TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Tuesday 14 January 2020

Hạnh Phúc Ở Đâu - Gốc Gác Người Miền Nam


Tuesday 2020.01.14
Kính Quí Đạo Hữu,​
Bài viết của quí ĐH thực là tuyệt vời.
Chư tăng tán thán công đức này và đã chỉnh sửa các lỗi đánh máy, theo bài đính kèm dưới đây.
VP.PHTQ.CANADA xin phép quí ĐH đăng tải trên blog PHTQ và phổ biến rộng rãi.
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
Kính thư,
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA


Hạnh phúc ở đâu?
Thưa Cô Diễm Hương,
Em không biết hạnh phúc ở đâu mà em bôn ba tìm kiếm, tới nay đã hơn nửa đời người, em vẫn cảm thấy khổ, bất an? Em nhớ lúc còn nhỏ ở Việt Nam, buổi trưa đi học, đi bộ giữa trời nắng chói chang, trường ở xa, thật là mệt. Lớn lên mẹ em mua cho cái xe đạp để đi học. Lúc đó hết khổ vì đi bộ thì có cái khổ khác, không tiền đóng tiền trường. Mỗi đầu tháng Ban Giám Đốc trường gọi lên văn phòng đòi tiền. Em thật là mắc cở với bạn bè, có lúc em phải trốn học vì không tiền đóng học phí. Lúc đó em không mơ ước gì hơn được đi Mỹ!
Rồi lớn lên, em được đi Mỹ như ước mơ. Tới Mỹ, em không mong gì hơn được có một việc làm đủ để có tiền thuê một căn phòng che nắng che mưa. Với đồng lương tối thiểu, có đủ tiền trả tiền nhà, tiền  ăn, tiền cho người giữ hai đứa con là em mãn nguyện rồi. Với thời gian ông xã em được lên làm xếp trong sở, có tiền nhiều hơn, vợ chồng  mua được cái nhà, cái xe và có tiền cho con học xong đại học. Em trước đây chỉ mong ước như vậy thôi. Nay em có đủ những điều em mơ ước nhưng sao em vẫn còn thấy khổ?
Đứa con lớn của em ra trường rồi, đã đi làm, lương không được nhiều như bạn bè, nên nó muốn đi làm bán thời gian để có tiền và thì giờ tiếp tục học cho có bằng cấp cao hơn, tương lại tốt đẹp hơn. Vì vậy em giúp nó một phần nào, nhưng vừa đi làm vừa đi học cũng khó. Nay mấy năm rồi nó vẫn chưa ra trường như dự tính. Tương lai chưa biết ra sao ngày sau? Không có tương lai tươi sáng thì khó giữ được người yêu. Bị thất tình hai ba lần nên cậu ta chán đời, cũng đem đến cho em nhiều lo âu.
Con gái em thì lý luận, ở xứ Mỹ này không có ai nghèo đói, thiếu ăn, thiếu mặc, Hạnh phúc ở trên đời này không phải là nhà cao cửa rộng, có nhiều tiền. Lý luận như vậy nên nó ung dung với những gì nó có hiện tại. Nó lấy một người chồng không có bằng cấp, hậu quả là anh ta đi làm “handy man” (thợ đụng), ai mướn thì anh ta đi làm, lúc là thợ sơn, lúc cắt cỏ… không có đồng lương căn bản để nuôi gia đình. Cố nhiên là con gái em  phải lãnh trách nhiệm nuôi cả gia đình, một chồng và bốn thằng con trai, nên không không có đời sống vật chất đầy đủ như mong muốn. Em vì thương  con, thương cháu nên phải bù đắp thêm tiền, với biết bao nỗi lo buồn. Mỗi khi thấy con gái mình quá vất vả, và thấy các cháu không có tương lai em buồn lắm. Con em cứ phân trần, nhà chúng con nghèo nhưng đầy tiếng cười vui, ăn đủ no, sống đủ ấm, gia đình hạnh phúc. Nhiều người ở đây giàu mà đâu có được hạnh phúc? Vợ chồng ly dị, con cái bỏ học hành, đi bụi đời…
Nhiều lúc em buồn nên tìm vui trong niềm tin tôn giáo.  Em theo đạo chồng nên vô đạo Thiên Chúa sau này. Từ lúc khổ đau, em siêng năng đi nhà thờ để cầu nguyện Thượng Đế. Cầu nguyện bao nhiêu năm nay cũng không có gì thay đổi, em vẫn khổ tâm, không hài lòng với cuộc sống hiện tại.
Đi nhà thờ vẫn khổ, nên em xoay qua đi chùa, vì em nghe nói, Đạo Phật là đạo cứu khổ. Giáo lý căn bản của nhà Phật là “Tứ Diệu Đế” tức là bốn sự thật mầu nhiệm là “Khổ, Tập , Diệt, Đạo”. Đức Phật xác nhận Đời là bể khổ. Cái khổ đó có nguồn gốc. Cái khổ đó có thể diệt được. Bằng bát chánh đạo. Em hiểu như vậy không biết có đúng không? Em cũng đọc nhiều sách nói về giá trị của yoga, thiền định. Em cũng xem nhiều youtube của nhiều nhà sư ngoại quốc nói về ích lợi của “Chánh niệm”, vì vậy em đi chùa với ước mong tìm được ánh sáng giác ngộ, giải thoát khổ đau ra khỏi kiếp sống này.
Nhưng vô chùa rồi em mới thấy trong chùa cũng không khác gì ở ngoài đời, cũng có nhiều người, nhiều ý, tranh chấp quyền hành. Người nào cũng tự cho mình đúng, người khác sai,  mặc dầu ai cũng hiểu phải lấy tâm Từ Bi Hỷ Xả, Lục hòa ra đối xử với nhau. Nhưng bản tính của con người là ít nhiều cũng có tham, sân, si, nên luôn có xích mích, có nhiều người bỏ chùa ra đi hay ở nhà tu tại gia!
Ngay cả trong gia đình, em cũng có nhiều điều không hài lòng về cách sống của ông xã em. Tới từng tuổi này, không thể đem ra bàn chuyện ly dị, nhưng nhiều lúc em cũng  buồn lòng, muốn bỏ mặc ổng, muốn làm gì thì làm. Nhiều khi con em than phiền mẹ khó tính, mẹ bịnh thần kinh, coi chừng bị bịnh mất trí (Alzheimer).
Em đi lang thang tìm mãi mà không thấy hạnh phúc ở đâu? Làm sao mình có thể có một đời sống an lạc, hanh phúc giữa cõi trần gian này? 
Lê thị Hiền

 
Trả lời:
Ở trên đời này, ai cũng mong muốn có an lạc hạnh phúc, nhưng phần nhiều người ta đồng hóa hạnh phúc với đời sống vật chất, như có nhà cao, cửa rộng, tiền bạc dồi dào, nghề nghiệp vững chắc… con người phần nhiều ai cũng có lòng tham, nên nhiều người đeo đẳng cả đời, có được đủ thứ mình ao ước rồi cũng không mãn nguyện, không thấy hạnh phúc.  Sụ thật là an lạc, hạnh phúc không do Thượng đế ban cho, nên cầu nguyện không thể có được.

Theo tôi hạnh phúc là một trạng thái của Tâm. Hạnh phúc không có sẵn đâu đó trong không gian để mình có thể tìm kiếm, mà nó ở trong tâm, do mình tự tạo nên. Tôi còn nhớ khi con tôi bắt đầu chọn ngành nghề để học ở đại học, tôi khuyên nó chọn nghề bác sĩ, vì theo tôi bác sĩ là nghề nghiệp được đời trọng vọng nhất. Và với lòng nhân ái, mình có thể giúp được nhiều cần giúp đỡ. Nhưng con tôi nói nghề này đòi hỏi thông minh và trách nhiệm. Nhiều bạn trẻ của nó muốn vui lòng cha mẹ, chọn nghề này, cố gắng quá sức phát điên.

Cùng lúc, nó  gởi cho tôi xem vài video về ý nghĩa của sự hạnh phúc, cho thấy cảnh một gia đình nghèo ở Ấn Độ. Người chồng làm nghề kéo xe. Sau một ngày làm việc vất vả về, có vợ bồng con thơ trên tay và hai đứa con nhỏ, cùng đón cha ở đầu xóm. Niềm  hạnh phúc tràn ngập trên gương mặt của cả vợ chồng và con cái. Điều này làm tôi suy nghĩ rất nhiều về ý nghĩa của hai chữ Hạnh Phúc trong cuộc sống. Hiện nay ở Mỹ, xứ giàu có nhất thế giới, nhưng người Mỹ không phải là những người có hạnh phúc nhất thế giới. Người có đầy đủ vật chất chưa chắc có an lạc hạnh phúc trong tinh thần.

Một sư cô thuyết trình về hai chữ “Hạnh phúc”.  Muốn tìm hạnh phúc, trước hết chúng ta thử đặt câu hỏi:

- Ngày hôm nay mình có hạnh phúc không? Cái gì làm cho mình cảm thấy hạnh phúc?

- Ngày hôm nay mình có đau khổ không? Cái gì làm cho mình đau khổ?

Nếu chúng ta trả lời, hôm nay em cảm thấy hạnh phúc vì mới mua được một căn nhà, con em vừa mới thi đậu… hôm nay em cảm thấy đau khổ vì người thân vừa qua đời, vì có người viết báo xuyên tạc, đánh phá em…

Nếu như chúng ta cảm thấy hạnh phúc, hay đau khổ dựa theo những sự việc “vô thường” xảy ra chung quanh hằng ngày, thì đời sống tinh thần, tình cảm của mình thật bấp bênh, trầm luân theo dòng đời “ khổ nhiều vui ít”.

Bởi vậy để giải thoát khổ đau, phật tử vào chùa không phải chỉ để cầu nguyện, mong cầu Phật ban ơn ban phước cho mình, mà nên vô chùa để học giáo lý Nhà Phật. Học hiều lý “Vô Thường”, “Khổ”, Vô Ngã”… để có thể thản nhiên chấp nhận những thăng trầm, nhà Phật gọi là “Bát Phong” tức là tám ngọn gió trên thế gian. Gió lúc nào cũng không ngừng thổi, hết cơn gió này đến cơn gió khác, có lúc thổi nhẹ nhàng, có lúc thổi mạnh, như giông bão, tàn bạo khốc liệt.  

Người giỏi tu tập sẽ có bản lĩnh, chịu đựng được tám ngọn gió độc này thổi qua đời mình, mà tâm không lay động. Được, tâm không vui mừng hớn hở. Mất, tâm cũng không quá đau khổ, lo âu. Phải tu tập, luyện tâm cho thật vững chảy. Tâm không tham sân si, thì mới có thể có được cuộc sống an lạc hạnh phúc, trong nội tâm, cũng như ngoại cảnh.

Đi chùa với tâm ý học hỏi Lý Nhân Quả, Lý Nhân Duyên, thì khi gặp chuyện không may xảy ra, chúng ta hiều là không có việc tự nhiên mà có. Cái quả xấu mà mình đang nhận là do cái nhân xấu mình xấu mình đã gieo trong quá khứ. Hiểu và tin như vậy thì  mình sẽ vui vẻ chấp nhận chứ không than Trời, trách Đất hay thù oán người ám hại mình. Nhờ có lòng tin như vậy nên tôi không trách móc con tôi “sao mầy ngu quá”, “sao mầy lười biếng quá”, “sao mầy không lo học hành”, để trở thành kỹ sư, bác sĩ như con người ta!

Trong kinh Phật có dạy, muốn biết kiếp trước mình đã sống như thế nào, thì hãy nhìn cuộc sống hiện tại của mình. Muốn biết kiếp sau mình sẽ ra sao, hãy nhìn việc mình đang làm hiện tại. Trong kinh Phật cũng có câu “Nhứt thiết duy tâm tạo” nghĩa là mọi việc đều do tâm của chúng sinh tạo ra.

Tóm lại, không có một nguyên tắc nào, một phương pháp nào có thể tạo ra an lạc, hạnh phúc. Cũng không thể do cầu nguyện hết lòng mà có được an lạc hạnh phúc. Mà an lạc, hạnh phúc chỉ có ở những ai biết tu tâm dưỡng tánh, biết quán chiếu, suy tư, lẽ vô thường, luật nhân quả và nhân duyên trong cuộc sống. Hiểu thông suốt những lý lẽ này, thì tâm ta sẽ trong sáng, thanh tịnh, tự tại, an lạc, hạnh phúc trong giây phút hiện tại. []
Diễm Hương
VietMyMagazine VA USA
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
 
 



----- Forwarded Message -----
From: Ngoc Le Quang <lequangngoc@gmail.com>
Sent: Tuesday, January 14, 2020, 1:32:53 p.m. EST
Subject: Gốc gác của người miền Nam VN
-------- Message transféré --------
Sujet: Gốc gác của người miền Nam VN
Date: Tue, 14 Jan 2020 09:54:00 +0000
De: Hoàng Yến Nguyễn <hoangyenfrance@hotmail.com>


Cảm ơn bạn đã chuyển và xin kính gởi đến quý diễn đàn bài nhận định rất đầy đủ, rất lý thú và chính xác của tác giả Nguyễn Gia Việt về Gốc Gác Người Miền Nam.
Cảm ơn tác giả và xin phép được trích ra vài đoạn tiêu biểu sau đây.
Hoàng Yến.

( trích )
Ông bà tổ tiên Nam Kỳ mình quá hãi hùng ở đất Bắc hắc ám nên vô Nam bỏ tục gần hết.
Họ không muốn con cháu họ phải sống cái cảnh mõ làng rùng rợn phiên xử "hương ước" ở đình làng như ngoài Bắc.
( ... )
Thành ra gái Nam thất tiết thì bị gia đình xử bằng cách đuổi ra khỏi nhà, nhưng đuổi là thủ tục thôi vì lén nhét tiền của cho nó đi trốn khuất mắt một thời gian, hoặc đày nó xuống nhà sau cấm ló mặt lên nhà trước trong một hai năm, hoặc ra vườn sau cất nhà mà ở. Hết thời gian đó cô gái sống lại bình thường, con cháu máu mủ mình mà.
( ... )
Trong cái làng Nam Kỳ có nhà việc là chỗ làm việc của làng, tra án ở đó, không mang vô đình như Bắc Kỳ.
Coi 'Con nhà nghèo', bà Cai Hiếu đòi đóng gông Ba Cam thì Hương Quản đáp lại "Tôi đang tra án nó, mà thủa nay làng tôi có gông đâu mà đóng". 
(Ghi chú: Con nhà nghèo là bộ tiểu thuyết do cụ Hồ Biểu Chánh viết. HY)
( ... )
Sông rạch và đồng bằng tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn trong chánh trị, nhưng tràn trề tình thương, biết nhìn người khác, biết cúi mình xuống, tha thiết với Quốc Gia.
Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt, đôi lúc bổ bả.
Không lập gia phả, nhưng con cháu sống làm sao phải ra dáng con người, sống không làm tủi nhục tổ tiên, sống thẳng, sống có ích, sống không để tiếng nhơ cho tổ tiên, dòng họ.
Người Nam Kỳ dạy con cháu cũng theo kiểu mở.
Biên cái tục này là để răn mình.
Biết cái hay cái tệ của mình để nhìn lại bản thân mình.
Và tính cho ra cách thức tồn tại của xứ sở mình trước thời cuộc.

— nguồn Nguyễn Gia Việt

Gốc Gác Người Miền Nam  
Người Nam Kỳ không lập gia phả
Đó là một câu khẳng định chắc như cây đinh đóng cái cột nhà.
Gia phả là gì?
家譜 gia phả hoặc gia phổ là phả hệ của một dòng họ, gia đình, là cuốn sách chép tên ông bà tổ tiên, con cháu của một dòng tộc nào đó.
Người Bắc Kỳ xưa rày ta nghe tới là thói "lũy tre làng", có gia phả, có dòng tộc nghiêm ngặc, có trưởng tộc, có nhà thờ tổ, mả tổ, thủy tổ và những quy định ná thở với con cháu. Nhưng với dân Nam thì không có, hoặc có hời hợt, hình thức.

Dân Nam Kỳ có câu cười Bắc Kỳ là "Tổ tiên đại bác thụt chưa tới".

Chúng ta biết tổ tiên khai phá dựng lên Nam Kỳ Lục Tỉnh là dân khai hoang, kêu là lưu dân.

流民 lưu dân là dân phiêu lưu, dân đi xa, dân bỏ làng quê gốc mà ra đi.

Đó là người Ngũ Quảng: Quảng Bình, Quảng Trị, Quảng Đức (Huế), Quảng Nam, Quảng Ngãi hiệp cùng người Minh Hương, đồng hóa người Khmer, người bổn địa Stieng... mà trộn ra dân Nam Kỳ ngày nay.

Đó là dân nghèo rách nát, dân bị lưu đày, bị truy nã, bị làng ruồng bỏ, gái chửa hoang, học trò thất chí, quan bị biếm chức, người thích phiêu lưu, giang hồ lãng tử...

"Tới Cà Mau - Rạch Giá
Cất chòi đốt lửa giữa rừng thiêng
Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
Chướng khí mù như sương
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?" (Sơn Nam)

Xa hơn dân Ngũ Quảng là những người ở mạn Bắc di cư theo chúa Nguyễn Hoàng vô Trung Kỳ mà Phạm Duy tả là "Gió tiễn người về đến quê hương câu ca giọng Hời".

"Mộng ngoài biên giới mơ hồ
Chẳng ngăn được sóng vỡ bờ
Với đêm mờ hồn về trên Tháp ma"

Rồi thời chúa Nguyễn, lưu dân Việt từ Ngũ Quảng theo bà Ngọc Vạn vô Mô Xoài, Đồng Nai :
"Nhà Bè nước chảy chia hai
Ai về Gia Định Đồng Nai thì về"

嘉定 Gia Định là nơi đô hội, trù phú nhứt Nam Kỳ, có nghĩa là định cư nơi an ổn, phước lớn.

Là những lưu dân tạo ra hợp chúng quốc Nam Kỳ, ông bà chúng ta tạo ra một nền văn hóa đặc trưng riêng của Nam Kỳ mà nhìn lại có phần khác ngoài Trung, đối lập với ngoài Bắc.

Thí dụ Bắc ăn bánh chưng cắt 8 miếng hình trụ nhọn, Nam Kỳ ăn bánh tét - tét ra khoanh tròn, Bắc Kỳ uống trà kêu uống chè, Nam Kỳ kêu trà.

Văn hóa Bắc là lũy tre làng bốn góc chôn chặc cái làng ở giữa, làng nào sống kiểu làng đó, cấm giao lưu trai gái, có hương ước ngặc nghèo, có thầy Lý hắc ám, có con Thị Màu lẳng lơ, có chị Dậu bế tắc, có những người con gái chửa hoang bị cạo đầu bôi vôi thả bè chuối trôi sông.

Nam Kỳ khác Bắc phần nhiều

Nam sống mở, làng của Nam dựa vô mé sông, giao lưu với làng khác bằng ghe xuồng, bằng những con lộ, người Nam luôn mời khách xa xôi vô ở chung, giúp đỡ nhau cùng an cư vui vẻ, gái làng thích lấy trai xa xứ và thương chồng đứt ruột đứt gan vì cái quá khứ "trôi sông lạc chợ" đó.

"Rồng chầu ngoài Huế ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người quân tử lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về".

Gái Nam Kỳ chịu chơi, dám theo người mình yêu, dám nhận hậu quả do tình yêu đó đem lại.
"Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu lạnh lùng thiếp cam
Ví dầu tình có dở dang
Thì cho thiếp gọi đò ngang thiếp dzìa"

Ông bà tổ tiên Nam Kỳ mình quá hãi hùng ở đất Bắc hắc ám nên vô Nam bỏ tục gần hết.
Họ không muốn con cháu họ phải sống cái cảnh mõ làng rùng rợn phiên xử "hương ước" ở đình làng như ngoài Bắc.

Làng xóm Nam Kỳ không có hương ước, lệ làng, làng Nam Kỳ là làng mở, nhưng có những luật bất thành văn, mọi người phải tôn trọng, làng Nam Kỳ tuân luật triều đình, tôn trọng quan chủ quận, tri huyện.

Thành ra gái Nam thất tiết thì bị gia đình xử bằng cách đuổi ra khỏi nhà, nhưng đuổi là thủ tục thôi vì lén nhét tiền của cho nó đi trốn khuất mắt một thời gian, hoặc đày nó xuống nhà sau cấm ló mặt lên nhà trước trong một hai năm, hoặc ra vườn sau cất nhà mà ở. Hết thời gian đó cô gái sống lại bình thường, con cháu máu mủ mình mà.

Nên ai làm phim làm cạo đầu bôi vôi, thả bè chuối trôi sông, thả rọ heo xuống sống, quăng người xuống giếng là không hiểu gì về văn hóa Nam Kỳ. Tổ tiên Nam Kỳ chúng tôi chưa bao giờ có ý nghĩ đó trong đầu với con cháu mình.

Người Nam Kỳ không lập gia phả, vì sao ?
Đừng bao giờ nói người Nam Kỳ là lưu dân dốt không biết chữ mà không lập gia phả.

Các bạn nghiên cứu thấy rằng Nho giáo Bắc Kỳ là đầu môi chót lưỡi, tức thể hiện bằng cái miệng, Nho giáo Nam Kỳ thể hiện bằng cách sống.

Có ai đó nói “Người Bắc cao đạo một cách ngây ngô còn người Nam thì thực tế một cách trần trụi".
Cái chữ trần trụi hơi quá,nhưng những quy tắc bất thành văn ở Nam Kỳ nó vô hình dữ lắm nha, thí dụ dân Nam Kỳ mời bạn ăn cơm, mà bạn ăn hỗn trong mâm cơm quá, họ không nói, nhưng lần sau sẽ không mời. Người Nam Kỳ luôn để khách tự giác và không nhắc.

Trong làng Nam Kỳ vẫn có người biết chữ Nho, sau là chữ Quốc Ngữ, nên biết chữ Quốc Ngữ được dạy ở Nam Kỳ đầu tiên.

Nhìn đền chùa, miếu mạo Nam Kỳ xưa đi, hoành phi câu đối rất nhiều, đó là bằng chứng.

Không viết gia phả vì thấy không cần thiết. Một xã hội mở thì không cần gia phả.

Xưa đất rộng người thưa, con cháu đi tứ tán, ở nhà  toàn nhờ láng giếng gần đó, có câu "Bán họ hàng xa mua láng giềng gần".

Là dân gốc lưu dân, dân Nam muốn xóa bỏ quá khứ hãi hùng từ Bắc Kỳ và Trung Kỳ.

Cách xưng hô “anh Cả” ở Bắc so với “anh Hai” ở Nam là điển hình.

Rất nhiều người đặt câu hỏi tại sao người Nam gọi “anh Cả”, “chị Cả” (người con trưởng, theo cách gọi miền Bắc) là “anh Hai”, “chị Hai”.

Nhiều người giải thích rằng thời chúa Tiên Nguyễn Hoàng dân ở Bắc vào khai phá vùng đất Phương Nam, rằng trong đoàn quân Nam tiến lúc đó, hầu như không có ai là “anh Cả”, vì đi mở cõi thì nguy hiểm, theo tục Bắc phải để người con trưởng ở lại để phụng dưỡng cha mẹ và chăm sóc mộ phần tổ tiên; những người ra đi đều là con thứ.

Nói vậy không trúng.

Có những gia đình họ ôm cả nhà cả dòng họ của họ vô Nam kìa.

Chuyện anh hai ở Nam Kỳ là chuyện đặc trưng, không thể giải thích là ông cả cọp gì đó mà sợ nên Nam Kỳ tránh "Anh Cả", vậy chứ ông Hương Cả thì sao? Nam Kỳ có Hương Cả trong ban hội tề.

Đơn giản người Nam cố tình làm cho khác Bắc Kỳ khi bỏ cả, chỉ gọi người lớn là anh hai, chị hai.

Bỏ chữ cả là một dạng dứt áo, cắt đứt với hương ước, lũy tre làng, với họ tộc kinh hoàng kiểu Bắc Kỳ.

Ông Hương Cả trong Nam đâu có quyền hành gì, chỉ tượng trưng, và là cả duy nhứt trong Nam, có lẽ là một chút hoài vọng.

Người Bắc thừa tự là con trưởng, nhưng thừa tự, cúng kiếng trong Nam là con trai út, Nam Kỳ rất thực tế, thằng út lúc nào cũng trẻ trung, nó sẽ gánh vác gia đình ở mức hăng hái, thằng hai thì già chát, nhỏ hơn cha mẹ không nhiều gánh gì nổi.

Câu "Giàu út ăn, nghèo út chịu" cũng của Nam Kỳ đưa ra.

Thằng út giữ hương hỏa trong nhà, nhưng vẫn không hạ bệ thằng anh hai nha.

Bằng chứng là trong những ngày giỗ chạp, cúng kiếng tổ tiên, đám cưới thì ông anh hai vẫn đứng ra tế lễ, thằng út đứng sau lưng anh hai.

Trong họ tộc thì người thứ hai vẫn mang tiếng người đứng đầu, đám cưới thưa gửi là ông bác hai hết thảy, ông này chết thì ông bác ba lên thế.

Nhưng anh hai làm lễ thôi, anh hai không có quyền xen vô chuyện cúng kiếng của thằng út như cúng lớn, cúng nhỏ, cúng ra làm sao. Nam Kỳ chia quyền hết là ở đây.

Ngày nay Nam Kỳ thực tế luôn ở kiểu chia bàn thờ, anh hai giỗ cha, út giỗ mẹ, tới ngày tụ lại hai nhà vui vẻ.

Không gia phả, không họ tộc, không có khái niệm nhà thờ tổ, nhưng Nam Kỳ mặc định nhà thằng Út là nhà thờ tổ, tức là nhà nào mà cha mẹ, ông bà chết và thờ là nhà tổ.

Ông nào giữ hương hỏa có nghĩa vụ làm đám giỗ, không có quyền chỉ trỏ, ra lịnh này nọ nghĩa vụ với con cháu như tộc trưởng ngoài Bắc.

Con cháu trong Nam sướng là vậy, cứ về ăn đám giỗ, giàu mua đồ nhiều, nghèo mua đồ ít, không ai dám nói.

Với bản chất trọng người sống, kỉnh người chết ở mức tượng trưng, việc cúng kiếng Nam Kỳ cũng khác Bắc Kỳ.

Thường giữa nhà người  Nam đặt cái bàn thờ
九玄七祖 "Cửu Huyền Thất Tổ" tức "7 đời tổ tiên trên chín tầng trời".

Nhưng thực ra người miền Nam cúng giỗ chỉ 3 đời tới ông cố bà cố thôi, hết 3 hoặc 4 đời là không cúng kiếng gì nữa.

Có câu
五代埋神主 "Ngũ đại mai thần chủ" (Đến 5 đời thì chôn thần chủ), tức đem bài vị chôn hoặc đốt, nhập lại làm một gọi là "Cửu huyền thất tổ" và giỗ chung tượng trưng.

"Nước chảy ra thương cha nhớ mẹ
Nước chảy vào thương mẹ nhớ cha"

Cái đình Nam Kỳ rất chan hòa, vui vẻ, là nơi dân làng tụ hợp lại cúng thành hoàng rồi ăn uống vui chơi, coi hát bội, nó như một cái sân khấu.
Gánh hát về đình là niềm vui bất tận của người Nam Kỳ.

Nam Kỳ không có thằng mõ tay chưn của lý trưởng, không có cảnh phạt vạ kiểu Thị Màu.

Trong cái làng Nam Kỳ có nhà việc là chỗ làm việc của làng, tra án ở đó, không mang vô đình như Bắc Kỳ.

Coi 'Con nhà nghèo', bà Cai Hiếu đòi đóng gông Ba Cam thì Hương Quản đáp lại "Tôi đang tra án nó, mà thủa nay làng tôi có gông đâu mà đóng".

Là gốc lưu dân, không viết gia phả, không lập họ tộc, không lập lũy tre làng, không có ông lý trưởng hét ra lửa.

Để ý coi đi trong đám giỗ Nam Kỳ luôn cúng một mâm ngoài sân nhà, đó là mâm cúng lề, cúng những người khai hoang bỏ mình hồi xưa, sau 1975 CS kêu "mâm chiến sĩ".

Tất cả các miếu, am, và bàn thông thiên Nam Kỳ đều có cúng mấy hủ muối, gạo và nước, có nơi cúng bó củi.

Đó là cúng tổ tiên gốc lưu dân của mình hồi xưa.
Người Nam Kỳ cúng lề, cúng đất, cúng cô hồn.
Cúng tổ tiên Nam Kỳ chung là ngày 25 tháng Chạp, khi con cháu tụ về dẫy mả, tảo mộ, họ sẽ làm mâm cơm cúng ở nhà, thường là nấu cháo gà cháo vịt.

Tục thờ ông bà ở Nam Kỳ rất đơn giản, chỉ ba bốn đời, nhưng không được bỏ bàn thờ tổ tiên. 

Đồ Chiểu chửi rằng "Sống làm chi theo quân tả đạo - Quăng vùa hương đạp bàn độc thấy lại thêm buồn".

Xưa Nam Kỳ có cái bàn thờ và giường thờ.
Người Pháp qua, đem qua Nam Kỳ cái tủ chén đứng kiểu thời Louis XVI, không cao không thấp, trước tiên là ở xứ Thủ Dầu Một, sau thợ Gò Công sáng tạo đóng cái tủ thờ dựa trên nguyên lý ráp mộng đi khung của tủ kiểu Pháp, nhưng cải tiến theo phong tục Nam.

Từ đó cái tủ thờ này là đặc trưng Nam Kỳ Lục Tỉnh, hiệp cùng tranh kiếng nữa, ra cái hồn tổ tiên Nam kỳ mình.

Trong "Gia Định thành thông chí" của Trịnh Hoài Đức có đoạn : 
"Vùng Gia Định... đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét, nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. Nhà nào tục nấy… Gia Định có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung dũng, trọng nghĩa khinh tài…"

Đó là tánh hiếu khách, hào phóng, không câu nệ hình thức, sống thực dụng.

Dân Nam Kỳ hay đờn ca xướng hát, làm ra đờn ca tài tử và cải lương vang danh, hệ thống bài lý nhiều nhứt Việt Nam.

Người Nam Kỳ trọng tôn giáo, nhưng kiểu của họ.
Đạo Phật vô Nam biến thể, phải trộn với tín ngưỡng dân gian. Dân Nam Kỳ không phải là những tín đồ Phật giáo thuần thành.
Các phái Phật trong Nam đều là biến thể, chùa trong Nam không lớn.
Công giáo trong Nam Kỳ xưa khác ngoài Bắc, Nam không có các giáo xứ, người Công giáo Nam Kỳ hòa nhập, thế tục. Người Công giáo Nam Kỳ luôn ít hơn Công giáo Bắc Kỳ.

Sông rạch và đồng bằng tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn trong chánh trị, nhưng tràn trề tình thương, biết nhìn người khác, biết cúi mình xuống, tha thiết với Quốc Gia.

Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt, đôi lúc bổ bả.

Không lập gia phả, nhưng con cháu sống làm sao phải ra dáng con người, sống không làm tủi nhục tổ tiên, sống thẳng, sống có ích, sống không để tiếng nhơ cho tổ tiên, dòng họ.

Người Nam Kỳ dạy con cháu cũng theo kiểu mở.
Biên cái tục này là để răn mình.
Biết cái hay cái tệ của mình để nhìn lại bản thân mình.
Và tính cho ra cách thức tồn tại của xứ sở mình trước thời cuộc.

— nguồn Nguyễn Gia Việt