Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Ý nghĩa của cuộc sống
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
Thời gian thấm thoát trôi nhanh, năm cũ sắp hết, năm mới sắp sang. Trước thềm năm mới, chúng ta hãy dành ít phút để suy tư, quán niệm: chúng ta đã làm gì cho cuộc đời mình được ích lợi, trên phương diện thế gian và xuất thế gian, trong năm vừa qua và những năm trước đó?
Ðồng thời chúng ta cũng thử bàn về vấn đề "Ý nghĩa của cuộc sống", để có một nhận định đúng đắn cho cuộc đời của chúng ta từ đây về sau, trên bước đường tu học theo đúng Chánh Pháp.
Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, từ phương đông sang đến phương tây, từ Châu Á sang đến Châu Âu, Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Úc, khi bàn về vấn đề ý nghĩa của cuộc sống, bằng cách này hay cách khác, mọi người luôn luôn bày tỏ niềm mơ ước một cuộc sống có ý nghĩa, một cuộc sống lý tưởng. Nhưng thế nào là cuộc sống lý tưởng, thế nào là cuộc sống có ý nghĩa? Làm sao xây dựng cuộc sống lý tưởng, làm sao xây dựng cuộc sống có ý nghĩa? Trải qua nhiều thế kỷ, xuyên qua nhiều địa phương khác nhau, nhiều người có những quan niệm, những quan điểm, những ý kiến khác nhau về vấn đề này.
Chẳng hạn như có người quan niệm là phải có nhiều tiền của, mới có cuộc sống lý tưởng và cuộc sống mới có ý nghĩa. Tại sao vậy? Bởi vì có nhiều tiền của, con người mới có thể làm được nhiều việc ích lợi cho bản thân và cho mọi người theo như ý của mình mong muốn. Sách có câu: "Có tiền mua tiên cũng được", chính là nghĩa đó vậy.
Chẳng hạn như có người quan niệm rằng phải có nghề nghiệp chuyên môn, phải có công ăn việc làm vững chắc, mới có cuộc sống lý tưởng và cuộc sống mới có ý nghĩa. Tại sao vậy? Bởi vì có nghề nghiệp chuyên môn, con người mới có thể giúp ích cho bản thân và cho xã hội một cách hiệu quả hơn, một cách tích cực hơn.
Chẳng hạn như có người quan niệm là phải có gia đình hạnh phúc, mới có cuộc sống lý tưởng và cuộc sống mới có ý nghĩa. Tại sao vậy? Bởi vì dù có nhiều tiền, dù có nghề nghiệp chuyên môn, dù có việc làm vững chắc, nhưng gia đình không hạnh phúc thì cuộc sống không thể gọi là lý tưởng, không thể gọi là có ý nghĩa được. Thực là thiên hình vạn trạng, muôn hình muôn vẻ, mỗi người một ý, mười phân vẹn mười!
* * *
Trong phạm vi bài này, chúng ta thử bàn qua các quan niệm trên đây, nhất là nghiên cứu ý nghĩa của cuộc sống qua giáo lý của đạo Phật, đối với đời sống của người Phật Tử tại gia bình thường.
Trước hết, chúng ta thử xét qua các quan niệm phổ thông về cuộc sống lý tưởng hay cuộc sống có ý nghĩa.
Thế nào là cuộc sống có ý nghĩa:
.1) Sống lợi mình lợi người là cuộc sống có ý nghĩa.
Những việc gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không muốn bị người khác quấy rầy, không muốn đời tư bị bươi móc, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không thích bị ai phê bình, chỉ trích, khinh khi, phỉ báng, thì mình đừng vạch lá tìm sâu, bới bèo tìm bọ, viết thư nặc danh, hăm dọa chửi bới người ta. Phải nên biết rằng: gieo nhân nào gặt quả nấy, đong đấu nào nhận đấu nấy!
Những việc gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không muốn bị người khác quấy rầy, không muốn đời tư bị bươi móc, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không thích bị ai phê bình, chỉ trích, khinh khi, phỉ báng, thì mình đừng vạch lá tìm sâu, bới bèo tìm bọ, viết thư nặc danh, hăm dọa chửi bới người ta. Phải nên biết rằng: gieo nhân nào gặt quả nấy, đong đấu nào nhận đấu nấy!
.2) Sống không ưu tư, không phiền não trong mọi hoàn cảnh là cuộc sống có ý nghĩa.
Vì áp lực của cuộc đời thường đè nặng trong tâm tư, chúng ta bị ngoại cảnh chi phối quá nhiều, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên. Lúc thịnh thì vui, lúc suy thì buồn. Lúc nhục nhã thì bực, lúc danh dự thì khoái. Lúc xưng tán thì thích, lúc phê phán thì quạu. Lúc khổ thì than, lúc hân hoan thì chịu! Nở được nụ cười nhẹ nhàng, vô ưu, trầm tĩnh, trong mọi hoàn cảnh giúp chúng ta sống cuộc đời có ý nghĩa. Nụ cười thương yêu, nụ cười có ý thức bao giờ cũng đẹp đẽ và thường giúp con người sống cuộc đời có ý nghĩa một cách mầu nhiệm khó thể nghĩ bàn.
.3) Sống trong tỉnh thức là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta biết mình thực sự là ai, biết mình thực sự đang làm gì, biết mình thực sự đang nói gì, biết mình thực sự đang nghĩ gì. Chúng ta thường mang cái áo đời danh lợi, cho nên quên "con người chân thật" của mình, luôn luôn sống trong ảo tưởng. "Con người chân thật" là con người luôn luôn sống trong tỉnh thức, kiểm soát được hành động, lời nói và tư tưởng, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, trình độ, xuất xứ, đời sống, dân tộc. Sống trong tỉnh thức nghĩa là phải có chánh kiến, theo chánh tư duy, giữ gìn chánh ngữ, thực hành chánh nghiệp, sống với chánh mạng, có chánh tinh tiến, luôn luôn chánh niệm, có được chánh định.
.4) Sống trong an lạc và hạnh phúc là cuộc sống có ý nghĩa.
Cuộc sống không dính mắc, không sân hận, không si mê, không phiền não, không chấp chặt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh chấp, không hơn thua, không bon chen, không đua đòi. Khi có người mang lửa đến đốt, chúng ta đừng đưa bổi ra đón, thì sẽ không bị đốt cháy. Nghĩa là nếu bị người chửi mắng, hay khi nhận được thư, dù nặc danh hay chính danh, nặng lời nhục mạ, chúng ta không nổi cơn sân, dù ngoài mặt hay trong lòng, thì chúng ta được bình yên vô sự. Chúng ta không có được những gì mình thích, thì hãy thích những gì mình có. Ðược như vậy, ngày ăn ngon tối ngủ yên, và chắc chắn chúng ta sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc.
.5) Sống an trú trong hiện tại là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta thường luyến nhớ quá khứ, mơ tưởng tương lai. Sống trong cuộc đời hiện tại, chúng ta nên biết rằng "mình đang sống", đang hít thở không khí, đang ở trong chánh niệm, sống với thiện tâm, sống không tà niệm. Ðược như vậy, tâm của chúng ta như dòng nước trong mát, không vướng bụi trần, không vương phiền não. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc, vị lai tâm bất khả đắc.
Nghĩa là chuyện quá khứ cảm giác đã qua đi, không nên nhớ nữa, chuyện hiện tại thấy đó rồi mất đó, cảm giác nào rồi cũng qua mau, không có gì tiếc nuối, chuyện tương lai chưa đến, đừng lo lắng ưu tư phiền muộn, chỉ khiến cuộc đời thêm phức tạp phiền não mà thôi!
.6) Sống trong giác ngộ và giải thoát là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, bình yên, phẳng lặng, an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải biết quán sát chân lý, nhận chân lẽ thực, thấy được thực tướng của vạn hữu. Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, thì nên biết rằng, chúng ta sinh ra đời để trả hết các nợ đã vay, đã tạo tác từ nhiều tiền kiếp, đừng tạo thêm nghiệp mới, chấm dứt sinh tử luân hồi, không si mê, không mơ tưởng, không van xin, không mong cầu. Chúng ta phải sáng suốt nhận định rõ ràng: cuộc đời khổ nhiều vui ít.
Cho nên, chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: sinh lẫn diệt, còn lẫn mất, được lẫn thua, khen lẫn chê, vui lẫn buồn. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: có làm có hưởng, có làm có chịu, sinh sự sự sinh, gieo gió gặt bão. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: nay còn mai mất, nay xấu mai tốt, nay bạn mai thù, chuyển biến không ngừng. Cần phải có thời gian tu tập thực nghiệm lâu dài, cần phải có công phu quán chiếu bền bỉ, cần phải có ý chí mạnh mẽ, nghị lực vững vàng, để chuyển hóa cuộc đời từ phiền muộn, ưu tư, lo âu, sợ hãi, trở thành hoan hỷ, vui vẻ, thanh thản, tự tại. Ðược như vậy, chúng ta sẽ giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Làm sao xây dựng cuộc sống có ý nghĩa:
TK THÍCH CHÂN TUỆ
Ðể có được một cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức, giữ tâm bình thường, thản nhiên, tự tại trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tư thế, trong mọi hành động, trong mọi lời nói, trong mọi ý nghĩ. Trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tư thế, dù được hay mất, dù khen hay chê, dù thân hay thù, dù vui hay khổ, dù oan hay ưng, dù đúng hay sai, chúng ta phải luôn luôn tỉnh thức, vẫn giữ tâm bình thường, không xao động, không khởi niệm. Khi đi, đứng, nằm, ngồi, chúng ta biết mình đang đi, đang đứng, đang nằm, đang ngồi. Làm việc gì tập trung tinh thần vào việc đó, không xao lãng, không lo ra. Ðược như vậy, chúng ta không gặp tai nạn nghề nghiệp, có thể làm xong công việc một cách tốt đẹp và chúng ta có một cuộc sống ý nghĩa.
Trong mọi hành động, chúng ta phải luôn luôn không nên làm tổn thương đến người và vật. Trong mọi lời nói, chúng ta luôn luôn giữ gìn khẩu nghiệp, không nói những lời làm tổn thương đến mọi người, dùng lời nói chuyên chở tình thương, những khi cần thiết mang lại ánh sáng chân lý, giảng giải giáo lý cho mọi người được gội nhuần nước cam lồ tươi mát. Trong mọi ý nghĩ, chúng ta phải luôn luôn giữ gìn chánh niệm, không theo các tạp niệm dong ruỗi bốn phương, không để tâm theo việc thương ghét thân thù, giữ tâm bình thường, bất tùy phân biệt, không kỳ thị, không thành kiến, luôn luôn chăn trâu kỹ lưỡng, không để trâu dẫm đạp lúa mạ của người.
Khi tâm tham khởi lên, khi tâm sân nổi lên, chúng ta phải tỉnh thức, biết ngay và buông bỏ, không theo.
Chúng ta không nên để các vọng tâm tham sân đó xúi giục làm điều xằng bậy. Ðược như vậy chúng ta có cuộc sống ý nghĩa và lý tưởng, đồng thời mới có thể giúp mọi người chung quanh sống đời có ý nghĩa vậy.
Trong cuộc đời trên thế gian này, muốn cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta nên thường xuyên quán chiếu rằng: mình đã để cho cuộc đời của mình trôi qua trong quên lãng đã bao nhiêu ngày tháng năm rồi? Hãy thử lắng lòng nghiệm xét xem: mình đã làm gì cho đời mình, ngoài những việc làm kiếm tiền sinh sống và giải trí vui chơi?
Ðể biết nhìn đời cho đúng ý nghĩa, trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật dạy: "Từ nhãn thị chúng sanh".
Nghĩa là muốn cuộc sống có ý nghĩa, chúng ta cần nhìn tất cả mọi người với con mắt từ bi hỷ xả. Chúng ta nên biết thương người cũng như thương chính mình, cảm thông nỗi khổ đau của người như nỗi khổ đau của chính mình, đừng làm khổ người, dù là kẻ thù, cũng vậy.
Sách có câu:"Mắt thương nhìn cuộc đời", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Ðức Phật dạy:
Muốn cuộc sống có ý nghĩa, hãy mặc áo Như Lai, ở nhà Như Lai và ngồi tòa Như Lai.
Nghĩa là trong mọi hoàn cảnh, chúng ta luôn luôn "mặc áo nhẫn nhục" của Như Lai, tức là nhẫn mà không thấy nhục, để ứng xử trong cuộc đời đầy phiền não và khổ đau, không nên gây thêm phiền não và khổ đau cho mọi người. Ðể có thể thực hành được hạnh nhẫn nhục đến độ rốt ráo tột cùng, trong kinh sách gọi là ba-la-mật, chúng ta cần an trú trong "căn nhà đại từ đại bi" của Như Lai.
Có được tấm lòng đại từ đại bi của Ðức Phật, chúng ta mới có thể nhẫn nhục được, không nỗi sân hận, hay tức giận khi bị người chửi rủa, mắng nhiếc, nhục mạ, vu oan, thưa kiện. Và cuối cùng, sau khi nhẫn nhục được rồi, phát triển tâm từ bi được rồi, làm tất cả mọi việc phước thiện rồi, chúng ta luôn luôn nhớ ngồi trên "tòa pháp không" của Như Lai, tức là chúng ta quên hết mọi việc tốt đẹp đã làm, để lòng kiêu mạn không phát khởi, để luôn luôn giữ "tâm bình thường" trong từng sát na vậy. Thực hiện được ba điều Ðức Phật dạy trên đây, dù đang sống trên thế giới ta bà khổ này, chúng ta vẫn an nhiên tự tại với tâm bình thường và cuộc sống mới có ý nghĩa thực sự vậy.
Có được tấm lòng đại từ đại bi của Ðức Phật, chúng ta mới có thể nhẫn nhục được, không nỗi sân hận, hay tức giận khi bị người chửi rủa, mắng nhiếc, nhục mạ, vu oan, thưa kiện. Và cuối cùng, sau khi nhẫn nhục được rồi, phát triển tâm từ bi được rồi, làm tất cả mọi việc phước thiện rồi, chúng ta luôn luôn nhớ ngồi trên "tòa pháp không" của Như Lai, tức là chúng ta quên hết mọi việc tốt đẹp đã làm, để lòng kiêu mạn không phát khởi, để luôn luôn giữ "tâm bình thường" trong từng sát na vậy. Thực hiện được ba điều Ðức Phật dạy trên đây, dù đang sống trên thế giới ta bà khổ này, chúng ta vẫn an nhiên tự tại với tâm bình thường và cuộc sống mới có ý nghĩa thực sự vậy.
Chúng ta cùng suy ngẫm câu chuyện sau đây:
Một hôm hai vị sư huynh đệ có việc cùng xuống núi. Khi xong việc trở về đến bên một con suối, hai vị thấy một cô gái ăn mặc đàng hoàng, đang lúng túng chưa biết cách nào lội qua suối. Sau khi hỏi qua cớ sự, vị sư đệ liền bồng cô gái đưa giùm qua suối. Trên suốt quãng đường còn lại, vị sư huynh lầu bầu, cằn nhằn sư đệ đã đụng chạm cô gái, như vậy là phạm giới, đó là những việc không nên làm. Vị sư đệ cứ bình thản bước đi, im lặng, không đối đáp.
Lúc về tới cổng chùa, vị sư huynh vẫn còn tiếp tục lãi nhãi, vì tưởng rằng sư đệ lặng yên, nghĩa là nhận tội đã làm. Cho đến lúc đó, vị sư đệ mới thốt nên lời: Ðệ đã bỏ cô gái ấy lại bên bờ suối từ lâu rồi, tại sao huynh vẫn còn cõng cô ta về đến đây vậy?
Qua câu chuyện này, chúng ta nghiệm xét hai điều:
Một là, người sống với chánh niệm thường im lặng, không tranh cãi, không thị phi, không đính chính, oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả, lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
Hai là, trong cuộc sống thường ngày, sau khi đi làm hay đi chơi, chúng ta cõng không biết bao nhiêu là nhân vật về nhà, có khi còn cõng luôn lên giường ngủ nữa là khác!
Bởi vậy cho nên, chúng ta chứa biết bao nhiêu là hình bóng, người thương kẻ thù, trong kho tàng tâm thức của chúng ta. Nhân dịp cuối năm, chúng ta thường dọn kho chứa đồ đạc cho sạch sẽ, luôn tiện hãy dọn dẹp kho tàng tâm thức cho trống trải. Ðược vậy cuộc sống chúng ta sẽ bớt phiền não và khổ đau. Từ đây, cuộc sống mới có ý nghĩa vậy.
Tóm lại, mặc dù được xem như là một tôn giáo, nhưng đạo Phật không phải chỉ có các hình thức cúng kiến, nghi lễ và người theo đạo Phật không bắt buộc phải có lòng tin, không bắt buộc phải có đức tin, không bắt buộc phải nhắm mắt tin theo, cúi đầu chấp nhận, bất cứ điều gì, dù được ghi chép trong kinh điển, khi lý trí chưa chấp nhận. Người Phật Tử nương theo giáo lý của Ðức Phật để làm phương tiện chuyển hóa đời mình, từ phiền não sang an lạc, từ khổ đau sang hạnh phúc.
Mục đích tối hậu, mục đích cứu kính, mục đích tột cùng của Phật giáo vẫn là chỉ bày phương pháp rèn luyện tâm tánh, phương pháp tu tâm dưỡng tánh, để giúp con người sống được với "con người chân thật" của mình, chứ không phải sống với cái tấm thân tứ đại nặng nề đòi hỏi đủ thứ chuyện, chứ không phải sống với cái tâm hồn thay đổi liên miên, sai xử đủ thứ việc, để giúp con người bớt được phiền não và khổ đau hiện đời, được an lạc và hạnh phúc, được Niết-bàn hiện tiền, giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy:
Chư hành vô thường. Thị sinh diệt pháp. Sinh diệt diệt dĩ. Tịch diệt vi lạc.
Nghĩa là mọi việc trên đời đều vô thường, không tồn tại lâu dài, kể cả tấm thân tứ đại nặng nề mấy chục ký lô, cùng với cái tâm lăng xăng lộn xộn của chúng ta, tất cả đều là những pháp sinh diệt, những thứ sinh ra rồi sẽ diệt đi, không tồn tại vĩnh viễn, không có gì phải quan trọng. Nếu quan trọng cái thân và cái tâm sinh diệt thì con người sẽ sống trong phiền não và khổ đau.
Ðiều quan trọng chính là làm sao cho tâm lăng xăng lộn xộn sinh diệt đó lặng đi, không còn nữa, tức là chúng ta không còn tham lam nữa, chúng ta không còn nổi sân nữa, chúng ta không còn si mê nữa, khi đó cảnh giới tịch diệt hiện tiền, ngay trước mắt, đó mới thực là vui, đó chính là Niết-bàn, là cực lạc vậy.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Sinh diệt diệt dĩ, tịch diệt hiện tiền", chính là nghĩa đó vậy.
Nói chung, Phật giáo có mục đích giúp con người sống trong tỉnh thức, biết mình đang thực sự sống một cuộc đời có ý nghĩa, một cuộc đời lý tưởng vậy.
Email: cutranlacdao@yahoo.com
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Trên thế gian này, an lạc và hạnh phúc là niềm ao ước, mong
muốn của tất cả mọi người, không phân biệt màu da, sắc tộc hay tôn giáo. Người
theo bất cứ tôn giáo nào trên thế giới cũng đều muốn có được một cuộc sống an
lạc và hạnh phúc ngay hiện tại, trước khi từ giã cõi đời này ra đi, về cõi niết
bàn hay thiên đàng. Cuộc sống an lạc và hạnh phúc không phân biệt, không dành
riêng cho người giàu nghèo, học thức, địa vị, hay nam phụ lão ấu. Cuộc sống an
lạc và hạnh phúc chỉ có với những ai "biết"
cách sống an lạc và hạnh phúc mà thôi.
Nhiều khi chúng ta nghĩ an lạc và hạnh phúc do tạo hóa ban
cho, do cầu nguyện Trời Phật hay thượng đế, thần linh mà được. Bởi vậy cho nên,
khi gặp khổ đau và phiền não, con người thường tìm kiếm bình an trong sự cầu
nguyện, hay mong đợi sự ban ơn cứu rổi của thần linh hay thượng đế. Chúng ta
thử hỏi có mấy ai được bình yên, được an lạc và hạnh
phúc qua sự cầu nguyện suông như thế? Thí dụ như có người bị bệnh, nếu
chỉ biết cầu khẩn, van xin bác sĩ, cho mình khỏi bệnh, như vậy chưa đủ. Người
đó phải chịu nghe lời dặn, phải chịu uống thuốc, phải chịu tập thể dục, phải
chịu kiêng cử, thì mới có nhiều hy vọng khỏi bệnh được. Hơn nữa chúng ta thử
suy nghĩ: mình có xứng đáng được hưởng an lạc và hạnh phúc như đã mong cầu hay
không? Nếu có, thượng đế là đấng toàn năng, chí công vô tư, đã ban cho chúng ta
rồi, đâu cần phải cầu nguyện? Nếu không, chúng
ta có cầu nguyện cũng vô ích mà thôi.
* * *
Trong quá khứ xa xưa, việc tin tưởng thần linh chỉ để an ủi
những người quá khổ đau chưa tìm được lối thoát. Ngày nay, nếu con người không chịu tích cực
chữa bệnh cho chính mình mà chỉ biết cầu khẩn, van xin, chỉ biết đem toa thuốc
đọc tụng hằng trăm ngàn lần thì bác sĩ hay thần linh cũng bó tay mà thôi. Có
người còn mê tín hơn, khi gặp cảnh ngộ khổ đau và phiền não, bèn đi coi bói,
xem tướng, đoán vận mạng ở những ông bà thầy bói, là những người không còn
phương kế sinh nhai nào khác, ngoài chuyện tán dóc dựa theo tâm lý của con
người, để gạt người khổ đau nhẹ dạ. Họ bảo người
đó về nhà, đổi cái cửa, sửa cái giường, phá cái tường, xoay cái bếp, dán bùa
cùng khắp cửa lớn, cửa sổ, cầu tiêu, nhà bếp, với hy vọng được bình yên, được
tai qua nạn khỏi, được an lạc và hạnh phúc! Thực ra làm như vậy chỉ gây thêm
phiền toái trong gia đình, bởi vì đâu phải ai cũng tin những điều mê tín đó,
chứ làm sao có được an lạc và hạnh phúc?
Muốn
có được an lạc và hạnh phúc, chúng ta hãy tích cực tìm hiểu thế nào là
an lạc, thế nào là hạnh phúc, hạnh phúc từ đâu tới, an lạc từ đâu có, để rồi
chúng ta cố gắng
thực hiện cho bằng được cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại,
trên thế gian này, bằng chính quyết tâm và nỗ lực của chúng ta. Người ta ở đời
thường quan niệm hạnh phúc qua hình ảnh của một cuộc sống đầy đủ vật chất và
tinh thần. Người ta thấy một người có nhà cao cửa rộng, có vợ chồng con cái
đàng hoàng, có công ăn việc làm tốt, có địa vị trong xã hội, thì liền cho đó là
hạnh phúc và mơ ước có được một cuộc đời như thế. Quan niệm như vậy có nghĩa là
người ta chỉ biết cái hạnh phúc bên ngoài, cái hạnh phúc trước mắt của ngày hôm
nay, chứ chưa phải là hạnh phúc "thực sự và vĩnh cửu".
Chúng ta hãy chuẩn bị tư tưởng, tìm hiểu thế nào là an lạc và hạnh phúc thực sự và vĩnh cửu.
Nếu không, dù có được cái hạnh phúc vật chất như hằng mơ ước, chúng ta cũng
không thực sự có được an lạc và hạnh phúc lâu dài. Tại sao vậy? Bởi vì dù người
có hạnh phúc vật chất, chưa chắc có an lạc tinh thần. Thí dụ như chúng ta trúng
số độc đắc kỳ này, chúng ta có thừa khả năng để sắm xe hơi, xây nhà lầu, tạo
dựng một cuộc sống vật chất giàu sang, sung sướng. Nhưng thử hỏi, như vậy,
chúng ta có an lạc và hạnh phúc hay không?
Một cuộc sống đầy đủ về vật chất của ngày hôm nay chưa chắc
đã tồn tại vĩnh viễn cho đến ngày mai. Cuộc đời biến đổi không cùng, không ai
có thể biết được ngày sau của mình sẽ ra sao. Ngày sau sẽ ra sao, là câu hỏi
không có câu trả lời. Ðừng đi kiếm câu trả lời nơi mấy ông bà thầy bói, vô ích,
phí công, phí sức, phí tiền bạc, phí thời gian. Tại sao vậy? Bởi vì các ông bà
thầy bói còn chưa biết ngày sau của họ thế nào nữa kìa! Trước đây, có ai ngờ
được rằng ngày nay người dân Việt chúng ta sống lưu lạc khắp nơi trên quả địa cầu
này hay không.
Những cái chúng ta có hôm nay, ngày
mai có thể bị biến đổi, hư hoại hay mất đi, lúc đó chúng ta sẽ nghĩ sao?
Lòng tiếc nuối tiền tài, của cải, tài sản, đâu làm cho cuộc sống của chúng ta
được an lạc và hạnh phúc. Những công ăn việc làm khấm khá hôm nay, có thể thất
bại ngày mai. Lúc đó, chúng ta sẽ nghĩ sao, lòng tiếc nuối công ăn việc làm hôm
qua, đâu làm cho cuộc sống hôm nay được an lạc và hạnh phúc. Những quan hệ bạn
bè tốt đẹp hôm nay có thể sẽ biến đổi ngày mai, có thể trở nên thù nghịch, tai
hại không thể lường trước được. Vì là bạn bè chí thân chí thiết với nhau hôm
qua, chúng ta đã trót dại tâm sự quá nhiều điều thầm kín riêng tư, về lý lịch,
về tình cảm, về công việc làm ăn, bí mật nghề nghiệp chẳng hạn, ruột gan phèo
phổi đem ra phơi ráo, để rồi hôm nay, quan hệ không còn tốt đẹp nữa, họ đem
những chuyện biết được công khai trước dư luận, trước mọi người, chúng ta nghĩ
sao? Lòng bực tức, oán thù, giận dữ, đâu làm cho cuộc sống của chúng ta được an
lạc và hạnh phúc. Những người thân thích, quyến thuộc như cha mẹ, anh chị em,
vợ chồng, con cái của chúng ta, đâu phải vĩnh viễn tồn tại trên thế gian này.
Ðến lúc những người thân thuộc đó có mệnh hệ nào, hoặc từ giã chúng ta ra đi,
chúng ta nghĩ sao? Lòng thương yêu, trìu mến, tiếc thương, đâu làm cho cuộc
sống của chúng ta được an lạc và hạnh phúc.
Tất cả những của cải vật chất, những thứ có hình tướng, mà
chúng ta có thể dùng cặp mắt thường để nhìn thấy được, dùng bàn tay để xúc chạm
được, trên thế gian này, đều phải trải qua bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị,
diệt". Nghĩa là mọi thứ của cải vật chất, có hình tướng, nhỏ như cái bàn,
cái ghế, nhà cửa, cây cối, lớn như dãy núi, quả địa cầu, đều được hình thành,
bằng cách này hay cách khác, gọi là "sinh", hiện diện trên thế gian
này một khoảng thời gian nào đó, gọi là "trụ", tồn tại được vài năm
hay vài chục năm, vài trăm năm hay mấy ngàn năm, thậm chí vài triệu năm, cũng
phải đến giai đoạn biến đổi, hư hoại, gọi là "dị", và cuối cùng cũng
tan rã, biến mất, gọi là "diệt".
Chúng ta nên biết thêm rằng các thứ vật chất, có hình tướng
nói trên đây, bao gồm cả cái thân thể nặng mấy chục ký lô của chúng ta, trong
kinh sách thường gọi là "thân tứ đại", gồm có địa, thủy, hỏa, phong,
tức là đất, nước, lửa, gió hợp thành này, hay nói cách khác, cái thân bằng đất
sét nhồi với nước rồi phù hơi nóng vào mà thành, cũng phải trải qua bốn giai
đoạn "sinh, trụ, dị, diệt" không thể khác được!
Chúng ta được cha mẹ sinh ra, lớn lên, trưởng thành, trụ thế
được vài chục năm, rồi đến thời kỳ cơ thể biến dị, trở nên già nua, da dẻ nhăn
nhúm, lưng còm, má hóp và cuối cùng rồi cũng bị hủy diệt. Ðược trải qua đủ bốn
giai đoạn "sinh, trụ, dị, diệt" như thế, chúng ta thực sự có nhiều
phước báo, sống được trăm tuổi, do tích lũy phước thiện nhiều đời trước và đời
này. Cũng có biết bao nhiêu người trên thế gian này không trải qua đủ bốn giai
đoạn như thế. Có người chỉ có "sinh" mà không đến được các giai đoạn:
"trụ, dị, và diệt"! Có người chỉ có "sinh" và
"trụ" một thời gian ngắn, cơ thể chưa được "dị", thì đã bị
"diệt" rồi! Ðó chính là những người đã ít tu nhơn tích phước, lại còn
tạo nhiều nghiệp báo xấu! Có tu nhơn tích phước, mới hưởng lộc và trường thọ. Sống lâu mà thiếu phước thì khổ
hơn là chết sớm cho rồi!
Thông thường, chúng ta chỉ thấy người khác qua đời mà không
bao giờ dám nghĩ tới có lúc nào đó, chúng ta cũng phải từ giã cõi đời này như
bao nhiêu người khác. Nếu lúc nào cũng luôn luôn nhớ nghĩ được như vậy, chúng
ta sẽ không còn phiền não vì những chuyện "dù lớn dù nhỏ" trên thế
gian này nữa. Tại sao vậy? Bởi vì có ai biết ngày mai mình chết mà hôm nay vẫn
còn hơn thua, vẫn còn muốn thưa kiện người khác ra tòa, vẫn còn tranh đấu như
trâu-bị-đánh hay không? Chắc là không, vì không ai muốn khi mình nằm xuống,
người ta đến khạc nhổ trên quan tài của mình chứ. Nhưng vì tánh nóng giận, sân
hận, tự ái quá cao, ta đây là ngon nhất trong thiên hạ, cho nên không dằn được.
Hơn nữa, vì thường nghĩ rằng "đời còn dài", cho nên con người khó
nhịn được những điều bất như ý đầy dẫy trên cõi đời này.
Có người khi thấy một người khác chết thì liền nghĩ ngay
rằng mình cũng có ngày phải chết, cho nên lập tức suy nghĩ, tìm đường thoát
khỏi sanh tử luân hồi. Họ cố gắng tìm hiểu để khám phá ra "con người chân thật" của
chính mình, ngoài cái thân xác đang mang và sẽ bỏ lại khi ra đi về bên kia thế
giới. Ðó là hạng người có trí tuệ cao. Ðạt được "con
người chân thật" thì chúng ta không còn bị phiền não khổ đau chi phối,
chắc chắn sẽ tìm được cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay trên cõi đời này, trên
thế gian này. Tại sao vậy? Bởi vì sống được với "con người chân thật" của
chính mình thì chúng ta đã "giác ngộ và giải thoát", đã bước ra khỏi
những khổ lụy của cuộc đời. Nhưng làm sao đạt được, làm sao sống được với "con người
chân thật" là vấn đề chúng ta cần nghiên cứu, cần tìm hiểu cho
thấu đáo, cho tường tận.
Việc này đòi hỏi chúng ta phải phát tâm bồ đề một cách kiên
cố, một cách dũng mãnh, phải phát nguyện tu học theo đúng Chánh Pháp, trong
suốt một thời gian cần thiết nào đó, tùy theo căn cơ trình độ và nỗ lực của mỗi
người. Mục đích cứu kính của đạo Phật nhằm chỉ bày cho tất cả mọi người biết
được "con
người chân thật" của chính mình, để không còn mê mờ, trôi lăn
trong vòng sinh tử luân hồi. Chứ không phải như chúng ta thường thấy ở những
bước đầu, khi mới đến với chùa chiền. Ðạo Phật không chỉ có những nghi lễ tụng
niệm, cầu an, cầu siêu, cầu phước mà thôi.
Có người thấy người khác chết chỉ xúc động một lúc, nhưng
khi thấy người thân qua đời liền tỉnh ngộ, nhận biết "cuộc đời là vô thường". Vô thường nghĩa là không có gì
trên thế gian này tồn tại vĩnh viễn, kể cả thân xác này. Cho nên không còn tham
đắm chuyện tranh danh đoạt lợi nữa, quay về suy tư, tìm hiểu đâu là sự thật của
con người, đâu là sự thật của cuộc đời. Từ đó, con người cũng tìm được cuộc
sống an lạc và hạnh phúc. Có người thấy người khác chết, thấy người thân qua
đời cũng không ảnh hưởng gì, cho đến lúc chính bản thân suýt chết vì một tai
nạn nào đó, hay may mắn thoát khỏi một cơn bệnh hiểm nghèo, thập tử nhứt sanh,
liền thức tỉnh, nhận biết rõ ràng cuộc đời là "khổ nhiều vui ít", mọi của cải vật chất là vô thường,
cuối cùng không có gì trường tồn, liền mạnh mẽ dứt bỏ mọi thứ đau khổ phiền não
hệ lụy trên đời. Khi dứt bỏ được, con người bắt đầu sống cuộc đời còn lại trong
an lạc và hạnh phúc.
Ðại đa số còn lại thì không như vậy. Con người mãi lăn lộn
trong cuộc sống của thế gian, không có đủ thời giờ để ăn uống, nghỉ ngơi, lo
cho chính mình, thấy người khác chết thì mặc kệ, mình thì "còn lâu mới
chết", đời mình còn dài mà, hãy lo làm ăn tranh đấu, kiếm tí danh gì với
bà con, cho rỡ ràng tông môn dòng họ, cho sáng mặt đẹp mày, đồng thời kiếm cho
thiệt nhiều tiền, bất chấp mọi thủ đoạn, lường gạt sang đoạt, vu khống cáo
gian, thưa gởi kiện tụng, để hưởng thụ cho sung sướng tấm thân. Các việc khác
để người khác lo, không phải chuyện của mình, người bị thưa bị hại khổ sở thế
nào cũng mặc kệ.
Ðến lúc lâm chung, sắp lìa đời, họ thỉnh sư, cầu cha, mời
ông, mời bà, đến chật cả nhà, tụng kinh cầu nguyện, để cho mình được vãng sanh
tây phương cực lạc, cho mình được tiếp tục sung sướng, cho mình được lên thiên
đàng, để hưởng phước đời đời trên đó. Ðem tiền hối lộ các sư, các cha như vậy
là được như ý nguyện hay sao? Trên các cõi lành đó, chỉ có các bậc thượng thiện
nhơn, tức là các người toàn thiện mà thôi. Ðâu phải lắm tiền nhiều của, đem nhờ
thiệt là nhiều người khác cầu nguyện cho mình mà đặng đâu.
Khi còn sống trên thế gian này, họ chỉ biết có mình, gia
đình mình, chỉ biết có "mình và mình, tiền và tiền", không biết tu
tâm dưỡng tánh, cho nên không được an lạc và hạnh phúc, cuộc sống chìm đắm
trong phiền não khổ đau, đấu tranh giành giựt. Ðến khi chết, một cách chắc
chắn, họ chỉ được tiêu diêu nơi miền cực lạc, được siêu thăng về cõi thiên
đàng, qua các phân ưu trên báo chí mà thôi.
Hiểu được cuộc sống là vô thường, thay đổi không dừng, tâm ý
cũng biến đổi từng giây từng phút, chúng ta đã được phân nửa cuộc sống an lạc
và hạnh phúc. Tại sao vậy? Bởi vì hiểu được như vậy, khi gặp tai biến của cuộc
đời, nay còn mai mất, nay thịnh mai suy, nay lời mai lỗ, nay vui mai buồn, nay
khen mai chê, nay thân mai thù, nay thương mai ghét, nay bốc mai bôi, nay lên
mai xuống, nay vua mai giặc, chúng ta liền biết ngay đó là "thập như
thị", tức là "mười điều đương nhiên". Trên cõi đời này, thế gian thường tình là như
vậy đó, chúng ta đừng ngạc nhiên, đừng thắc mắc, đừng tức giận, đừng thở than,
đừng trách hờn, đừng nghĩ suy, đừng bận tâm. Nhờ đó, chúng ta không còn khổ đau
và phiền não nữa.
Trên thế gian này, chúng ta thấy đầy dẫy những sự thăng trầm: lúc được lúc thua,
lúc thắng lúc bại, lúc lời lúc lỗ, lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc
tâng bốc lúc bôi bác, lúc đau khổ lúc hạnh phúc. Trong kinh sách, những bước
thăng trầm như vậy được gọi là "bát phong". Bát
phong gồm có bốn điều phước báo và bốn điều
quả báo, hoặc bốn điều như ý và bốn điều bất như ý, chia thành bốn cặp:
"lợi và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Ðó là tám ngọn gió
trên thế gian, lúc nào cũng không ngừng thổi, hết cơn gió này rồi đến cơn gió
khác, có lúc gió thổi hiu hiu mát mẻ khỏe khoắn, có khi gió thổi mãnh liệt kinh
hồn, tàn bạo khốc liệt trong các cơn giông bão.
Lúc gặp ngọn gió "lợi lộc" thổi đến, như trúng số
chẳng hạn, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay, có người mừng quá đứng tim
hết thở. Lúc gặp ngọn gió "suy sụp" thổi đến, thời cuộc gây nên tán
gia bại sản, sự nghiệp điêu tàn, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay, có
người tiếc của quá nên tự vận chết. Lúc gặp ngọn gió "hủy báng" thổi
đến, bị chê bai, bị bôi lọ, bị nói xấu thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay.
Lúc gặp ngọn gió "danh dự" thổi đến, được viết sách đề cao, được phát
bằng khen tặng, vui vẻ khôn cùng, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay. Lúc
gặp ngọn gió "xưng tán" thổi đến, được tâng bốc, nêu tên ngợi khen,
thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay. Lúc gặp ngọn gió "cơ bài" thổi
đến, bị chỉ trích, bài bác, đích danh phê bình, thì tâm của chúng ta sẽ nổi
sóng ngay. Lúc gặp ngọn gió "khổ đau" thổi đến, chẳng hạn như gặp
hoạn nạn, người thân qua đời, thì tâm của chúng ta sẽ nổi sóng ngay. Lúc gặp
ngọn gió "hoan lạc" thổi đến, được sự hỷ hạ mừng vui, thì tâm của
chúng ta sẽ nổi sóng ngay.
Người nào có công phu tu tập, có bản lãnh chịu đựng được tám
ngọn gió độc này thổi đến mà
"thước-ca-ra tâm" vẫn "như như", vẫn
"vô động chuyển", tức là tâm trí của người đó vẫn không lay động,
không khởi niệm, không vui mừng hớn hở, cũng không âu lo sợ sệt, dù gặp bất cứ
hoàn cảnh nào cũng vậy, người đó được gọi là "bát phong xuy bất
động", có nghĩa là tám gió thổi chẳng động, dĩ nhiên người đó có cuộc sống
an lạc và hạnh phúc vậy.
Ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi, tùy theo sức gió,
mặt biển sẽ có sóng nhỏ, sóng to tương ứng. Tâm của chúng ta ví như mặt biển,
khi có chuyện xảy ra, ví như tám gió thổi đến, thì lập tức nổi sóng ngay. Thí
dụ như thấy người oán thù, nghe lời chửi mắng, nhớ chuyện thua thiệt, thì tâm
của chúng ta lập tức nổi sóng nổi sân ngay. Chúng ta muốn có cuộc sống an lạc
và hạnh phúc thì nội tâm không nên nổi "sóng tham, sân, si" mỗi khi
"tám gió" thổi đến. Còn nếu cơn sóng có "lỡ" nổi lên
rồi, thì hãy giác ngộ ngay, hãy "biết" ngay rằng tâm của chúng ta
đang nổi sóng. Nhờ đó sóng sẽ lặng ngay và chúng ta hãy mỉm một nụ cười cho
thật tươi tắn! Thế là hết, phiền não đã qua đi rồi! Tuy nhiên, sóng lặng nhanh
hay chậm là do công phu quán chiếu mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi khắc của mỗi chúng
ta. Cũng như chiếc xe có thắng ăn hay không vậy thôi. Thông thường thì chúng ta
ai ai cũng "tới luôn bác tài" cho hả giận, không thể dừng được, không
thể nhịn nổi, mỗi khi tám gió thổi đến.
Trong gia đình,
nếu người vợ có lỡ tay đập bể một món đồ bình thường, hoặc quan trọng và quí
giá như cái bình cổ đời Khang Hy đi nữa, đức lang quân cũng không nên vì thế mà
nặng lời tiếc của, làm cho gia đạo bất an, huống gì những chuyện lặt vặt nhỏ
mọn khác. Cặp vợ chồng như vậy khỏi cần phải đi coi bói, xem chừng nào hết tiểu
hạn hết đại hạn, chừng nào tai qua nạn khỏi, chừng nào mới được bình yên. Thực
ra đại hạn hay tiểu hạn là tùy ở mình hết trơn, bao lâu mình còn lầu bầu tiếc
của thì bấy lâu mình còn phải xức dầu cù là cho bớt nhức đầu, cho đỡ đau bụng.
An lạc và hạnh phúc ở ngay trong gia đạo của họ rồi, khỏi cần phải kiếm, nhọc
công mệt sức. Cũng vậy, khi ông chồng có thất bại trong công việc hùn hạp làm
ăn, thua lỗ, thậm chí có đứt vốn, vỡ nợ đi chăng nữa, vị phu nhân hiểu biết
cũng không vì thế mà nặng lời tiếc của, không đay nghiến: phải chi ông để tiền
cho tôi mua hột xoàn vừa chưng diện được đẹp đẽ, vừa để dành làm của sau này!
Ðược như vậy, gia đạo sẽ bình yên, cuộc sống được an lạc và hạnh phúc
chắc chắn, không nghi. Những cặp vợ chồng như vậy không cần đến gặp bác sĩ tâm
thần, tâm lý gì cả. Bởi lẽ, dù có than trời trách đất, la lối om sòm chăng nữa
thì cũng không có cách nào bù lại những sự mất mát vật chất cũng như tinh thần,
chuyện gì đã qua thuộc về quá khứ, hãy để cho nó qua đi, đừng tiếc nuối, đừng
than van, đừng nhớ tưởng, chẳng ích lợi gì. Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có
dạy: "Quá khứ tâm bất khả đắc", chính là nghĩa như vậy.
Người ta thường tự hỏi: Tại sao tự nhiên tôi khổ quá vậy,
tại sao tự nhiên tôi bị bệnh vậy, tại sao tự nhiên tôi bị người khác mắng vậy,
tại sao tự nhiên có đứa bé mới sanh ra đã bị tật nguyền, lục căn khiếm khuyết? Con người không thể giải thích được những câu
hỏi tại sao "tự nhiên" trên đây, bèn đổ hết lên đầu một nhân vật, do
chính con người tưởng tượng ra, rồi gọi đó là Trời, là Thượng Ðế, là Tạo Hóa.
Người ta thường nói: Nhờ Trời thương, nên tôi giàu có, sung sướng. Tại Trời trớ
trêu, không thương yêu, muốn trừng phạt, nên tôi khổ quá, nên tôi bị bệnh hoạn,
nên tôi bị tai nạn liên miên! Cái gì cũng nhờ trời tại trời hết trơn. Ông Trời
hay Bà Trời nếu có thực, và là đấng có quyền năng tuyệt đỉnh, là đấng chí công
vô tư, là đấng có lòng bác ái bao la, tại sao lại "ban phước giáng
họa" một cách tùy tiện, một cách bừa bãi như thế, tại sao không ban cho
tất cả con người một cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay trên thế gian này, tại
sao không dẹp hết loài yêu ma quỉ quái, để cho cuộc đời được tươi vui đẹp đẽ?
Trời lại hứa hẹn rằng: người nào chịu thờ phượng, mới được cho lên thiên đàng
hưởng phước đời đời, còn tất cả mọi người khác không chịu tin như vậy, không
chịu thờ phượng, bị cho xuống hỏa ngục hết trơn!
Cái cõi thiên đàng phe đảng, ích kỷ như vậy, đâu khác gì thế
gian này?
Cái niềm tin vô căn cứ nơi trời đất quỉ thần ma quái linh
thiêng, không luận lý được như vậy, đang dần dần bị đẩy lui, theo đà phát triển
của khoa học, trên khắp thế giới hiện nay. Số người tin tưởng như vậy, càng
ngày càng sáng mắt ra, càng giảm dần, nhờ học hiểu chân lý. Người đời nay nhứt
định không để cho những kẻ lợi dụng đức tin tôn giáo lừa gạt thêm nữa. Những
người này bày ra những câu chuyện huyễn hoặc, linh thiêng giả tạo, nào là tượng
đá biết khóc, nào là bức tranh chảy nước mắt, nào là ngày tận thế sắp đến, nào
là thánh thần cứu người chết sống lại, nào là thần linh hiện ra nơi này nơi nọ,
trên đám mây, trên ngọn cây, trong hốc đá, bên suối nước, dạy điều này, bảo
điều kia, tiên tri điều nọ, điều nào cũng có lợi cho nhóm người ít ỏi của họ mà
thôi. Con người có trí tuệ tối thiểu không thể chấp nhận, không thể tin được
những điều vô lý như vậy. Thử hỏi thánh thần cứu người chết sống lại làm chi,
bởi vì sau đó người này cũng phải chết mà thôi, có ai sống mãi không chết đâu,
kể cả ông thánh ông thần kia. Lúc đó ai đến cứu họ lần nữa? Thánh thần hiện ra
có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh của chúng ta chứ? Hay chỉ để gánh tội
thay cho chúng ta?
Thực ra, trên thế gian này không việc gì tự nhiên mà có, mà
sinh ra đâu, cũng không có trời nào ban phước giáng họa một cách bừa bãi như
vậy cả.
Chúng ta cần nên biết sự thực là:
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên
sanh ra.
Tất cả mọi sự việc đều do nhân duyên
diệt đi.
Thí dụ như cái cây không phải tự nhiên mọc lên được, mà phải
do nguyên nhân là hạt giống gieo xuống đất, rồi nước tưới, ánh sáng và nhiều
yếu tố khác trợ duyên, mới có được. Gieo nhân là hạt giống cam thì được cây cam
và gặt hái quả cam. "Nhân nào quả nấy" là định luật. Khoa học cũng
thừa nhận như vậy. Ăn uống không vệ sinh, không điều độ là nguyên nhân, hậu quả
là bị bệnh. Thời nay, người bị bệnh thì đi bác sĩ khám bệnh và cho thuốc uống,
chứ cầu nguyện thượng đế, uống nước sông nước suối, tụng kinh thì làm sao khỏi
bệnh cho được? Nếu tụng kinh cầu nguyện thượng đế, uống nước sông nước suối, mà
khỏi bệnh, thì bác sĩ, dược sĩ nên giải nghệ, bệnh viện đóng cửa cho rồi. Bị
bệnh không do trời phạt, hết bệnh không do trời thương. Hút sách, cờ bạc là
nguyên nhân, hậu quả là tán gia bại sản, vợ bỏ con chê. Chơi xấu, đâm bị thóc
thọc bị gạo, lường gạt là nguyên nhân, hậu quả là bị chưởi mắng, khinh khi.
Lười biếng làm việc là nguyên nhân, hậu quả là nghèo khó. Lười biếng học hành
là nguyên nhân, hậu quả là dốt nát. Âm mưu hại người là nguyên nhân, hậu quả là
bị quả báo người hại lại.
Siêng năng làm việc, biết tiết kiệm là nguyên nhân, kết quả
là giàu có. Chăm chỉ học hành là nguyên nhân, kết quả là đỗ đạt. Tốt bụng giúp
người là nguyên nhân, kết quả là được mến chuộng. Tâm hồn khoáng đạt thoải mái,
không chứa chấp thù hận, không chứa chấp chuyện nhỏ mọn, không tham sân si,
không thành kiến, không ganh tị, không đố kỵ, không tị hiềm, không ganh ghét,
không tranh đua, không hơn thua, không kỳ thị, không so đo, không suy lường,
không tính toán, không cố chấp, không quan trọng hóa mọi việc lớn nhỏ, không
phân biệt phe phái, không thị phi nhơn ngã là nguyên nhân, kết quả là cuộc sống
an lạc và hạnh
phúc vậy.
Thường thì chúng ta thấy quả báo nhãn tiền, sinh sự thì sự
sinh, gieo gió thì gặt bão, ở hiền thì gặp lành, làm thiện thì hưởng phước. Tuy
nhiên, cũng có nhiều người thắc mắc: Tại sao có người ăn hiền ở lành, biết tu
tâm dưỡng tánh, thường xuyên đi chùa, đi nhà thờ, không làm việc gì bất nhơn thất
đức, nhưng họ cứ bị tai họa, bệnh hoạn, họa vô đơn chí, xui xẻo dồn dập? Trái
lại, có người thật điêu ngoa, hung tợn, lừa thầy phản bạn, làm đủ mọi chuyện
tồi tệ, ném đá dấu tay, không chừa bất cứ thủ đoạn, phương tiện gian manh nào,
nhằm đoạt cho bằng được mục đích vị kỷ của họ, tại sao họ vẫn cứ phây phây,
nhởn nhơ, ăn nên làm ra, tậu nhà sắm xe? Dường như công lý, lẽ phải không có
trên quả địa cầu này vậy! Thượng đế, nếu thực là đấng toàn năng, có phép lạ
siêu việt, cầu gì cho nấy, cứu người chết đặng sống, sao không dẹp trừ sạch
hạng người như vậy, cho thế gian này biến thành thiên đàng, có phải là tốt đẹp
vẹn toàn hay không?
Trong lúc khoa học còn quá phôi thai chưa giải thích được
các hiện tượng vật lý, thiên văn, cho nên con người bèn tưởng tượng, bèn nặn ra
thượng đế, để chính con người nương tựa vào đó, cầu nguyện tìm sự bình an tâm
hồn tạm thời trong lúc sợ hãi, khổ đau mà thôi. Luật nhân quả giải thích được
các việc đó trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Có những nguyên nhân
được tạo ra trong quá khứ, kết quả hay hậu quả nhận được trong hiện tại. Có
những nguyên nhân được tạo ra trong hiện tại, kết quả hay hậu quả nhận được
trong vị lai.
Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:
Dục tri tiền thế nhân, đương kim thọ giả thị.
Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.
Yếu tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn biết kiếp trước mình đã làm gì,
hãy nhìn cuộc sống của mình hiện tại.
Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Nếu hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ, gặp tai nạn
liên miên, thậm chí chết người, thì đó là quả của cái nhân tạo ác nghiệp và
không biết làm việc phước thiện trước đây, chứ không có chuyện thương ghét tùy
tiện của thượng đế nào cả. Nếu hôm nay mình thông minh, đủ ăn đủ mặc, thì đó là
quả của cái nhân tu tâm dưỡng tánh, tích phước tích đức trước đây nhiều đời và
đời này. Hôm nay mình được bình an là quả của cái nhân mình không tạo sự bất an
cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc là quả của cái nhân
mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.
Tùy theo "cái nhân" là hạt giống loại nào, sau khi
được gieo xuống đất, phải chờ đủ "thời tiết nhân duyên", mới gặt hái
"cái quả" của nó, có khi sớm, cũng có khi muộn. Cũng có khi gặt phải
quả chanh chua, nhưng có thể đem bán đi, mua quả cam ngọt. Ðó là trường hợp
chúng ta đã "lỡ"
gieo nhân xấu, nhưng nhờ thiện tri thức nhắc nhở, chúng ta biết phục thiện,
quay trở về chánh đạo, chuyển ba nghiệp xấu ác thành ba nghiệp thiện lành, làm
nhiều việc phước đức, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta có thể gặt "quả
tốt", hay ít ra cũng giảm bớt được "quả xấu". Tức là chuyện lớn
hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Cũng ví như gieo nhân biết tiết kiệm, con người
có thể gặt quả giàu có, hay giảm bớt được nợ xưa đó vậy.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt
thiết duy tâm tạo". Nghĩa là tất cả đều do tâm của chúng ta tạo
ra. Muốn có quả thiên đàng trong tâm, chúng ta hãy gieo nhân từ bi hỷ xả, bác
ái vị tha. Gieo nhân ích kỷ, hận thù, tham lam, sân hận, si mê, nhứt định gặt
quả địa ngục trong tâm, chắc chắn không sai, chỉ có sớm hay muộn mà thôi. Thiên đàng địa ngục hai bên. Ai ngộ thì nhờ, ai mê thì sa.
Thiên đàng chẳng chứa quỉ ma. Ai
người tâm thiện tìm ra thiên đàng. Chúng ta đã thấu hiểu lý lẽ chân thật
của cuộc đời là vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, không có gì là tự
nhiên sanh. Luật nhân quả áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có
khói. Cầu nguyện chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm
thời. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm mà thôi. Thiên đàng, địa ngục
tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở
trong tâm của tất cả chúng ta mà thôi.
Ngày xưa, có người đến hỏi Ðức Phật: Bạch Ngài, có kinh điển
nào có thể đọc tụng để cầu nguyện cho đệ tử được Niết bàn hay không? Ðức Phật
đáp: Không! Tại sao vậy?
Thí dụ như quăng hòn đá xuống nước, hòn đá nặng tức nhiên
chìm lĩm, không có kinh điển nào đọc tụng, có thể cầu nguyện cho cục đá nổi lên
được. Ðem dầu đổ xuống nước, dầu nhẹ tức nhiên nổi trên mặt nước, không có kinh
điển nào đọc tụng, có thể khiến cho dầu chìm được. Nghĩa là khi con người tạo
nghiệp bất thiện thì bị sa đọa, làm việc xấu ác thì tâm trạng bất an, không thể
nhờ cúng kiến cầu an, mà được bình an, yên ổn, không thể nhờ cầu hồn, cầu siêu
mà người đó có thể thăng lên niết bàn hay thiên đàng được.
Cũng vậy, khi con người biết làm việc phước thiện, biết tu
tâm dưỡng tánh, biết quán chiếu, biết suy tư lẽ vô thường, lý nhân quả nhân
duyên của cuộc đời, thì nhứt định khi sống được an lạc và hạnh phúc. Khi ra đi,
người đó được an lành, siêu thoát, tái sanh nơi nhàn cảnh. Không ai có thể đem
kinh điển nào đọc tụng, hay rủa xả, hoặc không thể vì người đó không theo tôn
giáo này, không theo tôn giáo kia, hoặc vì bất cứ lý do gì, mà người đó có thể
đọa vào địa ngục được. Tâm của họ trong sáng, thanh
tịnh, tự tại, nhẹ nhàng, thánh thiện hiện đời, nhứt định khi ra đi, được siêu
thăng cõi lành, cõi thiện mà thôi, không có gì nghi ngờ cả. Cũng như cái
cây bình thường mọc nghiên về bên nào, khi bị cưa xuống, sẽ ngã về bên đó vậy.
Chí công vô tư đúng nghĩa phải là như vậy. * *
Tóm lại, cuộc sống an lạc và hạnh phúc không do cầu nguyện suông
mà được, không có một nguyên tắc nào, một phương pháp nào mà tạo ra. Cuộc sống an lạc và hạnh phúc
không là độc quyền của bất cứ ai theo một tôn giáo nào, bất cứ ai thuộc một dân
tộc nào, hoặc bất cứ ai thuộc một giới nào. Người quá khôn ngoan, lanh
lợi ở đời không thể có cuộc sống an lạc và hạnh phúc.
Người quá khờ dại, u mê, ngu muội cũng không thể có cuộc
sống an lạc
và hạnh phúc.
Cuộc sống an lạc và hạnh phúc chỉ có nơi tất cả những ai
biết tu tâm dưỡng tánh, biết quên mình vì người, biết làm việc phước thiện,
biết quán chiếu, suy tư lẽ vô thường, lý nhân quả, nhân duyên của cuộc đời. Tức
là cuộc sống an lạc và hạnh phúc chỉ có nơi những người "biết" sống an lạc và hạnh phúc
mà thôi. Chí công vô tư là ở chỗ đó vậy. []
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm VP.PHTQ.CANADA
108
– 123 RAILROAD ST.,
BRAMPTON,
ON, L6X-1G9, CANADA
TEL: 647-828-1016
VP.PHTQ.CANADA Email: cutranlacdao@yahoo.com
Trăng
Đầy sách, giường song chếch bóng đèn
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày thức dậy đâu hay biết
Hoa mộc trên cành trăng mới lên
Sân thu sương bủa thoáng hơi đêm
Tiếng chày thức dậy đâu hay biết
Hoa mộc trên cành trăng mới lên
Trăng Yên Tử
Trăng treo lơ lửng trên cành tùng
Trăng rắc vàng trên cánh hoa nhung
Sương đêm sực nức mùi hoa đại
Mỗi bước trăng trôi giữa núi rừng…
Lung linh huyền ảo ánh trăng rơi
Tiếng hạc trong đêm tận cõi trời
Hạ giới thần tiên hay đất Phật
Chị Hằng chú Cuội mãi rong chơi?
Mạn hứng ơ sơn phòng
Trăng treo lơ lửng trên cành tùng
Trăng rắc vàng trên cánh hoa nhung
Sương đêm sực nức mùi hoa đại
Mỗi bước trăng trôi giữa núi rừng…
Lung linh huyền ảo ánh trăng rơi
Tiếng hạc trong đêm tận cõi trời
Hạ giới thần tiên hay đất Phật
Chị Hằng chú Cuội mãi rong chơi?
Mạn hứng ơ sơn phòng
Ai buộc mà đi giải thoát tìm?
Không phàm sao phải kiếm thần tiên
Vượn mòn, ngựa mỏi ta già phải.
Như cũ am mây một sập thiền
Phải trái tâm theo hoa sớm rơi
Lợi danh lòng lạnh mưa đêm rồi
Hoa tàn, mưa tạnh non im ắng
Một tiếng chim kêu xuân hết thôi.
Không phàm sao phải kiếm thần tiên
Vượn mòn, ngựa mỏi ta già phải.
Như cũ am mây một sập thiền
Phải trái tâm theo hoa sớm rơi
Lợi danh lòng lạnh mưa đêm rồi
Hoa tàn, mưa tạnh non im ắng
Một tiếng chim kêu xuân hết thôi.
Luân Hồi và Niết Bàn
ĐỨC LẠT LAI LẠT MA
Tiến
trình thực sự mà qua đấy tâm thức tạo nên sự hiện hữu bất giác và khổ đau mà
chúng ta trãi qua được diễn tả bởi Nguyệt Xứng trong tác phẩm Hướng Dẫn Đến
Trung Đạo, ở đấy ngài tuyên bố, “Một thể trạng không thể kiểm soát của tâm thức
làm phát khởi những vọng tưởng mà chúng đưa đẩy chúng sinh vào trong những hành
động tiêu cực là điều mà sau đó tạo nên môi trường mà chúng sinh sinh sống.”
Khi cố
gắng để thấu hiểu bản chất tự nhiên của việc tự do khỏi khổ đau mà Đạo Phật nói
đến (niết bàn), chúng ta có thể nhìn vào một đoạn trong Nền Tảng của Trung Đạo,
mà ở đấy trong một ý nghĩa nào đấy Long Thọ đã đặt ngang hàng sự tồn tại bất
giác (luân hồi) và sự hiện hữu giác ngộ (niết bàn). Điểm mà Long Thọ đề
xuất trong việc đặt ngang hàng sự tồn tại bất giác và hiện hữu giác ngộ là
chúng ta không nên có ấn tượng rằng có bất cứ loại bản chất bên trong nào đấy
hay biểu hiện thực chất nào đấy đến sự hiện hữu của chúng ta, mà nó là giác ngộ
hay bất giác.
Từ quan
điểm của tính không, luân hồi và niết bàn là đồng đẳng trống rỗng về bất cứ
thực tại bản chất hay biểu hiện bên trong. Điều phân biệt một tình trạng
bất giác với thể trạng giác ngộ là sự nhận thức hay tỉnh giác về tính không của
luân hồi là điều có thể được gọi là niết bàn. Một lần nữa, chúng ta thấy
rằng đấy là một thể trạng của tâm thức – một sự thấu hiểu hay nhận thức về tính
không – làm khác biệt luân hồi với niết bàn.
Đưa ra
những chi tiết này, là điều rất hợp lý để phát sinh câu hỏi: Có phải Đạo
Phật cho rằng mọi thứ không là gì cả mà chỉ là sự phóng chiếu của tâm thức?
Đây là
một câu hỏi quan trọng và chúng ta phải có những sự đáp ứng suy luận khác nhau
từ những đạo sư Phật Giáo. Trong một trường phái, những đại sư đã tranh
luận rằng trong sự phân tích cuối cùng, vâng, mọi thứ, bao gồm cả kinh nghiệm
khổ đau và hạnh phúc của chúng ta, không là gì cả mà chỉ là sự phóng chiếu của
tâm thức chúng ta.
Nhưng
cũng có một trường phái khác luận chiến kịch liệt chống lại hình thức chủ quan
cực đoan. Trường phái thứ hai này tiếp tục chủ trương rằng, mặc dù con
người, trong một ý nghĩa nào đấy, thấu hiểu mọi thứ như sự tạo tác của tâm
thức, nhưng điều này không nghĩa là mọi thứ không phải là gì cả mà chỉ là
tâm. Họ tranh luận rằng, con người phải duy trì một mức độ khách quan
rằng mọi thứ thật sự tồn tại. Mặc dù ý thức, hay tâm, đóng một vai trò
trong việc tạo dựng kinh nghiệm của chúng ta và thế giới trong cùng một lúc,
nhưng họ cho rằng có một thế giới khách quan có thể tiếp cận được đến tất cả
mọi đối tượng, tất cả mọi kinh nghiệm.
Có một
quan điểm khác mà tôi nghĩ chúng ta nên thấu hiểu với sự quan tâm đến khái niệm
của Đạo Phật về tự do hay niết bàn. Long Trí (Nagabuddhi), đệ tử của Long
Thọ, nói rằng, “Giác ngộ hay tự do tâm linh không phải là một tặng phẩm mà ai
đấy có thể cho bạn, cũng không phải là hạt giống giác ngộ là sở hữu của người
khác.” Điều hàm ý ở đâylà khả năng cho giác ngộ tồn tại một cách tự nhiên
trong tất cả chúng ta.
Long Trí
tiếp tục hỏi, “Niết bàn là gì, giác ngộ là gì, tự do tâm linh là gì?”
Ngài trả lời, “Giác ngộ chân thật không là gì cả mà là khi bản chất tự ngã của
một người hoàn toàn tác chứng.” Khi Long Trí nói về bản chất tự ngã của
con người, ngài liên hệ đến những gì Đạo Phật gọi là linh quang căn bản, tính
bản nhiên sáng rở nội tại của tâm. Ngài nói, khi điều này biến
thành hiện thực trọn vẹn, đấy là giác ngộ, đấy là Phật quả chân thực.
Khi chúng
ta nói về giác ngộ, Phật quả hay niết bàn, mà đấy là hoa trái từ sự nổ lực tâm
linh của con người, chúng ta đang nói về một phẩm chất của tâm thức, một thể
trạng của tâm. Tương tự thế, khi chúng ta nói về những vọng tưởng và các
nhân tố làm chướng ngại sự tác chứng của chúng ta về thể trạng giác ngộ
ấy, chúng ta cũng nói về những thể trạng của tâm, những trình trạng lừa dối của
tâm thức. Một cách cá biệt, chúng ta đang liên hệ đến những tình trạng
lừa dối làm nền tảng trong một cung cách bóp méo về sự nhận thức tự ngã
của con người và thế giới. Phương tiện duy nhất mà nhờ đấy chúng ta có
thể loại trừ cung cách hiểu biết sai lầm, hay bóp méo của nhận thức về tự ngã
và thế giới, là qua sự trau dồi tuệ giác nội quán vào trong tính bản nhiên chân
thật của tâm, và bản chất thật sự của tự ngã và thế giới.
Tóm lại,
quan điểm căn bản trong giáo huấn của Đức Phật về một mặt, làm quân bình tình
trạng vô nguyên tắc của tâm thức với sự tồn tại của khổ đau và bất giác; về mặt
khác, là một thể trạng trật tự của tâm thức với hạnh phúc, giác ngộ hay tự do
tâm linh. Đây là điểm căn bản.
Tư Tưởng Thích Đáng và Không Thích Đáng
Từ kinh
nghiệm đời sống thường ngày của chúng ta, chúng ta biết rằng có những loại tư
tưởng có thể được phân loại như thích đáng và rồi thì có những loại khác là
không thích đáng. Thí dụ, nếu tư tưởng đặc thù của chúng ta phù hợp với
thực tại, thế thì chúng ta có thể gọi đấy là một tư tưởng hay kinh nghiệm thích
đáng hay giá trị. Trái lại, chúng ta cũng trãi nghiệm những tư tưởng và
cảm xúc hoàn toàn mâu thuẩn đến cung cách những sự việc [thật sự như thế nào].
Trong
kinh luận Đạo Phật, việc đạt đến giải thoát tâm linh tối thượng được nói là hoa
trái của những tư tưởng và cảm xúc thích đáng. Thí dụ, theo giáo huấn nhà
Phật, những nhân tố chính yếu làm nguyên nhân cho việc đạt đến giác ngộ được
nói là tuệ giác nội quán chân thực vào trong tính bản nhiên của thực tại.
Tuệ giác nội quán chân thực vào trong tính bản nhiên của thực tại là một cung
cách thích đáng của việc hiểu biết sự vật, chẳng hạn như bản chất tự nhiên của
thế giới và v.v…
Do vậy,
chúng ta có thể nói rằng Phật quả tự nó là một hệ quả của những tư tưởng và cảm
xúc thích đáng. Trái lại, chúng ta có thể thấy kinh nghiệm bất giác (luân
hồi) như sản phẩm của những cung cách kinh nghiệm và thấy biết sự vật.
Theo Đạo
Phật, nền tảng gốc rể của sự hiện hữu bất giác được nói là vô minh si ám
(avidya). Đặc trưng chính của sự si mê ám tối này là một cung cách bóp
méo nhận thức thế giới và chính chúng ta. Gốc rể khổ đau của chúng ta và
sự kinh nghiệm bất giác căn cứ trên sự lệch lạc căn bản này. Một lần nữa,
tư tưởng và cảm xúc không thích đáng – những cung cách không thích đáng trong
việc thấy biết và trãi nghiệm sự vật – là nguồn gốc căn bản của khổ đau và bất
giác của chúng ta. Điểm chính trong sự phân tích cuối cùng là mối quan hệ
giữa những hình thức thích đáng của tư tưởng và cảm xúc với hạnh phúc và tự do
tâm linh, và những hình thức không thích đáng của tư tưởng và cảm xúc với khổ
đau và bất giác.
HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI
MUỐN TU THÌ PHẢI HỌC
PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN
TÌM HẠNH PHÚC Ở ĐÂU
THẬP ĐẠI NGUYỆN PHỔ HIỀN BỒ TÁT
ĐẠO PHẬT VÀ SỰ KHỔ ĐAU TRONG CUỘC SỐNG