TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Friday 23 February 2024

BÀN VỀ THIỆN VÀ ÁC

https://phtq-canada.blogspot.com/2011/07/ban-ve-thien-va-ac-phtq-so-11.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2019/07/xa-loi-la-gi.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2020/06/ban-ve-thien-ac.html 

https://phtq-canada.blogspot.com/2024/02/ban-ve-thien-va-ac.html 

BÀN VỀ THIỆN VÀ ÁC

(PHTQ SỐ 11)

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Theo từ điển, ác có nghĩa là hành động, lời nói hay ý nghĩ xấu, thường gây tai họa, đau khổ cho chính mình, cho người khác, hoặc cho cả hai, khiến người lánh xa, không ưa thích, có tác dụng xấu, bất lợi, đem đến hậu quả khó lường.

Thiện có nghĩa là hành động, lời nói hay ý nghĩ tốt, thường đem lại an vui, hạnh phúc cho chính mình, cho người khác, hoặc cho cả hai, khiến người thương mến, thích thân cận, có tác dụng tốt, đem đến kết quả mong đợi. Tuy nhiên ranh giới giữa thiện và ác lắm khi không rõ rệt, có thể dễ bị hiểu lầm. 

Chẳng hạn như một vị thầy dạy văn, dạy võ, dạy nghề, hay dạy đạo, thường hay quở trách, la rầy học trò, xem qua có vẻ ác nhưng thực chất là việc thiện lành, vì đem lại tương lai cho đệ tử.

Trái lại, có người ăn nói nhỏ nhẹ, vui vẻ, hành động dễ cảm tình, trông qua có vẻ thiện, nhưng thực chất là việc xấu ác, vì làm hư người khác, dụ dẫn người khác vào chỗ sa đọa, mất hết tương lai. Sách có câu: Giáo đa tất oán. Ngọt mật chết ruồi, chính là nghĩa đó. 

Như vậy, muốn xét thiện hay ác, còn phải xét xem tâm con người muốn gì, khi hành động, nói năng hay suy nghĩ với mục đích gì. Người ngoài cuộc phê bình, phán xét đôi khi không chính xác, nên thận trọng. 

Làm sao biết rõ việc nào thiện, việc nào ác.  Có những điều mà ở thời buổi này, địa phương này, tôn giáo này, xã hội này cho là điều thiện; ở thời buổi khác, địa phương khác, tôn giáo khác và xã hội khác cho là điều ác.  

Trên cõi đời này, cũng có những người phát tâm xin tha, cho phạm nhân đã sát hại tàn nhẫn thân nhân của mình được khỏi tội chết. Tại sao như vậy? Bởi vì người đó, thấm thía hoàn cảnh, thấu rõ cảm giác của sự mất mát người thân thế nào, cho nên không muốn gia đình người khác, dù là phạm nhân, tức là kẻ thù lâm vào cảnh ngộ đau thương tương tự.

Thường thường chỉ có những người đã từng rơi vào hoàn cảnh khốn khổ thảm thương mới biết cảm thông, thương xót người khác.

Những người có tâm đại từ đại bi dường ấy mới có cuộc sống an lạc không có hận thù, không có phiền não và không khổ đau, đồng thời tạo được an lạc hạnh phúc cho mình cho người.

Ðó là những người thọ Bồ tát giới, hành Bồ tát đạo, sống với tâm Phật, không sống tâm ma, luôn luôn cảnh giác, luôn luôn tỉnh thức. Ðó chính là những người biết sống với Chân Tâm Phật Tánh của chính bản thân.

Ngày xưa, vị Tổ sư thứ hai mươi bốn Aryasimha, trước khi bị vua Kế Tân chém đầu đã phát nguyện: Ngay khi đắc thành đạo quả sau này, người đầu tiên tôi sẽ độ chính là bệ hạ! Tại sao vậy? 

Bởi vì, có gặp tai nạn lớn lao, tai họa khủng khiếp, thậm chí mất mạng, mới có thể chứng minh trình độ tu tập, chứng tỏ quá trình tu chứng của con người.

Không phải chúng ta mong cầu khổ nạn đến để thử thách công phu tu tập của mình. Tuy nhiên, một khi khổ nạn xảy ra, do hiểu sâu nhân quả, chúng ta biết ngay: đã đến lúc phải trả nghiệp quả, từ nghiệp nhân, do chính mình tạo tác, từ nhiều kiếp trước hoặc kiếp này. 

Cho nên, chúng ta vẫn giữ được thái độ bình tĩnh thản nhiên, chấp nhận đền trả quả báo, mới là đáng quý, chứ van xin cầu nguyện có được gì đâu? Phân biệt thiện ác chỗ này chỉ làm loạn tâm mà thôi!

Mỗi thời đại lịch sử, mỗi xã hội, và có thể ngay trong mỗi con người, lại có cách phân biệt thiện ác khác nhau. Có người quan niệm: cái gì hợp với quyền lợi, với phong tục tập quán của ta là thiện, cái gì trái với quyền lợi, với phong tục tập quán của ta là ác. 

Thí dụ, trong xã hội chúng ta hiện nay, nhiều người đang tranh cãi, chưa có kết thúc về chuyện trợ tử, tức là giúp cho bệnh nhân hết cách chữa trị được chết mau chóng, là thiện hay ác, là hợp pháp hay phi pháp?

Thí dụ khác nữa, trong xã hội chúng ta hiện nay, nhiều người thường cho rằng các tôn giáo luôn luôn dạy điều tốt, điều thiện, điều lành.

Nhưng có vài tôn giáo tự cho rằng tôn giáo mình mới thực sự là thiện lành, công chánh, còn các tôn giáo khác là ngoại đạo tà giáo, là yêu ma quỉ quái, phải xa lánh và phải tiêu diệt. 

Cho nên trong việc hôn nhân, có tôn giáo nhân danh cái thiện của tôn giáo mình, ép buộc, cưỡng bách người theo tôn giáo khác phải cải đạo, mới chịu làm phép hôn phối, bất chấp nỗi phiền não khổ đau của hai gia đình và hai người muốn thành tựu hôn nhân và sống cuộc đời lương thiện. Trong trường hợp này, các chức sắc tôn giáo đó là thiện hay ác đây?
 
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
Lấy oán báo oán,
oán nghiệp chập chùng.
Lấy ơn báo oán,
oán nghiệp tiêu tan.

Bị người thù ghét dù thực vô cớ, vô lý quá chừng, chúng ta cũng đừng khởi tâm tức giận, nên hiểu nguyên do, hiểu sâu nhân quả, chắc chắn phải có nhân duyên đời trước, duyên cớ đời này, chỉ vì chúng ta không biết đó thôi. 

Chẳng hạn như là: lời nói vô tình, cử chỉ vô ý, cũng có thể là nguyên nhân của chuyện thù ghét oán hờn.

Cạnh tranh nghề nghiệp hay tâm ganh tị, đố kỵ gièm pha… đó cũng là những nguyên nhân dễ hiểu. Tuy nhiên, nếu ta có dịp giúp đỡ được những người đó trong lúc họ gặp hoàn cảnh khó khăn, hay đang hoạn nạn, chúng ta có nhiều cơ hội hóa giải thù hận oán hờn, biến thù thành bạn.
Như vậy chắc chắn tốt đẹp hơn là tiếp tục tranh chấp, thù hận người ta, để rồi nơm nớp sợ bị trả thù, phập phồng âu lo, đời sống bất an, không lúc nào yên, làm sao sống nổi? 
 
Ông Thiện và Ông Ác thờ ở trong chùa

Thông thường, làm ơn được coi là việc thiện, gây oán được coi là việc ác. Làm ơn giúp người thường được xem là việc thiện, nhưng giúp người làm chuyện gian dối, phi pháp thì nên xem là việc ác. 

Làm việc thiện nguyện, thiện chí, công quả thường được xem là việc thiện, nhưng gặp trở ngại, khó khăn hay gặp kẻ ác gây rối, phá hoại, bèn khởi vọng tâm tức giận, la lối, mắng chửi, trở thành thô tháo, bất thiện.

Ấn tống kinh sách, băng giảng thường được xem là việc thiện, nhưng nội dung kinh sách hay băng giảng đó không phải là chánh pháp, là tà pháp, thì nên xem là việc ác. 

Chúng ta cần thận trọng khi góp phương tiện hay công sức, in ấn phổ biến các loại gọi là kinh sách hay băng giảng, mà mình chưa biết rõ nội dung, chưa biết chắc là chánh pháp hay tà pháp, như vậy đắc tội không phải phước, gây oán không phải ơn, tạo ác không phải thiện! 

Một người có tuổi phát nguyện vô chùa tu tâm dưỡng tánh là việc thiện, nhưng bất hiếu bỏ cha mẹ vô chùa khi tuổi xế chiều bệnh hoạn không chăm sóc, thì phải xem là việc bất thiện, vô lương tâm, nếu không muốn nói là việc ác.

Bởi vậy cho nên khi làm việc thiện, việc phước mà khởi vọng tâm, khởi tâm sân, khởi tâm kiêu mạn phách lối, thiện biến thành ác! Tu hành cần quan tâm thiện ác, luôn quán sát hành động, lời nói và ý nghĩ của mình không làm tổn hại, gây đau khổ cho người khác vì tâm tham, tâm sân và tâm si.

Trong Kinh Pháp Cú, đức Phật có dạy:
Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo.

Nghĩa là:
Không làm các điều ác
Hãy làm các hạnh lành.
Giữ tâm ý thanh tịnh. 
Là lời chư Phật dạy.

Chúng ta thấy rõ chủ yếu của đạo Phật là chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện và thanh lọc tâm cho thanh tịnh.  Cho nên đạo Phật chủ trương chuyển hóa người ác thành người thiện, chuyển hóa phàm nhân thành thánh nhân, chuyển hóa phân rác thành hoa tươi, chuyển hóa nước đục thành nước trong, chứ không chủ trương tiêu diệt tất cả kẻ ác trên đời. 

Bông sen từ bùn nhơ vươn lên tỏa hương thơm ngát là ví dụ tượng trưng cụ thể người xấu cũng có thể chuyển hóa thành người tốt, nếu như biết sám hối ăn năn, quyết tâm chuyển ba nghiệp xấu ác, trở thành ba nghiệp thanh tịnh. 

Trên đời không ai hoàn toàn xấu ác, cũng không ai toàn thiện, cho nên người tu theo Phật cố gắng biết các điều ác nên bỏ, biết các việc thiện nên làm. Được như vậy, mọi người trong xã hội sống chung trong hòa hợp, bình an, và ngăn ngừa các mâu thuẫn, xung đột giữa người với người. 

Tuy nhiên sự khác biệt của đạo Phật với các tôn giáo khác nằm ở câu kệ thứ ba: "Giữ tâm ý thanh tịnh". 

Con người đang tu tập chưa biết "bỏ ác làm thiện" được hoàn toàn chưa, thường vội tự hào cho mình là người thiện, người tốt, người lành, bèn khởi tâm tự đắc đó là vọng tâm, chưa phải minh tâm.

Nếu tâm mình còn nổi sân khi thấy chuyện bất thiện, chuyện chẳng lành trên thế gian, khởi vọng tâm, vọng niệm muốn trừng phạt nặng nề kẻ xấu ác, thậm chí đòi tiêu diệt tất cả kẻ ác trên đời, ước mơ phải chi mình có võ công xuất chúng, có quyền thế vô song, để tung hoành ngang dọc giang hồ với đường kiếm tuyệt luân chém gục hết bọn xấu ác, thì lúc đó không biết: ai ác hơn ai? ...

Bởi vậy cho nên tu theo đạo Phật cốt yếu là luôn luôn sống với bản tâm thanh tịnh, có nghĩa là lúc nào cũng niệm Phật tức là niệm thiện, không khởi niệm ma tức là không khởi niệm ác, không khen mình khinh người, không lợi mình hại người, niệm Phật phải gắng tu, không chạy theo vọng tâm vọng niệm, tự thanh lọc tâm ý mình, cho được minh tâm kiến tánh.

Tu thiện nghiệp hay tu cầu phước, tức là mình đang gieo nhân lành, mình sẽ gặt quả lành, được hưởng phước báu nhân thiên, chứ chưa giải thoát ra khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Còn chấp chuyện làm phước phải hưởng phước, niệm Phật phải vãng sanh, cúng đèn được hưởng sáng suốt, cúng hoa được hưởng sắc đẹp, như vậy tâm mình vẫn còn vọng động, bởi dính mắc tâm tham, thi ân còn cầu báo, cho bánh ít đi mong bánh quy lại, nên tâm chưa thanh tịnh, chưa được minh tâm làm sao kiến tánh? 

Muốn thanh tịnh được tâm ý, con người phải vượt qua sự chấp thiện và ác. Tuy vẫn cứu người giúp đời, vẫn làm việc phước thiện, vẫn niệm Phật chuyên cần, vẫn thường xuyên cúng hương đăng hoa quả, vẫn tinh tấn công quả cúng chùa, vẫn nhất tâm kính lễ tôn tượng đức Phật với tâm kính ngưỡng.

Noi gương chư Phật, chư Tổ, nhưng không mong cầu bất cứ điều gì cho bản thân, cho thân bằng quyến thuộc, như thế bản ngã mới dần tiêu mòn, chuyện khổ vì cầu bất đắc không còn. 

Mình không cố chấp thiện và ác, để khỏi khởi vọng tâm chấp kính trọng người thiện, khinh khi kẻ ác, chứ không phải chẳng phân biệt thế nào là thiện, thế nào là ác, như một ít người lầm tưởng.

Vượt qua được sự cố chấp thiện và ác tức là mình thoát khỏi sự trói buộc của thiện nghiệp và ác nghiệp, mới đi đến giác ngộ giải thoát hoàn toàn.

Trong sách có câu: "Giáo đa tất oán". Nghĩa là dạy nhiều sinh thù oán. Trong đạo cũng như ngoài đời, thường khi những người có lòng, muốn chỉ dạy nhiều cho thế hệ sau, muốn truyền dạy tất cả những điều cần thiết, muốn những người nối dõi đạt được những thành tích khả quan.

Tuy nhiên, chính vì muốn quá nhiều như vậy cho nên chỉ dạy quá nhiều, kỷ luật nghiêm khắc, rèn luyện khổ công, kiểm soát chặt chẽ, sách tấn thường xuyên, nhiều người thế hệ sau chẳng những đã không biết ơn, đã không hiểu thấu tấm lòng của thế hệ trước, trái lại còn sanh tâm oán trách, hờn giận, tệ hơn nữa là sanh tâm thù hận. Ðúng là "làm ơn mắc oán" đó vậy!

Cổ nhơn có dạy: "Người chê ta mà chê phải tức là thầy ta. Người khen ta mà khen phải tức là bạn ta". Ðối với người đời, quan niệm này quả là kim chỉ nam cho bực quân tử trong việc xử thế ở đời.

Tuy nhiên, đối với người biết tu tâm dưỡng tánh, theo quan điểm của đạo Phật, người khác khen hay chê dù phải hay không phải, chúng ta đều tôn trọng họ như bực thầy lành hoặc bạn tốt. 

Còn hơn thế nữa, chúng ta nhìn họ như những bực Bồ-Tát. Tại sao vậy? Bởi vì, người giúp đỡ phương tiện cho mình tu tập, hoằng pháp lợi sanh, cũng như người chuyên phá rối, bằng hành động cũng như bằng lời nói, đều là bực "thiện hữu tri thức" của mình.

**Hạng người thứ nhứt được ví như Bồ-Tát thuận hạnh, chẳng hạn như thầy dạy học hay bạn hữu hằng giúp đỡ chúng ta, thường ban cho những lời khen thưởng thực tình, đúng lúc để khuyến khích, động viên tinh thần, hoặc chê trách hay quở phạt với tất cả tấm lòng từ bi, vì sự tiến bộ của chúng ta, chứ không vì bản ngã của họ. 

**Hạng người thứ hai được ví như Bồ-Tát nghịch hạnh, chẳng hạn như giám khảo trường thi hay trường đời. Những người này nhiều khi khen chê không phải lúc, không phải vì thiện tâm, lại có dụng ý, ác tâm, không phải vì chúng ta, mà vì bản ngã của họ.

Nhờ hạng người thứ nhứt, chúng ta có được sự hiểu biết, có được kiến thức, đạt được giác ngộ, vững tâm tu học, biết đường ngay lẽ phải để noi theo. Nhờ hạng người thứ hai, chúng ta có được bằng cấp ở đời, nếu vượt qua được sự khảo hạch và thi đậu, hoặc chúng ta biết được trình độ tu tâm dưỡng tánh của mình đã đến đâu, đạt được trình độ nào, chăn trâu tới giai đoạn thứ mấy.

Trong các ngôi chùa Việt thường có thờ tôn tượng của cả hai hạng người trên đây: tượng đức Hộ Pháp và tượng Tiêu Diện Ðại Sĩ. 

Tượng đức Hộ Pháp với khuôn mặt khôi ngô tuấn tú, tay cầm kiếm trí tuệ cắt đứt phiền não, vượt qua khổ đau, đạp lên trên con rắn độc có ba đầu dưới chân, biểu tượng của tam độc: tham sân si, không phải là một vị, mà tượng trưng cho tất cả những người có công với Chánh Pháp, là hạng người thứ nhứt nói trên. 

Tiêu Diện Ðại Sĩ với khuôn mặt dữ dằn, lè lưỡi phun lửa máu, đầu có đội ba ngọn núi, khẩu phún xuất hỏa, đầu thượng tam sơn, không phải là một vị, mà tượng trưng cho tất cả những người có công giúp đỡ Chánh Pháp được sáng tỏ hơn, là hạng người thứ hai nói trên. 

Bởi vậy cho nên, chúng ta luôn luôn chân thành cảm niệm ơn đức của cả hai hạng người nói trên, đã giúp đỡ chúng ta tiến tu trên mọi phương diện.

Tóm lại, khi tu theo Phật, chúng ta không nên khởi vọng tâm, không nên khởi vọng niệm, không mong cầu được điều này, đắc điều kia, không cầu khẩn van xin khấn vái; trái lại phải nên hiểu sâu luật nhân quả, khai mở trí tuệ, hiểu suốt thiện ác. Nghĩa là, khi mình gieo nhân bỏ điều ác, làm việc thiện, tức là chúng ta có đủ phước báu thiện lành, chỉ cần khai mở trí tuệ giác ngộ, đạt bản tâm thanh tịnh, thì hưởng quả giải thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.

Đó là mục đích chính của đạo Phật. Trong kinh sách có câu: Tam Nghiệp Hằng Thanh Tịnh Đồng Phật Vãng Tây Phương, chính là nghĩa đó vậy. Một điều cần biết thêm, trong kinh sách, chư Phật và chư Tổ có khuyên chúng ta, chỉ nên cầu nguyện đời đời được gặp Chánh pháp, tránh xa tà pháp, để tu hành đến khi giác ngộ và giải thoát, chớ không nên mong cầu đắc thần thông khi chưa đắc đạo. Tại sao vậy? 

Bởi vì, khi con người chưa đắc đạo lại đắc thần thông, thí dụ như đắc thiên nhãn thông hay thiên nhĩ thông, sẽ thấy được chuyện xảy ra cách xa ngàn dặm, nghe được chuyện xuyên sơn cách vách, thường là những chuyện bất như ý, những chuyện mích lòng, chắc chắn con người sẽ nổi tam bành lục tặc liền, vì chưa chưa đắc đạo, nên không nhẫn nổi.

Có thần thông trong tay, hay là hình thức quyền lực của thế gian, con người sẽ khởi bất minh tâm, dù là người tu nhưng chưa đắc đạo đòi tiêu diệt một vài thành phần bất thiện nào đó, hay nghĩ đến chuyện đánh gục hết lũ côn đồ ngang ngược hay bọn tham quan ô lại, xóa sổ tất cả những kẻ xấu ác trên đời, thế là hòa bình không còn, chiến tranh xảy ra, thiên hạ phiền não, chúng sanh khổ đau, hận thù tràn lan, bất ổn triền miên, tội ác chất chồng, than oán ngút ngàn.

Đạo Phật không chủ trương lấy thiện diệt ác. Đạo Phật chủ trương chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện, chuyển hóa ba nghiệp chưa thanh tịnh thành ba nghiệp thanh tịnh, chuyển hóa kẻ hung ác thành người lương thiện. Đạo Phật chủ trương đem lại niềm an lạc cho cá nhân, hạnh phúc cho gia đình và hòa bình cho xã hội.

Người tu theo đạo Phật phải trưởng dưỡng tâm từ bi, phát triển tánh sáng suốt, đạt minh tâm thì được kiến tánh, cho nên không gây thù hận, không có kẻ thù, chỉ có người chưa thông cảm hay hiểu lầm mà thôi. Cảm thông và thương yêu là cửa ngõ an lạc và hạnh phúc.
Từ bi và trí tuệ là yếu tố giác ngộ và giải thoát. 
Tất cả đều ở ngay trên thế gian này.

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Monday 12 February 2024

GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT

 

https://phtq-canada.blogspot.com/2011/11/giac-ngo-va-giai-thoat.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2017/03/giac-ngo-va-giai-thoat-muc-ich-cuu-canh.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2017/10/ao-phat-la-ao-giac-ngo.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2019/12/giac-ngo-va-giai-thoat.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2024/02/giac-ngo-va-giai-thoat.html

GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT

(Cư Trần Lạc Đạo Tập 2)

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ 

Trên thế gian này, đạo Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử, khởi thủy từ Á châu truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại Mỹ châu và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện nay, dân chúng ở các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin tưởng nơi các tôn giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi việc qua đức tin nơi thượng đế mà thôi. Cùng với sự phát triển của khoa học, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc ngày càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần, do nhiều áp lực, nhiều khó khăn, dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa học ngày càng đáp ứng tối đa các nhu cầu, những tiện nghi vật chất của con người. Trong khi đó, các tôn giáo hiện diện tại đây từ trước, không đáp ứng được những nhu cầu tinh thần, những vấn đề tâm linh của con người. 

Cho nên, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu giáo lý của đạo Phật và thực hành những lời dạy của Đức Phật trong đời sống hằng ngày. Từ đó, họ tìm được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong đời sống đầy dẫy những bất trắc và phiền não khổ đau. Họ phát tâm tu tập một cách tích cực, dưới nhiều hình thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ viết sách, dịch kinh Phật Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu biết, để được giác ngộ và giải thoát. Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng trí tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà thôi.

* * *

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai vậy".

Nghĩa là nếu chúng ta đến với Như Lai, tức là đến với Đức Phật chỉ bằng niềm tin, chỉ biết tin tưởng Đức Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền năng, có thể ban phước như lời cầu nguyện của chúng ta, có thể ban cho chúng ta và gia đình một cuộc sống bình an, như ý, mà không chịu học hiểu giáo lý, tìm hiểu những lời dạy của Đức Phật, để áp dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta phỉ báng Đức Phật. Tại sao vậy? 

Bởi vì, nếu cầu nguyện, khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện, không công hiệu, không hữu hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ý hoặc không có được đáp ứng gì cả, chúng ta sẽ nghĩ là Đức Phật không linh thiêng, niềm tin không còn, dễ theo ngoại đạo. Chắc chắn ai ai cũng biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo trên thế gian này đều không có bình an một cách tuyệt đối, theo cái nhìn tầm thường của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị người khác nhục mạ, vu cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết chết thê thảm như một tội phạm hình sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được như ý, như lời cầu nguyện, khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào? Cuộc đời của Đức Phật cũng gặp những chuyện như vậy, cũng trải qua các giai đoạn của cuộc sống như mọi người khác trên thế gian: sanh, già, bệnh, chết.

Như vậy, Đức Phật cứu khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng hình thức ban phước theo lời cầu nguyện, van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai thờ phượng chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời kinh, niệm vài câu A Di Đà Phật, hay đọc vài bài chú chăng?

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp".

Nghĩa là tất cả chúng ta hãy tìm hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để được an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Đức Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ đề, trên thế gian này. Sau đó, Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn, nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.

Vì tâm đại từ đại bi, thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Đức Phật đem Chánh Pháp, là những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy trong nửa thế kỷ, ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết con đường, biết phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên trì, đều được giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. 

Toàn bộ Chánh Pháp của Đạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc đời, nguyên nhân gây ra đau khổ, tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn tịch diệt và con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó. 

Trong kinh sách gọi đó là "Tứ Diệu Đế", gồm có: khổ, tập, diệt, đạo. 

Đó chính là cách Đức Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh vậy.

Do đó, chúng ta hãy tìm hiểu: 

Tứ Diệu Đế là gì?

Đức Phật đã giác ngộ điều gì  giải thoát như thế nào?

* *

1) Điều trước tiên Đức Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta ai ai cũng đều công nhận cuộc đời "khổ nhiều vui ít". Những niềm vui trong cuộc sống thực là hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền não, đau khổ, bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện thì quá nhiều. Ngoài cái khổ vì thiếu ăn, thiếu mặc của những người nghèo đói do thiếu phước báo, cái khổ đến với mọi người trên khắp thế gian, không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lão ấu, địa vị, học thức, giàu nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa hay thường dân, đời này hay đời trước. Cái khổ chung của tất cả mọi người trên thế gian đó là những gì? 

Đó chính là chúng ta khổ vì: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ vì sanh ra trong cuộc đời dẫy đầy những chuyện bất như ý, khó khăn, đấu tranh, sóng gió và gian nan, vì tuổi già sức yếu, đi đứng khó khăn, vì bệnh hoạn đau đớn triền miên, vì cái chết đến bất ngờ, không như ý. Chúng ta muốn được luôn luôn bình an, trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, sống mãi không chết, nhưng nào có ai được như vậy đâu? Chẳng những chúng ta khổ vì sanh, già, bệnh, chết, chúng ta còn khổ vì xa lìa người thân thương, vì gặp những người không ưa, những kẻ oán thù, vì cầu nguyện, van xin nhiều quá, mà chẳng được gì, vì ngũ ấm xí thạnh, nghĩa là cái thân xác ngày một to béo nặng nề một cách khổ sở, và quan trọng hơn, chúng ta khổ vì cái vọng tâm điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, thay đổi từng giây từng phút, không lúc nào ngừng nghỉ, ví như con vượn chuyền cây, như con ngựa chạy rong, như con trâu giẫm đạp lúa mạ của người.

Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.

Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.

Trong kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Cuộc đời là biển khổ. Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn".

Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển khổ, khiến cho nước mắt trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với nước bốn biển lớn. Con người mãi mê đấu tranh, giành giựt, hận thù, bon chen, hơn thua trong cuộc sống, do lòng tham lam, sân hận, si mê, mà quên đi những khổ đau, cho đến khi nhắm mắt lìa đời, cũng chưa giác ngộ được. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.

2) Đạo Phật nhận định cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu cực, bi quan, yếm thế, chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh, để tìm phương cách giải thoát, không còn chìm đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi, những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc chẩn bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho nên, ngay sau đó, Đức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau. 

Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:

"Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp. Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời".

Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại.

Thế nào là "chấp ngã"?

Chấp ngã có hai phần: vật chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy chục ký lô này là "mình". Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường là chính "mình". Nếu có người hỏi: chúng ta là ai? Chúng ta liền chỉ vào thân mình và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác thân tứ đại giả tạm này đâu phải là "mình". Cái xác thân tứ đại bao gồm những chất: đất, nước, gió, lửa, tụ hội với nhau trong một thời gian, từ khi cha mẹ sinh ra, cho đến khi chúng ta thở ra, mà không muốn hít vào nữa, thì ô hô tử vong! Thời gian đó ít năm, nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp duyên của mỗi người. Người đời thường gọi đó là: số mạng, định mạng, hay số mệnh, định mệnh.


Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt, xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi. Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình", chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không biết đó thôi.

Chúng ta đã hiểu cái thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm đó cũng không phải là "mình". Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta suy nghĩ rất hiền lành, thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí cúng dường, muốn trở thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc, chúng ta tính toán, suy lường, muốn hơn người khác cho thỏa lòng ganh tị, đố kyﬠmuốn thấy người khác suy sụp, gặp nạn cho thỏa lòng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử hỏi chúng ta là người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay là hai?

Dù là khởi tâm thiện, hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc tâm thiện khởi lên, muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không được, thí dụ chúng ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đã bó tay, chúng ta sẽ đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy nan, khốn đốn, mà họ vẫn cứ bình an, chúng ta sẽ đau khổ. Đàng nào chúng ta cũng đau khổ cả! Lòng tự ái cao là một dạng của tâm chấp ngã. Do tâm tham ái, chấp ngã một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.

Thế nào là "chấp pháp"?

Chấp pháp cũng có hai phần: vật chất và tinh thần.

Về phương diện vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng như cái nhà này, cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ, mọi việc, mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình cũng là đúng, là nhất. Về phương diện vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở bên mình, cho là những của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp luôn luôn thuộc về mình. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của cải vật chất có bị mất mát hư hao, thì chúng ta sẽ đau khổ! 

Về phương diện tinh thần, chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là đúng, việc mình làm là đúng, ai có ý kiến khác, ai làm khác là không đúng, là sai. Chúng ta thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ giống như mình, nên khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó chấp nhận được. Chúng ta không thấy những lỗi lầm, sai trái của mình, cho nên đau khổ, bực bội, vì chỉ thấy lỗi lầm của người.

Thí dụ trong gia đình, nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ biết la mắng con cái vì chúng không theo ý muốn của mình, bất chấp ý kiến của chúng, thì người cha đó chắc chắn sẽ phiền não đau khổ và làm cho mọi người trong gia đình cũng phiền não đau khổ theo. Chúng ta nên biết hai thế hệ khác nhau thì ý kiến, sự suy nghĩ, cảm giác đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng chấp chặt các quan niệm xa xưa, cổ lổ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa. Cứ chấp chặt như vậy chỉ đưa đến phiền não và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy. Chuyện quốc gia xã hội, cho đến chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ vậy thôi. Khi bất cứ chuyện gì xảy ra, người nào, bên nào cũng có một phần lỗi, không nhiều thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào toàn vẹn. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm.

Trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng ta phải biết quên mình vì người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu tâm ý quá ích kỷ, chỉ biết có mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình, cái gì cũng vì mình hết trơn, thì chỉ có phiền não và khổ đau mà thôi. Muốn có một gia đình hạnh phúc, người cha phải biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho cả gia đình, người mẹ cũng phải biết hy sinh những vui thích cá nhân, hòa hợp với nhịp sống chung của gia đình, con cái phải biết nhớ ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, phải biết nghe lời dạy dỗ, phải biết báo hiếu. 

Trong một quốc gia có hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, kình chống nhau kịch liệt, phe nào cũng muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho mình là đúng nhứt, là yêu nước nhứt, thì quốc gia đó khó có thể tiến bộ được, dân chúng không thể sống trong an lạc và hạnh phúc được. Tại sao vậy? Bởi vì phe cầm quyền làm được bất cứ việc gì, cũng bị phe chống đối phá hoại, ngăn trở, phỉ báng, xuyên tạc. Chúng ta thường tự kỷ ám thị, không chịu nhìn nhận sự thật, chỉ vì sự thật không theo như ý của mình, của gia đình mình, của phe nhóm mình, của tôn giáo mình.

Trên thế gian này, người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng phát lương ít; ngược lại, công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh lương nhiều. Thế là đấu tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người ta thường nhớ rất kỹ đã làm ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại không muốn nhớ bất cứ ai đã làm ơn, giúp đỡ mình. Trên thế gian này, trâu cột ghét trâu ăn, được làm vua thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra to, chuyện có nói không, chuyện không nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát, được chim bẻ ná, được cá quăng nôm, khen mình khinh người, là những "chuyện như thị", tức là những sự thực đương nhiên, không cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được. Hiểu được như thế và đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau khổ nhiều lắm!

Chúng ta thường mơ ước, cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng gió. Nhưng làm sao có thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như mặt biển cả, sóng gió triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi sóng lặng gió yên, cơn sóng này qua đi, thì cơn sóng khác lại đến. Việc này chưa xong, thì việc khác lại xảy đến. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp dụng Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi việc, với tâm thiền định, bình tĩnh, thản nhiên, chấp nhận, thì chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp pháp một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi. 

3) Sau khi chỉ rõ nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Đức Phật chỉ bày cảnh giới niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh tịnh, an lạc và hạnh phúc cho những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày.

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:

Chư hành vô thường. Thị sanh diệt pháp. Sanh diệt diệt dĩ. Tịch diệt vi lạc.

Nghĩa là mọi sự mọi việc trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, gọi là pháp sanh diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ diệt đi, không có gì là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi, chuyện buồn có đến rồi cũng qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi việc. Chuyện vui hay buồn đều làm tâm của chúng ta loạn động và bất an. Tâm của chúng ta dù khởi niệm từ bi, hay khởi niệm sân hận, rồi cũng lặng đi, tất cả đều là các tâm niệm sanh diệt. Chỉ có khi nào các tâm niệm sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng mất rồi, không còn nữa, chúng ta sẽ được sống trong cảnh giới an lạc hạnh phúc, cảnh giới tịch diệt vi diệu.

Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "nhất tâm bất loạn".

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người có tâm "bất tùy phân biệt", của người không còn tranh chấp thị phi, phải quấy, hơn thua, đúng sai.

Trong Kinh Tịnh Danh, hay Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "pháp môn bất nhị", của người không còn kẹt trong vòng đối đãi nhị biên, không còn thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "thân kim cang bất hoại", của người không còn kẹt vì các hình tướng giả tạm bên ngoài, của người đạt được "thực tướng".

Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm", hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhã và chiếu kiến ngũ uẩn giai không".

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền".

Nghĩa là khi nào tâm sanh diệt tiêu mất, không còn nữa, thì cảnh giới tịch diệt, tức là cảnh giới niết bàn hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào mây đen tan mất, thì trăng sáng hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào phiền não và khổ đau hết, thì an lạc và hạnh phúc hiện tiền. Nói một cách khác: "vọng tâm tiêu hết, chân tâm hiện tiền". Thực là đơn giản, dễ hiểu như vậy.

Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.

Cảnh giới này không thể nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để diễn tả trọn vẹn được, ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó, thì tự người đó biết, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh giới này còn gọi là "đạo". Sách có câu: "đạo bất khả ngôn thuyết". Nghĩa là không thể dùng ngôn ngữ của thế gian này để diễn tả, để chỉ bày, để nói về "đạo". Sách cũng có câu: "ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là khi nói lên bằng ngôn ngữ thế gian thì đã mất "đạo" rồi. 

4) Đến đây, Đức Phật chỉ dạy những phương pháp, những pháp môn để đạt được "đạo", tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch diệt đó. Vấn đề hiện giờ là: làm sao để các tâm niệm sanh diệt đó không còn khởi lên nữa, hoặc các tâm niệm sanh diệt đó có khởi lên, làm sao cho nó lắng xuống, tiêu mất? Nói cách khác: Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật. 

Toàn bộ giáo pháp của đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ như ý túc, tứ chính cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo. 

Chánh Pháp gồm 37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí tuệ, bằng sự quán chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải chỉ bằng niềm tin đơn giản mà thôi.

* *

"Tứ Niệm Xứ" là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân bất tịnh, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ nhơ nhớp, những thứ bất tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp chặt, thì tức nhiên là khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng tâm ý con người đổi thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác, chớ có chấp chặt làm chi cho khổ! Quán pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự mọi việc trên thế gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ những quan niệm chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời đại nào đó mà thôi, không có thực thể cố định, không đúng với mọi thời gian, không đúng với mọi không gian. 

"Tứ chính cần" là bốn việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ thực hành một cách chân chính. Đối với việc bất thiện đã sinh, phải trừ dứt hẳn, đối với việc bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện chưa sinh, làm cho sinh ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho tăng trưởng. 

"Tứ như ý túc" là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện đưa chúng ta đến chỗ như ý muốn, thành tựu viên mãn. Đó là: dục, cần, tâm, quán. Nghĩa là: chúng ta phải có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu sự giải thoát, chúng ta phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo lý, chúng ta phải khắc chế tâm niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết cách quán chiếu để giác ngộ chân lý, thấu hiểu lẽ thực. 

"Ngũ căn" là năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Đó là: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững chắc nơi Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết mệt mỏi, luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự bình thản, tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để suy xét mọi sự mọi việc, không tin tưởng bừa bãi, không mê tín dị đoan. 

"Ngũ lực" là năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên thành tựu được. Nghĩa là do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi Chánh Pháp, do tấn lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san bằng những trở ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn ghi nhớ những thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập trung tư tưởng, và do tuệ lực chúng ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. 

"Thất bồ đề phần" còn gọi là "thất giác chi", là bảy phần hiểu biết, bảy điều dẫn đến chỗ giác ngộ. Đó là: trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, niệm, định, xã. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự thực hư, chơn giả của tất cả các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả các nghiệp bất thiện, thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ là tâm luôn luôn vui vẻ với mọi người, với mọi việc trên thế gian, không phân biệt gì cả, để tất cả chúng sanh đều hỷ kiến.

Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ các phiền não, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài vòng tục lụy của thế gian. Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng sanh, vì tâm từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các việc phước thiện. Định là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an nhiên, tự tại. Xã là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất cả những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ. 

"Bát chánh đạo" là con đường gồm tám điều chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính của đạo Phật: giác ngộ và giải thoát.

Đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định. 

1) Chánh kiến là sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý nhân duyên, lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như thực".

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Hãy đến với đạo Phật để thấy đúng như thực, chứ không phải chỉ đến để mà tin!" Thấy "đúng như thực" nghĩa là sao? Nghĩa là:

* Mọi sự việc đều có nguyên nhân. Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên, chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không phải tự nhiên mà có. Khi được bình an, sung sướng, chúng ta hiểu là đang hưởng phước. Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là đang đền trả quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả của nhân, do chúng ta gieo trước đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời nào ban phước giáng họa bừa bải cả. Đó là lý nhân quả.

* Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng bìa mà hình thành. Đến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lý nhân duyên.

* Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.

2) Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Không nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất cả những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.

Chỉ nên tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi người".

Bởi vậy, Đức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu". Nghĩa là chúng ta hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học hỏi, rồi suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo, trước khi thực hành, tu tập theo.

3) Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực, không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.

4) Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh. Đồng Phật vãng tây phương". Nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng ta theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.

5) Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.

6) Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.

Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo".

Trong kinh sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng mãnh, vượt ngoài ý chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế Chí.

7) Chánh niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự đấu tranh, cãi vã. Chư Tổ có dạy: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa là con người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong tâm, con người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền hòa. Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang làm gì, đang nói gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận biết ngay mỗi khi vọng niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và sống theo lời Phật dạy, luôn luôn sống với Chân Tâm Phật Tánh, tức là với Bản Tâm Thanh Tịnh.

8) Chánh định là sự bình tĩnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.

Người có chánh định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã, đưa đến giác ngộ và giải thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ". Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai thái cực. Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng hết những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ đau, để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được giác ngộ và giải thoát.

Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả.

Chư Tổ có dạy: "Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách". Nghĩa là muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, thì làm sao đi đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đã tu mù, không nghiên tầm giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt người khác tu tập, thì quả là đại họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng thực sư tử nhục. Trái lại, Chánh Pháp để áp dụng, thực hành chứ không phải để nói suông, để thảo luận, để tranh cãi. Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn kiến thức, mà không lo tu tập, không áp dụng vào đời sống hằng ngày, thì cũng chỉ có thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví như cái đãy, cái túi đựng sách có giới hạn vậy thôi. Những người đó cũng như những người đếm tiền trong ngân hàng, những người đếm bò cho chủ, trọn không có tiền và cũng không có bò.

Có câu chuyện giáo lý tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có người đi đụng phải anh. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ lâu rồi! 

Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người chúng ta vậy. [ ]

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll