Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 1)
Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
Mười điều tâm niệm trong "Luận Bảo Vương Tam Muội":
Điều 1 : Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc thần.
Điều 2 : Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát.
Điều 3 : Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm thú vị.
Điều
4 : Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma chướng, vì không ma chướng
thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma quân làm bạn đạo.
Điều 5 : Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú.
Điều 6 : Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ.
Điều
7 : Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý mình, vì được thuận
theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người chống đối làm nơi giao
du.
Điều 8 : Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ.
Điều 9 : Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa.
Điều 10 : Oan ức không cần biện bạch, vì biện bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh.
* * * *
Trên
thế gian này, cuộc sống đầy dẫy những sự bất trắc, bất như ý, con người
phải bon chen quanh năm suốt tháng để sống còn, phải tranh đấu một cách
vất vả để vươn lên, để vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, những
bước thăng trầm của thế sự. Con người thường mang tâm trạng hoang mang,
âu lo, sợ hãi khi hướng về tương lai, không biết rồi đây ngày mai mình
sẽ ra sao, cuộc đời của mình sẽ như thế nào, chuyện gì sẽ xảy ra cho
mình và người thân của mình? Cho nên con người thường mong muốn mọi
chuyện được bình yên, suông sẻ, may mắn, chuyện gì cũng đều tốt đẹp như
ý. Lòng mong muốn cao độ đó thường dẫn tới sự cầu nguyện, van xin Trời
Phật ban cho những điều mơ ước vượt tầm tay, tưởng chừng như ngoài khả
năng của con người.
Chúng
ta cần nên biết rằng: Đức Phật không phải là thần linh, không ban phước
giáng hoạ cho bất kỳ một ai. Cũng không có lý do nào Đức Phật ban
phước lành cho riêng mình, mà không ban cho người khác. Thực ra, đạo
Phật giảng dạy nhiều phương pháp hành trì, gọi là "vô lượng pháp môn", để
giúp con người tự lực, mạnh mẽ vượt lên trên mọi sóng gió phiền não,
khổ đau của cuộc đời, bước ra khỏi vòng trầm luân sanh tử, tự tạo cuộc
sống an lạc và hạnh phúc cho chính mình.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp". Nghĩa là chúng ta hãy tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của chúng ta, bằng cách học hiểu những lời dạy của Đức Phật, và đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, để thấy được sự mầu nhiệm của Chánh Pháp, để tự cứu mình và giúp đỡ người khác. Trong kinh sách của Phật giáo, những lời dạy quý báu có thể giúp đỡ chúng ta vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, vượt qua những bước thăng trầm của thế sự, được ghi chép khắp nơi, chẳng hạn như trong "Luận Bảo Vương Tam Muội", chúng ta có "Mười Điều Tâm Niệm" cần nên thường xuyên chiêm nghiệm, suy tư, nghĩ tưởng luôn luôn, để mỗi khi "bát phong" ập đến, nghĩa là sóng gió của cuộc đời dồn dập xảy ra, chúng ta có thể đối phó, ứng xử một cách dễ dàng hơn, không bị nhận chìm trong biển nước mắt của phiền não và khổ đau.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh Pháp". Nghĩa là chúng ta hãy tự thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ của chúng ta, bằng cách học hiểu những lời dạy của Đức Phật, và đem áp dụng trong cuộc sống hằng ngày, để thấy được sự mầu nhiệm của Chánh Pháp, để tự cứu mình và giúp đỡ người khác. Trong kinh sách của Phật giáo, những lời dạy quý báu có thể giúp đỡ chúng ta vượt qua những cơn sóng gió của cuộc đời, vượt qua những bước thăng trầm của thế sự, được ghi chép khắp nơi, chẳng hạn như trong "Luận Bảo Vương Tam Muội", chúng ta có "Mười Điều Tâm Niệm" cần nên thường xuyên chiêm nghiệm, suy tư, nghĩ tưởng luôn luôn, để mỗi khi "bát phong" ập đến, nghĩa là sóng gió của cuộc đời dồn dập xảy ra, chúng ta có thể đối phó, ứng xử một cách dễ dàng hơn, không bị nhận chìm trong biển nước mắt của phiền não và khổ đau.
*
Điều 1: Điều thứ nhứt trong "Mười
Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Nghĩ đến thân thể thì đừng cầu không bệnh
khổ, vì không bệnh khổ thì dục vọng dễ sanh. Hãy lấy bệnh khổ làm thuốc
thần". Tại sao vậy? Bởi vì khi nào con người còn mang tấm thân tứ
đại, thì còn đau khổ vì bệnh tật. Tấm thân tứ đại bao gồm các yếu tố
đất, nước, gió, lửa, thường xuyên chống trái nhau, gây đau đớn, khổ sở
cho con người. Người nào có phước nhiều thì ít bệnh. Người nào ít
phước, kém phước, bạc phước thì bệnh tật triền miên. Cho đến khi hết
duyên ở đời, con người phải ra đi, nhưng tấm thân tứ đại này thì để lại,
tan rã và trở về với tứ đại trong trời đất. Cát bụi lại trở về với cát
bụi, thế thôi! Người nào tạo phước nhiều thì ra đi dễ dàng, nhẹ nhàng,
êm thắm. Người nào tạo nghiệp nhiều thì ra đi khó khăn, hành hạ thân
xác, khổ lụy người thân…
Con người không ai mong cầu bệnh khổ, cho dù cầu mong không bệnh khổ, nhưng bệnh khổ vẫn cứ đến. Nếu không có bệnh khổ, con người khỏe mạnh thường sinh dục vọng khó kềm chế. Thỏa mãn những dục vọng này, con người gây thêm biết bao nhiêu là ác nghiệp, để rồi phải đền trả, cho nên phải lăn lộn trong biết bao nhiêu kiếp luân hồi sanh tử, bao giờ mới có thể dứt, có thể thoát ra được? Bởi vậy cho nên, Đức Phật dạy chúng ta đừng cầu không bệnh khổ, nên coi bệnh khổ như là món thuốc thần, là tiên dược để điều trị những dục vọng trong tâm thức của chúng ta. Dục vọng càng nhiều chừng nào, con người càng phiền não và khổ đau chừng ấy.
Đạo Phật là đạo cứu khổ nhân loại. Phật Pháp có công năng điều trị tâm bệnh của chúng sanh. Chúng sanh có muôn ngàn tâm bệnh thì Phật Pháp có tám muôn bốn ngàn pháp môn đối trị. Chẳng hạn như người hay tham lam, bỏn xẻn thì pháp đối trị là hạnh bố thí. Người nào hiểu được hạnh bố thí đem lại vô lượng vô biên phước báu và thực hành được hạnh bố thí hằng ngày thì tâm tham lam, bỏn sẻn sẽ giảm đi nhiều. Chẳng hạn như người hay nóng giận thì pháp đối trị là quán từ bi. Con người tăng trưởng tâm từ bi được thì những cơn nóng giận sẽ giảm đi rất nhiều. Cặp mắt của người có tâm từ bi, luôn luôn thương nhìn cuộc đời, cư xử nhẹ nhàng, dễ dãi với mọi người chung quanh, khó nổi cơn sân với những lỗi lầm, sai trái của người khác, không lợi dụng lòng từ bi của mọi người.
Các bậc phụ huynh cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể giữ gìn được hạnh phúc trong gia đình. Các nhà giáo cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương yêu, dạy dỗ học sinh như con ruột của chính mình. Các nhà tu cần có tâm từ bi quảng đại mới có thể thương xót chúng sanh đang trầm luân đau khổ, phát nguyện tu hành tinh tấn để tự độ và độ tha, sẵn sàng hy sinh, phục vụ nhân loại. Chẳng hạn như người hay cố chấp, sống để dạ chết mang theo những lời người khác nói mích lòng thì pháp đối trị là tâm hỷ xả. Người nào hiểu được rằng chứa chấp càng nhiều trong tâm thức của mình thì càng bị trầm luân trong sanh tử luân hồi, trong phiền não và khổ đau, chẳng ích lợi gì, bèn cố gắng phát triển tâm hỷ xả, tự khắc sẽ cảm thấy khinh an, nhẹ nhàng, mắt sẽ nhìn cuộc đời một cách lạc quan hơn, cuộc sống sẽ an lạc hơn.
*
Điều 2: Điều thứ hai trong
"Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Ở đời đừng cầu không hoạn nạn, vì không
hoạn nạn thì kiêu xa nổi dậy. Hãy lấy hoạn nạn làm giải thoát".
Tại sao vậy? Bởi vì van xin cầu khẩn thực sự có được gì đâu. Con người
kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp báo, cho nên cuộc sống
kiếp này mới gặp nhiều hoạn nạn, bất trắc, bất như ý. Muốn cuộc sống bớt
hoạn nạn, vui nhiều hơn khổ, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh,
làm phước tạo phước kiếm phước nhiều hơn, đừng làm người khác đau khổ,
dù bằng hành động, lời nói hay ngay cả trong ý nghĩ cũng vậy. Chúng ta
nên nhớ rằng: chỉ có phước báo mới có thể che chở chúng ta qua những cơn
hoạn nạn mà thôi. Không có Trời Phật nào cứu chúng ta khi gặp hoạn nạn
đâu. Cũng như chỉ có chiếc ghe mới có thể chở chúng ta qua sông mà
không bị thấm nước vậy.
Con người không ai cầu mong hoạn nạn, cho dù mong cầu không hoạn nạn, nhưng hoạn nạn vẫn cứ tới, nguyên do là chúng ta phải đền trả những nghiệp báo đã tạo từ trước, không ai có thể tránh khỏi. Những người nào sống ở trên đời không gặp hoạn nạn, làm việc gì cũng thành công dễ dàng, người đó thường sanh tâm kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, tiêu xài xa xỉ, khinh thường thế nhân, nghi kỵ mọi người, khiến mọi người xa lánh, không ai muốn gần gũi, thân cận, vì chẳng ích lợi gì. Khi gặp hoạn nạn, con người thường không còn tâm kiêu căng, vì kiêu căng thì gặp nạn, không còn xa hoa phung phí, tâm không còn duyên theo cảnh trần, không còn dễ nổi lòng tham lam, không còn dễ sân hận, không còn si mê lầm lẫn, bởi vì tham thì gặp nạn, sân thì gặp nạn, ngu thì gặp nạn. Nghĩa là hoạn nạn giúp cho con người sớm giải thoát khỏi những trói buộc của tham lam, sân hận, si mê, ngã mạn, nghi kỵ, chính là nghĩa đó vậy.
Hơn
nữa, trong cuộc sống phức tạp, nhiều khi gặp hoạn nạn này, có thể chúng
ta tránh được hoạn nạn khác lớn hơn. Thí dụ như có người vì thua bạc
nên mất vé tàu đi du lịch, cho nên thoát chết, vì chuyến tàu đó bị chìm
đắm ngoài biển khơi. Nghĩa là có khi trong hoạn nạn, chúng ta có thể tìm được sự may mắn, hay bài học, hoặc kinh nghiệm nào đó vậy. Không
có chuyện gì hoàn toàn xui xẻo, không có chuyện gì hoàn toàn may mắn
cả. Chẳng hạn như trúng số độc đắc có thể giúp chúng ta mua nhà, tậu xe,
làm ăn buôn bán, cũng có thể gây bất hòa trong gia đạo, làm cho gia
đình tan nát, hay trộm cướp viếng thăm, hoặc mừng quá… tắt thở luôn!
Chẳng hạn như tù tội gian khổ, đối với bậc thánh nhân phi phàm, là cơ
hội tốt nhứt để rèn luyện tâm tánh, để suy tư sáng tác những tác phẩm để
đời. Biết bao nhiêu bậc vĩ nhân, hiền triết trên thế giới, xuất thân từ
ngục tù. Đối với kẻ hèn yếu, hoạn nạn chính là địa ngục trần gian, nhận
chìm họ trong biển khổ đau, phiền não!
*
Điều 3: Điều thứ ba trong
"Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Cứu xét tâm tánh thì đừng cầu không khúc
mắc, vì không khúc mắc thì sở học không thấu đáo. Hãy lấy khúc mắc làm
thú vị". Tại sao vậy? Bởi vì tâm tánh của chúng ta, vì duyên theo
cảnh trần, cho nên không cố định, thường xuyên thay đổi. Gặp cảnh thuận
lòng vừa ý, tâm trạng của chúng ta vui tươi, hớn hở, hỷ hạ, hân hoan,
hài lòng. Gặp cảnh trái tai gai mắt, tâm trạng của chúng ta nổi sóng gió
ngay, nhẹ thì còn giữ được trong lòng, nặng thì phun ra miệng những cơn
bực dọc, tức tối. Gặp đối phương biết nhẫn nhịn, thì mọi việc còn có
thể êm xuôi, qua chuyện. Gặp phải người cứng cổ, cang cường, ngoan cố,
thì câu chuyện không biết sẽ kết thúc như thế nào? Có thể người đi nhà
thương hay vào nhà xác, còn người khác đi nhà tù.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Căn bản của sanh tử luân hồi là vọng tâm. Căn bản của bồ đề niết bàn là chơn tâm". Nghĩa là tâm tánh của chúng ta luôn luôn xao xuyến, loạn động, bất an, được gọi là "vọng tâm", tức là tâm vọng động vì duyên theo cảnh trần. Lúc tâm trạng buồn thảm, thê lương, thì chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh cũng chẳng có gì vui vẻ cả. Trái lại, khi trong lòng thấy vui, có niềm hoan hỷ, chúng ta cảm thấy cảnh vật chung quanh dường như đang chia xẻ niềm vui hân hoan đó với chúng ta. Chính vọng tâm là căn bản của sanh tử luân hồi. Tại sao vậy? Bởi vì vọng tâm lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc tốt lúc xấu, lúc nghĩ chuyện đông lúc nghĩ chuyện tây, lúc nghĩ chuyện hiện tại, lúc nghĩ chuyện quá khứ, vị lai, lúc vầy lúc khác, lúc có lúc không, lúc còn lúc mất, sanh diệt liên miên trong từng sát na, trong từng giây phút, ví như con ngựa chạy lung tung linh tinh lang tang khắp chốn, ví như con vượn chuyền từ cành cây này sang cành cây khác khắp nơi vậy.
"Vọng tâm" là động lực chính dẫn dắt chúng sanh tạo nghiệp trong vòng sanh tử luân hồi. Muốn tâm được an, mỗi khi vọng tâm khởi lên, chúng ta nhận biết ngay, dừng lại lập tức, đừng theo đuổi nó, thì được giải thoát khỏi những hệ lụy ưu phiền sau đó, phiền não và khổ đau sẽ không đến. Khi sống ở đời, tiếp xúc với mọi cảnh, mọi sự, mọi việc, vẫn sinh hoạt như bao nhiêu người khác, nhưng tâm vẫn như như, an định, không xao xuyến, không loạn động, tức là chúng ta đang sống trong cảnh giới niết bàn, an lạc, tịch diệt, nói cách khác, lúc đó chúng ta sống với "chơn tâm" đó vậy. Chơn tâm ví như mặt biển yên lặng, phẳng lờ, rộng rãi, bao la bát ngát. Vọng tâm ví như những ngọn sóng do gió thổi gây nên, gió nhẹ sóng nhỏ, gió mạnh sóng to. Sách có câu:
“Tâm buồn cảnh được vui sao,
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an”.
Tục ngữ cũng có câu: "Dò sông dò biển dễ dò. Đố ai lấy thước mà đo lòng người".
Nghĩa là tâm tánh của con người biến thiên không cùng, lòng dạ con
người còn khó dò hơn sông hơn biển, cho nên khi cứu xét tâm tánh, chúng
ta không thể nào tránh được những khúc mắc. Chúng ta đừng nản lòng vì
những khúc mắc đó. Bởi vì chính những khúc mắc đó giúp chúng ta thêm
nhiều thú vị, hăng hái hơn trên bước đường tu tâm dưỡng tánh, xả bỏ
những tạp niệm, vọng tâm, loạn tưởng. Chúng ta luôn luôn thúc liễm thân
tâm trong từng giây phút, đừng để vọng tâm dối gạt, nghĩ rằng mình tu đã
khá lắm rồi, đã hiền thiện lắm rồi, đã đạt được điều này điều nọ. Có
những lúc chúng ta làm những điều bất thiện, lợi mình hại người, kiện
thưa người khác, đòi bồi thường bạc triệu, đó là lòng tham lam. Chúng
ta đem bố thí hay cúng chùa vài chục bạc, vọng tâm dối gạt mình: thế là
xong, hết tội rồi! Trong thiền tông, chư Tổ dạy chúng ta phải "sống trong tỉnh thức", hay "sống trong chánh niệm", chính là nghĩa đó vậy.
*
Điều 4: Điều thứ tư trong "Mười
Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Xây dựng đạo hạnh thì đừng cầu không ma
chướng, vì không ma chướng thì chí nguyện không kiên cường. Hãy lấy ma
quân làm bạn đạo". Tại sao vậy? Bởi vì ma chướng ở đây có nghĩa là
những lời khen tiếng chê, là danh thơm hay tiếng xấu. Nếu chúng ta có
thể coi những người khen chê như những người giúp đỡ chúng ta trên bước
đường tu tập, rèn luyện tâm tánh, thì chính họ là bạn đạo, là thiện hữu
tri thức, là Bồ-tát nghịch hạnh, là giám khảo trên đường đạo của chúng
ta vậy. Bởi vì ma chướng ở đây cũng có nghĩa là những sóng gió của cuộc
đời, những chuyện phiền não khổ đau, những chuyện thị phi phải quấy,
những chuyện bất trắc bất như ý, những chuyện lăng xăng lộn xộn hằng
ngày. Thông suốt được như vậy, chí nguyện của chúng ta mới kiên cường,
không thoái chuyển, khi gặp lời khen hay tiếng chê, danh thơm hay
tiếng xấu, khi gặp bát phong của cuộc đời, và tâm trí của chúng ta mới
không bị dao động.
Chúng
ta không ai mong cầu ma chướng, cho dù cầu mong không ma chướng, nhưng
ma chướng vẫn cứ tới đều đều. Trên đời này có thiếu gì những kẻ luôn
luôn dòm ngó người khác, để vạch lá tìm sâu, để bới lông tìm vết, trong
khi bản thân họ thì đủ thứ thói hư tật xấu. Trong Kinh Pháp Bảo Đàn, Lục
Tổ Huệ Năng có dạy: "Khi lên tiếng phê bình lỗi của người khác, thì lỗi của mình đã ở ngay bên chân rồi đó vậy". Tuy
nhiên, dù ma chướng có tới thường xuyên cỡ nào, nếu biết tu tâm dưỡng
tánh, chúng ta cũng có thể chấp nhận được, chịu đựng được, coi đó như là
những thử thách cần thiết để nhắc nhở chúng ta rèn luyện tâm tánh,
chuyển hóa cuộc sống từ phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc. Sách
có câu: "Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả. Anh hùng hào kiệt có hơn ai",
chính là nghĩa đó vậy.
*
Điều 5: Điều thứ năm trong "Mười
Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Việc làm đừng mong dễ thành, vì việc dễ thành
thì lòng khinh thường kiêu ngạo. Hãy lấy khó khăn làm thích thú".
Tại sao vậy? Bởi vì việc làm nào càng khó khăn, càng gian khổ bao
nhiêu, mà chúng ta có thể vượt qua, đạt được thành công, thắng lợi, thì
việc làm đó càng vinh quang, hiển hách bấy nhiêu. Chẳng hạn như bài
toán càng khó khăn bao nhiêu, khi giải được, tìm được kết quả, càng
thích thú bấy nhiêu. Việc làm nào dễ thành chỉ là những việc làm tầm
thường, không có giá trị cao, hoặc người thực hiện có thừa khả năng, cho
nên dễ sanh ra khinh thường mọi việc, kiêu ngạo, coi trời bằng nắp
vung.
Ở
trên thế gian có nhiều việc rất khó khăn, ít người thành đạt, chẳng hạn
như thi đậu bằng cấp này, bằng cấp kia, tìm ra món thuốc điều trị mới,
phát minh ra máy móc hiện đại, tối tân, sáng chế ra cách thức làm việc
khoa học hơn, đem lại năng suất cao hơn. Các bậc anh hùng cứu quốc, có
thể đem lại độc lập, tự do, no ấm cho một dân tộc, không phải ai ai cũng
có thể làm được một cách dễ dàng. Trên phương diện xuất thế gian, việc
tu tâm dưỡng tánh cũng vậy, nếu ai ai tu tập sơ sài, cũng có thể thành
Phật được, thì quả vị Phật đâu còn giá trị bao nhiêu. Một vị Phật ra
đời đem lại phước báu, ích lợi cho biết bao nhiêu chúng sanh, trong biết
bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp, không thể nghĩ bàn.
Điều 6: Điều thứ sáu trong "Mười
Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Giao tiếp thì đừng cầu lợi mình, vì lợi mình
thì mất đạo nghĩa. Hãy lấy kẻ tệ bạc làm người giúp đỡ". Tại sao
vậy? Bởi vì những mối lợi, dù nhỏ dù lớn, trên thế gian, cũng đều là
những mục tiêu tranh giành, chiếm đoạt của bao nhiêu người. Người đời
thường không ngại dùng đủ mọi thủ đoạn, để tranh danh đoạt lợi, cho nên
bất chấp đạo nghĩa, luân lý, tình thương, quan hệ. Con người sẵn sàng
thượng đội hạ đạp, chà đạp mọi người chung quanh, chỉ vì chút danh lợi
nhỏ nhoi. Danh lợi ở đời ví như những miếng mồi câu cá. Cá nhỏ tới ăn
miếng mồi liền bị cá lớn đớp gọn. Cá lớn đớp cá nhỏ xong, thì bị lưới
lên ghe ngay tức thì…
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy: "Khi tới ngã ba đường, nếu thấy cái cây đầy trái chín mọng, không ai hái ăn, thì nên hiểu rằng đó là trái độc".
Nghĩa là ở đời không có mối lợi lớn nhỏ nào dành sẵn cho mình hưởng,
hay người khác đem dâng tặng mình, mà không có cái bẫy rập độc hại bên
trong, bên dưới, hay phía sau, chờ đợi người tham lam, mê muội, thiếu
suy nghĩ. Người đời thường thả con tép để bắt con tôm. Người nào tham
lợi lớn, ham lời nhiều, thường hay bị lợi dụng, bị sập bẫy một cách dễ
dàng, ví như cá thường hay cắn câu vậy. Cũng như những người không cố
gắng tu tâm dưỡng tánh, không chịu học hiểu Chánh Pháp, không làm lợi
ích gì cho chúng sanh, cho đạo pháp, chỉ tham danh lợi, thích sự sung
sướng, thì quả báo, nghiệp báo tới liền sau đó.
Trong
phạm vi gia đình, nếu vợ chồng con cái giao tiếp với nhau hằng ngày mà
không biết thương yêu nhau, không biết nghĩ đến nhau, không biết hy sinh
cho nhau, người nào cũng chỉ nghĩ đến quyền lợi riêng mình, chỉ nghĩ
đến sự sung sướng bản thân, thì còn gì là đạo nghĩa vợ chồng, còn gì là
tình cha con, còn gì là mẫu tử tình thâm, còn gì gọi là hạnh phúc gia
đình?
Trong phạm vi xã hội, trong lúc giao thiệp tiếp xúc hằng ngày, người nào chỉ nghĩ đến, chỉ mong cầu lợi mình, bất chấp hại người, người đó làm sao sống hòa thuận, yên ổn, vui vẻ với những người chung quanh? Người quá ích kỷ như vậy làm sao kết bạn được với ai, làm sao sống cuộc đời hạnh phúc? Hạnh phúc thực sự chỉ có với những người biết hai chữ "hy sinh" mà thôi. Trong cuộc đời, những kẻ ích kỷ, tệ bạc, chỉ biết lợi mình, bất chấp hại người, chẳng kể nhân tình, chẳng màng đạo nghĩa, nhiều không biết bao nhiêu mà kể cho xiết. Nhưng chính những người như vậy lại là kẻ giúp đỡ người biết tu tâm dưỡng tánh, để rèn luyện tâm tánh của mình.
Có gặp những kẻ tệ bạc như vậy mà tâm trí của chúng ta vẫn như như, bất động, bình tĩnh, thản nhiên, mới biết được công phu tu tập của mình đến đâu. Nếu tất cả mọi người đều tốt, đều hiền thiện, đều biết đạo nghĩa, thì chúng ta đâu biết tâm mình ra sao? Bởi vậy cho nên, người nào thực sự muốn phát tâm tu học, thì ngay cuộc đời này, ngay cõi ta-bà ngũ trược ác thế này, chính là trường tu tốt nhứt vậy, không cần phải đợi vãng sanh Tây phương cực lạc mới chịu bắt đầu tu. Tại sao vậy? Bởi vì cõi Tây phương cực lạc, như Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy trong Kinh A Di Đà, là nơi chỉ toàn bậc Thánh nhơn, chư thượng thiện nhơn câu hội, đâu cần phải tu làm gì nữa, đâu có chỗ chứa hạng phàm phu không chịu tu.
*
Điều 7: Điều thứ bảy trong "Mười
Điều Tâm Niệm" dạy rằng:"Với người thì đừng mong tất cả thuận theo ý
mình, vì được thuận theo ý mình thì lòng tất kiêu căng. Hãy lấy người
chống đối làm nơi giao du". Tại sao vậy? Bởi vì sách có câu "năm người mười ý", đâu
ai có ý kiến giống ai, mỗi người thường có ít nhứt hai ý kiến trong
cùng một vấn đề, nay vầy mai khác, thì làm sao bắt buộc người khác phải
thuận theo ý mình? Tại sao mình lại không thuận theo ý người khác? Con
người vì sự cố chấp, chấp chặt như vậy cho nên phiền não và khổ đau dài
dài!
Trong
gia đình, nếu người chồng hay người vợ cố chấp, bảo thủ ý kiến của
riêng mình, thì làm sao gia đình đó có hạnh phúc được? Cái gì của mình
cũng đúng, cũng hay, cũng nhứt cả, thì làm sao chịu nghe ý kiến của
người khác? Cha mẹ và con cái thuộc hai thế hệ khác nhau, thì tức nhiên ý
kiến, suy nghĩ, hoàn cảnh, môi trường sinh hoạt, tất cả đều khác nhau,
không thể khai trừ nhau, cho nên phải tùy thuận nhau mà sống, mới có
được hạnh phúc trong gia đình. Trong thập đại nguyện của Bồ Tát Phổ
Hiền, điều thứ chín dạy: "Hằng thuận chúng sanh",
chính là nghĩa đó vậy. Tuy nhiên, tùy thuận chúng sanh không có nghĩa
là một người trong gia đình có lòng tham lam, xúi giục cả gia đình tham
lam theo, bất chấp thủ đoạn, lợi mình hại người.
Trong phạm vi xuất thế gian, người tu theo pháp môn này chê bai pháp môn khác cũng đều không đúng. Tại sao vậy? Bởi vì đạo Phật có nhiều pháp môn tương ứng, thích hợp, tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích của mỗi người, để mọi người đều có thể tu tập được. Chúng ta không nên nghĩ mọi người phải tu như mình, hành như mình, mới là đúng. Ý nghĩ như vậy, tư tưởng như vậy chỉ làm cho chúng ta càng ngày càng trở nên kiêu căng, phách lối, ngạo mạn, chê người, khinh đời. Trái lại, chúng ta nên giao du với những người chống đối, trái ý, để luôn luôn suy xét, hoàn chỉnh ý kiến của mình, chuyển hóa tâm tánh của mình, để học hỏi thêm cái hay cái tốt của họ. Nhờ có những người nghịch ý, chống đối như vậy chúng ta bớt lòng kiêu căng. Ví như chiếc xe có máy móc để chạy, cũng cần có cái thắng mới hữu dụng vậy. Nếu không có cái thắng, chắc chắn có ngày cũng lọt xuống hố mà thôi.
*
Điều 8: Điều thứ tám trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thi ân đừng cầu đền đáp, vì cầu đền đáp là thi ân có ý mưu đồ. Hãy coi thi ân như đôi dép bỏ".
Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta thi ân, làm ơn vì lòng tốt, chứ không
phải vì muốn được cám ơn, nhớ ơn hay đền ơn. Làm ơn mà muốn được cám
ơn, muốn được nhớ ơn, nghĩa là con người còn bản ngã, còn vì danh tiếng
mới chịu làm. Làm ơn mà muốn được đền ơn, nghĩa là con người còn bản
ngã, còn vì lợi lộc mới chịu làm. Làm ơn như vậy chẳng có phước báu gì,
chẳng được người khác mang ơn, mà còn chuốc lấy oán hờn, thù ghét, chuốc
lấy ưu phiền, bực tức, khi gặp mặt kẻ vô ơn, bạc nghĩa. Làm ơn như vậy
rõ ràng là có mưu đồ, làm ơn thì ít, mà muốn được đền ơn gấp bội phần.
Chẳng hạn như khi đến phúng điếu, giúp đỡ tang quyến người khác chẳng
bao nhiêu, lại muốn được "trả công bội hậu" ở nước thiên đàng, thì quả là tham lam quá xá.
Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy: "Thi ân, bố thí bất trụ tướng, phước đức bất khả tư lượng". Nghĩa là chúng ta làm ơn bố thí, nhưng không chấp mình là người ban ơn làm phước, không thấy có người thọ nhận việc phước mình làm, không nhớ mình làm phước giúp đỡ điều gì, không tính mình giúp đỡ bao nhiêu người. Được như vậy, chúng ta sẽ ăn ngon ngủ yên, tâm trí không bất an vì những chuyện phước đã làm, vì gặp những người vô ơn, không tiếc nuối những vật đã đem cho, không ân hận đã giúp đỡ lầm người.
Làm ơn có nghĩa là làm phước, tạo phước bòn phước, cứu đời giúp người, khi cần thiết, lúc hoạn nạn, chỉ vì lòng tốt, vì tâm lượng từ bi, vì muốn chuyển hóa tâm tánh của chính mình, thì như vậy mới có thể làm ơn được lâu dài, giúp được nhiều người, nhiều lần và phước báu vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Sách có câu: "Thi ân bất cầu báo đáp", chính là nghĩa đó vậy. Hàng phục được tâm ý, chuyển hóa được tánh tình như vậy, chúng ta mới có thể phát nguyện độ tất cả chúng sanh, mà không thấy có chúng sanh nào được độ. Cho nên Đức Phật dạy hãy coi thi ân như đôi dép bỏ, làm ơn làm phước xong rồi thì quên ngay đi, bỏ qua liền, đừng ghi nhớ trong tâm thức cho thêm phần nặng nề. Được như vậy, chúng ta mau tiến đến chỗ giác ngộ và giải thoát.
*
Điều 9: Điều thứ chín trong "Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Thấy lợi đừng nhúng vào, vì nhúng vào thì si mê phải động. Hãy lấy sự xả lợi làm vinh hoa".
Tại sao vậy? Bởi vì lợi lộc trên đời thường do tranh đấu, giành giựt,
bon chen, bất chấp mọi thủ đoạn, bất chấp nhơn nghĩa, bất chấp đạo lý,
mới có được. Lợi lộc không từ trên trời rơi xuống, không ở dưới đất trồi
lên. Khi thấy có lợi lộc, cả khối người nhào vô, sẵn sàng chà đạp, gạt
gẫm, loại trừ, giết hại lẫn nhau để chiếm đoạt cho bằng được.
Nhiều
khi lợi lộc quá lớn lao, có thể khiến cho con người đánh mất lương tri,
sẵn sàng thanh toán người thân lẫn kẻ thù, chỉ nhằm đoạt được mục tiêu
mà thôi. Chẳng hạn như một thái tử âm mưu sát hại phụ hoàng để chiếm
ngai vàng, con cái giết hại cha mẹ để đoạt gia tài, bạn bè cáo gian để
hại nhau, chiếm đoạt tài sản, vợ con người khác. Con người vì ham lợi
lộc cho nên chuyện gì cũng dám làm, coi lợi lộc như vinh hoa phú quí cần
phải có trên thế gian, để ngẩng mặt nhìn đời cho có oai phong ngon
lành. Chính vì thế tâm si mê phải động, sai khiến con người làm tất cả
mọi chuyện để thỏa mãn lòng tham lam của mình. Con người khi thấy lợi
lộc liền nhúng tay vào, mà chẳng cần biết hậu quả ra sao? Đó chính là
tâm si mê vậy.
Các
sòng bạc được mở ra khắp nơi, chính là những cái bẩy khổng lồ nuốt tiền
của những người nhẹ dạ ham vui tham tiền, hình như ai ai cũng biết vậy,
nhưng có rất nhiều người nuôi tham vọng là mối lợi to lớn ở các sòng
bạc đó, biết đâu may mắn đến với mình, cho nên mạnh mẽ nhào vô … lãnh
đủ. Có nhiều người tán gia bại sản, nợ nần tứ tung, nhưng vẫn không
chừa, vẫn không không biết sợ. Tục ngữ có câu: "Cờ bạc là bác thằng bần. Cửa nhà bán hết nợ nần tứ tung". Có
cửa nhà để bán trả nợ là còn có phước đó. Người nào muốn tu tâm dưỡng
tánh thì phải xả bỏ tâm tham lợi, tâm si mê, phải biết sống cuộc đời
thiểu dục tri túc, ít muốn và biết thế nào là đủ, tâm mới được khinh an,
thơi thới, nhẹ nhàng, cuộc sống mới được an lạc, cuộc đời mới được hạnh
phúc.
Trong Kinh Di Giáo, Đức Phật có dạy:
Tri túc chi nhơn tuy ngọa địa thượng du vi an lạc.
Bất tri túc giả thân xử thiên đường diệc bất xứng ý.
Nghĩa
là người biết thế nào là đủ, không tham lợi lộc, thấy lợi lộc không
nhúng tay vào, tuy nằm trên đất nhưng vẫn thấy an lạc hạnh phúc, bình
yên vui vẻ. Chỉ cần "biết" đủ, thì đã quá đủ rồi. Trái lại, người nào
không "biết", thì không bao giờ thấy đủ, tấm thân tuy được ở trên thiên
đường, tiền rừng bạc biển, giàu sang sung sướng, nhưng tâm ý vẫn chưa
thỏa mãn, cố gắng kiếm cho thiệt là nhiều tiền vẫn chưa chịu thôi, chưa
chịu ngưng, chưa chịu an hưởng tuổi già gần đất xa trời. Sách cũng có câu:
Tri túc tiện túc đãi túc hà thời túc.
Tri nhàn tiện nhàn đãi nhàn hà thời nhàn.
Nghĩa là "biết"
thế nào là đủ, tức thời được đầy đủ ngay lập tức, không cần phải đợi
đến lúc có thiệt nhiều tiền mới thấy đủ. Bao nhiêu mới gọi là nhiều đối
với người không biết đủ? "Biết" thế nào là nhàn, tức thời được nhàn nhã ngay lập tức, không cần phải đợi đến già, hay lúc nào hết. Nói tóm gọn là "biết" đủ thì đủ, "biết" nhàn thì nhàn. Không "biết" thì cực khổ tấm thân vậy thôi.
Điều 10: Điều thứ mười trong
"Mười Điều Tâm Niệm" dạy rằng: "Oan ức không cần biện bạch, vì biện
bạch là nhân ngã chưa xả. Hãy lấy oan ức làm cửa ngõ đạo hạnh". Tại
sao vậy? Bởi vì con người kiếp trước tạo ít phước báo, gây nhiều nghiệp
báo, cho nên kiếp này mới gặp nhiều điều oan ức. Cho nên khi gặp chuyện
oan ức, không cần phải than trời trách đất gì cả. Muốn cuộc sống bớt
những điều oan ức trái ngang, con người cần tích cực tu tâm dưỡng tánh,
cần cố gắng làm phước nhiều hơn, cố tránh đừng gieo tiếng oán, đừng loan
truyền tin đồn, đừng vu oan giá họa, đừng làm đau khổ cho người khác,
dù cho đó là kẻ thù của mình, kẻ mình không ưa cũng vậy.
Người
nào nói xấu mình, mình bèn tìm đủ cách nói xấu lại, cho bỏ ghét. Người
nào hại mình, mình bèn tìm đủ cách hại lại nặng hơn, cho đáng đời.
Người nào không chịu giúp mình, không tốt với mình, mình bèn tìm đủ mọi
cách trả thù, cho hả giận, rỉ tai biêu riếu, vu khống cáo gian, vu oan
giá họa, kiện cáo tụng đình, cho chúng chết luôn, cho chúng mạt luôn,
khỏi ngóc lên nổi. Mình cho rằng người ta xấu xa, người ta ác độc, người
ta bất chính, người ta bất lương, người ta bất thiện, người ta bất
nhơn, người ta ác đức, người ta dã man, mà mình cũng làm y như vậy, chỉ
khoác danh nghĩa "trả thù", thì mình có khác gì người ta đâu? Phản ứng y
chang những điều người đời làm cho mình thực là dễ dàng.
Còn như nhịn được mới thực là khó khăn vô cùng. Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không còn chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn chấp người tạo đau khổ cho mình, tức là chúng ta đã thấu rõ và hành được "giáo lý vô ngã" của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là "Ta", nên không có gì là "của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình tĩnh, thản nhiên. Được như vậy, oan ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.
Còn như nhịn được mới thực là khó khăn vô cùng. Nhịn được như vậy chứng tỏ chúng ta không còn chấp mình nhận chịu khổ đau, không còn chấp người tạo đau khổ cho mình, tức là chúng ta đã thấu rõ và hành được "giáo lý vô ngã" của đạo Phật. Trong giáo lý vô ngã của đạo Phật, không có cái gì là "Ta", nên không có gì là "của Ta". Đó chính là triết lý cao thượng vô cùng mà chúng ta cần phải nghiên cứu, tìm hiểu cho thấu đáo, để khi gặp chuyện oan ức trên thế gian này, chúng ta vẫn giữ được tâm trí bình tĩnh, thản nhiên. Được như vậy, oan ức chính là cửa ngõ tiến vào con đường đạo hạnh.
Người nào có nhiều "tự ái",
thường cho rằng ta đây là nhứt, cái gì của mình cũng đứng nhứt, cái gì
liên quan đến mình cũng nhứt, chấp nhứt từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ
nhặt, chẳng bao giờ chịu nghe lời khuyên, thường thấy lỗi lầm của người
khác, không bao giờ cho là mình có lỗi gì cả, bất cứ chuyện gì xảy ra
cũng tìm đủ mọi cách, viện đủ lý lẽ, đổ lỗi người này, đổ thừa người
kia, tại thế này, bị thế khác, chứ không bao giờ tại mình, bởi mình, do
mình mà chuyện sai trái xảy ra cả! Người như vậy chính là người có "tâm chấp ngã" quá cao. Cho
nên người đó vẫn còn luẩn quẩn trong vòng sanh tử luân hồi.
Tại sao vậy? Bởi vì những người như vậy rất nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời. Một lời nói vô tình, một ý kiến trái nghịch, một việc làm không vừa ý, một cử chỉ vụng về của người khác, tất cả đều có thể khiến cho những người như vậy nổi sân, bực tức, khó chịu, gây gổ, phê phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt thị, hơn thua, sống để dạ, chết mang theo. Nghĩa là vọng tâm của họ khởi lên đều đều mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây. Những người như vậy thường xuyên sống trong tâm trạng bất an, vọng động, thậm chí đau khổ nhiều thứ, nhiều mặt bởi vì kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều phiền não.
Tại sao vậy? Bởi vì những người như vậy rất nhạy cảm, phản ứng nhanh lẹ, khi tiếp xúc với cảnh trần đời. Một lời nói vô tình, một ý kiến trái nghịch, một việc làm không vừa ý, một cử chỉ vụng về của người khác, tất cả đều có thể khiến cho những người như vậy nổi sân, bực tức, khó chịu, gây gổ, phê phán, bình phẩm, chỉ trích, miệt thị, hơn thua, sống để dạ, chết mang theo. Nghĩa là vọng tâm của họ khởi lên đều đều mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây. Những người như vậy thường xuyên sống trong tâm trạng bất an, vọng động, thậm chí đau khổ nhiều thứ, nhiều mặt bởi vì kho tàng tâm thức chứa nhóm quá nhiều phiền não.
Tóm
lại, chúng ta nên biết rằng ngoài biển khơi lúc nào cũng có gió thổi,
tùy theo gió nhẹ thì sóng nhỏ, gió to thì sóng cả. Tâm của chúng ta ví
như mặt biển cả, tùy theo "bát phong" của thế gian thổi đến, chẳng hạn
như lúc thịnh lúc suy, lúc khen lúc chê, lúc danh dự, lúc tủi nhục, lúc
sung sướng lúc đau khổ, đối với người không biết tu tâm dưỡng tánh
thường để cho lòng nổi sóng, chìm đắm trong vui mừng tột độ, hay đau khổ
triền miên. Còn đối với người quyết tâm tu tập thì cố gắng giữ gìn tâm
ý bất động, bất loạn, như như, bình tĩnh, thản nhiên trước mọi phong ba
của cuộc đời. Được như vậy, chắc chắn đời sống an lạc, hạnh phúc, tâm
linh giác ngộ, giải thoát. Đó là cảnh giới niết bàn, tịch diệt, chính
là mục đích cứu kính của đạo Phật.
Chư Tổ có dạy:
"Nếu chấp nhận trở ngại thì lại thông suốt,
mà mong cầu thông suốt thì sẽ bị trở ngại".
Chúng
ta đừng cầu không bệnh khổ, đừng cầu không hoạn nạn, đừng cầu không
khúc mắc, đừng cầu không bị ma chướng, đừng cầu lợi cho mình, đừng cầu
tất cả đều thuận theo ý mình, đừng cầu được báo đáp, đừng cầu không bị
oan ức. Tại sao vậy? Bởi vì cầu nguyện thực sự có được gì đâu, chỉ làm
cho tâm trí chúng ta thêm rối loạn khi gặp nghịch cảnh, bất trắc mà
thôi. Chúng ta hãy cùng suy gẫm câu chuyện sau đây: Có một bà lão đến
gặp Thiền sư Triệu Châu thưa hỏi, cầu nguyện cách nào có thể giúp bà,
kiếp này chuyển được phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, kiếp sau
được lên thiên đàng, không đọa địa ngục? Thiền sư Triệu Châu dạy bà
khấn nguyện như thế này: Tôi nguyện đời đời kiếp kiếp chấp nhận sống
trong đau khổ, chấp nhận địa ngục, còn an lạc hạnh phúc và cõi thiên
đàng xin dành cho người khác…
Ngày nay, người tu học theo đạo Phật nên dấn thân trong mọi sự trở ngại, không quản khó khăn, không sợ trắc trở. Cho nên trở ngại, khó khăn, trắc trở không thể cản được bước đường tiến tu, không làm cho chúng ta chán nản, sờn lòng, muốn xa lánh cõi đời, mong cầu về cõi cực lạc sung sướng cho dễ tu hơn. Chánh Pháp chí thượng nhờ vậy mới được sáng tỏ. Chúng ta cần tích cực tu tâm dưỡng tánh, mở mang trí tuệ bát nhã, "chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhứt thiết khổ ách". Nghĩa là khi thấy được, hiểu được, "biết" được một cách rõ ràng tấm thân tứ đại, ngũ uẩn này là không thực, là giả tạm, nay còn mai mất, muốn duy trì, giữ gìn mãi mãi cũng không được, muốn trẻ mãi không già cũng chẳng được, muốn khỏe mãi không đau cũng chẳng được, "biết" được như vậy, hiểu được như vậy, thấy được như vậy, thì khổ ách nào mà chẳng qua.
Nếu chúng ta thực sự thấy
được tất cả các pháp trên thế gian này đều không thực, không tự tánh,
không cố định, không tồn tại vĩnh viễn, thì khi đó chúng ta đủ khả năng
vượt qua mọi sóng gió của cuộc đời, vượt qua tất cả mọi khổ ách, đáo bỉ
ngạn, đến được bờ giác ngộ và giải thoát vậy.
BỘ SÁCH "CƯ TRẦN LẠC ĐẠO" TẬP 1,2,3.
MỤC LỤC TRỌN 3 TẬP
http://phtq-canada.blogspot.com/2011/04/bo-sach-cu-tran-lac-ao.html
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
10.9.2013
THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
Thời
gian qua thật nhanh, một lần nữa “Xuân Lạnh” lại về trên đất nước Canada “Đất lạnh
nhưng tình nồng ấm”. Một chút gió nhẹ, một chút lạnh lạnh của mùa xuân cùng màu
trắng tuyệt đẹp của hoa tuyết, người con Phật mọi nơi quên lạnh, quên đi những bận
rộn suốt một năm qua, tạm quên những phiền hận toan tính, hân hoan tụ tập về
chùa, hy vọng tìm lại sự ấm áp tình đồng đạo, hay tìm kiếm một chút hương vị an
lạc giải thoát của thiền môn.
Có
những người trong đạo Phật theo truyền thống chỉ đến chùa vào những dịp đầu năm
mới, cầu phước cho mình và gia đình đầu năm đến suốt năm bình yên, mong cầu tài
cầu lộc dồi dào hoặc đền ơn Phật Tổ Bồ Tát đã giúp gặt hái nhiều may mắn trong
năm qua. Cũng có Phật tử đến chùa rất nhiều lần trong năm, thường được xem như
là những “Phật tử thuận thành” vẫn muốn cầu nguyện và đền ơn. Có vị vì thích công
quả nấu cơm, quét dọn, cắm hoa, biết tụng kinh và bái sám rất rành. .. Cho dù
cái nhân duyên về chùa có khác nhau, nhưng thiện pháp như tụng kinh, niệm Phật,
ngồi thiền, chay tịnh hay nghe thuyết pháp trong dịp đầu năm mới cũng đều là một
duyên lành cần siêng năng hành trì.
CẢM
NHẬN ĐƯỢC TÂM Ý TRONG KINH
Mục
đích và cứu cách của đạo Phật là con đường thoát ra khổ nạn, Đức Phật mà chúng
ta lễ lạy là Bậc Nhất Thiết Trí ( trí tuệ cao tột nhất),như vậy duyên lành về
chùa ngoài việc cầu phước còn phải thưa hỏi tìm hiểu giáo lý phương cách phá trừ
vô minh, mồi ngọn đuốc trí tuệ từ những lời Phật dạy, thấm mhuần tâm ý câu
kinh. Là người con Phật công phu thuần thành tụng đọc khàn tiếng, lạy kinh đến
thân xác rã rời mệt mõi, như vậy thật xứng đáng được người thế gian ngưỡng mộ
kính phục. Nhưng ý thức mơ màng sự tự
tôn trong hào quang giả tạo, thực tế thì muốn chạy trốn hoàn cảnh, chạy trốn
phiền não, né tránh tội lỗi bản thân, khi đó con người thật sự khó hiểu và cảm
nhận thấu suốt được tâm kinh, ý nghĩa kinh Phật dạy gì?..Thì tụng kinh hành trì
chỉ là sự vay mượn của bản ngã, dễ phát sinh ra nhiều căn bịnh tự hào hơn thua,
so sánh, khen mình chê người đưa người tu nhìn ra bên ngoài nhiều hơn là tự soi
rọi vào trong nội tâm. Khi nào thấy rõ con người thật của chính mình xấu tốt ra
sao, phát tâm sám hối chuyển đổi hướng thiện là đã có được ánh sáng trí tuệ. Hạnh
phúc và bình an thật sự chỉ hiện hữu khi nhận ra những khổ đau, phiền não, giả
danh, nhân ngã thị phi đều không có thật.
Trong
kinh Pháp Bảo Đàn một vị Tăng hiệu Pháp Đạt khi đến lễ Lục Tổ khoe: “ Tôi đã tụng
Kinh Pháp Hoa đến ba ngàn bộ rồi”. Lục Tổ bèn nói kệ dạy rằng:
Lạy vốn
phá tự kiêu,
Đầu sao
không sát đất,
Hữu ngã tội
liền sanh,
Quên công
phước thật lớn.
Người tên
là Pháp Đạt,
Siêng tụng
hoài không dứt,
Tụng không
theo âm thinh,
Minh tâm mới
gọi Phật,
Ngươi nay
bởi có duyên,
Ta mới nói
chân Pháp,
Tin chắc
Phật không lời,
Liên hoa
không do miệng.
Tâm mê
Pháp Hoa chuyển
Tâm ngộ
chuyển Pháp Hoa,
Tụng lâu
không rõ ý,
Kinh nghĩa
ấy thù ta.
Tăng
Pháp Đạt nghe kệ xong, liền ăn năng sám hối: “Đệ tử tụng Kinh nhưng chưa hiểu
được nghĩa lý của Kinh, chỉ tụng theo văn tự, tâm thường cao mạn cũng có chỗ
nghi chưa thấu rõ, từ nay xin giữ hạnh khiêm tốn. Kính xin Ngài thương xót lượt
giải nghĩa lý trong Kinh”. (Kinh Pháp Bảo
Đàn)
Thông thường khi nhìn ngắm một bức tranh, đa
số chỉ thấy được cái đẹp cái xinh tươi của cây cảnh, hoa lá hoặc màu sắc rực rỡ
một cách phiến diện hời hợt, ít ai cảm nhận hay động tâm hiểu được ý nghĩa mà
người họa sĩ muốn gởi gắm vào trong tranh. Cũng vậy khi lễ Phật, tụng kinh người
Phật tử có quan niệm tụng kinh phải thuộc lòng, tụng kinh một ngày phải hai thời,
ba thời hoặc công phu lạy Phật từng câu từng chữ trong kinh, cầu nguyện thì phải
thành tâm … thì mới đúng là nhà tu chân chánh kính Phật trọng Pháp. Sau thời tụng
kinh bái sám, xếp quyển kinh lại ngay ngắn, đem lên cất vào kệ, xem như thời
kinh hoàn mãn. Điều này không sai, nhưng chưa đủ vì chỉ nhận được sự bình an tạm
thời, có một ít thiện phước, tâm ý là lời phật dạy chưa cảm nhận được, chưa thấy
rõ mục đích cứu cánh và chân lý đạo Phật.
Lắng
tâm suy ngẫm hay làm thử con toán tính sổ trong cuộc đời tu hành chúng ta đi về
chùa tụng kinh tất cả là bao nhiêu lần, bao nhiêu phẩm, bao nhiêu bộ kinh rồi
hoặc đã thuộc nằm lòng rất nhiều bộ kinh Phật, lạy quá nhiều lần hầu như không còn tính được nữa?! Đa số người gặp cảnh bất như ý, đi tìm quên
trong thú vui thế tục, người có đạo tâm tìm nguồn an ủi nơi cảnh chùa. Nhưng nội
tâm vẫn còn bị tổn thương vì những hạt giống khổ đau phiền não chưa thấy được
phương cách để loại trừ nó. Ai cũng có tánh giác, nhưng do chúng ta mãi hướng
ngoại tìm cầu suốt cuộc đời, nên các vị Tổ thường nhắc nhở rằng: “Như người vác Phật tìm Phật, người cỡi
trâu tìm trâu”. Mãi mãi quẩn quanh trong vòng luân hồi sanh tử.
Dù tụng
nhiều kinh điển
Không thực
hành buông lung
Như trẻ đếm
bò người
Không hưởng
quả đạo hạnh.
(Kinh Pháp
Cú)
Nếu
không tư duy suy ngẫm hiểu thấu đáo lời Phật dạy trong từng câu kinh tụng đọc hằng
ngày, thì sự tụng kinh phút chốc thành vô dụng, thời tụng kinh trở thành ép xác
trả nợ Phật, trả nợ thế gian không ích lợi gì cho mình cả, chư Tổ thường quở
trách rằng: “Tu như vậy là đang tìm sừng
thỏ hay lông rùa”. Cho đến khi bỏ lại xác thân phàm tục cũng khó mà thấy Phật.
Như vậy ánh sáng từ câu kinh Phật ở chổ nào? Thật sự khó mà thấy được. Nhưng nếu
như vậy cảm thấy đủ để an lạc vài phút giây ngắn ngủi thì “có thể” xem như hoàn
mãn một thời tụng kinh.
Phật pháp
tại thế gian,
Mê ngộ có
chậm mau,
Bôn ba qua
một kiếp,
Người lỗi
ta không lỗi,
Bỏ đời đi
tìm thánh,
Sừng thỏ
kiếm sao ra.
ÁNH
SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT
Đức
Phật dạy: “Cổ xe trắng tinh đẹp nhất có thể ví như Niết Bàn. Các con tuấn mã ví
như tin tấn và trí tuệ. Biết hổ thẹn và sợ tội lỗi ví như cái thắng. Nhẫn nại
và từ bi giống như áo giáp. Thiền định và nguyện lực ví như bánh xe. Cuối cùng
quả vị giải thoát là màu trắng tinh khiết của chiếc xe đẹp nhất, vết bẩn không
còn tồn tại vì được người phu xe siêng năng, chuyên cần giữ gìn sạch sẽ”. (Kinh
Tạp A Hàm)
Dù
tụng kinh một lần, hai lần hay hằng trăm lần, nhưng duyên sự đến chùa vì cầu khẩn,
vì tìm kiếm danh lợi mà không mong cầu tu học hay giác ngộ, thì chỉ phí đi thời
gian của một đời người, sẽ không thấy được ý nghĩa thâm sâu trong lời kinh Phật.
Nhưng nếu chuyển tâm phàm phu ích kỷ trở thành một hành giả trên đường đi tìm
giác ngộ, quyết tâm mong thoát vòng sanh tử luân hồi, một người con Phật đúng
nghĩa, buộc chúng ta phải biết dụng tâm và năng lực để thấy được ánh sáng trí tuệ từ câu kinh Phật. Đó là cả một kho báu của
người cha trưởng giả để lại cho người
con cùng tử (trong kinh Pháp Hoa) có
quyền thừa hưởng, chìa khóa kho báu vô giá trong tay mà không bước thêm bước nữa
để mở cánh cửa trí tuệ bát nhã, con đường duy nhất đưa đến giải thoát.
Đức
Phật là bậc đạo sư, kinh là những lời Phật dạy, Ngài chỉ cho con đường vượt ra
khỏi khu rừng vô minh tối tăm đầy cạm bẩy, hành giả là người phải tự bước đi bằng
chính đôi chân của mình. Sai lầm nặng nề nhất là ngồi chờ kỳ nhân, mong cầu
phép lạ. Ngài cũng là vị lương y đại tài có thể chữa được hằng ngàn tâm bịnh
cho chúng sanh và để lại hằng vạn toa thuốc trị bịnh, chúng sanh cần phải uống
và thực hành theo lời dặn, chứ không chỉ tụng đọc mà có thể khỏi bịnh được. Lợi
ích của Kinh Phật đưa con người từ phàm phu mê mờ ích kỷ giật mình tỉnh giấc, ý
thức được từ đâu sanh ra thế gian nầy, chết đi về đâu? Giải đáp mọi nghiệp
duyên xảy ra trước mắt, từ đó người tu chánh tín tự chuyển mình, tự toàn thiện
chính bản thân thì mới mong thấy con đường đạo.
Sống
trong đời không lúc nào cũng có thãm đỏ trải dưới chân cho chúng ta bước đi dễ
dàng. Mà con người phải tự lo cho bản thân có đôi giày an toàn vững chắc và trí
tuệ chân chánh sáng suốt, để có thể chống nổi với nghịch cảnh và vượt qua chông
gai. Cũng vậy, người Phật tử dù xuất gia hay tại gia đừng tự dễ dãi với chính
mình, đừng để danh lợi lôi kéo vào con đường mù mịt tối tăm không lối thoát. Niềm
tin chánh tín vào lời dạy chư Phật chư Tổ đã chứng đạo và luôn luôn chánh niệm
dùng công phu “phản quan tự kỷ” dám nhìn lại chính bản thân mình, là cơ hội để
có thể tự khắc phục chuyển đổi phiền não của vọng tâm nguyên nhân gây ra tội lỗi,
thấy được thực tế rất chân thật “ta là
ai? tốt xấu như thế nào?” để biết mà tu.
Tuy tụng
ngàn chương cú
Không hiểu
nghĩa ích gì
Đâu bằng
hiểu một câu
Nghe xong
liền ngộ đạo.
(Kinh Pháp
Cú)
Ánh sáng từ câu kinh từ những lời Phật dạy là trí tuệ, nếu
không người tu dễ rơi vào tà tín và cũng không thể hướng dẫn người khác theo
đúng chánh pháp. Một số ngôi Già-lam biến thành chỗ buôn Thần bán Thánh, xin
xăm bói quẻ, cũng do người tu không có chánh kiến và chánh tín. Nơi ấy, Đức
Phật bị người đời biến thành thần linh ra oai tác phúc, đạo Phật mất đi ý nghĩa
của một đạo giác ngộ giải thoát. Cho nên, phước đức và trí tuệ được xem như hai
cánh của một con chim, muốn bay xa, bay cao, chim phải có đầy đủ hai cánh mạnh
mẽ, tràn đầy sinh lực.
Tóm
lại, người tu thường hay có tâm phân biệt cao thấp, tốt xấu, thiện ác, thánh
phàm…mà sanh phiền não, đạo phật không phải là thần quyền hay độc quyền vì vậy
giác ngộ giải thoát cũng không dành riêng cho một vị nào cả, đạo đi vào đời bằng
sự bình đẳng tuyệt đối và sự chân thật vốn có từ vô thủy của mọi người, nhờ ánh
sáng từ những lời Kinh mà tự tu, tự cứu, tự lực, tự giác mà thành chánh quả. Nhưng cao cả đáng kính hơn hết của sự
giải thoát hoàn toàn viên mãn là “Ngoài chẳng nhận là phàm thánh, trong không
trụ tự mãn, không chấp phước đức hay công đức”. Khi đó trong đạo tràng lúc tụng
Kinh chắc không còn phiền não vì người thỉnh chuông không đúng lúc? Người dẫn
mõ quá nhanh? Người ngồi kế bên thì giọng đọc quá lớn!!...chỉ là những chuyện
không đáng để bận lòng.
Một câu chuyện để suy nghẫm:
Ngày kia có một người Cha già vì duyên sự phải đi xa nhà
một thời gian khá lâu. Trước khi ra đi Ông để lại cho hai người con 3 bức thư
thật dài và đầy đủ, tất cả là những lời căn dặn dạy dỗ làm thế nào để sống an
lành vui vẽ hạnh phúc với nhau khi không có Cha ở bên cạnh.
Người con thứ
nhất, rất
kính trọng Cha vội dán 3 bức thư lên tường, mỗi ngày đều tụng đọc đến thuộc nằm
lòng, tốt hơn thế nữa anh còn siêng năng đọc một chữ, lạy một lạy, lập lại
nhiều lần rất thành tâm.
Người con thứ
hai, chậm
rãi đọc lá thư và suy tư vận dụng sự thông minh sẳn có để tìm hiểu tâm ý của
Cha muốn dạy những gì. Sau đó anh hiểu được ý nghĩa của 3 lá thư và một mực
nghiêm túc thực hành tất cả lời Cha căn dặn dạy bảo. Bằng sự bình đẳng, lòng
bao dung, dẹp tan cố chấp đầy phiền não của lòng tham sân si, chuyển tâm phục
vụ lo lắng chăm sóc cho tất cả mọi người, buông bỏ bản ngã và sự ích kỷ cá
nhân. Vì người không vì mình. Tạo được an lạc hạnh phúc trong đời sống như
những gì Cha già mong mõi.
Qua
câu chuyện trên, lòng kính hiếu với Cha Lành như Đức Phật, chúng ta tụng kinh,
niệm Phật, ngồi thiền, còn phải học hiểu tâm ý lời dạy Chư Phật, Chư Tổ giảng dạy
được ghi chép lại trong Kinh. Thực hành chánh niệm tỉnh giác, thanh tịnh tâm, trí
tuệ sáng tỏ thấy được việc làm có ý nghĩa, hành trì tùy thuộc vào Tâm hay vào
Tướng.
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
VP.PHTQ.CANADA đang chuẩn bị nội dung Tập san PHTQ.24 (Tết Nguyên Đán Giáp Ngọ 2014)
Văn-Phòng Phật-Học Tịnh-Quang Canada
ấn tống và phát hành miễn phí Tập san Từ Bi & Trí Tuệ,
3 số mỗi năm, vào các dịp sau:
ấn tống và phát hành miễn phí Tập san Từ Bi & Trí Tuệ,
3 số mỗi năm, vào các dịp sau:
Tết Nguyên Đán,
Đại Lễ Phật Đản,
Đại Lễ Vu Lan.
Tập san được
phát hành hoàn toàn miễn phí (FREE) tại Toronto, Montréal, Hamilton,
Brampton, Misissauga, Vancouver, Vaughan (Canada) và New York,
Sterling, Houston, Anaheim, Seattle, Tucson, Katy, Garland, Stafford,
Annandale, Lawrenceville, Arlington, San Jose, Evansville, Grand
Junction, Lake Wood, Wichita, Wilmington, Watauga (USA) Adelaide,
Brisbane, Canberra, Darwin, Perth, Melbourne, Sydney (Australia) Paris
(France) Augsburg, Lunen (Germany) Georges Henri (Bruxelles).
Quí vị thiện hữu, phát tâm góp bài, đóng góp ý kiến, khởi tâm bảo trợ, hùn phước ấn tống,
cúng dường tịnh tài, tùy duyên thỉnh sách, qua thư
bưu điện, xin gửi cước phí $20/quyển,
hoan hỷ liên lạc:
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ,
108
- 123 Railroad St., Brampton, ON, L6X-1G9. Canada.
Tel: 647-828-1016.
Email: cutranlacdao@yahoo.com
Trân trọng
thông báo,
Ban Biên-Tập
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
Trong
Kinh Pháp Cú,
Đức Phật có dạy:
Hãy tự thắp đuốc,
tự mình bước đi.
Thắp sáng trí tuệ,
ngọn đuốc chánh pháp.
Đức Phật có dạy:
Hãy tự thắp đuốc,
tự mình bước đi.
Thắp sáng trí tuệ,
ngọn đuốc chánh pháp.
Điều
đó nghĩa là:
để dẹp trừ dứt,
sinh hoạt mê tín,
hiện tượng dị đoan,
không đúng Chánh Pháp,
những người Phật Tử,
chân chánh phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
cầu mong giác ngộ,
chánh đạo giải thoát,
sanh tử luân hồi,
đều cần học hiểu,
thực hành Chánh Pháp,
ngay trong đời sống,
ngay tại thế gian,
tất cả mọi người,
có thể làm được.
để dẹp trừ dứt,
sinh hoạt mê tín,
hiện tượng dị đoan,
không đúng Chánh Pháp,
những người Phật Tử,
chân chánh phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
cầu mong giác ngộ,
chánh đạo giải thoát,
sanh tử luân hồi,
đều cần học hiểu,
thực hành Chánh Pháp,
ngay trong đời sống,
ngay tại thế gian,
tất cả mọi người,
có thể làm được.
Chánh
Pháp tại thế gian,
không phải do trời ban,
chính mình phải cầu học,
để có thể áp dụng,
trong đời sống hằng ngày,
chứ không phải là những,
pho kinh điển để thờ,
không thể học hiểu được.
không phải do trời ban,
chính mình phải cầu học,
để có thể áp dụng,
trong đời sống hằng ngày,
chứ không phải là những,
pho kinh điển để thờ,
không thể học hiểu được.
Đức
Phật thị hiện,
thế giới ta bà,
giảng kinh thuyết pháp,
giúp đỡ chúng sanh,
thoát ly sanh tử,
phiền não khổ đau.
Tại sao chúng ta,
lại không tìm học,
để đặng áp dụng,
vào trong cuộc sống?
thế giới ta bà,
giảng kinh thuyết pháp,
giúp đỡ chúng sanh,
thoát ly sanh tử,
phiền não khổ đau.
Tại sao chúng ta,
lại không tìm học,
để đặng áp dụng,
vào trong cuộc sống?
***************
Trong
các kinh sách,
chư Tổ có dạy:
Tu mà không học,
đúng là tu mù.
Học mà không tu,
đúng là tủ sách.
chư Tổ có dạy:
Tu mà không học,
đúng là tu mù.
Học mà không tu,
đúng là tủ sách.
Người
không phát nguyện,
tu tâm dưỡng tánh,
dĩ nhiên gặp nhiều,
phiền não khổ đau,
mỗi khi nghịch cảnh,
xảy đến thình lình.
Người đã phát tâm,
tu mà không học,
không hiểu Chánh Pháp,
chỉ thực hành suông,
những điều truyền miệng,
người trước làm sao,
người sau làm vậy,
làm sao tránh được,
những điều mê tín,
những chuyện dị đoan,
tam sao thất bổn,
xa rời Chánh Pháp,
gọi là tu mù.
tu tâm dưỡng tánh,
dĩ nhiên gặp nhiều,
phiền não khổ đau,
mỗi khi nghịch cảnh,
xảy đến thình lình.
Người đã phát tâm,
tu mà không học,
không hiểu Chánh Pháp,
chỉ thực hành suông,
những điều truyền miệng,
người trước làm sao,
người sau làm vậy,
làm sao tránh được,
những điều mê tín,
những chuyện dị đoan,
tam sao thất bổn,
xa rời Chánh Pháp,
gọi là tu mù.
***********************
Tam tạng kinh điển,
là do chư Phật,
chư vị Tổ sư,
truyền lại nhiều đời,
há chẳng ích lợi,
gì cả hay sao?
Nếu cứ đọc tụng,
mà vẫn không hiểu,
có thể tìm kiếm,
các vị chân tu,
các bậc tôn đức,
thực học giáo lý,
để xin nương tựa,
để xin chỉ dạy.
BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG
Tam tạng kinh điển,
là do chư Phật,
chư vị Tổ sư,
truyền lại nhiều đời,
há chẳng ích lợi,
gì cả hay sao?
Nếu cứ đọc tụng,
mà vẫn không hiểu,
có thể tìm kiếm,
các vị chân tu,
các bậc tôn đức,
thực học giáo lý,
để xin nương tựa,
để xin chỉ dạy.
BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG
HẠNH PHÚC HAY KHỔ ĐAU ĐỀU DO MÌNH TẠO
LẤY
Khi
buồn khổ hay bất an một điều gì, chúng ta hay đổ thừa vì hoa hồng có
gai, nhưng khi vui vẻ hay hạnh phúc chúng ta lại thấy hoan hỉ vì trên cành
gai kia xuất hiện một đóa hoa hồng. Thế gian này khổ hay vui tùy thuộc rất
nhiều từ sự nhận thức của mọi người.
Chúng
ta muốn thưởng thức những đóa hồng đẹp thì phải chấp nhận thân gai góc của nó.
Hoa hồng mềm mại, thơm tho và đẹp đẽ nên ai cũng thích ngắm nhìn, thưởng thức
hương vị ngọt ngào của nó nhưng trên thân hoa lại có nhiều gai góc. Nếu muốn
thưởng thức sự tinh khiết của hoa thì ta phải chấp nhận thân gai góc. Cũng vậy,
thân ta vô thường bại hoại nên mới bị sự chi phối của già-bệnh-chết, nhưng ngay
nơi thân này có tính biết sáng suốt; nương nơi mắt thì thấy biết rõ ràng không
lầm lẫn, thấy chỉ là thấy, thấy tức biết; nương nơi tai thì nghe thấu mọi âm
thanh sai biệt của muôn loài vật nên nghe chỉ là nghe; mũi-lưỡi-thân-ý cũng lại
như thế.
Người
lạc quan luôn nhìn đời với các vì sao lấp lánh nằm trên bầu trời quang đãng,
sáng trong. Chính vì vậy họ thấy thế giới luôn tươi vui, xinh đẹp như những đóa
hoa hồng. Người bi quan thì thấy thế giới là cả một bầu trời đen tối chỉ toàn
khổ đau nên thấy rất nhiều hầm hố, chông gai. Với người biết sống một cách thực
tế thì thấu rõ chân lý của cuộc đời nên thấy thế giới không hoàn toàn tươi vui,
xinh đẹp như hoa hồng mà cũng chẳng hoàn toàn nhiều gai góc.
Trong
cuộc sống những ai có hiểu biết chân chính và nhận thức sáng suốt thì không đam
mê, say đắm bởi cái đẹp của hoa hồng. Họ nhìn thấy hoa hồng chỉ là hoa hồng và
vẫn biết rõ trong hoa hồng phải có chất liệu của gai nên luôn cẩn thận để khỏi
bị gai làm đau nhức.
Hoa
hồng tượng trưng cho bốn hoàn cảnh thuận lợi trong cuộc sống như được lợi lộc,
được khen ngợi, được tán thán và được vui vẻ hạnh phúc. Gai góc thì được ví như
bốn sự không hài lòng, vừa ý trong cuộc sống như bị mất mát, bị chê bai, bị hủy
nhục và bị khổ đau. Đã làm người trong cuộc sống tất cả chúng ta đều phải trực
diện với các hoàn cảnh ấy dù ít hay nhiều trong dòng đời nghiệt ngã này. Ai có
đủ khả năng, ý chí, nghị lực, trí tuệ và sự sáng suốt thì sẽ vượt qua cạm bẫy
cuộc đời bằng cách tin sâu nhân quả, siêng làm các việc thiện, không làm việc
xấu ác.
HIỂU BIẾT CHÂN CHÍNH SẼ GIÚP TA SỐNG
HẠNH PHÚC HƠN
Cuộc
sống của chúng ta khi có mặt trên cõi đời này là phải ăn với uống để bảo tồn
mạng sống, lớn lên rồi lấy vợ, lấy chồng để phát triển giống nòi nhân loại. Từ
đó sinh chấp ngã và muốn chiếm hữu để bảo vệ gia đình mình, đất nước mình,
người có quyền cao chức trọng nếu không tin sâu nhân quả sẽ tham nhũng làm lãng
phí, gây thiệt hại trầm trọng tài sản của chung.
Có
khi nào trong cuộc sống với bộn bề công việc, ta biết dừng lại để tự hỏi chính
mình sinh ra đời để làm gì? Chắc chắn ai cũng nói rằng để lập gia đình, sinh
con đẻ cái nối dõi tông đường? Để gầy dựng sự nghiệp tương lai cho bản thân và
gia đình? Từ quan niệm đó chúng ta chạy theo tiền tài, danh lợi, địa vị, tình
yêu, sắc đẹp, của cải, và ăn sung mặc sướng!
Thật
chất ta lớn lên lấy vợ lấy chồng không phải để thỏa mãn tình cảm nhục dục hay
lấp vá khoảng trống cô đơn, mà là để học sự thương yêu trong hiểu biết và biết
cách hòa hợp của hai trái tim, khi sống chung với nhau trong một mái ấm gia
đình.
SƯU TẦM
BƯỚC SEN THỨ 7-QUẢ VỊ PHẬT
TỪ BI (HT THÍCH THANHTỪ)
Y NGHĨA BẤT Y NGỮ
THẾ NÀO LÀ ÁI NGỮ
Ý NGHĨA CÚNG HOA, HƯƠNG, ĐÈN
HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI
MUỐN TU THÌ PHẢI HỌC