Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN - Sống Hạnh Phúc, Chết Bình An
Sống Hạnh Phúc, Chết Bình
An
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Xưa kia, khi còn ở trong nước, đi ngang qua
một địa phương, có người tự hỏi tại sao có quá nhiều nhà thờ,
khoảng vài cây số lại có một nhà thờ trong
khi dân chúng nghèo khổ?
Bây giờ thì chùa chiền cũng mọc lên rất
nhiều, không kém gì các nhà thờ xưa kia, mà có vẻ đồ sộ hơn,
còn dân chúng nghèo thì vẫn nghèo.
Cớ sao các vị tu sĩ không nhớ lại là khi đi
tu, trong tâm chỉ xin Đức Chúa cho được hằng ngày đủ dùng, Đức Phật cũng dạy
con người phải biết tri túc để sống đời an vui hạnh phúc.
Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng, du vi
an lạc.
Nghĩa là: Người nào biết đủ, tuy nằm trên
đất, cũng thấy yên vui.
Khi đủ sống rồi thì người tu phải làm gì để
giúp đỡ người nghèo khổ,
người cầu học chánh pháp, người muốn giác ngộ
và giải thoát.
Như thế mới thể hiện được lời dạy của các
Đấng Tối Cao về lòng bác ái, tâm từ bi, thương người như thể thương thân.
Ngày xưa Đức Phật, đã từ bỏ ngôi báu, cung
vàng điện ngọc, với một bát,
một cà sa, đi từng nhà này qua nhà khác để
khất thực: «Nhất bát thiên gia phạn. Cô thân vạn lý du»
(Một bát ngàn nhà xin cơm. Đơn thân muôn dặm
độc hành).
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đây chính là điểm quan trọng nhất mà các tu
sĩ nhất định nên làm, phải làm.
Hình ảnh Đức Phật đi khất thực như thế đã cho
chúng ta bài pháp thâm thúy nơi thân giáo của Ngài.
Vài người chưa kịp hiểu ý nghĩa cao thượng về
pháp khất thực đã vội có tư tưởng và lời nói không hay.
Mỗi tu sĩ Phật giáo, nếu có cái nhìn sâu sắc,
thì chính mỗi vị là một ngôi chùa di động
vì trong họ có đủ Tam bảo Phật, Pháp, Tăng.
Phật chính là tâm sáng suốt.
Pháp chính là tâm chân chánh.
Tăng chính là tâm thanh tịnh.
Ba tâm đó nói chung mọi người đều có - không
phân biệt tôn giáo - người tu sĩ cũng như người cư sĩ đều có.
Họ chỉ cần tu tập, xây dựng vững chắc ngôi
chùa trong bản thân thì ngôi chùa bên ngoài cũng có cơ hội hình thành.
Nơi đâu cũng là đạo tràng, cũng là thiên
đàng, cũng là niết bàn.
Ngôi chùa bên ngoài chỉ là phương tiện để
hoằng pháp, chứ không phải là cứu cánh của người tu.
Người tu - dù là tu sĩ hay cư sĩ - đi đến
chùa là để học hiểu chánh pháp,
đặng áp dụng trong đời sống thức tế hàng
ngày,
chứ không phải để cầu nguyện suông được vãng
sanh cực lạc,
mà chẳng tìm học và áp dụng những điều đức
Phật dạy.
Do đó, người tu sĩ nhận của cúng dường, bố
thí từ nơi bá tánh,
phải luôn luôn nhớ bổn phận tự tu, tự độ
chính bản thân
và giúp mọi người biết cách tu đúng chánh
pháp, gọi là độ người, độ tha nhân.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Một tu sĩ tự độ rồi mới độ tha, phải là một
vị thầy sáng suốt, chân chánh, thanh tịnh, phải là một vị minh sư, mới có thể
đem đạo vào đời, giúp đời giảm thiểu phiền não khổ đau, gieo tình thương, an
lạc, hạnh phúc
vào vườn tâm mọi giới: «Minh sư hưng đạo».
Tu sĩ còn là người lèo lái con thuyền bát
nhã, cứu người thoát khổ, độ người thoát khỏi trầm luân, đưa đến bờ giác!
Người tu - tại gia hay xuất gia - cần nắm
vững chánh pháp, để tự độ thân và độ tha nhân,
không lầm tà pháp, không chọn tà sư và không
lạc vào tà đạo.
Tu sĩ thời nay vẫn còn trầm luân trong biển
danh lợi, đem đời vào đạo, đem văn nghệ vào sân chùa,
đem hình ảnh lố lăng y áo sặc sở, ghế ngự như
ngai vàng vào ngay chánh điện.
Tu sĩ thời nay không lo nghiên tầm học hiểu
chánh pháp, để giảng giải thuyết pháp,
hay viết bài để truyền bá những lời dạy thực
tế của chư Phật, chư Tổ.
Họ chỉ trau chuốt giọng đọc, giọng tán tụng,
cho du dương, trầm bổng,
ê ê a a, lóc cóc leng cheng, tùng tùng xèng
xèng,
để hát hò như ca sĩ, ngay nơi chánh điện.
Một lời giảng dạy chánh pháp không nói nổi,
nhưng tu sĩ thời nay thao thao bất tuyệt khi
cầm micro quảng bá quyên tiền xây thêm chùa lớn, xây phòng ở nguy nga cho vị trụ trì.
Tệ hơn nữa các tu sĩ thời nay còn dám gạt gẫm
bá tánh qua các tà pháp mê tín dị đoan
như: chai nước trì chú trị bá bệnh, lạy tượng
Phật ngọc cầu gì được nấy,
tổ chức trai đàn bạt độ cứu hộ thai nhi, vãng
sanh đủ loại cô hồn, vớt vong trên sông trên biển như vớt bèo.
Tu sĩ thời nay còn dám mang các bộ mặt ma,
các mặt nạ, các nick name,
xuất hiện trên các diễn đàn xỉa xói, dè bĩu,
mạ lỵ, phỉ báng người khác,
dù người đó đang cố gắng truyền bá những điều
hay, lẽ phải, những danh ngôn tư tưởng đẹp, những lời dạy tu hành trong nhà Phật.
Nếu một tu sĩ không lo tu tập mà chỉ đem lòng nghĩ đến chùa to, mơ tưởng
tượng lớn, chê bai chùa nhỏ, xa rời tâm bồ đề ban đầu, chìm đắm trong dục
lạc, tham vọng.
Tu sĩ thời nay giảng dạy điều này, nhưng thực
hành một điều khác, thân giáo không đi đôi với khẩu giáo.
Tu sĩ thời nay thích tranh danh đoạt lợi,
thích ngồi ghế lãnh đạo, ăn trên ngồi trước, mâm cao cổ đầy, kẻ hầu người hạ.
Như thế chẳng hóa ra lãng phí cả cuộc đời
xuất gia tu hành hay sao?
Tu hành đâu tính tuổi già tuổi trẻ, đâu đếm
mấy hủ tương chao để tranh hơn thua, tranh địa vị, chức vụ, ghế ngồi cao thấp.
Tu hành cốt tủy nơi tuệ giác. Đức Phật ngày
xưa giác ngộ ngay cội bồ đề năm 35 tuổi.
Các vị tu sĩ khác dù già nua cũng chẳng giác
ngộ, bỏ mạng nơi khổ hạnh lâm.
Tu sĩ thời nay đua nhau lập tu viện to lớn,
nguy nga như cung điện, tổ chức các loại lễ hội hàng năm, bày trò mê tín, để phô trương và thu tiền bá
tánh.
Dù 100 tuổi các lão tăng đó có ích lợi chi
cho bá tánh, cho thiền môn, cho đạo pháp?
Các tu sĩ thời nay hành xử giống như ngụ ý
của câu châm biếm Pháp «Fais ce que je dis, pas ce que je fais»
(Hãy làm những gì tôi nói, không phải những
gì tôi làm).
Trong đạo mà lời nói không đi đôi với việc làm cũng gây rất nhiều thất vọng, hoang mang
cho những người có niềm tin nơi tôn giáo của
mình!
Tuy nhiên, con đường người tu đi mà thấy đúng, việc người tu làm mà mang lại an vui, hạnh phúc cho bản thân và cho người khác, được khen cũng tốt, bị chê không phiền.
Người đời thường nói chó sủa mặc chó, đoàn lữ
hành cứ đi (Le chien aboie, la caravane passe).
Nhưng người biết tu tâm dưỡng tánh nên xem
những người tạo thiện duyên (giúp đỡ phương tiện vật chất hay tinh thần)
và những người tạo nghịch duyên (phê phán phỉ
báng ngăn đường cản bước)
đều là các bậc thiện hữu tri thức, tất cả đều
giúp mình rèn luyện chữ nhẫn và thử thách tâm kiên cố.
Được như vậy, con người sống hạnh phúc, chết bình an,
không cần theo tôn giáo nào, cũng chẳng cần
cầu nguyện thánh thần thiên địa chi cả.
Con người biết tự làm chủ bản thân trước sóng gió cuộc đời ví như hòn
đảo tự đứng vững trước phong ba bão táp vậy. []
Chuyện gì rồi cũng
qua
Hơn thua phiền não mà
Biết tu tâm dưỡng tánh
Không còn người với ta
Chuyện gì rồi cũng xong
Phê phán thêm phiền lòng
Biết tu tâm dưỡng tánh
Muôn sự thảy đều không
&
Nên học hạnh của đất
Nhận chịu của thế gian
Thơm tho và hôi thúi
Hóa thành đóa hoa tươi
Người đời tặng tên đạn
Phê phán và phỉ báng
Biết tu tâm dưỡng tánh
Hóa thành đóa hoa tươi
&
Niệm Phật hay tọa thiền
Nên nhớ lời Tổ dạy
Nhứt định không tranh cãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh
Ngày mai ai cũng chết
Ngày nay không tranh cãi
Muôn sự không còn mãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
Trong các buổi lễ, Chư Tôn Đức cầu nguyện gì?
Trong các buổi lễ, Chư Phật Tử cầu nguyện gì?
Nghi
lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo. Phật giáo dù không coi
trọng, nhưng nghi lễ vẫn chi phối phần lớn các sinh hoạt Phật sự, đôi
khi còn là hoạt động chính của một ngôi chùa, để đáp ứng nhu cầu của
quần chúng và nhu cầu hoằng pháp.
Đối
với cá nhân, khi lâm vào hoàn cảnh bức bách, khổ đau, bất trắc, bất như
ý, con người thường cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, tìm sự bình yên
trong tâm hồn qua cầu nguyện.
Lời
cầu nguyện này chỉ giúp tâm trí được bình yên tạm thời. Nếu con người
có học hiểu giáo lý của đạo Phật, thâm hiểu luật nhân quả, biết rằng:
mọi chuyện gì xảy đến cho mình, đều do chính mình đã tạo nghiệp nhân
trước đây, giờ phải nhận nghiệp quả, nghiệp báo (gọi chung là quả báo).
Việc may mắn đến, mình biết ngay rằng: đó là phước báo, do việc thiện lành chính mình đã làm.
Việc không may xảy đến, mình biết ngay rằng: đó là quả báo, do việc bất thiện chính mình đã làm.
Theo chánh pháp, nên biết rằng: chỉ có phước báo mới làm giảm bớt hay tiêu trừ quả báo mà thôi!
Cầu
nguyện cho tai qua nạn khỏi, mà không tu nhân tích phước, không tu tâm
dưỡng tánh, không dừng các nghiệp bất thiện, phỏng có được gì ?
Thí
dụ chúng ta lỡ mượn nợ tiêu xài rồi (tạo nghiệp), bây giờ phải đền trả
(gặp xui xẻo), chỉ có cách lấy tiền tiết kiệm (phước báo). Không có tiền
tiết kiệm thì phải cầu nguyện trúng số để trả nợ chăng ?!
Người
có phước báo nhiều, dù gặp tai nạn lớn lao như rớt máy bay, động đất,
vẫn sống sót, gọi là số may mắn quá. Người có phước báo ít hơn, phải
chịu thương tích hay xây xát chút đỉnh, gọi là còn hên quá. Người không
có phước báo thì lãnh đủ quả báo.
Thời
đức Phật còn tại thế, khi chư vị thánh tăng phải đền trả các nghiệp báo
cuối cùng, đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú, như sau:
Dù lánh lên non núi,
xuống biển hay vào hang
khi nghiệp báo đã mang
không ai tránh thoát khỏi.
Theo quan niệm Phật giáo, cầu nguyện không phải là van xin đức Phật, Bồ tát, thần thánh, hay năng lực linh thiêng huyền bí nào cả.
Cầu nguyện là tập trung tâm trí, nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trở nên thanh tịnh.
Cầu nguyện là một cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người.
Cầu nguyện vì thế chính là phương
pháp quán chiếu, nhìn lại con người thật của mình, quan sát tâm tình,
trừ khử tà kiến mê tín, khát vọng phàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu
đuối.
Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp thiền định, quán chiếu tự tâm.
- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.
- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, phi chánh pháp, không từ bi & trí tuệ.
- Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có. Không tu hành cầu vãng sanh. Không học hành cầu đỗ đạt. Các bên thù nghịch cầu nguyện đối phương biến mất. Trái đất chỉ còn thú vật, đất đá, cây cỏ! Thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp là như vậy đó!
- Trong chiến tranh thế giới 1 và 2, hai phe lâm chiến đều làm lễ cầu nguyện long trọng, xin Thượng đế giúp phe mình chiến thắng đối phương. Thượng đế bèn nghe theo lời cầu nguyện này, nên hai phe đều tả tơi thê thảm. Đó là thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!
- Đạo Phật trải qua nhiều năm tháng truyền bá xuyên qua nhiều quốc độ, nên mang cái vỏ mê tín của tôn giáo, và lập ra nhiều nghi thức, lễ hội, để tiếp cận với quảng đại quần chúng đang sống trong vô minh. Giáo lý đạo Phật rất siêu việt, nhiệm mầu khi áp dụng trong đời sống, không buộc ai phải thờ lạy, cúng kiến đức Phật với tâm cầu khẩn van xin, vòi vĩnh như đứa bé thơ.
Trái lại, đức Phật dạy: Tôn thờ Như Lai mà không hiểu Như Lai, chính là phỉ báng Như Lai vậy.
- Ngày nay, người theo đạo Phật, tu sĩ cũng như cư sĩ, nhân danh phát huy tín tâm của Phật tử, bày ra đủ thứ nghi lễ rườm rà, phức tạp, tạo vẻ linh thiêng huyền bí, giải thích hiện tượng thiên nhiên phi chánh pháp, đem kinh sách chữ nghĩa hù dọa những người ít hiểu biết, không thuyết giảng chánh pháp, lại tuyên truyền tà pháp.
Chẳng hạn như: người ngồi xe lăn, chỉ nhờ tín tâm với tượng Phật ngọc mà phục hồi, đi đứng bình thường!
- Tóm lại, người Phật tử dù tại gia hay xuất gia, có chút phước báu, có chút trí tuệ, ngoài tín tâm ban đầu qua các hình thức lễ hội, sinh hoạt Phật giáo, nên phát tâm tìm hiểu cốt tủy của lời Phật dạy, hướng tín tâm đến chỗ chánh tín. Không nên tiếp tục để các tà sư - mang hình tướng xuất gia hay tại gia - hướng dẫn tín tâm ban đầu đến chỗ mê tín.
Từ mê tín đến cuồng tín, chỉ cách một sợi tơ !
Mong lắm thay ! ! !
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ Nhiệm VP.PHTQ.CANADA
Quan-điểm của Phật-Học Tịnh-Quang Canada
Các
tôn giáo, tuy qua các hình thức lễ nghi phức tạp để phổ cập vào đại đa số quần
chúng, đều có giá trị cao sâu. Người tin theo tôn giáo đó - dù là tu sĩ cấp cao
- cũng chưa chắc đã hiểu rõ, nắm vững và thực hành trọn vẹn, huống là người
theo tôn giáo khác.
Điều
gì tôn giáo này công nhận, địa phương này chấp nhận, dân tộc này tuân theo;
nhưng các tôn giáo khác không công nhận, các địa phương khác không chấp nhận,
các dân tộc khác không tuân theo, đều chưa phải là chân lý tối thượng.
Chân
lý tối thượng phải vượt lên trên tất cả các tôn giáo - kể cả Phật giáo - vượt
lên trên tâm cố chấp của con người, chính là phương pháp mang lại sự bình an
hiện tại trong tâm tư của cá nhân, hạnh phúc hiện tại trong gia đình và sự hòa
bình hiện tại trong nhân loại.
Chân
lý tối thượng đó phải được mọi người công nhận, không phân biệt màu da, sắc
tộc, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, xuất xứ hay địa phương.
Do đó,
VP. Phật-Học Tịnh-Quang Canada chủ trương:
Trong
sự bàn cãi, tranh luận, chỉ nên xét việc - không xét người, chỉ nên góp ý về
một vấn đề nào đó - không xét cá nhân, tác giả; và hoan nghênh, tiếp nhận các
bài viết, tài liệu nhằm mục đích đem lại sự bình an cho cá nhân, hạnh phúc cho
đời sống gia đình và hòa bình trong cộng đồng người Việt và nhân loại.
Phật-Học
Tịnh-Quang Canada không chấp nhận các bài viết có tính cách gây chia rẽ, tạo
hiềm khích, khiến bất an trong các diễn đàn, dù phát xuất bất cứ từ đâu.
NỘI DUNG:
- Tuyên dương
chánh pháp, giải thích chân lý tối thượng không phân biệt tôn giáo, kể cà Phật giáo (còn hình
thức tôn giáo là còn mê tín).
- Tìm
hiểu đời sống an lạc & hạnh phúc trong ánh sáng từ bi & trí tuệ.
- Bài trừ
mê tín lẫn lộn trong Phật giáo chẳng hạn như: dâng sớ cầu an, tiền mất tật
mang, cúng sao giải hạn, tai nạn vẫn tới, niệm chú 108 biến vào chai nước, vào
cát mạn đà la, úm ba la trị tà ma, trị bá bệnh, xem ngày tang lễ, xem tuổi tang
chủ, cho bùa làm ăn, nhất bổn vạn lợi, gọi người trở về, hóa giải tai kiếp, soi
căn xem tướng.
Ban Biên-Tập
VP. PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT
Tỳ Khưu Thích
Chân Tuệ
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có
dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật
giáo". Nghĩa là chúng ta không làm tất cả các việc bất thiện, không làm
những việc ác, tránh những việc tổn người hại vật, cố gắng làm tất cả những
việc thiện, những việc ích lợi cho người khác, nhưng đừng ghi nhớ, đừng chấp
chặt vào những việc ích lợi đã làm, thì tâm ý của chúng ta sẽ được thanh tịnh. Ðó là tu tâm dưỡng tính, đó là điều cốt yếu chư Phật mười phương ba đời
muốn dạy như vậy.
Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý.
Nếu như quên đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là "bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.
Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được "công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm.
Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruổi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng.
Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý.
Nếu như quên đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là "bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.
Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.
Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được "công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm.
Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.
Khi dong ruổi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của chúng ta.
Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng.
Như vậy chúng ta được nhiều người thương mến, gần
gũi. Như vậy chúng ta có được "đức".
Thêm nữa,
người Phật Tử muốn có công đức thì bên trong không có tâm chấp ngã, tâm chấp
pháp, nói chung là tâm cố chấp; bên ngoài hành động luôn luôn ngay thẳng, bình
đẳng, công minh, chính trực.
Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở "Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm những việc phúc thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi.
Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.
Có người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.
Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời, không cần biết đó là người như thế nào! Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi.
Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi!
Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy? Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ". Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc vãng sinh tây phương cực lạc.
Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!
Cõi tây phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát! Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên đảo.
Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy.
Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở "Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm những việc phúc thiện mà được.
Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi.
Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.
Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.
Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.
Có người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.
Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời, không cần biết đó là người như thế nào! Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi.
Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi!
Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.
Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh thiền môn!
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.
Khi thọ mệnh hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy? Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.
Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ". Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc vãng sinh tây phương cực lạc.
Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!
Cõi tây phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát! Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên đảo.
Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu: "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy.
Quảng
Tu Cúng Dường
Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ
"Khởi
thâm tín giải hiện tiền tri kiến, tất dĩ thượng diệu chư cúng dường cụ nhi vi
cúng dường". Nghĩa là đối với chư Phật mười phương, chúng ta
phát tâm hiểu biết, tin tưởng sâu sắc, thành tâm dâng cúng những điều tốt đẹp,
những thành tựu cao quí nhứt trên bước đường tu học. Khi viếng chùa, về phần sự
tướng, chúng ta thường dâng cúng các phẩm vật cụ thể như: hương, đăng, hoa,
quả, tượng trưng cho những nghĩa lý cao thượng, những yếu tố tâm linh siêu
thoát.
Dâng cúng
hương mang ý nghĩa dâng cúng những hương thơm kết tụ do việc giữ gìn giới luật,
những hương thơm kết tụ do việc thiền định, những hương thơm kết tụ do việc phát
triển trí tuệ, những hương thơm kết tụ do việc tu hạnh giải thoát và những
hương thơm kết tụ do việc giải thoát những hiểu biết phiền lụy của thế gian.
Nói chung gọi là Ngũ Phần Hương, gồm có: giới hương, định hương, tuệ hương,
giải thoát và giải thoát tri kiến hương.
Dâng cúng
đăng, tức là dâng cúng đèn, mang ý nghĩa dâng cúng ánh sáng trí tuệ sáng suốt,
thắp sáng tâm trí, biết nhận thức mọi sự mọi vật đúng như thực, không điên đảo,
không mê mờ, biết sống theo chánh kiến và chánh tín, tránh tà kiến và mê tín dị
đoan. Cho nên trên bàn thờ Phật tại tư gia, cũng như tại các tự viện, luôn luôn
có một ngọn đèn thắp sáng, mang ý nghĩa nhắc nhở chúng ta luôn luôn sống trong
tỉnh thức, sáng suốt, luôn luôn thúc liễm thân tâm, luôn luôn sống theo lời chư
Phật dạy.
Dâng cúng
các loại hoa, mang ý nghĩa dâng cúng những điều thiện lành, tốt đẹp, thơm tho,
chúng ta làm được trong cuộc sống hằng ngày theo lời chư Phật dạy. Chẳng hạn
như chúng ta làm được việc thiện nào trong ngày, chúng ta dừng được việc ác nào
trong ngày, đó là những bó hoa tươi thắm đem dâng cúng chư Phật.
Dâng cúng
các loại quả, các loại trái cây, mang ý nghĩa dâng cúng những thành tựu, những
kết quả, do công phu tu học theo đúng Chánh Pháp. Chẳng hạn như trước đây,
những lời phê phán, chửi mắng có thể làm chúng ta bực bội, khó ở, quên ăn, mất
ngủ trong một thời gian dài. Giờ đây, gặp những cảnh ngộ trái ngang như vậy,
gặp những người gây phiền não khó khăn như vậy, gặp những việc bất như ý đến
như vậy, chúng ta có thể khởi lên một niệm trong tâm, song nhận thức được ngay,
liền tan biến mất, hoặc là tâm hoàn toàn tĩnh lặng, vô niệm khởi, tức là chúng
ta đã thành tựu đạo quả, dù một cách viên mãn, hay chưa viên mãn!
Ðể tâm
trí được thanh tịnh, chúng ta hãy làm các điều thiện, quảng tu cúng dường, vì
chính những ích lợi của các điều thiện ấy, chứ không phải vì quyền lợi cá nhân,
vì quyền lợi bản thân. Chúng ta có thể dễ chán những niềm vui mà chúng ta nhận
được, nhưng chẳng bao giờ chán những niềm vui mà chúng ta cho. Ðó là ích lợi
sâu xa của sự bố thí cúng dường của những người thiện tâm.
Tuy
nhiên, trong các thứ cúng dường, pháp cúng dường là hơn hết. Pháp cúng dường
là: tu hành đúng theo lời Phật dạy, làm lợi ích cho chúng sanh, chịu khổ thế
cho chúng sanh, nhiếp thọ chúng sanh, siêng năng tu tập các điều lành, tránh
các điều dữ, phát tâm bồ đề. Pháp cúng dường là sự cúng dường rộng lớn hơn tất
cả, được vô lượng vô biên công đức. Tại sao vậy?
Bởi vì các đức Như Lai tôn
trọng Chánh Pháp, theo đúng Chánh Pháp mà tu hành, theo đúng lời chư Phật dạy
thì sanh ra các Ðức Phật. Ðó mới chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, chỉ
dạy phương pháp, giúp đỡ con người, chuyển hóa thành Phật, chứ không phải chỉ
có những hình thức cúng kiến lễ lạy mà thôi. Thực hành được như vậy mới gọi là
quảng tu cúng dường.
Từ vô
lượng kiếp về quá khứ, do lòng tham lam, giận tức, si mê, khiến cho thân khẩu ý
tạo vô lượng vô biên nghiệp xấu ác, nghiệp bất thiện. Ngày nay chúng ta đem ba
nghiệp thanh tịnh thành tâm sám hối, nguyện về sau không tái phạm nữa.
Trong
kinh sách có bài kệ sau đây:
Ngã tích
sở tạo chư ác nghiệp
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Giai do vô thủy tham sân si
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nghiệp là
những điều gì do thân làm, do miệng nói, do ý nghĩ, thường xuyên hằng ngày.
Nghiệp thiện là những điều gì do thân khẩu ý, tạo ra ích lợi cho mình và cho
người. Từ xưa đến giờ, chúng ta tạo tác không biết bao nhiêu là nghiệp xấu ác,
nghiệp bất thiện, đều do tâm tham sân si, có từ vô thủy, phát xuất ra hành
động, lời nói hay ý nghĩ, làm lợi mình hại người, gây đau khổ cho người khác.
Tất cả hôm nay chúng ta đều thành tâm, ăn năn sám hối, nguyện chừa bỏ, không
tái phạm.
Nghiệp thường gây những chướng ngại trên đường đời, cũng như trên
đường đạo, cho nên gọi là nghiệp chướng. Chẳng hạn chúng ta tạo nghiệp thiện
như: làm phước, bố thí, cúng dường, đi chùa, lễ Phật, tụng kinh, niệm Phật,
nhưng thấy người khác không làm như vậy, đâm ra bực dọc, khinh khi, phỉ báng,
thì cũng chướng, cho nên gọi là nghiệp chướng. Còn đối với những nghiệp xấu ác,
nghiệp bất thiện, thì dĩ nhiên là nghiệp chướng rồi, không cần phải giải thích
dài dòng.
Tuy
nhiên, trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhứt thiết duy tâm
tạo". Nghĩa là mọi sự mọi việc trong khắp mười phương pháp giới đều do
tâm tạo ra tất cả. Công đức cũng do tâm tạo, nghiệp chướng cũng bởi tại tâm. Ðó
chính là vọng tâm, lăng xăng lộn xộn, sinh diệt thay đổi luôn luôn, thường do
tham sân si chi phối, thúc đẩy, điều khiển, cho nên chúng ta thường tạo nghiệp
xấu ác nhiều hơn là nghiệp thiện. Bởi vậy cho nên, có bài kệ như sau:
Tội tùng
tâm khởi tương tâm sám
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Nghĩa là
tất cả những tội lỗi gây ra, đều do tâm của chúng ta chủ động, thì phải thành
tâm, phải tự trong thâm tâm, mà sám hối. Từ đó chúng ta phát nguyện không tái
phạm, cho nên mỗi khi từ vọng tâm khởi lên, tâm tham, tâm sân, tâm si, chúng ta
liền biết ngay, dừng lại, không làm theo sự điều khiển, sai xử của tham sân si,
thì tội lỗi sẽ không còn nữa. Khi tội lỗi không còn, vọng tâm cũng lặng mất,
chúng ta sống trong trạng thái tịch tịnh, bình yên của tâm hồn. Ðó mới thực là
sự sám hối chơn chánh.
Thân nhân
kẻ bị hãm hại thường đau khổ, nhưng nếu họ biết tha thứ cho kẻ xấu ác kia, thì
họ sẽ sống trong an lạc với tâm lượng từ bi hỷ xả. Con người dù xấu ác đến cở
nào, nhưng nếu biết thành tâm sám hối, đều có cơ hội trở thành người thánh
thiện. Không thiếu gì các vị thánh nhân trong lịch sử, có quá khứ là kẻ bất
thiện xấu ác trong xã hội. Chẳng hạn như gương của Angulimala, nhờ thành tâm
dừng các ác nghiệp, từ thân khẩu ý, thực tâm sám hối, tinh tiến tu học, thực
hành các lời dạy của Ðức Phật, trở thành một vị đại đức chân tu đắc đạo. Bởi
vậy cho nên, chúng ta chỉ nên quán xét chính mình có biết sám hối chưa, chứ
đừng quan trọng đến quá khứ của người khác tốt hay xấu! Chuyện ai nấy lo vậy!
Con người
thường mang tâm niệm khinh khi, ghét bỏ, nguyền rủa những kẻ bất thiện, mong
muốn hình phạt nặng nề, cho nên tâm trạng bất an, rất có thể trở nên kẻ xấu ác
hồi nào không hay. Chúng ta nên biết rằng nền tảng của hạnh phúc chính là sự
bình yên của tâm hồn. An lạc và hạnh phúc là điều mong ước của tất cả mọi người
trên thế gian này. Muốn được như vậy, trong đời sống hằng ngày, chúng ta hãy
luôn luôn tha thứ cho người khác, dù là kẻ thù cũng vậy, nhưng đừng bao giờ tha
thứ cho bản thân mình.
(Trích "Thập Đại Nguyện" Cư Trần Lạc Đạo tập 1)