể thấu triệt trạng thái chuyển biến của vũ trụ. Vì thế mà các thầy phải luôn luôn tinh tiến nỗ lực thực tập thiền định. Thiền định được thì tâm hết tán loạn. Tiếc nước thì hãy đắp đê sửa bờ cho khéo, hãy vì nước trí tuệ mà thực tập thiền định để giữ cho nó khỏi chảy mất. Đó là hạnh thiền định.
Này các thầy tỳ kheo, có trí tụê thì hết đam mê, luôn luôn tự thức tỉnh và tự dò xét, không để lầm lỗi có thể có được, như thế là trong chánh pháp của Như Lai, người ấy có khả năng thực hiện giải thoát. Trí tuệ chân thật là chiếc thuyền vững chắc nhất vượt biển sinh lão bệnh tử, là ngọn đèn sáng nhất đối với hắc ám vô minh, là thần dược cho mọi kẻ bệnh tật, là búa sắc chặc cây phiền não…
Như Lai như vị lương y, biết bệnh mà chỉ thuốc, còn uống hay không, không phải lỗi của lương y, lại như người dẫn đường rất tốt, chỉ dẫn đường lối cho người, nhưng thấy rồi mà không đi thì không phải lỗi của người chỉ đường.
Này các thầy tỳ kheo, đối với bốn chân lý, các thầy còn hoài nghi chỗ nào thì có thể chất vấn tức khắc, không được giữ sự hoài nghi mà không cần giải đáp. Thế Tôn nói lên 3 lần như vậy nhưng không ai chất vấn vì lẽ chư tăng không có ai hoài nghi nữa.
Này các thầy tỳ kheo, chánh pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ, Như Lai sống cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Từ nay về sau, đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trụ bất diệt. Thế nên, các Thầy tỳ kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả.
Này các thầy tỳ kheo, chánh pháp tự lợi lợi tha đã có đầy đủ, Như Lai sống cho lâu cũng không còn ích lợi gì nữa. Từ nay về sau, đệ tử của Như Lai hãy triển chuyển thực hành. Như thế là pháp thân của Như Lai thường trụ bất diệt. Thế nên, các Thầy tỳ kheo phải ý thức toàn bộ cuộc đời là chuyển biến vô thường, có kết hợp thì có tan rã, đừng lo buồn gì cả.
Cuộc đời như thế thì các thầy phải nỗ lực tinh tiến để đem ánh sáng trí tuệ diệt trừ hắc ám vô minh. Vũ trụ quả thật mong manh, không một thứ chi bền bỉ. Như Lai diệt độ thì cũng như trừ được vật tội ác và đáng bỏ, giả hiệu, như thế người có trí tuệ ai lại không hoan hỷ khi trừ bỏ được thân này. Thôi các thầy hãy yên lặng, không nên nói nữa, thì giờ sắp hết. Như Lai muốn diệt độ.”
Lời trăn trối sau cùng nào cũng là lời di huấn đầy lòng nhân ái huống chi người đó lại là đức Phật. Bạn hãy đọc lại một lần nữa đi: chánh pháp tự lợi, lợi tha đã có đầy đủ, coi chừng lấy tà pháp làm chánh pháp.
Bốn chân lý hay “tứ diệu đế” hay “tứ thánh đế” được nói đến sau cùng và được nhắc đến 3 lần cho thấy tầm quan trọng của giáo pháp này trong việc tu tập. Đây là chìa khoá mở cánh cữa đi vào thế giới bên trong mà bát chánh đạo thuộc chân lý thứ tư <đạo đế> là kim chỉ nam giúp mỗi người tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa nơi mình, không nương tựa vào bất cứ gì để tự giải thoát lậu hoặc. Phải hiểu rõ từng câu, từng chữ ý nghỉa của bốn chân lý thì mới tu tập có được tự lợi, lợi tha.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐỨC PHẬTThế giới ngày nay thường xuyên sống trong lo sợ do hận thù giữa các quan điểm (ý thức hệ) tôn giáo và chính trị mà không hoá giải được. Vũ khí sản xuất ra đủ để gây ra sự huỷ diệt cả nhân loại.
Phật nói: “Hận thù vĩnh viễn không hoá giải được hận thù, chỉ có nhân ái mới có thể hoá giải hận thù”. Phật lại nói: “Nên lấy từ bi ân huệ để chiến thắng ghen ghét tức giận, lấy thiện thắng ác, lấy bố thí thắng tư lợi, lấy chân thực thắng giả dối. Kẻ chiến thắng nuôi dưỡng hận thù, kẻ chiến bại sụp đổ trong đau khổ. Cả thắng, bại đều biến mất thì con người mới được hạnh phúc”.
Về lợi ích kinh tế xã hội của Phật tử, Phật giáo không lấy đời sống khá giả làm mục đích của nhân sinh mà chỉ là phương tiện làm cho nhân loại được hạnh phúc. Muốn tu tập thành công thì vẫn cần thiết phải có một hoàn cảnh vật chất tối thiểu.
Kinh Pháp cú có ghi chép những ý kiến của đức Phật về đạo đức của người cai trị đất nước rất có ích lợi cho hạnh phúc nhân dân. Một bô máy hành chính thối nát bất công thì cả quốc gia từ quan đến dân cũng theo đó mà thối nát truỵ lạc, mất đi niềm hạnh phúc.
Khi trình bày bất kỳ một quan điểm nào, bạn luôn bị rơi vào ý thức hệ bởi vì bạn còn bản ngã. Chỉ khi diệt được ngã, vô ngã, bạn không còn vướng bận bất cứ gì, lúc đó mọi lời nói việc làm, suy nghĩ của bạn không dẫn con người đi ra thế giới bên ngoài, bạn mới không rơi vào ý thức hệ. Đó là quan điểm của đức Phật, vượt lên trên ý thức hệ. Các tôn giáo đều hữu thần, chỉ riêng đạo Phật là đạo vô thần hay nói đúng nghỉa thì đạo phật không phải là một tôn giáo vì không có ý thức hệ.
Quan điểm của đức Phật là:*Tự nhận mình đơn thuần là một con người, không tự nhận mình là thần linh hay hoá thân của thần linh. Mặc dù đức Phật có được lục thông, tam minh, 10 như lai lực nhưng rất ít khi phô diễn.
Kinh thứ 24, kinh Ba-lê thuộc Trường Bộ kinh viết: “sự thành tựu thần thông hay hiểu biết về khởi nguyên thế giới không phải là mục tiêu của việc tu hành, không đưa đến an tịnh, không giải thoát lậu hoặc”
Hầu hết các giáo chủ của các tôn giáo thần học đều thích phô trương những năng lực hơn người tương tợ như những nhà ảo thuật, như những nhà tiên tri tiên đoán nhiều chuyện kinh thiên động địa, tạo dựng vũ trụ và thế gian, rồi bị khoa học, bị thời gian minh chứng chỉ là trò bịp bợm của thần thánh giả hiệu.
Lời trăn trối sau cùng nào cũng là lời di huấn đầy lòng nhân ái huống chi người đó lại là đức Phật. Bạn hãy đọc lại một lần nữa đi: chánh pháp tự lợi, lợi tha đã có đầy đủ, coi chừng lấy tà pháp làm chánh pháp.
Bốn chân lý hay “tứ diệu đế” hay “tứ thánh đế” được nói đến sau cùng và được nhắc đến 3 lần cho thấy tầm quan trọng của giáo pháp này trong việc tu tập. Đây là chìa khoá mở cánh cữa đi vào thế giới bên trong mà bát chánh đạo thuộc chân lý thứ tư <đạo đế> là kim chỉ nam giúp mỗi người tự mình làm ngọn đèn cho chính mình, tự mình y tựa nơi mình, không nương tựa vào bất cứ gì để tự giải thoát lậu hoặc. Phải hiểu rõ từng câu, từng chữ ý nghỉa của bốn chân lý thì mới tu tập có được tự lợi, lợi tha.
QUAN ĐIỂM CỦA ĐỨC PHẬTThế giới ngày nay thường xuyên sống trong lo sợ do hận thù giữa các quan điểm (ý thức hệ) tôn giáo và chính trị mà không hoá giải được. Vũ khí sản xuất ra đủ để gây ra sự huỷ diệt cả nhân loại.
Phật nói: “Hận thù vĩnh viễn không hoá giải được hận thù, chỉ có nhân ái mới có thể hoá giải hận thù”. Phật lại nói: “Nên lấy từ bi ân huệ để chiến thắng ghen ghét tức giận, lấy thiện thắng ác, lấy bố thí thắng tư lợi, lấy chân thực thắng giả dối. Kẻ chiến thắng nuôi dưỡng hận thù, kẻ chiến bại sụp đổ trong đau khổ. Cả thắng, bại đều biến mất thì con người mới được hạnh phúc”.
Về lợi ích kinh tế xã hội của Phật tử, Phật giáo không lấy đời sống khá giả làm mục đích của nhân sinh mà chỉ là phương tiện làm cho nhân loại được hạnh phúc. Muốn tu tập thành công thì vẫn cần thiết phải có một hoàn cảnh vật chất tối thiểu.
Kinh Pháp cú có ghi chép những ý kiến của đức Phật về đạo đức của người cai trị đất nước rất có ích lợi cho hạnh phúc nhân dân. Một bô máy hành chính thối nát bất công thì cả quốc gia từ quan đến dân cũng theo đó mà thối nát truỵ lạc, mất đi niềm hạnh phúc.
Khi trình bày bất kỳ một quan điểm nào, bạn luôn bị rơi vào ý thức hệ bởi vì bạn còn bản ngã. Chỉ khi diệt được ngã, vô ngã, bạn không còn vướng bận bất cứ gì, lúc đó mọi lời nói việc làm, suy nghĩ của bạn không dẫn con người đi ra thế giới bên ngoài, bạn mới không rơi vào ý thức hệ. Đó là quan điểm của đức Phật, vượt lên trên ý thức hệ. Các tôn giáo đều hữu thần, chỉ riêng đạo Phật là đạo vô thần hay nói đúng nghỉa thì đạo phật không phải là một tôn giáo vì không có ý thức hệ.
Quan điểm của đức Phật là:*Tự nhận mình đơn thuần là một con người, không tự nhận mình là thần linh hay hoá thân của thần linh. Mặc dù đức Phật có được lục thông, tam minh, 10 như lai lực nhưng rất ít khi phô diễn.
Kinh thứ 24, kinh Ba-lê thuộc Trường Bộ kinh viết: “sự thành tựu thần thông hay hiểu biết về khởi nguyên thế giới không phải là mục tiêu của việc tu hành, không đưa đến an tịnh, không giải thoát lậu hoặc”
Hầu hết các giáo chủ của các tôn giáo thần học đều thích phô trương những năng lực hơn người tương tợ như những nhà ảo thuật, như những nhà tiên tri tiên đoán nhiều chuyện kinh thiên động địa, tạo dựng vũ trụ và thế gian, rồi bị khoa học, bị thời gian minh chứng chỉ là trò bịp bợm của thần thánh giả hiệu.
*Coi sự giác ngộ thành tựu và sự nghiệp của mình hoàn toàn do công cố gắng và tài trí của con người. Chỉ cần quyết tâm, mỗi con người đều có thể trở thành Phật. Kinh thứ 25, Ưu-đàm-bà-la Sư tử hống, thuộc Trường bộ kinh viết: “người có trí hãy đến đây, trung thực không lừa đão, ta sẽ huấn dạy, ta sẽ thuyết pháp. Nếu vị ấy thực hành đúng như điều đã dạy, vị ấy sẽ tự biết mình và chứng ngộ ngay trong đời sống hiện tiền”.
*Con người là chủ thể của chính mình, không có một sức mạnh nào cao cấp hơn có thể quyết định số phận của con người. Bạn sắp chết, sắp thở hơi thở cuối cùng thế mà các triết gia, tư tưởng gia đòi bạn trả lời câu hỏi của chúng. Nạn nhân hấp hối của một tai nạn, một tử tù tới giờ hành quyết, vậy mà cũng hỏi: “Con có tin vào đức Chúa cha, đức Chúa con và đức Chúa thánh thần hay không?” hoặc là: “hãy niệm Phật A-di-đà để được về cỏi Tây phương cực lạc”. Đặt ra những vấn đề không thể giải quyết chỉ làm mất thời giờ và sức lực một cách vô bỗ, ngu ngốc.
Các triết gia đặt ra rồi tự trả lời những vấn đề vô bổ như thế! Bạn có nghe hay không là tuỳ bạn. Điều đáng làm của bạn là cố gắng hiểu biết chính con người bạn, gọi là “khoa học về chủ thể”.
Kinh thứ 16, Đại bát niết bàn viết: “Này A-nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa.”
*Với nguyên tắc tự mình chịu trách nhiệm với mình, đức Phật cho phép các đệ tử của Ngài được tự do tư tưởng, đó là điều chưa từng thấy trong lịch sử các tôn giáo. Sự tự do đó hoàn toàn rất cần thiết vì sự giải thoát hoàn toàn trông cậy vào sự giác ngộ chân lý của mỗi người chứ không phải nhờ vào sự giúp đở nào của thần linh.
*Trong Phật giáo không có sự tin tưởng mù quáng. Đức Phật nhiều lần nói với các tỳ kheo rằng: “Các đệ tử hãy suy xét cho kỹ bản thân Như Lai. Có như thế, đệ tử mới thật sự tin tưởng giá trị chân chính của người thầy mà các người đi theo”
*Trong Phật giáo không có quan niệm là tội như trong các tôn giáo khác. Hết thảy mọi ác pháp đều do vô minh hay tà kiến gây nên. Tu hành chỉ là “minh sanh, vô minh diệt” là để biết rõ phải trái, thiện ác rồi thực hành ly dục, ly ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện tức là học và làm theo bát chánh đạo. Vì không có quan niệm tội nên địa ngục trong đạo Phật không phải là nhà tù với những hình phạt khủng khiếp như theo ý nghĩ của một số người.
*Cần phải có sự hiểu biết chính xác rõ ràng để tuyệt đối không còn nghi ngờ. Chỉ mấy phút trước khi nhập diệt, Ngài vẫn yêu cầu các đệ tử nếu có điều gì còn nghi ngờ thì cứ nêu lên để hỏi chớ để về sau phải hối tiếc là Ngài chưa làm sáng tỏ vấn đề.
*Tấm lòng độ lượng rộng lớn của Ngài đặc biệt khiến cho những người nghiên cứu lịch sử Phật giáo phải kinh ngạc. Có một lần Upali là đệ tử kiệt xuất của giáo chủ Ma-ha-tì-la, được đề cữ yết kiến đức Phật để tranh luận về nghiệp báo với quyết tâm muốn đánh bại Phật. Nhưng thật bất ngờ, kết quả của cuộc tranh luận, Upali tin tưởng rằng quan điểm của Phật là đúng, còn cách nhìn của Thầy mình là sai. Vì thế Upali xin Phật thu nhận cho ông ta được làm đệ tử nhưng Phật bảo Upali không nên quyết định vội vàng mà nên suy nghĩ thận trọng. Đến khi Upali khẩn khoản bày tỏ nguyện vọng của mình thì Phật yêu cầu ông ta hãy tiếp tục cung kính các Thầy tôn giáo cũ của ông ta như trước. Nếu ngày nay đức Phật còn sống chắc Ngài cũng đối xử với tín đồ đạo Chúa, đạo Hồi như đã đối với Upali, không níu kéo các tín đồ của các tôn giáo đó vào đạo Phật.
Truyền thống tôn trọng các tôn giáo khác đã được các đệ tử của Ngài truyền bá cho mọi người thực hành, khác với các tôn giáo thần học hiện nay.
Khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, vua Asoka (A-dục) tuy theo đạo Phật nhưng vẫn cho khắc trên vách đá một bản “bố cáo” mà nguyên văn đến nay vẫn còn trong đó có đoạn: “Không được chỉ coi trọng tôn giáo của mình mà chê bai khinh rẽ tôn giáo khác.Cần phải theo đạo lý mà tôn trọng các tôn giáo khác. Làm như thế không những có thể giúp tôn giáo mình được lớn mạnh, đồng thời cũng làm tròn nghĩa vụ đối với các tôn giáo khác. Mọi người hãy lắng nghe và vui lòng lắng nghe giáo nghĩa của các tôn giáo khác”
Tinh thần khoan dung hiểu biết đó là một trong những lý tưởng được trân trọng trong nền văn hoá văn minh Phật giáo.
Vì vậy trong suốt thời gian hơn 2500 năm của lịch sử Phật giáo, không ở đâu tìm ra một dẫn chứng về việc đạo Phật bức hại các tôn giáo khác. Tất cả mọi hình thức bạo lực bất kể nấp dưới chiêu bài gì đều tuyệt đối trái ngược với những lời khuyên dạy của đức Phật
*Con người là chủ thể của chính mình, không có một sức mạnh nào cao cấp hơn có thể quyết định số phận của con người. Bạn sắp chết, sắp thở hơi thở cuối cùng thế mà các triết gia, tư tưởng gia đòi bạn trả lời câu hỏi của chúng. Nạn nhân hấp hối của một tai nạn, một tử tù tới giờ hành quyết, vậy mà cũng hỏi: “Con có tin vào đức Chúa cha, đức Chúa con và đức Chúa thánh thần hay không?” hoặc là: “hãy niệm Phật A-di-đà để được về cỏi Tây phương cực lạc”. Đặt ra những vấn đề không thể giải quyết chỉ làm mất thời giờ và sức lực một cách vô bỗ, ngu ngốc.
Các triết gia đặt ra rồi tự trả lời những vấn đề vô bổ như thế! Bạn có nghe hay không là tuỳ bạn. Điều đáng làm của bạn là cố gắng hiểu biết chính con người bạn, gọi là “khoa học về chủ thể”.
Kinh thứ 16, Đại bát niết bàn viết: “Này A-nan, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng chánh pháp làm ngọn đèn, dùng chánh pháp làm chỗ nương tựa.”
*Với nguyên tắc tự mình chịu trách nhiệm với mình, đức Phật cho phép các đệ tử của Ngài được tự do tư tưởng, đó là điều chưa từng thấy trong lịch sử các tôn giáo. Sự tự do đó hoàn toàn rất cần thiết vì sự giải thoát hoàn toàn trông cậy vào sự giác ngộ chân lý của mỗi người chứ không phải nhờ vào sự giúp đở nào của thần linh.
*Trong Phật giáo không có sự tin tưởng mù quáng. Đức Phật nhiều lần nói với các tỳ kheo rằng: “Các đệ tử hãy suy xét cho kỹ bản thân Như Lai. Có như thế, đệ tử mới thật sự tin tưởng giá trị chân chính của người thầy mà các người đi theo”
*Trong Phật giáo không có quan niệm là tội như trong các tôn giáo khác. Hết thảy mọi ác pháp đều do vô minh hay tà kiến gây nên. Tu hành chỉ là “minh sanh, vô minh diệt” là để biết rõ phải trái, thiện ác rồi thực hành ly dục, ly ác pháp, sinh thiện, tăng trưởng thiện tức là học và làm theo bát chánh đạo. Vì không có quan niệm tội nên địa ngục trong đạo Phật không phải là nhà tù với những hình phạt khủng khiếp như theo ý nghĩ của một số người.
*Cần phải có sự hiểu biết chính xác rõ ràng để tuyệt đối không còn nghi ngờ. Chỉ mấy phút trước khi nhập diệt, Ngài vẫn yêu cầu các đệ tử nếu có điều gì còn nghi ngờ thì cứ nêu lên để hỏi chớ để về sau phải hối tiếc là Ngài chưa làm sáng tỏ vấn đề.
*Tấm lòng độ lượng rộng lớn của Ngài đặc biệt khiến cho những người nghiên cứu lịch sử Phật giáo phải kinh ngạc. Có một lần Upali là đệ tử kiệt xuất của giáo chủ Ma-ha-tì-la, được đề cữ yết kiến đức Phật để tranh luận về nghiệp báo với quyết tâm muốn đánh bại Phật. Nhưng thật bất ngờ, kết quả của cuộc tranh luận, Upali tin tưởng rằng quan điểm của Phật là đúng, còn cách nhìn của Thầy mình là sai. Vì thế Upali xin Phật thu nhận cho ông ta được làm đệ tử nhưng Phật bảo Upali không nên quyết định vội vàng mà nên suy nghĩ thận trọng. Đến khi Upali khẩn khoản bày tỏ nguyện vọng của mình thì Phật yêu cầu ông ta hãy tiếp tục cung kính các Thầy tôn giáo cũ của ông ta như trước. Nếu ngày nay đức Phật còn sống chắc Ngài cũng đối xử với tín đồ đạo Chúa, đạo Hồi như đã đối với Upali, không níu kéo các tín đồ của các tôn giáo đó vào đạo Phật.
Truyền thống tôn trọng các tôn giáo khác đã được các đệ tử của Ngài truyền bá cho mọi người thực hành, khác với các tôn giáo thần học hiện nay.
Khoảng thế kỷ thứ ba trước Công nguyên, vua Asoka (A-dục) tuy theo đạo Phật nhưng vẫn cho khắc trên vách đá một bản “bố cáo” mà nguyên văn đến nay vẫn còn trong đó có đoạn: “Không được chỉ coi trọng tôn giáo của mình mà chê bai khinh rẽ tôn giáo khác.Cần phải theo đạo lý mà tôn trọng các tôn giáo khác. Làm như thế không những có thể giúp tôn giáo mình được lớn mạnh, đồng thời cũng làm tròn nghĩa vụ đối với các tôn giáo khác. Mọi người hãy lắng nghe và vui lòng lắng nghe giáo nghĩa của các tôn giáo khác”
Tinh thần khoan dung hiểu biết đó là một trong những lý tưởng được trân trọng trong nền văn hoá văn minh Phật giáo.
Vì vậy trong suốt thời gian hơn 2500 năm của lịch sử Phật giáo, không ở đâu tìm ra một dẫn chứng về việc đạo Phật bức hại các tôn giáo khác. Tất cả mọi hình thức bạo lực bất kể nấp dưới chiêu bài gì đều tuyệt đối trái ngược với những lời khuyên dạy của đức Phật
*Người Phật giáo là những con người đi tìm chân lý nên không cần biết giáo nghĩa ấy do Phật nói ra hay do người nào đó nói ra miển là lời nói ấy là chân lý. Một hôm Phật nghĩ đêm trong cái láng lò gốm gặp một người xuất gia trẻ tuổi, Ngài lên tiếng hỏi:
-Này vị thầy tỳ kheo, thầy xuất gia dưới danh nghĩa của giáo chủ nào? Chẳng hay đạo sư của thầy là ai?
-Thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ tuổi đáp, có một vị hậu duệ của dòng họ Thích đã rời bỏ gia tộc để làm người xuất gia, nghe nói người đã tu hành đắc quả, đó là một bậc tôn giả giác hạnh tròn đầy, tôi xuất gia dưới tên của bậc Thế Tôn đó. Vị ấy chính là sư phụ tôi.
-Vị Thế Tôn giác hạnh tròn đầy ấy hiện giờ ở đâu? Phật hỏi tiếp
-Thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ đáp, ở quốc độ phía bắc có một đô thành tên là Xá vệ,
Vị Thế Tôn đang trụ túc tại đó.
-Tỳ kheo đã gặp vị Thế Tôn ấy chưa? Nếu thấy Ngài, tỳ kheo có nhận ra không?
-Tôi chưa hề được gặp vị Thế Tôn đó. Giả sử nếu có thấy Ngài tôi cũng không thể nhận ra.
Phật biết người trẻ tuổi này xuất gia tu hành theo danh nghĩa của mình, nhưng Phật không để lộ tung tích. Ngài nói:
-Này tỳ kheo, ta sẽ đem Giáo pháp truyền thụ cho ngươi. Ngươi có chịu lắng nghe không?
-Tốt lắm, thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ đáp.
Thế là Phật giảng cho người trẻ tuổi ấy nghe Kinh phân biệt lục giới. Sau khi nghe giảng xong trọn vẹn bộ kinh này, người trẻ tuổi tên là Phất-gia-xá mới rạng rở tỉnh ngộ, hiểu ra rằng người đang thuyết giảng cho mình chính là đức Phật, liền đứng dậy chạy đến sụp lạy dưới chân đức Phật tạ lổi vì mình đã gọi đức Thế Tôn là bạn đồng tu. Câu chuyện này nói lên rõ ràng rằng Phất-gia-xá chỉ cần được nghe giáo pháp còn người thuyết pháp là ai không quan trọng. Chỉ cần thuốc tốt chữa khỏi bệnh, còn người bốc thuốc là ai và từ đâu đến biết hay không biết là điều không quan trọng.
*Đức tin trong đạo Phật phải gắn liền với “tri kiến”. Nếu tôi nói với bạn trong lòng bàn tay tôi có một viên đá quý thì bạn nãy sinh vấn đề tin hay không tin lời nói đó của tôi, là bởi vì bạn chỉ nghe mà chưa thấy nhưng đến khi tôi xoè bàn tay để cho bạn thấy viên đá quý ấy thì vấn đề nghi ngờ không tồn tại nữa. Lòng tin ở Phật giáo không thể mơ hồ. Phật giáo luôn luôn quan niệm rằng do trí tuệ mà đạt được chánh kiến chớ không phải do niềm tin mù quáng mà sinh ra tín ngưỡng.
*Các pháp của đức Phật đều thiết thực nhằm mục đích tháo gở những chướng ngại, vướng mắc trong cuộc sống, ví như chiếc bè gổ chở người ta qua sông. Ngài nói: Này các tỳ kheo, có một người lữ hành trên đường đi có một con sông lớn chắn ngang. Nếu ở lại bờ bên này thì sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm, còn ở bờ bên kia thì rất an toàn. Người ấy nghĩ: muốn qua sông mà không có thuyền cũng chẳng có cầu, ta đành phải đi nhặt cành cây, rơm cỏ kết lại thành chiếc bè, phải mau chân, mau tay gắng sức làm mới được. Có được chiếc bè, anh ta chỉ trông cậy vào sức lực tay chân của mình là có thể an toàn qua được bờ bên kia. Anh ta lại nghĩ: cái bè này giúp ích rất lớn cho ta, ta phải đội nó lên đầu hay vác trên vai mà đưa nó đi theo cùng ta”.
Theo ý các ngươi, người lữ hành nghĩ như thế có thích đáng không?
-Thưa Thế Tôn, xử trí như thế là không thích đáng ạ!
-Vậy phải xử trí như thế nào mới thích đáng? Nếu người ấy suy nghĩ thế này: “cái bè này đã giúp ta qua được con sông, ta hãy kéo nó lên bờ hoặc cứ để mặc nó nổi trên mặt sông, còn ta vẫn tiếp tục cuộc hành trình”. Này các tỳ kheo, các Pháp ta dạy cho các ông cũng như chiếc bè ấy vậy.
Có một lần, đức Phật nhặt mấy chiếc lá để trong lòng bàn tay rồi nói các đệ tử rằng: Các pháp sở tri mà ta đem giảng cho các ông cũng chỉ rất ít ỏi như số lá trong tay ta. Những pháp sở tri khác ta chưa nói thì còn rất nhiều như số lá cây trong rừng. Nhưng tại sao ta không nói hết các pháp ấy cho các ngươi nghe? Đó là vì những pháp ấy không cần dùng đến, không có khả năng dẫn dắt người ta đến Niết bàn. Đó là nguyên nhân khiến ta không giảng hết những pháp ấy cho các ngươi nghe.
*Đức Phật hoàn toàn không bàn tới vấn đề siêu hình.Đặc biệt kinh luận phát triển do nhu cầu được giải đáp những thắc mắc siêu hình mà sinh thời, dù đầy đủ tam minh, đức Phật bỏ qua không nói đến. Đến khi viết Kinh, các nhà ghi chép tự tiện thêm vào những truyền thuyết huyễn hoặc, những chuyện siêu hình, những tranh luận thô thiễn gọi là hý luận hay lý giải những bí ẫn thâm sâu về sự sống, cái chết:
Tôi từ đâu đến nào ai biết?
Tôi đến nơi nào ai có hay?
(Quỳnh Dao)
Một đệ tử Phật có tên gọi là Mạn-đồng-tử đến chỗ Phật ở thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn con có một số vấn đề xin được Thế Tôn giải thích. Đó là: vũ trụ vỉnh hằng hay không vĩnh hằng, là hữu hạn hay vô hạn? Thân và tâm ta cùng là một vật hay thân là một vật còn tâm là một vật khác? Như Lai sau khi chết vẫn tồn tại hay không tồn tại…Nếu Thế Tôn giải thích cho con nghe thì con xin tiếp tục tu tập phạm hạnh dưới pháp toạ của người. Nếu Thế Tôn không giải thích cho con nghe thì con xin rời khỏi tăng đoàn đi nơi khác. Nếu Thế Tôn không biết thì xin cứ nói thẳng ra là “ta không biết”.
Câu trả lời của Phật đối với câu hỏi của Mạn-đồng-tử có ích rất lớn cho những ai đem thời gian quý báu của đời người lãng phí vào những vấn đề siêu hình hoàn toàn không cần thiết, chỉ để tự mình làm nhiểu loạn tâm mình. Lúc bấy giờ, đức Phật hỏi lại Mạn-đồng-tử:
-Từ trước tới nay ta đã bao giờ bảo với ngươi hãy đến đây, ngồi dưới pháp toạ của ta, ta sẽ giải đáp những câu hỏi kia hay không?
-Thưa Thế Tôn chưa bao giờ Người nói câu ấy.
-Này Mạn-đồng-tử, nếu như có một người bị mủi tên độc bắn bị thương được đem đến thầy thuốc. Giả sử lúc ấy anh ta nói: “tôi chưa muốn nhổ mủi tên độc này trừ phi thầy thuốc nói cho tôi biết ai là kẽ đã bắn tôi, hắn thuộc đẳng cấp Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn, họ tên bộ tộc hắn là gì…Anh chàng kia chắc chắn sẽ phải chết mà không nhận được câu trả lời của thầy thuốc.
Nếu như có người nói: “tôi không ngồi dưới pháp toạ của Thế Tôn để tu tập phạm hạnh nữa, trừ phi Thế Tôn giải thích những vấn đề như vũ trụ vĩnh hằng cho tôi nghe”. Ngưới ấy cũng phải chết trước khi nghe được lời giải đáp của Như Lai.
Tiếp đó đức Phật giảng cho Mạn-đồng-tử hiểu rõ phạm hạnh chẳng liên quan gì đến những loại kiến giải siêu hình. Vấn đề ở thế gian này là phiền não, khổ đau và sợ hãi, những lời giáo huấn của Ta có khả năng trừ diệt nó. Chính vì thế, ngươi phải ghi nhớ rằng những gì cần giải thích thì đã giải thích rồi. Những gì chưa giải thích tức là không bao giờ giải thích. Ta còn chưa giải thích những gì? Đó là những câu hỏi như vũ trụ vĩnh hằng hay không vỉnh hằng…Đó là 10 câu hỏi thuộc vào loại ta không giải đáp.
-Này vị thầy tỳ kheo, thầy xuất gia dưới danh nghĩa của giáo chủ nào? Chẳng hay đạo sư của thầy là ai?
-Thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ tuổi đáp, có một vị hậu duệ của dòng họ Thích đã rời bỏ gia tộc để làm người xuất gia, nghe nói người đã tu hành đắc quả, đó là một bậc tôn giả giác hạnh tròn đầy, tôi xuất gia dưới tên của bậc Thế Tôn đó. Vị ấy chính là sư phụ tôi.
-Vị Thế Tôn giác hạnh tròn đầy ấy hiện giờ ở đâu? Phật hỏi tiếp
-Thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ đáp, ở quốc độ phía bắc có một đô thành tên là Xá vệ,
Vị Thế Tôn đang trụ túc tại đó.
-Tỳ kheo đã gặp vị Thế Tôn ấy chưa? Nếu thấy Ngài, tỳ kheo có nhận ra không?
-Tôi chưa hề được gặp vị Thế Tôn đó. Giả sử nếu có thấy Ngài tôi cũng không thể nhận ra.
Phật biết người trẻ tuổi này xuất gia tu hành theo danh nghĩa của mình, nhưng Phật không để lộ tung tích. Ngài nói:
-Này tỳ kheo, ta sẽ đem Giáo pháp truyền thụ cho ngươi. Ngươi có chịu lắng nghe không?
-Tốt lắm, thưa bậc đồng tu, tỳ kheo trẻ đáp.
Thế là Phật giảng cho người trẻ tuổi ấy nghe Kinh phân biệt lục giới. Sau khi nghe giảng xong trọn vẹn bộ kinh này, người trẻ tuổi tên là Phất-gia-xá mới rạng rở tỉnh ngộ, hiểu ra rằng người đang thuyết giảng cho mình chính là đức Phật, liền đứng dậy chạy đến sụp lạy dưới chân đức Phật tạ lổi vì mình đã gọi đức Thế Tôn là bạn đồng tu. Câu chuyện này nói lên rõ ràng rằng Phất-gia-xá chỉ cần được nghe giáo pháp còn người thuyết pháp là ai không quan trọng. Chỉ cần thuốc tốt chữa khỏi bệnh, còn người bốc thuốc là ai và từ đâu đến biết hay không biết là điều không quan trọng.
*Đức tin trong đạo Phật phải gắn liền với “tri kiến”. Nếu tôi nói với bạn trong lòng bàn tay tôi có một viên đá quý thì bạn nãy sinh vấn đề tin hay không tin lời nói đó của tôi, là bởi vì bạn chỉ nghe mà chưa thấy nhưng đến khi tôi xoè bàn tay để cho bạn thấy viên đá quý ấy thì vấn đề nghi ngờ không tồn tại nữa. Lòng tin ở Phật giáo không thể mơ hồ. Phật giáo luôn luôn quan niệm rằng do trí tuệ mà đạt được chánh kiến chớ không phải do niềm tin mù quáng mà sinh ra tín ngưỡng.
*Các pháp của đức Phật đều thiết thực nhằm mục đích tháo gở những chướng ngại, vướng mắc trong cuộc sống, ví như chiếc bè gổ chở người ta qua sông. Ngài nói: Này các tỳ kheo, có một người lữ hành trên đường đi có một con sông lớn chắn ngang. Nếu ở lại bờ bên này thì sẽ gặp rất nhiều nguy hiểm, còn ở bờ bên kia thì rất an toàn. Người ấy nghĩ: muốn qua sông mà không có thuyền cũng chẳng có cầu, ta đành phải đi nhặt cành cây, rơm cỏ kết lại thành chiếc bè, phải mau chân, mau tay gắng sức làm mới được. Có được chiếc bè, anh ta chỉ trông cậy vào sức lực tay chân của mình là có thể an toàn qua được bờ bên kia. Anh ta lại nghĩ: cái bè này giúp ích rất lớn cho ta, ta phải đội nó lên đầu hay vác trên vai mà đưa nó đi theo cùng ta”.
Theo ý các ngươi, người lữ hành nghĩ như thế có thích đáng không?
-Thưa Thế Tôn, xử trí như thế là không thích đáng ạ!
-Vậy phải xử trí như thế nào mới thích đáng? Nếu người ấy suy nghĩ thế này: “cái bè này đã giúp ta qua được con sông, ta hãy kéo nó lên bờ hoặc cứ để mặc nó nổi trên mặt sông, còn ta vẫn tiếp tục cuộc hành trình”. Này các tỳ kheo, các Pháp ta dạy cho các ông cũng như chiếc bè ấy vậy.
Có một lần, đức Phật nhặt mấy chiếc lá để trong lòng bàn tay rồi nói các đệ tử rằng: Các pháp sở tri mà ta đem giảng cho các ông cũng chỉ rất ít ỏi như số lá trong tay ta. Những pháp sở tri khác ta chưa nói thì còn rất nhiều như số lá cây trong rừng. Nhưng tại sao ta không nói hết các pháp ấy cho các ngươi nghe? Đó là vì những pháp ấy không cần dùng đến, không có khả năng dẫn dắt người ta đến Niết bàn. Đó là nguyên nhân khiến ta không giảng hết những pháp ấy cho các ngươi nghe.
*Đức Phật hoàn toàn không bàn tới vấn đề siêu hình.Đặc biệt kinh luận phát triển do nhu cầu được giải đáp những thắc mắc siêu hình mà sinh thời, dù đầy đủ tam minh, đức Phật bỏ qua không nói đến. Đến khi viết Kinh, các nhà ghi chép tự tiện thêm vào những truyền thuyết huyễn hoặc, những chuyện siêu hình, những tranh luận thô thiễn gọi là hý luận hay lý giải những bí ẫn thâm sâu về sự sống, cái chết:
Tôi từ đâu đến nào ai biết?
Tôi đến nơi nào ai có hay?
(Quỳnh Dao)
Một đệ tử Phật có tên gọi là Mạn-đồng-tử đến chỗ Phật ở thưa rằng:
-Bạch Thế Tôn con có một số vấn đề xin được Thế Tôn giải thích. Đó là: vũ trụ vỉnh hằng hay không vĩnh hằng, là hữu hạn hay vô hạn? Thân và tâm ta cùng là một vật hay thân là một vật còn tâm là một vật khác? Như Lai sau khi chết vẫn tồn tại hay không tồn tại…Nếu Thế Tôn giải thích cho con nghe thì con xin tiếp tục tu tập phạm hạnh dưới pháp toạ của người. Nếu Thế Tôn không giải thích cho con nghe thì con xin rời khỏi tăng đoàn đi nơi khác. Nếu Thế Tôn không biết thì xin cứ nói thẳng ra là “ta không biết”.
Câu trả lời của Phật đối với câu hỏi của Mạn-đồng-tử có ích rất lớn cho những ai đem thời gian quý báu của đời người lãng phí vào những vấn đề siêu hình hoàn toàn không cần thiết, chỉ để tự mình làm nhiểu loạn tâm mình. Lúc bấy giờ, đức Phật hỏi lại Mạn-đồng-tử:
-Từ trước tới nay ta đã bao giờ bảo với ngươi hãy đến đây, ngồi dưới pháp toạ của ta, ta sẽ giải đáp những câu hỏi kia hay không?
-Thưa Thế Tôn chưa bao giờ Người nói câu ấy.
-Này Mạn-đồng-tử, nếu như có một người bị mủi tên độc bắn bị thương được đem đến thầy thuốc. Giả sử lúc ấy anh ta nói: “tôi chưa muốn nhổ mủi tên độc này trừ phi thầy thuốc nói cho tôi biết ai là kẽ đã bắn tôi, hắn thuộc đẳng cấp Sát-đế-lỵ hay Bà-la-môn, họ tên bộ tộc hắn là gì…Anh chàng kia chắc chắn sẽ phải chết mà không nhận được câu trả lời của thầy thuốc.
Nếu như có người nói: “tôi không ngồi dưới pháp toạ của Thế Tôn để tu tập phạm hạnh nữa, trừ phi Thế Tôn giải thích những vấn đề như vũ trụ vĩnh hằng cho tôi nghe”. Ngưới ấy cũng phải chết trước khi nghe được lời giải đáp của Như Lai.
Tiếp đó đức Phật giảng cho Mạn-đồng-tử hiểu rõ phạm hạnh chẳng liên quan gì đến những loại kiến giải siêu hình. Vấn đề ở thế gian này là phiền não, khổ đau và sợ hãi, những lời giáo huấn của Ta có khả năng trừ diệt nó. Chính vì thế, ngươi phải ghi nhớ rằng những gì cần giải thích thì đã giải thích rồi. Những gì chưa giải thích tức là không bao giờ giải thích. Ta còn chưa giải thích những gì? Đó là những câu hỏi như vũ trụ vĩnh hằng hay không vỉnh hằng…Đó là 10 câu hỏi thuộc vào loại ta không giải đáp.
Mạn-đồng-tử, tại sao ta không giải đáp những câu hỏi đó? Bởi vì những câu hỏi nêu ra đó chẳng có ích lợi gì. Nó chẳng có mối quan hệ cơ bản nào với phạm hạnh tu luyện thân tâm. Nó không làm cho người ta đoạn trừ được lậu hoặc.
TU MÀ KHÔNG HỌC LÀ TU MÙ
Có người tuyên truyền rằng các
sư ngoại quốc, đọc thần chú rất linh thiêng, có thể giúp mình rửa sạch nghiệp,
có thể giúp trị bệnh ung thư, dù ở bất cứ thời kỳ nào, nên rước thỉnh về nhà để
bát cúng dường. Lại có người quảng cáo là có thể truyền nhân điện chữa lành
bệnh ung thư mà bác sĩ từ chối, nhờ hào quang của Phật. Các chuyện này có thật
không, có đúng giáo lý đạo Phật không, hay chỉ là mê tín dị đoan, lường gạt?
Đức Phật có dạy:
Dù cho lên non
xuống biển vào hang
nghiệp báo đã mang
vẫn theo con người
như hình với bóng
không ai có thể
tránh được thoát được.
Con người thường thích chuyện
linh thiêng huyền bí, nhất là những chuyện giúp mình chạy tội, tránh quả báo
xấu của nghiệp nhân xấu đã gây nên, đã tạo ra trong đời. Nếu các chuyện này có
thật, các sư ngoại quốc đó có thần lực ghê gớm, đâu có phải sống kiếp lưu vong,
lang thang kiếm sống kiểu phi Phật pháp như thế đó!
Phật pháp là phương thuốc mầu
nhiệm chữa trị tâm bệnh, chứ không chữa trị thân bệnh.
Khi có thân bệnh, con người cần
đến thuốc men, tây y hoặc đông y, cần đến bệnh viện, dưỡng đường để được bác
sĩ, y tá, chuyên viên y tế chăm sóc. Khi có tâm bệnh, phiền não khổ đau,
các bác sĩ đông hay tây y cũng phải tìm đến Phật pháp để chuyển hóa
phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc hạnh phúc.
Khi tâm được bình yên, cuộc
sống thoải mái, sức khỏe có thể tăng thêm, các bệnh có thể sớm chữa khỏi.
Khi hết trần duyên, con người
đã trải qua sanh, già, bệnh, thì ai cũng phải chết. Không thấu hiểu luật vô
thường, mong kéo dài mạng sống khi không thể, con người dễ bị những tà sư, ma
giáo lường gạt, tiền mất tật mang.
Tóm lại, trong cuộc sống, chúng
ta cố gắng tu tâm dưỡng tánh, sống hạnh phúc, chết bình an. Thế thôi!
- Thường ngày, khi nói năng,
nên cẩn trọng lời nói và cách nói, tránh làm người khác tổn thương danh dự, va
chạm tự ái cá nhân, không nên làm người nghe khó chịu, dễ sanh giận hờn, dễ gây
oán thù. Như vậy gọi là tu đó.
- Bình thường, người đời nói
năng với cấp trên, bề trên, khá cẩn thận và lễ độ. Nhưng với người dưới quyền,
người đời thường hay cao giọng, lên giọng kẻ cả, không giữ gìn lời nói, không
để ý cảm giác của người nghe, cho nên ít người ưa thích cấp trên, thường tìm
cách xa lánh, chỉ có kẻ dua nịnh đến gần. Nếu mình có trách nhiệm, trong đời
hay trong đạo, mà giữ được sự hòa nhã, tương kính, trong lời nói và cách nói,
thì tất được người chung quanh cảm mến, thân cận, ưa thích gần gũi. Như vậy gọi
là tu đó. ■
TK THÍCH CHÂN TUỆ
BBT PHTQ (Tập san Từ Bi và Trí Tuệ)
***************************************************************************************************************
TK THÍCH CHÂN TUỆ
BBT PHTQ (Tập san Từ Bi và Trí Tuệ)
***************************************************************************************************************
Kính thưa Quí vị
BBT.PHTQ.CANADA
kính cảm tạ quí ĐH Tuệ Kiếm - llcschpg - đã có bài trả lời Cựu PT Nguyễn
Tường.Bài viết rất công phu, với tấm lòng và tim óc giải thích các thắc mắc đã
nêu ra. Chúng tôi xin vắn tắt: Đức Phật có thân bệnh nhưng không có tâm bệnh - Đây
là cốt tủy của đạo Phật. Cho nên, bá tánh khi có bệnh thân (đau đầu, đau
răng, nhức mỏi, bao tử, ruột, gan, phèo, phổi) thì đi đến bác sĩ, nha sĩ, dược
sĩ, bệnh viện, để khám bệnh, mua thuốc về, và nhớ uống, mới hy vọng khỏi bệnh.
Chớ có đến chùa gặp bọn tà sư gạt gẫm lập đàn cúng kiến, cúng tiền, tụng chú vào chai nước, vào bụm cát mạn đà la, úm
ba la, chết thì hết bệnh ! Đó là Tu mà không học là tu mù, ai nói gì cũng
nghe, những người tu mù thì sư nào nói gì cũng tin (thật là khổ cho bịnh mê tín
nặng quá mức tưởng tượng).
Kính thư,
BBT.PHTQ.CANADA
******************************************
From: Tue Kiem
To:
cutranlacdao@yahoo.com
Sent:
Monday, April 16, 2012 5:21:53 PM
Subject:
Trả lời cựu Phật tử Nguyễn Tường Fw: đạo PHẬT - có câu trả lời - Sư PG nào xuất
thân ngu dốt - bị quăng vô chùa -
Kính
Thầy Chân Tuệ, Tuệ Kiếm xin được mạo muội vài hàng vắn tắt trả lời cho ông cựu
Phật tử nào đó đã đưa ra câu hỏi: - Trong phim có nói Đức Phật khi già bị
đau lưng và chết do ngộ độc thức ăn. - Phật đã thành Phật từ khi 35 tuổi. Tại
sao tới 80 tuổi, Phật không diệt được cái khổ của BỆNH, TỬ điều đã làm Phật đã
ưu tư?
Thưa
Thầy, ông cựu Phật tử này chẳng chịu tìm hiểu kinh điển, giáo lý nhà Phật cho
kỹ càng nên bỏ đạo Phật,
đi
tìm đạo khác đó là cái bất hạnh của họ thì âu cũng là nhân duyên của họ vậy,
thật là tội nghiệp!!! Đức Phật vì nhận chân được cái khổ sinh lão bệnh tử của
thân ngũ uẩn được kết hợp bởi tứ đại mà thành, và chúng sinh không ai có thể
thoát ra khỏi quy luật đó, nên Ngài mới đi tìm con đường giải thoát,
giải thoát đây không có nghĩa là sẽ kéo dài thọ mạng của thân tứ đại, mà có
nghĩa là sẽ không còn sinh tử luân hồi sau khi Niết Bàn.
Đức
Phật cũng mang một tấm thân ngũ uẩn, cũng được thành hình bởi tứ đại như tất cả
chúng sanh khác,
thì
làm sao có thể tránh khỏi được chuyện vô thường của tứ đại, và dĩ nhiên những
hệ luỵ của nó như đau lưng, nhức đầu, đau bụng, chấm dứt thọ mạng v.v..
Tuy
nhiên Đức Phật đã chiến thắng được giặc sinh lão bệnh tử, nên nói rằng
"tới 80 tuổi, Phật không diệt được cái khổ của BỆNH, TỬ" là
nói sai rồi..
1- Nói rằng chết vì ngộ độc thức ăn thì
hoàn toàn không phải, tuy một số kinh điển ghi chép như vậy, và nhìn bề ngoài
thì tưởng là vậy, nhưng trên thực tế, Đức Phật đã báo với đại chúng Ngài sẽ
Niết Bàn vào ba tháng trước (Kinh Đại Bát Niết Bàn), Ngài thọ dụng bữa ăn cuối
cùng của ông Thuần Đà, mặc dù biết thức ăn có độc nhưng Ngài vẫn dùng, vì Ngài
đã dặn dò chúng đệ tử rằng chỗ thức ăn dư sẽ không có ai có thể chịu được được
chất độc ấy nên hãy chôn phần thức ăn còn sót lại ở một chỗ nào không có sinh
mạng. Không phải chất độc này là yếu tố làm Ngài chấm dứt thọ mạng, mà là Ngài
chỉ thuận theo duyên để xả bỏ thân tứ đại mà thôi, vì đối với một bậc Chánh
Đẳng Giác, tâm từ của Ngài bao trùm rộng khắp thế gian thì không có một độc
chất nào có thể gây tác hại đến Ngài cả, và nếu Ngài muốn dùng tâm lực để hoá
giải độc chất thì cũng không phải là một vấn đề khó khăn,
Ngài
đã nói với tôn giả Ananda rằng Ngài có thể dùng Tứ Thần Túc để kéo dài thọ mạng
đến bao lâu Ngài muốn khi Ma Vương yêu cầu Ngài Niết Bàn vào ba tháng trước,
nhưng tôn giả Ananda vào thời điểm đó tâm trí bị Ma Vương chi phối nên đã không
thỉnh đức Phật tiếp tục trụ thế. --Trích dẫn Kinh Đại Bát Niết Bàn3. Này
Ananda, những ai đã tu bốn thần túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật
chắc chắn, thật bền vững, điêu luyện, thiện xảo, thời nếu muốn người ấy có thể
sống đến một kiếp hay phần kiếp còn lại. Này Ananda, nay Như Lai đã tu bốn thần
túc, tu tập nhiều lần, thật lão luyện, thật chắc chắn, thật bền vững, điêu
luyện, thiện xảo. Này Ananda, nếu muốn Như Lai có thể sống đến một kiếp hay
phần kiếp còn lại.
2- Nói Đức Phật tới 80 tuổi vẫn không diệt
được cái khổ của BỆNH TỬ là nói sai rồi. Đối với cái khổ sinh lão bệnh tử, Đức
Phật và các bậc Thánh đệ tử của Ngài hiểu rõ tính chất của vạn vật là vô
thường, thân tứ đại cũng là vô thường, và đó là quy luật của vũ trụ chứ không
phải do Đức Phật đặt để, cho nên dù thân tứ đại có bị bất ổn, bất an, đau
khổ, nhưng với công năng tu tập sâu dày, nếu các Ngài muốn, các Ngài có thể
điều phục tâm, hướng tâm đến bất cứ trạng thái nào, nên dù thân có đau, nhưng
các Ngài không để cho tâm bị ảnh hưởng, nên không bị cái cảm thọ khổ này chi
phối.
Các Ngài an trú trong thiền định nên không thấy có cảm thọ khổ đối với
sự bất ổn của tứ đại, và ngay cả khi Niết Bàn, các
Ngài cũng đã nhập thiền, xuất thiền theo ý muốn nhiều lần rồi mới tịch diệt,
mới xả bỏ thân tứ đại, nên không thể gọi là bị nỗi đau khổ của cái chết chi
phối. (Kinh Đại Bát Niết Bàn) Xin nói thêm rằng cái khổ bệnh tử của
chúng sinh không bao giờ có thể diệt được, Đức Phật khi chưa thành đạo cũng
không diệt được, không có ai thay thế ta chịu được cái khổ này cả, chỉ có thể
diệt được sinh lão bệnh tử khi đã tu tập rốt ráo, đã chứng đạt đạo quả giải
thoát, Đức Phật sau khi thành đạo đã chiến thắng sinh lão bệnh tử, sao có thể
nói là không diệt được cái khổ của Bệnh Tử chứ!!!
Kính Thầy, Tuệ Kiếm
Chuyện
Trong Đời
- Thưa
Thầy, xin Thầy từ bi chỉ dạy để con người cảm nhận được hạnh phúc trên đời này,
dù cuộc đời quá nổi trôi, đầy sự bất như ý.
- Con
người thường có đủ 3 tâm: tham, sân và si.
Khi tâm
tham nổi lên, con người cảm thấy thiếu thốn, chưa đủ, muốn thêm, dù cho nhiều
người đã có tiền rừng bạc biển trong tay. Có nhiều người mãi mê chạy theo lợi
và danh cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thấy đủ.
Cho
nên, con người muốn cảm nhận được hạnh phúc trong cuộc sống cần phải biết đủ
(tri túc).
Sách có
câu:
Tri túc tiện túc, đãi túc hà thời túc.
Tạm
hiểu:
Biết đủ thời đủ, đợi đủ khi nào đủ.
Nghĩa
là: Khi nào đủ ăn, đủ mặc, không đói rách, con người thấy biết là đủ thì ngay
khi đó có hạnh phúc.
Với tâm
tham, đợi kiếm thêm nhiều nữa mới cho là đủ thì khó hưởng hạnh phúc vì sẽ không
bao giờ cho là đủ.
Có lời
khuyên: trong đời con người nên nhìn xuống sẽ cảm nhận hạnh phúc vì có biết bao
nhiêu người khác không bằng mình. Lúc đó con người sẽ phát tâm cứu người giúp
đời, tạo phước báu. Nếu con người nhìn lên sẽ thấy có biết bao nhiêu người hơn
mình, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Tóm lại, khi tâm cảm thấy biết đủ,
con người sẽ cảm nhận được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Khi tâm
sân hận nổi lên, con người cảm thấy bị xúc phạm bị khinh khi, bèn khởi tâm trả
đủa trả thù, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Muốn dẹp bỏ tự ái hay giảm
bớt tâm sân hận, con người cần quán chiếu đó chính là bản ngã. Bản ngã chính là
nguồn gốc của phiền não khổ đau trên đời, sao có thể cảm nhận được hạnh phúc?
Tóm lại, muốn cảm nhận được hạnh phúc, con người cần nên quán chiếu biết đủ và
tập sống theo vô ngã (dẹp bỏ tự ái xằng). Dĩ nhiên như vậy là sống ngược không
theo dòng đời thường.[]
Hũ tro cốt là con tin trong các chùa:
Câu hỏi:
Hiện nay, một số người
giàu, có nhiều tiền, muốn báo hiếu cho thân nhân của mình, nên đến các chùa có
diện tích đất rộng, bỏ tiền ra mua một miếng đất để xây một cái mồ, rồi đưa xác
thân nhân về chôn cất ở đó, hoặc gửi tro vào tháp hài cốt trong chùa. Nhà chùa
gặp cơ may này làm giàu, tính giá rất cao cho những người cần nhà chùa làm lễ
cầu siêu độ cho các vong linh. Các người này họ rất hoan hỷ được đưa thân nhân
về chùa “nằm trong đất chùa, được nghe kinh, được theo Phật”.
Kính thưa Thầy, ý
nghĩa của việc làm nầy thật sự là thế nào đối với người quá vãng, với thân nhân
của họ và đối với nhà chùa? Chúng con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được
rõ.
Câu trả lời:
Đó chỉ là tín ngưỡng
trong dân gian, cho rằng người chết được chôn trong đất chùa hoặc gửi nắm tro
tàn trong tháp hài cốt thì hằng ngày linh hồn sẽ được nghe kinh, nhờ đó được
siêu thoát lên cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Khi còn sống con người theo tổn hữu ác
đảng, tạo bao ác nghiệp. Lúc chết thì linh hồn người đó chịu theo Phật hay sao?
Nếu con người thực sự muốn báo hiếu, trước hết nên tự mình tu tâm dưỡng
tánh, sau đó nên lo lắng, chăm sóc, hướng dẫn việc tu hành cho cha mẹ, khi còn
hiện diện trên trần gian này. Khi cha mẹ qua đời thì nên đem tài sản của cha mẹ
bố thí, cứu người giúp đời và hồi hướng công đức và phước đức cho cha mẹ.
Do lòng thương yêu và
sự hiếu hạnh - nhưng không học hiểu chánh pháp - khiến cho con người
không còn sáng suốt, theo tà pháp, nên nghe quí thầy, quí cô trong chùa,
bảo sao làm vậy chứ không có suy nghĩ chín chắn. Quí thầy quí cô này cũng ngu
dốt, u mê, đời trước bảo sao, đời sau làm vậy, chẳng rõ chánh tà khác nhau ra
sao. Các tăng ni không học hành dẫn dắt theo bao nhiêu người khác đọa lạc - tai
hại vô cùng là chỗ này. Đầu tàu lạc đường, hay trật đường rầy, cả đoàn tàu
không đến được mục tiêu mong muốn. Bởi vậy bọn trọc đầu đọa lạc dưới địa
ngục nhiều hơn người có tóc, chính là nghĩa đó vậy.
Sự tin tưởng thiếu
thực tế, không trí tuệ của một số người đã làm giàu cho các chùa và biến các
chùa thành một nơi sinh hoạt mê tín chứ không còn là nơi chốn tu hành
của tăng ni và cư sĩ nữa. Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt, khi có thân
nhân chết, người ta đem thiêu xác, gửi vào chùa. Khi gửi nắm tro tàn như vậy
thì phải tốn bao nhiêu tiền đóng vào và còn phải cúng dường tiền cho chùa rất
nhiều hằng năm. Nếu thân nhân không cúng dường tiền thì hũ hài cốt ấy sẽ bị dẹp
vào chỗ khuất lấp. Còn ai cúng dường tiền nhiều thì hũ hài cốt sẽ được để trên
chỗ sang trọng trong tháp. Nhiều chùa hiện giờ lấy hài cốt làm con tin, để làm
tiền người thân một cách phi nhân nghĩa, thiếu đạo đức. Tháp hài cốt là núi
tiền, các lễ trai đàn bạt độ mê tín là những mẫu ruộng mầu mỡ xài hoài không
hết.
Có nhiều thầy chùa cạo
tóc có tiếng là đi tu, nhưng không học hiểu chánh pháp, không rành giáo lý, chỉ
lo mua bằng thượng tọa, trèo lên hòa thượng, học tổ chức các lễ trai đàn bạt
độ, các lễ vớt vong trên sông trên biển như vớt bèo, các lễ phóng sanh nhưng
hại vật, các lễ rải tro trên sông cho người chết được giải thoát. Các loại lễ
cúng này hét ra bạc, khạc ra vàng. Thiệt là các trò gạt gẫm của bọn giặc thầy
chùa.
Ví dụ: Nhà chùa muốn
làm một việc gì thì nhắm vào gia đình của những người, có gửi hài cốt, hoặc
chôn cất người thân trong đất chùa. Họ kêu gọi những người nầy đóng góp làm từ
thiện, hoặc xây cất chùa, hay bất cứ việc gì trong chùa cần. Nghe kinh được
siêu thoát về Cực lạc, Thiên đàng đâu không thấy, mà chỉ thấy những người còn
sống phải gánh một gánh nặng của tôn giáo mê tín. Cho nên chùa nào
có đất rộng làm nghĩa địa hoặc xây tháp hài cốt là chùa đó giàu to, giàu không
mất sức lao động chút nào cả.
KHOA HỌC VÀ KIẾN THỨC TRONG PHẬT GIÁO
TÌM VỀ NGUỒN AN LẠC GIẢI THOÁT
PHẬT GIÁO PHẢI CHĂNG LÀ MỘT TÔN GIÁO
HÌNH THỨC CÚNG KIẾN TRONG PHẬT GIÁO