Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
Trong các buổi lễ, Chư Tôn Đức cầu nguyện gì?
Trong các buổi lễ, Chư Phật Tử cầu nguyện gì?
Nghi
lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo. Phật giáo dù không coi
trọng, nhưng nghi lễ vẫn chi phối phần lớn các sinh hoạt Phật sự, đôi
khi còn là hoạt động chính của một ngôi chùa, để đáp ứng nhu cầu của
quần chúng và nhu cầu hoằng pháp.
Đối
với cá nhân, khi lâm vào hoàn cảnh bức bách, khổ đau, bất trắc, bất như
ý, con người thường cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, tìm sự bình yên
trong tâm hồn qua cầu nguyện.
Lời
cầu nguyện này chỉ giúp tâm trí được bình yên tạm thời. Nếu con người
có học hiểu giáo lý của đạo Phật, thâm hiểu luật nhân quả, biết rằng:
mọi chuyện gì xảy đến cho mình, đều do chính mình đã tạo nghiệp nhân
trước đây, giờ phải nhận nghiệp quả, nghiệp báo (gọi chung là quả báo).
Việc may mắn đến, mình biết ngay rằng: đó là phước báo, do việc thiện lành chính mình đã làm.
Việc không may xảy đến, mình biết ngay rằng: đó là quả báo, do việc bất thiện chính mình đã làm.
Theo chánh pháp, nên biết rằng: chỉ có phước báo mới làm giảm bớt hay tiêu trừ quả báo mà thôi!
Cầu
nguyện cho tai qua nạn khỏi, mà không tu nhân tích phước, không tu tâm
dưỡng tánh, không dừng các nghiệp bất thiện, phỏng có được gì ?
Thí
dụ chúng ta lỡ mượn nợ tiêu xài rồi (tạo nghiệp), bây giờ phải đền trả
(gặp xui xẻo), chỉ có cách lấy tiền tiết kiệm (phước báo). Không có tiền
tiết kiệm thì phải cầu nguyện trúng số để trả nợ chăng ?!
Người
có phước báo nhiều, dù gặp tai nạn lớn lao như rớt máy bay, động đất,
vẫn sống sót, gọi là số may mắn quá. Người có phước báo ít hơn, phải
chịu thương tích hay xây xát chút đỉnh, gọi là còn hên quá. Người không
có phước báo thì lãnh đủ quả báo.
Thời
đức Phật còn tại thế, khi chư vị thánh tăng phải đền trả các nghiệp báo
cuối cùng, đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú, như sau:
Dù lánh lên non núi,
xuống biển hay vào hang
khi nghiệp báo đã mang
không ai tránh thoát khỏi.
Theo quan niệm Phật giáo, cầu nguyện không phải là van xin đức Phật, Bồ tát, thần thánh, hay năng lực linh thiêng huyền bí nào cả.
Cầu nguyện là tập trung tâm trí, nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trở nên thanh tịnh.
Cầu nguyện là một cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người.
Cầu nguyện vì thế chính là phương
pháp quán chiếu, nhìn lại con người thật của mình, quan sát tâm tình,
trừ khử tà kiến mê tín, khát vọng phàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu
đuối.
Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp thiền định, quán chiếu tự tâm.
- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.
- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, phi chánh pháp, không từ bi & trí tuệ.
- Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có. Không tu hành cầu vãng sanh. Không học hành cầu đỗ đạt. Các bên thù nghịch cầu nguyện đối phương biến mất. Trái đất chỉ còn thú vật, đất đá, cây cỏ! Thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp là như vậy đó!
- Trong chiến tranh thế giới 1 và 2, hai phe lâm chiến đều làm lễ cầu nguyện long trọng, xin Thượng đế giúp phe mình chiến thắng đối phương. Thượng đế bèn nghe theo lời cầu nguyện này, nên hai phe đều tả tơi thê thảm. Đó là thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!
- Đạo Phật trải qua nhiều năm tháng truyền bá xuyên qua nhiều quốc độ, nên mang cái vỏ mê tín của tôn giáo, và lập ra nhiều nghi thức, lễ hội, để tiếp cận với quảng đại quần chúng đang sống trong vô minh. Giáo lý đạo Phật rất siêu việt, nhiệm mầu khi áp dụng trong đời sống, không buộc ai phải thờ lạy, cúng kiến đức Phật với tâm cầu khẩn van xin, vòi vĩnh như đứa bé thơ.
Trái lại, đức Phật dạy: Tôn thờ Như Lai mà không hiểu Như Lai, chính là phỉ báng Như Lai vậy.
- Ngày nay, người theo đạo Phật, tu sĩ cũng như cư sĩ, nhân danh phát huy tín tâm của Phật tử, bày ra đủ thứ nghi lễ rườm rà, phức tạp, tạo vẻ linh thiêng huyền bí, giải thích hiện tượng thiên nhiên phi chánh pháp, đem kinh sách chữ nghĩa hù dọa những người ít hiểu biết, không thuyết giảng chánh pháp, lại tuyên truyền tà pháp.
Chẳng hạn như: người ngồi xe lăn, chỉ nhờ tín tâm với tượng Phật ngọc mà phục hồi, đi đứng bình thường!
- Tóm lại, người Phật tử dù tại gia hay xuất gia, có chút phước báu, có chút trí tuệ, ngoài tín tâm ban đầu qua các hình thức lễ hội, sinh hoạt Phật giáo, nên phát tâm tìm hiểu cốt tủy của lời Phật dạy, hướng tín tâm đến chỗ chánh tín. Không nên tiếp tục để các tà sư - mang hình tướng xuất gia hay tại gia - hướng dẫn tín tâm ban đầu đến chỗ mê tín.
Từ mê tín đến cuồng tín, chỉ cách một sợi tơ !
Mong lắm thay ! ! !
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ Nhiệm VP.PHTQ.CANADA
Quan-điểm của Phật-Học Tịnh-Quang Canada:
Các
tôn giáo, tuy qua các hình thức lễ nghi phức tạp để phổ cập vào đại đa số quần
chúng, đều có giá trị cao sâu. Người tin theo tôn giáo đó - dù là tu sĩ cấp cao
- cũng chưa chắc đã hiểu rõ, nắm vững và thực hành trọn vẹn, huống là người
theo tôn giáo khác.
Điều
gì tôn giáo này công nhận, địa phương này chấp nhận, dân tộc này tuân theo;
nhưng các tôn giáo khác không công nhận, các địa phương khác không chấp nhận,
các dân tộc khác không tuân theo, đều chưa phải là chân lý tối thượng.
Chân
lý tối thượng phải vượt lên trên tất cả các tôn giáo - kể cả Phật giáo - vượt
lên trên tâm cố chấp của con người, chính là phương pháp mang lại sự bình an
hiện tại trong tâm tư của cá nhân, hạnh phúc hiện tại trong gia đình và sự hòa
bình hiện tại trong nhân loại.
Chân
lý tối thượng đó phải được mọi người công nhận, không phân biệt màu da, sắc
tộc, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, xuất xứ hay địa phương.
Do đó,
VP. Phật-Học Tịnh-Quang Canada chủ trương:
Trong
sự bàn cãi, tranh luận, chỉ nên xét việc - không xét người, chỉ nên góp ý về
một vấn đề nào đó - không xét cá nhân, tác giả; và hoan nghênh, tiếp nhận các
bài viết, tài liệu nhằm mục đích đem lại sự bình an cho cá nhân, hạnh phúc cho
đời sống gia đình và hòa bình trong cộng đồng người Việt và nhân loại.
Phật-Học
Tịnh-Quang Canada không chấp nhận các bài viết có tính cách gây chia rẽ, tạo
hiềm khích, khiến bất an trong các diễn đàn, dù phát xuất bất cứ từ đâu.
NỘI DUNG:
- Tuyên dương
chánh pháp, giải thích chân lý tối thượng không phân biệt tôn giáo, kể cà Phật giáo (còn hình
thức tôn giáo là còn mê tín).
- Tìm
hiểu đời sống an lạc & hạnh phúc trong ánh sáng từ bi & trí tuệ.
- Bài trừ
mê tín lẫn lộn trong Phật giáo chẳng hạn như: dâng sớ cầu an, tiền mất tật
mang, cúng sao giải hạn, tai nạn vẫn tới, niệm chú 108 biến vào chai nước, vào
cát mạn đà la, úm ba la trị tà ma, trị bá bệnh, xem ngày tang lễ, xem tuổi tang
chủ, cho bùa làm ăn, nhất bổn vạn lợi, gọi người trở về, hóa giải tai kiếp, soi
căn xem tướng.
Ban Biên-Tập
VP. PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
PHTQ SỐ 25
SỨC MẠNH CỦA LỜI NÓI
THÔNG BÁO
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG 25 ĐẠI LỄ PHẬT ĐẢN 2014
Kính thưa Quí vị độc giả,
Chư Tôn Đức Ban Biên Tập
PHTQ trân trọng cảm niệm công đức và phước đức của Quí vị phát tâm bảo
trợ và giới thiệu tập san.
Hơn 2600 năm trước
đây, trước khi Đức Phật ra đời, có rất nhiều tín ngưỡng chủ trương tôn thờ các
giáo chủ với mơ ước sẽ được sanh về cõi thiên đàng sau khi mãn kiếp đời này.
Sau khi Đức Phật diệt, cho đến ngày nay, thêm nhiều tôn giáo xuất hiện cũng chủ
trương như trên.
Duy chỉ có đạo Phật,
việc thờ lạy cúng kiến chỉ là hình thức giúp cho việc tu tập, hành đạo được dễ
dàng hơn. Tôn tượng chư Phật và chư Bồ Tát chỉ có giá trị giúp cho các buổi lễ
được trang nghiêm và hướng dẫn người phát tâm vào đạo chú trọng việc tu tâm dưỡng
tánh.
Không làm các việc ác, việc bất thiện. Năng làm các việc thiện lành, giúp
đời cứu người. Và luôn luôn giữ tâm ý thanh tịnh. Giá trị thực sự trong
đạo Phật chính là giáo pháp, tức là những lời dạy của chư Phật, chư Bồ
Tát và chư Tổ sư ghi trong các kinh điển và sự tinh tấn hành trì giới pháp.
Do đó, người nào muốn
có đời sống an lạc và hạnh phúc, nhứt định phải học hiểu và hành trì
chánh pháp ngay trong đời sống thực tế hàng ngày. Tiếp theo, người đó sẽ đạt được
giác ngộ và giải thoát khỏi phiền não và khổ đau.
Sự cầu nguyện chỉ giúp
con người an tâm tạm thời trong cơn khổ đau không sao tránh khỏi. Việc tu tập,
thực hành chánh pháp thực sự sẽ giúp con người an nhiên tự tại, mặc dù
cuộc đời vẫn đầy sóng gió, phong ba. []
Tâm
nguyện của PHTQ là
tạo thiện duyên, hiểu rằng Phật Pháp tại thế gian, được an lạc hạnh phúc, giác
ngộ chân lý, giải thoát khổ đau. Điều nào tôn giáo này công nhận, các tôn giáo
khác không công nhận, chưa phải là chân lý. Chân lý tối thượng vượt qua
các nghi lễ, các hình thức của tôn giáo, nhất là vượt qua tâm cố chấp, giúp con
người sống đời an nhiên tự tại.
Văn-Phòng Phật-Học Tịnh-Quang Canada ấn tống và phát hành miễn phí Tập
san Từ Bi & Trí Tuệ, 3 số mỗi năm, vào các dịp sau:
Tết Nguyên Đán,
Đại Lễ Phật Đản,
Đại Lễ Vu Lan.
Kính mong Quí vị độc
giả khắp nơi phát tâm gieo duyên với Tam Bảo, tùy tâm tùy hỷ, tùy duyên phát
nguyện, bảo trợ phương tiện hoằng pháp này, như là một nhân duyên bố thí pháp,
phước đức và công đức, tự lợi và lợi tha, tự độ và độ tha.
Sự
đóng góp này dù số tịnh tài bao nhiêu, nhưng với tấm lòng vị tha rộng
rãi, thì phước báu sẽ rất lớn, bao la, vô lượng vô biên. Ví như chỉ với
một nhân hạt cam gieo trên mảnh đất từ thiện thì kết quả thu được biết
bao nhiêu trái cam ngon ngọt sau này.
Đó chính là phước
báo vậy. Con người
tai qua nạn khỏi, chính là nhờ phước báo này, không phải nhờ phép lạ.
Quí
vị phát tâm bảo trợ, hùn phước ấn tống, xin ghi chi phiếu trả cho PHAT HOC TINH
QUANG và gửi về địa chỉ:
Phật-Học Tịnh-Quang
108
- 123 Railroad St.
Brampton, ON, L6X-1G9
CANADA
Ngưỡng
nguyện thập phương thường trụ Tam Bảo thùy từ chứng minh công đức này và gia hộ
quí vị độc giả cùng bửu quyến thân tâm an lạc, trí tuệ khai minh và cư trần lạc
đạo.
MỤC LỤC TẬP SAN PHTQ SỐ 25
1. Bộ Sách Cư Trần Lạc Đạo
2. Trang Mục Lục
3. Thư Ngỏ của Ban Biên
Tập
5. Tu theo Phật không phải
là mê tín
7. Người Trí Luôn Biết
Rõ 8 Điều
9. Thích-Thanh-Từ - Pháp
Tu Căn Bản
17. Ý Nghĩa Phật Ðản
20. Giác Ngộ & Giải
Thoát điều gì
22. Người Ăn Mày
24. Các câu hỏi liên
quan Phật Ðản
31. Lời Hiền Triết
32. Thích-Thanh-Từ - Phật
giáo độ sanh
38. Nên Nhớ Hay Quên -
Cư trần lạc đạo
40. Lương Tâm & Phật
Tâm
60. & 61. Làng Dưỡng
Lão ONTARIO
62. T.N Chân-Liễu - Bước
Sen Thứ Bảy
66. Chuyện người Samurai
67. Đâu là chánh pháp -
Đâu là tà pháp
68. Hòn Ðá Ném Ði
69. Ý nghĩa nghi lễ tắm
Phật &Chân Lý
71. Thích-Thanh-Từ Kinh
Pháp Bảo Đàn
73. Thích-Chân-Tuệ Biết
Mình Có Phước
76. Tu tại gia. tu chợ,
tu chùa
77. Lời Di Huấn cuối
cùng của Phật
82. Giác Ngộ và Giải
Thoát
86. Mọi việc trên đời
này đều tùy duyên
88. Bí quyết của hạnh
phúc
94. Ý Nghĩa Đản Sanh
& Biết Buông Bỏ
102. Thích-Trí-Tịnh -
Giáo pháp của Phật
109. PHẬT TÂM PHẬT TƯỚNG
113. Nghiệp thiện ác khi
lâm chung
118. Trang Tri Ân Ban Bảo
Trợ PHTQ 25
TK THÍCH CHÂN TUỆ
Thả một hòn
sỏi vào trong nước:
trong phút
chốc bạn lãng quên.
Nhưng có
những gợn sóng nhỏ xoay tròn,
hòa vào con
sóng lớn.
Bạn đã xáo
động một đại dương hùng vĩ
chỉ bằng
một hòn sỏi mà thôi
Thả một lời
nói không tốt, không cẩn trọng:
trong phút
chốc bay đi.
Nhưng để
lại vô vàn gợn sóng lăn tăn xoay tròn, lan tỏa
Và không có cách nào lấy lại - một khi bạn đã nói
ra.
Thả một lời
nói không tốt: trong phút chốc bạn lãng quên.
Nhưng có
những gợn sóng nhỏ xoay tròn mãi
Có thể bạn
đã làm ứa một dòng nước mắt
trên con
tim buồn.
Bạn đã xáo
động một cuộc đời hạnh phúc
chỉ vì
những lời nói kia.
Thả một lời
nói vui vẻ và tốt bụng:
chỉ trong
giây lát chúng bay đi.
Nhưng để
lại vô vàn gợn sóng lăn tăn, xoay tròn mãi.
Mang hy
vọng, niềm vui, an ủi trong mỗi con sóng xô bờ.
Bạn sẽ
không ngờ được sức mạnh của một lời nói tốt
bạn cho đi.
Thả một lời
nói vui vẻ và tốt bụng:
trong giây
lát bạn lãng quên.
Nhưng niềm
vui dâng tràn,
và những
gợn sóng reo vui xoay tròn mãi.
Bạn đã làm
cho con sóng được vỗ về trong điệu nhạc êm ái
có thể nghe
thấy trên hàng hải lý
từ việc thả
một lời nói tốt mà thôi.
Đạo Phật có
dạy rằng:
1. Con người (ngũ uẩn) có 2 phần:
Ngoài xác thân tứ đại phàm tục (sắc), còn có phần tâm linh (thọ, tưởng,
hành, thức).
Phần xác thân (tứ đại) khi hết phước (tận số) thì chết đi, đem chôn, hay
thiêu - không ai đem xác thối lên trời!
Con người không cần bận tâm đến cái xác chết, của mình hay của thân
nhân, không nên phiền não với mấy cái hủ tro từ nhà quàn - chưa chắc là tro
thiệt từ thân xác của thân nhân quá vãng. Quan trọng mấy cái vật chất đó, chỉ
làm khổ người thân còn sống, phải đem xác chôn chỗ này, đem tro rãi chỗ kia. Đó
chảng qua do tập quán, tín ngưỡng lâu đời của thế gian, và cũng chính do bản
ngã (EGO) của của con người, làm khổ con người mà thôi.
Cho nên, đạo Phật chủ
trương “Vô Ngã, Vị Tha”.
Ngũ Táng (Địa táng, Điểu Táng, Hỏa Táng, Thủy Táng, và Thạch Táng). Tốt nhất là
hiến xác cho khoa học sau khi chết, hợp tình hợp lý, hợp tâm nguyện vô ngã vị
tha, có lợi ích đôi phần. Người chết thực hành hạnh bố thí (nội tài). Người
sống hưởng thành quả khoa học, thuốc men, giải phẩu qua ngành y dược. Đừng nghe
mấy vị sư Tàu (tào lao) tuyên truyền tâm ích kỷ rằng, hiến xác thì không được
vãng sanh? Kinh điển nào dạy như vậy, ngoài mấy vị sư tào lao hiện nay?
2. Tâm Linh lại có 2 phần: thật và giả.
2.1. Phần tâm giả (vọng tâm) là tâm tham lam, giận dữ, ngu si, mà con người thường
sống hàng ngày.
Phần tâm giả này khi có khi không, khi sanh khi diệt, khi khởi lên khi
biến mất. Cho nên con người thay đổi tâm tính thường xuyên (vô thường) khi đắc
thế khi thất bại (lợi/suy), khi thương khi ghét, khi thích khi chê, khi tán
dương khi chửi bới (xưng/ cơ hay hủy/ dự), khi vui khi buồn (khổ/lạc).
Phần tâm giả (vọng tâm) này lẫy lừng, mạnh mẽ vô cùng, chính là động cơ
(nghiệp lực) dẫn dắt con người sống đời khổ đau, luân hồi kiếp này đến kiếp
sau, và muôn kiếp sau nữa.
2.2. Bởi thế cho nên, cốt tủy của đạo Phật
là phải tìm cho ra (giác ngộ) phần tâm thật (chân tâm).
Những hình thức cúng kiến, cầu an cầu siêu, các nghi lễ rườm rà trai đàn
bạt độ, trong khắp các chùa, chỉ là hình thức của một tôn giáo để mọi người tìm
đến, cần thiết nhưng không thật, giả đó.Tham dự xong rồi, con người thông minh phải phát tâm học đạo .
Khi tâm con người không còn vọng động, không còn lăng xăng lộn xộn,
không còn mong điều này,không còn muốn điều kia, thì chân tâm (Tâm thật) hiển lộ. Khi chân tâm
hiển lộ, đời sống con người bớt phiền não khổ đau.
Cũng ví như mặt biển sóng to khi có gió lớn (tâm con người giận dữ khi
gặp chuyện bất như ý)nhưng khi hết sóng to gió lớn, thì mặt biển trở nên thanh bình, phẳng
lặng,có thể trông xa, thấy rộng bốn phương, đến tận chân trời góc biển.
Các tôn tượng của chư Phật đều có con mắt thứ ba, nằm giữa 2 con mắt
thường, thường tượng trưng bằng chấm đỏ, hay viên ngọc quí. Con mắt thứ ba này
gọi là con mắt thông minh trí tuệ (tuệ nhãn). Tuệ nhãn chỉ có được khi tâm con
người không còn vọng động, không còn những chuyện tham sân si, không còn loạn
động với cảnh trần hàng ngày, duy nhất, tâm chỉ còn trạng thái phẳng lặng, tịch
tịnh, gọi là nhất tâm bất động, hay nhất tâm bất loạn.
Tùy theo tâm con người dẹp được, bớt được bao nhiêu tham sân si vọng
tâm, thì trí sáng chân tâm (hay tuệ nhãn) hiển lộ bấy nhiêu. Ví như mây đen
(vọng tâm, phiền não) tan biến bao nhiêu, thì mặt trời (tuệ nhãn hay chân tâm)
hiển lộ ánh sáng bấy nhiêu. Tất cả đều do công phu tu tập của mỗi cá nhân, theo
từng thời gian ngắn hay dài, mau hay lâu.
Cho đến khi vọng tâm hoàn toàn biến mất, chân
tâm hoàn toàn hiển lộ, thì con người hoàn toàn giác ngộ và giải thoát,
không còn sanh tử luân hồi, gọi là đắc đạo. Đây chính
là cốt tủy của đạo Phật.
Muốn thành công, đạt được mục tiêu nầy (đáo bỉ ngạn) con người phải nổ
lực hàng ngày, không phải dễ dàng trong vài tháng, hay vài năm, nhưng cũng không phải không ai đạt được đâu. Trong lịch sử các
nước, nhiều vị chân tu thực học đạt được cảnh giới này, không phân biệt tại gia
hay xuất gia, không cần phải tu ở trong chùa, không phải là đệ tử của vị nầy
hay của môn phái nọ.
Nhưng các vị không ai nói ra, các vị chỉ tu hành và dẫn
dắt người hữu duyên tu hành. Người nào nói rằng họ đạt được như vậy, như vậy,
nhờ pháp này hay pháp kia, toàn là những người muốn tự tôn làm lãnh tụ, muốn tự
đánh bóng để được tôn sùng, gạt gẫm mọi người, không ngoài mục đích danh và lợi
mà thôi.
Những chuyện vu vơ khác, xin miễn bàn để khỏi bị loạn tâm trong thế giới
đảo điên xưa nay.
Tu
theo Phật không cần phải cố chấp thờ lạy Phật hình tướng một cách mê
tín, tu mù, với vọng tâm mong cầu điều nọ điều kia cho riêng mình, gia
đình mình, đoàn thể mình, giáo hội mình, dân tộc mình, tôn giáo mình,
không cần chọn chùa to tượng lớn, không cần theo giáo hội giáo phái nào,
không cần phải là giáo phẩm cao thấp, không cần phải xưng là chính
thống hay tiếm danh, không cần phải xưng là Phật tử hay không là Phật
tử, không cần được khen thuần thành thường hay đi chùa, không cần khoe
gõ mõ, tụng kinh bao nhiêu bộ, không cần hành tam bộ nhất bái, nhất tự
nhất bái, không cần phải niệm Phật om trời vang vang chính điện, không
cần vỗ ngực tự xưng đã tu và làm việc Phật sự năm bảy chục năm, không
cần khoe khoang đã xây năm bảy chục cảnh chùa, không cần khoe có năm bảy
chục hay hằng trăm đệ tử, không cần tự hào là danh môn chánh phái, đệ
tử của vị này vị kia, không cần phải quì lụy, van xin thế quyền, giáo
quyền, tìm kiếm chức phẩm danh vị trong đạo cũng như trong đời, không
cần tất cả hình thức nghi lễ rườm rà của một tôn giáo, kể cả Phật giáo !
Tu theo Phật là để giác ngộ cái khả năng (vô hình tướng) thành một vị chánh đẳng chánh giác và thoát ly khỏi sanh tử luân hồi. Người nào phát tâm tu cũng được, bất tùy phân biệt !
BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA
TK Thích Chân Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com
TK Thích Chân Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com
Sống Hạnh Phúc, Chết Bình
An
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Xưa kia, khi còn ở trong nước, đi ngang qua
một địa phương, có người tự hỏi tại sao có quá nhiều nhà thờ,
khoảng vài cây số lại có một nhà thờ trong
khi dân chúng nghèo khổ?
Bây giờ thì chùa chiền cũng mọc lên rất
nhiều, không kém gì các nhà thờ xưa kia, mà có vẻ đồ sộ hơn,
còn dân chúng nghèo thì vẫn nghèo.
Cớ sao các vị tu sĩ không nhớ lại là khi đi
tu, trong tâm chỉ xin Đức Chúa cho được hằng ngày đủ dùng, Đức Phật cũng dạy
con người phải biết tri túc để sống đời an vui hạnh phúc.
Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng, du vi
an lạc.
Nghĩa là: Người nào biết đủ, tuy nằm trên
đất, cũng thấy yên vui.
Khi đủ sống rồi thì người tu phải làm gì để
giúp đỡ người nghèo khổ,
người cầu học chánh pháp, người muốn giác ngộ
và giải thoát.
Như thế mới thể hiện được lời dạy của các
Đấng Tối Cao về lòng bác ái, tâm từ bi, thương người như thể thương thân.
Ngày xưa Đức Phật, đã từ bỏ ngôi báu, cung
vàng điện ngọc, với một bát,
một cà sa, đi từng nhà này qua nhà khác để
khất thực: «Nhất bát thiên gia phạn. Cô thân vạn lý du»
(Một bát ngàn nhà xin cơm. Đơn thân muôn dặm
độc hành).
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đây chính là điểm quan trọng nhất mà các tu
sĩ nhất định nên làm, phải làm.
Hình ảnh Đức Phật đi khất thực như thế đã cho
chúng ta bài pháp thâm thúy nơi thân giáo của Ngài.
Vài người chưa kịp hiểu ý nghĩa cao thượng về
pháp khất thực đã vội có tư tưởng và lời nói không hay.
Mỗi tu sĩ Phật giáo, nếu có cái nhìn sâu sắc,
thì chính mỗi vị là một ngôi chùa di động
vì trong họ có đủ Tam bảo Phật, Pháp, Tăng.
Phật chính là tâm sáng suốt.
Pháp chính là tâm chân chánh.
Tăng chính là tâm thanh tịnh.
Ba tâm đó nói chung mọi người đều có - không
phân biệt tôn giáo - người tu sĩ cũng như người cư sĩ đều có.
Họ chỉ cần tu tập, xây dựng vững chắc ngôi
chùa trong bản thân thì ngôi chùa bên ngoài cũng có cơ hội hình thành.
Nơi đâu cũng là đạo tràng, cũng là thiên
đàng, cũng là niết bàn.
Ngôi chùa bên ngoài chỉ là phương tiện để
hoằng pháp, chứ không phải là cứu cánh của người tu.
Người tu - dù là tu sĩ hay cư sĩ - đi đến
chùa là để học hiểu chánh pháp,
đặng áp dụng trong đời sống thức tế hàng
ngày,
chứ không phải để cầu nguyện suông được vãng
sanh cực lạc,
mà chẳng tìm học và áp dụng những điều đức
Phật dạy.
Do đó, người tu sĩ nhận của cúng dường, bố
thí từ nơi bá tánh,
phải luôn luôn nhớ bổn phận tự tu, tự độ
chính bản thân
và giúp mọi người biết cách tu đúng chánh
pháp, gọi là độ người, độ tha nhân.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Một tu sĩ tự độ rồi mới độ tha, phải là một
vị thầy sáng suốt, chân chánh, thanh tịnh, phải là một vị minh sư, mới có thể
đem đạo vào đời, giúp đời giảm thiểu phiền não khổ đau, gieo tình thương, an
lạc, hạnh phúc
vào vườn tâm mọi giới: «Minh sư hưng đạo».
Tu sĩ còn là người lèo lái con thuyền bát
nhã, cứu người thoát khổ, độ người thoát khỏi trầm luân, đưa đến bờ giác!
Người tu - tại gia hay xuất gia - cần nắm
vững chánh pháp, để tự độ thân và độ tha nhân,
không lầm tà pháp, không chọn tà sư và không
lạc vào tà đạo.
Tu sĩ thời nay vẫn còn trầm luân trong biển
danh lợi, đem đời vào đạo, đem văn nghệ vào sân chùa,
đem hình ảnh lố lăng y áo sặc sở, ghế ngự như
ngai vàng vào ngay chánh điện.
Tu sĩ thời nay không lo nghiên tầm học hiểu
chánh pháp, để giảng giải thuyết pháp,
hay viết bài để truyền bá những lời dạy thực
tế của chư Phật, chư Tổ.
Họ chỉ trau chuốt giọng đọc, giọng tán tụng,
cho du dương, trầm bổng,
ê ê a a, lóc cóc leng cheng, tùng tùng xèng
xèng,
để hát hò như ca sĩ, ngay nơi chánh điện.
Một lời giảng dạy chánh pháp không nói nổi,
nhưng tu sĩ thời nay thao thao bất tuyệt khi
cầm micro quảng bá quyên tiền xây thêm chùa lớn, xây phòng ở nguy nga cho vị trụ trì.
Tệ hơn nữa các tu sĩ thời nay còn dám gạt gẫm
bá tánh qua các tà pháp mê tín dị đoan
như: chai nước trì chú trị bá bệnh, lạy tượng
Phật ngọc cầu gì được nấy,
tổ chức trai đàn bạt độ cứu hộ thai nhi, vãng
sanh đủ loại cô hồn, vớt vong trên sông trên biển như vớt bèo.
Tu sĩ thời nay còn dám mang các bộ mặt ma,
các mặt nạ, các nick name,
xuất hiện trên các diễn đàn xỉa xói, dè bĩu,
mạ lỵ, phỉ báng người khác,
dù người đó đang cố gắng truyền bá những điều
hay, lẽ phải, những danh ngôn tư tưởng đẹp, những lời dạy tu hành trong nhà Phật.
Nếu một tu sĩ không lo tu tập mà chỉ đem lòng nghĩ đến chùa to, mơ tưởng
tượng lớn, chê bai chùa nhỏ, xa rời tâm bồ đề ban đầu, chìm đắm trong dục
lạc, tham vọng.
Tu sĩ thời nay giảng dạy điều này, nhưng thực
hành một điều khác, thân giáo không đi đôi với khẩu giáo.
Tu sĩ thời nay thích tranh danh đoạt lợi,
thích ngồi ghế lãnh đạo, ăn trên ngồi trước, mâm cao cổ đầy, kẻ hầu người hạ.
Như thế chẳng hóa ra lãng phí cả cuộc đời
xuất gia tu hành hay sao?
Tu hành đâu tính tuổi già tuổi trẻ, đâu đếm
mấy hủ tương chao để tranh hơn thua, tranh địa vị, chức vụ, ghế ngồi cao thấp.
Tu hành cốt tủy nơi tuệ giác. Đức Phật ngày
xưa giác ngộ ngay cội bồ đề năm 35 tuổi.
Các vị tu sĩ khác dù già nua cũng chẳng giác
ngộ, bỏ mạng nơi khổ hạnh lâm.
Tu sĩ thời nay đua nhau lập tu viện to lớn,
nguy nga như cung điện, tổ chức các loại lễ hội hàng năm, bày trò mê tín, để phô trương và thu tiền bá
tánh.
Dù 100 tuổi các lão tăng đó có ích lợi chi
cho bá tánh, cho thiền môn, cho đạo pháp?
Các tu sĩ thời nay hành xử giống như ngụ ý
của câu châm biếm Pháp «Fais ce que je dis, pas ce que je fais»
(Hãy làm những gì tôi nói, không phải những
gì tôi làm).
Trong đạo mà lời nói không đi đôi với việc làm cũng gây rất nhiều thất vọng, hoang mang
cho những người có niềm tin nơi tôn giáo của
mình!
Tuy nhiên, con đường người tu đi mà thấy
đúng, việc người tu làm mà mang lại an vui, hạnh phúc cho bản thân và cho người khác, được khen cũng tốt, bị chê không phiền.
Người đời thường nói chó sủa mặc chó, đoàn lữ
hành cứ đi (Le chien aboie, la caravane passe).
Nhưng người biết tu tâm dưỡng tánh nên xem
những người tạo thiện duyên (giúp đỡ phương tiện vật chất hay tinh thần)
và những người tạo nghịch duyên (phê phán phỉ
báng ngăn đường cản bước)
đều là các bậc thiện hữu tri thức, tất cả đều
giúp mình rèn luyện chữ nhẫn và thử thách tâm kiên cố.
Được như vậy, con người sống hạnh phúc, chết bình an,
không cần theo tôn giáo nào, cũng chẳng cần
cầu nguyện thánh thần thiên địa chi cả.
Con người biết tự làm chủ bản thân trước sóng gió cuộc đời ví như hòn
đảo tự đứng vững trước phong ba bão táp vậy. []
Chuyện gì rồi cũng
qua
Hơn thua phiền não mà
Biết tu tâm dưỡng tánh
Không còn người với ta
Chuyện gì rồi cũng xong
Phê phán thêm phiền lòng
Biết tu tâm dưỡng tánh
Muôn sự thảy đều không
&
Nên học hạnh của đất
Nhận chịu của thế gian
Thơm tho và hôi thúi
Hóa thành đóa hoa tươi
Người đời tặng tên đạn
Phê phán và phỉ báng
Biết tu tâm dưỡng tánh
Hóa thành đóa hoa tươi
&
Niệm Phật hay tọa thiền
Nên nhớ lời Tổ dạy
Nhứt định không tranh cãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh
Ngày mai ai cũng chết
Ngày nay không tranh cãi
Muôn sự không còn mãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh
CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT
Tỳ Khưu Thích
Chân Tuệ
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có
dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật
giáo". Nghĩa là chúng ta không làm tất cả các việc bất thiện, không làm
những việc ác, tránh những việc tổn người hại vật, cố gắng làm tất cả những
việc thiện, những việc ích lợi cho người khác, nhưng đừng ghi nhớ, đừng chấp
chặt vào những việc ích lợi đã làm, thì tâm ý của chúng ta sẽ được thanh tịnh. Ðó là tu tâm dưỡng tính, đó là điều cốt yếu chư Phật mười phương ba đời
muốn dạy như vậy.
Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý.
Nếu như quên đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là "bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.
Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được "công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm.
Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruổi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng.
Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý.
Nếu như quên đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là "bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.
Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được "công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm.
Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruổi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng.
Như vậy chúng ta được nhiều người thương mến, gần
gũi. Như vậy chúng ta có được "đức".
Thêm nữa,
người Phật Tử muốn có công đức thì bên trong không có tâm chấp ngã, tâm chấp
pháp, nói chung là tâm cố chấp; bên ngoài hành động luôn luôn ngay thẳng, bình
đẳng, công minh, chính trực.
Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở "Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm những việc phúc thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi.
Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.
Có người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.
Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời, không cần biết đó là người như thế nào! Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi.
Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi!
Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy? Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ". Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc vãng sinh tây phương cực lạc.
Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!
Cõi tây phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát! Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên đảo.
Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy.
Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở "Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm những việc phúc thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi.
Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.
Có người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.
Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời, không cần biết đó là người như thế nào! Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi.
Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi!
Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy? Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ". Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc vãng sinh tây phương cực lạc.
Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!
Cõi tây phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát! Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên đảo.
Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy.
Quảng
Tu Cúng Dường:
Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
"Khởi
thâm tín giải hiện tiền tri kiến, tất dĩ thượng diệu chư cúng dường cụ nhi vi
cúng dường". Nghĩa là đối với chư Phật mười phương, chúng ta
phát tâm hiểu biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt đẹp,
những thành tựu cao quí nhứt trên bước đường tu học. Khi viếng chùa, về phần sự
tướng, chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể như: hương, đăng, hoa,
quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng, những yếu tố tâm linh siêu
thoát.
Dâng cúng
hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật,
những hương thơm kết tụ do việc thiền định, những hương thơm kết tụ do việc phát
triển trí tuệ, những hương thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát và những
hương thơm kết tụ do việc giải thoát những hiểu biết phiền lụy của thế gian.
Nói chung gọi là Ngũ Phần Hương, gồm có: giới hương, định hương, tuệ hương,
giải thoát và giải thoát tri kiến hương.
Dâng cúng
đăng, tức là dâng cúng đèn, mang ý nghĩa dâng cúng ánh sáng trí tuệ sáng suốt,
thắp sáng tâm trí, biết nhận thức mọi sự mọi vật đúng như thực, không điên đảo,
không mê mờ, biết sống theo chánh kiến và chánh tín, tránh tà kiến và mê tín dị
đoan. Cho nên trên bàn thờ Phật tại tư gia, cũng như tại các tự viện, luôn luôn
có một ngọn đèn thắp sáng, mang ý nghĩa nhắc nhở chúng ta luôn luôn sống trong
tỉnh thức, sáng suốt, luôn luôn thúc liễm thân tâm, luôn luôn sống theo lời chư
Phật dạy.
Dâng cúng
các loại hoa, mang ý nghĩa dâng cúng những điều thiện lành, tốt đẹp, thơm tho,
chúng ta làm được trong cuộc sống hằng ngày theo lời chư Phật dạy. Chẳng hạn
như chúng ta làm được việc thiện nào trong ngày, chúng ta dừng được việc ác nào
trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm đem dâng cúng chư Phật.
Dâng cúng
các loại quả, các loại trái cây, mang ý nghĩa dâng cúng những thành tựu, những
kết quả, do công phu tu học theo đúng Chánh Pháp. Chẳng hạn như trước đây,
những lời phê phán, chửi mắng có thể làm chúng ta bực bội, khó ở, quên ăn, mất
ngủ trong một thời gian dài. Giờ đây, gặp những cảnh ngộ trái ngang như vậy,
gặp những người gây phiền não khó khăn như vậy, gặp những việc bất như ý đến
như vậy, chúng ta có thể khởi lên một niệm trong tâm, song nhận thức được ngay,
liền tan biến mất, hoặc là tâm hoàn toàn tĩnh lặng, vô niệm khởi, tức là chúng
ta đã thành tựu đạo quả, dù một cách viên mãn, hay chưa viên mãn!
Ðể tâm
trí được thanh tịnh, chúng ta hãy làm các điều thiện, quảng tu cúng dường, vì
chính những ích lợi của các điều thiện ấy, chứ không phải vì quyền lợi cá nhân,
vì quyền lợi bản thân. Chúng ta có thể dễ chán những niềm vui mà chúng ta nhận
được, nhưng chẳng bao giờ chán những niềm vui mà chúng ta cho. Ðó là ích lợi
sâu xa của sự bố thí cúng dường của những người thiện tâm.
Tuy
nhiên, trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường
là: tu hành đúng theo lời Phật dạy, làm lợi ích cho chúng sanh, chịu khổ thế
cho chúng sanh, nhiếp thọ chúng sanh, siêng năng tu tập các điều lành, tránh
các điều dữ, phát tâm bồ đề. Pháp cúng dường là sự cúng dường rộng lớn hơn tất
cả, được vô lượng vô biên công đức. Tại sao vậy?
Bởi vì các đức Như Lai tôn
trọng Chánh Pháp, theo đúng Chánh Pháp mà tu hành, theo đúng lời chư Phật dạy
thì sanh ra các Ðức Phật. Ðó mới chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, chỉ
dạy phương pháp, giúp đỡ con người, chuyển hóa thành Phật, chứ không phải chỉ
có những hình thức cúng kiến lễ lạy mà thôi. Thực hành được như vậy mới gọi là
quảng tu cúng dường.
Từ vô
lượng kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, giận tức, si mê, khiến cho thân khẩu ý
tạo vô lượng vô biên nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện. Ngày nay chúng ta đem ba
nghiệp thanh tịnh thành tâm sám hối, nguyện về sau không tái phạm nữa.
Trong
kinh sách có bài kệ sau đây:
Ngã tích
sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nghiệp là
những điều gì do thân làm, do miệng nói, do ý nghĩ, thường xuyên hằng ngày.
Nghiệp thiện là những điều gì do thân khẩu ý, tạo ra ích lợi cho mình và cho
người. Từ xưa đến giờ, chúng ta tạo tác không biết bao nhiêu là nghiệp xấu ác,
nghiệp bất thiện, đều do tâm tham sân si, có từ vô thủy, phát xuất ra hành
động, lời nói hay ý nghĩ, làm lợi mình hại người, gây đau khổ cho người khác.
Tất cả hôm nay chúng ta đều thành tâm, ăn năn sám hối, nguyện chừa bỏ, không
tái phạm.
Nghiệp thường gây những chướng ngại trên đường đời, cũng như trên
đường đạo, cho nên gọi là nghiệp chướng. Chẳng hạn chúng ta tạo nghiệp thiện
như: làm phước, bố thí, cúng dường, đi chùa, lễ Phật, tụng kinh, niệm Phật,
nhưng thấy người khác không làm như vậy, đâm ra bực dọc, khinh khi, phỉ báng,
thì cũng chướng, cho nên gọi là nghiệp chướng. Còn đối với những nghiệp xấu ác,
nghiệp bất thiện, thì dĩ nhiên là nghiệp chướng rồi, không cần phải giải thích
dài dòng.
Tuy
nhiên, trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm
tạo". Nghĩa là mọi sự mọi việc trong khắp mười phương pháp giới đều do
tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Ðó
chính là vọng tâm, lăng xăng lộn xộn, sinh diệt thay đổi luôn luôn, thường do
tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên chúng ta thường tạo nghiệp
xấu ác nhiều hơn là nghiệp thiện. Bởi vậy cho nên, có bài kệ như sau:
Tội tùng
tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Nghĩa là
tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm của chúng ta chủ động, thì phải thành
tâm, phải tự trong thâm tâm, mà sám hối. Từ đó chúng ta phát nguyện không tái
phạm, cho nên mỗi khi từ vọng tâm khởi lên, tâm tham, tâm sân, tâm si, chúng ta
liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai xử của tham sân si,
thì tội lỗi sẽ không còn nữa. Khi tội lỗi không còn, vọng tâm cũng lặng mất,
chúng ta sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm hồn. Ðó mới thực là
sự sám hối chơn chánh.
Thân nhân
kẻ bị hãm hại thường đau khổ, nhưng nếu họ biết tha thứ cho kẻ xấu ác kia, thì
họ sẽ sống trong an lạc với tâm lượng từ bi hỷ xả. Con người dù xấu ác đến cở
nào, nhưng nếu biết thành tâm sám hối, đều có cơ hội trở thành người thánh
thiện. Không thiếu gì các vị thánh nhân trong lịch sử, có quá khứ là kẻ bất
thiện xấu ác trong xã hội. Chẳng hạn như gương của Angulimala, nhờ thành tâm
dừng các ác nghiệp, từ thân khẩu ý, thực tâm sám hối, tinh tiến tu học, thực
hành các lời dạy của Ðức Phật, trở thành một vị đại đức chân tu đắc đạo. Bởi
vậy cho nên, chúng ta chỉ nên quán xét chính mình có biết sám hối chưa, chứ
đừng quan trọng đến quá khứ của người khác tốt hay xấu! Chuyện ai nấy lo vậy!
Con người
thường mang tâm niệm khinh khi, ghét bỏ, nguyền rủa những kẻ bất thiện, mong
muốn hình phạt nặng nề, cho nên tâm trạng bất an, rất có thể trở nên kẻ xấu ác
hồi nào không hay. Chúng ta nên biết rằng nền tảng của hạnh phúc chính là sự
bình yên của tâm hồn. An lạc và hạnh phúc là điều mong ước của tất cả mọi người
trên thế gian này. Muốn được như vậy, trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy
luôn luôn tha thứ cho người khác, dù là kẻ thù cũng vậy, nhưng đừng bao giờ tha
thứ cho bản thân mình.
(Trích "Thập Đại Nguyện" Cư Trần Lạc Đạo tập 1)
Chắp tay trong cõi vô thường
Nhón chân trong cõi hư vô,
Vời trông quê mẹ mấy bờ ruộng thưa?
Cúi nhìn ngọn cỏ đong đưa,
Chắp tay xin một hạt mưa giữa trời.
Lòng
người xin được tựa vai,
Thì thầm khe khẽ một lời yêu thương.
Cùng đi trong cõi vô thường,
Nắm tay âm ấm ngón xương ngón gầy.
Thì thầm khe khẽ một lời yêu thương.
Cùng đi trong cõi vô thường,
Nắm tay âm ấm ngón xương ngón gầy.
Mong sao
hé mở lòng người,
Cho tôi úp mặt chắp mười ngón tay.
Xương xương mười đốt tay gầy,
Che nghiêng nửa giọt mặn này trong tôi.
Cho tôi úp mặt chắp mười ngón tay.
Xương xương mười đốt tay gầy,
Che nghiêng nửa giọt mặn này trong tôi.
Bao giờ
giọt nước giữa trời,
Ruộng khô hạt lúa, lòng người hạt mưa.
Tay gầy khép lại ngón thưa,
Cho tôi hứng lấy hạt mưa cõi người.
Ruộng khô hạt lúa, lòng người hạt mưa.
Tay gầy khép lại ngón thưa,
Cho tôi hứng lấy hạt mưa cõi người.
Bao giờ
mở rộng lòng người,
Cho tôi quỳ xuống chắp mười ngón tay,
Rưng rưng nữa giọt mặn này,
Run run mười đốt tay gầy hiến dâng.
Cho tôi quỳ xuống chắp mười ngón tay,
Rưng rưng nữa giọt mặn này,
Run run mười đốt tay gầy hiến dâng.
Hoàng
Phong
ĐỨC PHẬT DẠY CON NHƯ THẾ NÀO?
THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ
MƯỜI ĐIỀU TÂM NIỆM
TÙY DUYÊN & TỪ BI
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 24 (TỪ BI & TRÍ TUỆ)
LUẬN BÀN GIỮA MÊ VÀ NGỘ