Flag of the United States if the Vietnam War went incredibly wrong
Người ta sinh ra để sống,
chứ không phải sinh ra để chuẩn bị sống,
cũng không phải sống cho quá khứ !
Xã hội văn minh hay không là do chế độ. Đất nước phát triển hay không cũng do chế độ.
Xã hội thế nào thì chính quyền thế đó.
Chính quyền lệ thuộc ngoại bang sớm muộn cũng sụp đổ.
Tiếc nuối cũng chẳng được gì.
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Văn Hóa Không Tên tạo nên linh hồn của Saigon xưa.
Hồi ức Văn Quang
Văn Quang
Buổi
sáng thứ sáu tuần vừa qua, tôi được một ông bạn điện thoại đến rủ ra
Givral uống cà phê. Tôi rất ngạc nhiên vì từ hơn 2 năm nay Givral nằm
trong thương xá Eden đã bị đập phá tan tành để làm một cái gì đó ở Saigon này, chắc cũng “vĩ đại” như tòa nhà Vincom chiếm trọn khu vườn hoa
trước mặt. Mỗi lần đi ngang qua đường Đồng Khởi, tôi không thể nào quên
đó là đường Tự Do xưa kia của chúng tôi. Nhìn toàn bộ khu tứ giác Eden
chỉ còn là đống gạch vụn với những hàng rào kiên cố xung quanh cứ như
nhìn thấy cái gọi là “trại cải tạo”. Thì ra, sau hơn 12 năm, cái “trại
cải tạo” ấy vẫn còn ám ảnh tôi ngay cả trong vô thức, đôi khi ngay cả
trong giấc mơ. Thế nên mỗi khi đi qua khu Eden bị tàn phá đó, tôi bỗng
cúi đầu, chẳng muốn nhìn lâu và cũng chẳng muốn tìm hiểu xem trong thời
gian tới, nó sẽ mọc lên cái gì. Tôi cứ nghĩ Gival đã thuộc hẳn về quá
khứ, như những người bạn tôi ra lò hỏa thiêu, không bao giờ gặp lại.
Đường Tự Do.
Ông bạn thấy tôi khựng lại, bèn giải thích: “Nó
mở lại Givral hôm qua (10-10-2012) ở chỗ cũ rồi ông ạ. Cũng điểm tâm,
cà phê như xưa. Ra ngồi xem cho biết, nhớ lại chút kỷ niệm xưa”. Nghe
bùi tai, tôi đồng ý ngay. Dù biết rằng ra đó ngồi sẽ rất ngậm ngùi nhớ
bạn, nhớ tình, nhớ thời trai trẻ, nhớ đủ thứ… trong cái không gian ấy.
Nói đến Gival là nhớ đến La Pagode, Brodard chắc chắn những người đã
từng sống, từng ghé qua Saigon chưa ai quên. Nhất là những văn nghệ sĩ,
nhà báo, dân biểu, thường ngồi ở đấy làm nơi trao đổi tin tức nghề
nghiệp. Còn một số lớn khách du lịch, sĩ quan, quân nhân, công tư chức
làm việc tại “thủ đô miền Nam” và các bạn trẻ Saigon thập niên 60-75
cũng hay lui tới nơi này. Đây là một địa điểm trung tâm thành phố, rất
thuận tiện cho mọi việc, từ hẹn hò, mua sắm vài thứ, đợi giờ vào rạp
chiếu phim, hoặc chỉ đi “bát phố” mà hồi đó chúng tôi gọi là đi
“hittuking”, tức là đi “hít tủ kính” chứ không mua bán gì. Hơn thế,
thương hiệu bánh ngọt Gival rất nổi tiếng, thu hút nhiều khách sành ăn.
Mấy bà đi ngang qua Lê Lợi – Tự Do ghé vào mua vài cái bánh mang về cho
chồng con là chuyện bình thường. Givral, La Pagode, Brodard đã trở thành
một cái “trục văn hóa không tên” phảng phất mà rất sâu đậm trong cái
hồn của Saigon.
Sau
năm 1975, Gival vẫn còn sống sót cho đến khi khu này bị “giải tỏa”,
nhưng khách không còn “chọn lọc” như thời xưa. Khách hàng đủ mọi loại,
ông Tây bà Đầm, ông Hàn Quốc bà Đài Loan, chân dài đẹp, chân dài xấu,
nghệ sĩ thập cẩm ra vô thong thả và giá cả cũng vào loại trung bình,
không “mềm” cũng không “cắt cổ”.
Givral ngày ấy bây giờ
Trong
khi ông bạn tôi tìm chỗ gửi xe, tôi đứng trên đường Lê Lợi nhìn qua
khung kính vào nhà hàng Gival mới. Nó vẫn ở cái góc Lê Lợi – Đồng Khởi,
mấy cái cửa kính lớn vẫn cho khách có thể nhìn ngắm hai mặt đường phố và
tất nhiên khách đường phố cũng có thể chiêm ngưỡng những khách hàng
“đẳng cấp” ngồi bên trong. Điều đáng tiếc nhất là cái cột to tướng đúng
vào góc đẹp nhất che lấp mất tầm nhìn nơi cửa chính trước kia, làm cho
không gian có vẻ như chật chội hơn, không thể nhìn thẳng ra nhà hát lớn,
khách sạn Continental với phong cách rất Tây và khách sạn Caravelle
cùng cái vòng xoay và những con đường chảy vào giữa lòng thành phố.
Chúng
tôi bước vào nhà hàng với một vẻ lạ lẫm. Những chiếc bàn ghế mới toanh,
những bộ salon kê hai bên góc khá đẹp. Tất cả đều mang dáng vẻ sang
trọng như bất cứ một nhà hàng cà phê, điểm tâm “có hạng” nào ở những
thành phố lớn. Khoảng 9 giờ sáng, khách đã chiếm hết số bàn trong tiệm.
Số còn lại ngồi rải rác quanh chiếc comptoir hình móng ngựa. Những người
hoàn toàn xa lạ ngồi riêng biệt, chẳng ai nhìn ai. Cái không khí ấy
khiến tôi không thể quên những ngày xưa. Tuy ngồi khác bàn nhưng chúng
tôi vẫn có thể biết xung quanh mình có những ai. Bàn bên kia là bốn năm
anh ký giả chuyên làm tin hành lang Quốc Hội, bàn góc trái là mấy ông
dân biểu Hạ Nghị Viện thời Đệ Nhị Cộng Hòa đang say sưa bàn về những “ý
kiến” đã và đang chuẩn bị lên diễn đàn. Bàn giữa nhà là mấy “dân chơi”
quen mặt, có lẽ ngồi đợi người đẹp. Thỉnh thoảng một cái gật đầu, một
cái vẫy tay, một ánh mắt thân thiện. Sự gần gụi, quen thuộc ấy chính là
cái linh hồn của Givral trước 1975. Bây giờ không tìm lại được nữa.
Cái “trục văn hóa” từ La Pagode, Givral đến Brodard khác nhau thế nào?
Nằm
chung trên đường Tự Do xưa, có ba quán café cùng nổi tiếng như nhau.
Bắt đầu từ nhà hàng La Pagode ở góc Lê Thánh Tôn – Tự Do, qua vài nhà
hàng đến tiệm sách Xuân Thu, đến hành lang Eden, trong đó có rạp Ciné
Eden từ hồi cựu hoàng Bảo Đại mới lên ngôi. Đến góc đường này là Givral
nằm đối diện với khách sạn Continental, sát bên trụ sở Hạ Nghị Viện (nhà
hát lớn TP cũ), nhìn chéo sang phải là khách sạn Carvelle sinh sau đẻ
muộn. Đi quá chút nữa là nhà hàng Brodard. Ba tiệm cùng nằm trên một con
đường rất gần nhau, chỉ cách khoảng trên dưới 100m và gần như có kiểu
kinh doanh giống nhau. Nhưng thật ra, nếu để ý kỹ, khách hàng thường
chia làm 3 loại khác nhau. Ở đây tôi chỉ kể riêng về mặt “sinh hoạt văn
hóa”.
Trước
hết phải kể đến nhà hàng La Pagode, tôi cho là “cổ kính” nhất. Ngay từ
những năm 1953, khi tôi mới biết taxi là “cái giống gì” (bởi ở miền Bắc
hồi đó chưa có taxi), tôi đã biết La Pagode. Hồi đó Pagode còn bày hàng
ghế salon bọc da ra ngoài hành lang, theo lời ông Nguyên Sa thì nó giống
hệt nhiều nhà hàng ở Paris. Ngồi ở đây thoáng đãng. Khách đến thường
chỉ dùng một ly cà phê, ngồi từ chiều đến tối mịt. Phía trong có một bàn
đánh “tin” dành cho khách giải trí chứ không có mục đích cờ bạc kiếm
tiền. Ông Hoàng Hải, anh ruột của cố chuẩn tướng Lưu Kim Cương, có thể
kể là một “nhà vô địch về môn giải trí này. Chúng tôi chỉ cần mua một
chục cái jeton, như đồng xu, bỏ vào khe là chơi triền miên. Cứ sắp hết
lại kêu ông ông Hoàng Hải “cứu giá”, bonus lại đổ xuống hàng đống jeton
tha hồ chơi. Khách hàng của La Pagode hầu hết là nhà văn nhà thơ, nhạc
sĩ, ca sĩ. Cứ vào buổi chiều, sau giờ tan sở là tụ tập lại đây. Tất
nhiên cũng ngồi thành nhóm. Những ngày đầu tôi thường đi cùng Thanh Nam,
Thái Thủy, Hoàng Thư và đến đây thường gặp các anh Nguyên Sa, Trần
Thanh Hiệp, Mặc Thu, Cung Trầm Tưởng, Mai Thảo, Phạm Đình Chương, Tạ
Quang Khôi, Viên Linh, Nguyễn Đạt Thịnh, Phạm Huấn, Anh Ngọc, Nhã Ca,
Trần Dạ Từ, Nguyễn Đình Toàn. Quá nhiều, tôi không thể nhớ hết. Thật sự
cái nhu cầu chính là đến đây gặp nhau, để nói dóc, “bình loạn” vài cái
tin văn nghệ, thời sự chính trị cho vui thôi. Cả ba nhà hàng này với
những cái “loa ngầm, loa không ai kiểm chứng” nên có thời người ta gọi
những tin tức ấy là “radio catinat” (bởi con đường Tự Do, thời Pháp được
đặt tên là đường Catinat). Tuy nhiên cũng có những nguồn tin “bí mật
quốc gia” rất chính xác bên cạnh những nguồn tin chẳng bao giờ là sự
thật. Nó cứ nhập nhằng như thế nên “radio Catinat” chưa chắc đã là “láo
toét” như nhiều người kết tội nó. Vậy tạm gọi Pagode dành cho giới viết
lách gặp nhau, xả stress. Còn Givral đông nhất và đáng kể nhất vào mỗi
buổi sáng. Phóng viên trẻ thường tụ tập ở nhà hàng này vì nó ở ngay
trước trụ sở Hạ Nghị Viện, các ông dân biểu thường ra ngồi giải lao tại
đây và “thảo luận” đủ thứ chuyện bên lề. Và chuyện bên lề bao giờ cũng
hấp dẫn hơn chuyện trong nghị trường. Chuyện “bí mật quốc gia”, chuyện
phe nhóm, “gia nô” và không “gia nô”, chuyện tình bà nghị ông nghị, cứ
nghe mấy ông này là có đủ tin “giật gân” trong ngày. Cánh phóng viên
thường bắt mối rất chặt chẽ với các ông bà dân biểu và nghị sĩ thượng hạ
nghị viện. Thật ra họ có quyền lợi “hỗ tương”, anh cho tôi tin, báo tôi
yểm trợ lập trường của anh. Trong số những phóng viên, ngoài người Việt
Nam còn có một số phóng viên người Mỹ, Pháp từ khách sạn Continental
trước mặt ghé sang. Hoặc cũng có một số phóng viên người Việt làm cho
các đài truyền hình, truyền thanh nước ngoài săn tin tại đây. Có một nhà
thơ hàng đầu Việt Nam thời đó là thi sĩ Đinh Hùng, bình thường ông hay
ngồi ở La Pagode, nhưng khi “hữu sự” ông lại ngồi ở Givral. Dáng người
“thanh thoát” nhỏ nhắn rất thư sinh. Lúc nào ông cũng chải chuốt,
complet, cravate, đầu chải mượt gọn gàng, tay luôn xách chiếc cặp da,
ông còn giữ nguyên vẻ đỏm dáng, lịch lãm của “công tử Hà Nội” những năm
50. Ông thường hẹn gặp những người ái mộ ở đây. Tôi để ý thấy hầu hết
là những nữ độc giả rất trẻ, đẹp. Khi ông ngồi cùng 3-4 cô, khi ông lại
rù rì với một người đẹp duy nhất. Đúng là ông có số đào hoa và dù đã
ngoại ngũ tuần nhưng trái tim vẫn còn rất trẻ. Những lúc nhìn ông “say”
như thế, tôi có cảm tưởng như ông cũng giống như những cậu trai 20 ngồi
bên cô gái 18. Ông sống thật với rung cảm của mình. Có lẽ vì vậy thơ
ông bao giờ cũng mang cái óng mượt, thần thoại rất đặc trưng. Có thể,
Givral chính là nơi bắt nguồn cho những cánh thơ thăng hoa của cảm xúc
này. Hôm nay ngồi ở Givral, hình bóng anh Đinh Hùng vẫn quanh quẩn đâu
đây. Nhớ lại, khi tôi viết truyện dài “Đời chưa trang điểm”, tiêu đề
này chính là đã mượn trong câu thơ “đời chưa trang điểm mà xuân đã về”
của anh. Lúc gặp nhau, anh Đinh Hùng nói với tôi: “Ừ, cái tít ấy có vẻ
tiểu thuyết lắm, cứ lấy xài đi, đóng thuế cho tớ một cuốn thôi”. Mới đây
mà đã hơn nửa thế kỷ rồi anh Đinh Hùng ơi! Còn nhà hàng Brodard nằm ở
góc Tự Do – Nguyễn Thiệp, nhìn sang bên kia là vũ trường Tự Do của ông
Cường lùn và chị “tài pán” Nhựt, bà chị này hành nghề cai quản các em
“ca nhe” từ vũ trường Ritz Hà Nội vào Nam. Ở đây lại đông vui vào những
buổi sáng muộn và buổi tối khi “gà lên chuồng”. Nơi lui tới của những
“dân đi chơi đêm” Sài Thành. Những anh hùng “hảo hớn” như Khê – Thăng
Long Xích Thố, anh em ông Kim đầu bạc, Kính tennis, Chương Marine cũng
lui tới ngồi tán chuyện giang hồ. Các “đại gia, tiểu gia” thời đó không
nhiều, chỉ vỏn vẹn một số ông dược sĩ, tu bíp, doanh nhân có “xế bốn
bánh” đủ để chở các em đi ăn đêm. Thỉnh thoảng một vài em vũ nữ, thường
là loại có hạng như Lệ Hằng, Thủy Điên, Mỹ Khùng ở mấy cái vũ trường
gần đó như Tự Do, Mỹ Phụng, Olympia cũng la cà vào đây tán dóc.
Ba
nhà hàng ấy là 3 sắc thái riêng biệt làm nên cái trục “văn hóa không
tên”, cái linh hồn của Saigon, khó phai mờ trong ký ức của những người
Saigon. Còn một địa chỉ nữa ở gần chợ Bến Thành là nhà hàng Thanh Thế,
nơi này là chỗ gặp nhau của những ký giả thể thao như đàn anh Huyền Vũ,
Thiệu Võ và một số những nhà báo miền Nam.
Không thể tìm lại dĩ vãng
Tóm
lại, trong bài này, tôi chỉ muốn thông tin đến bạn đọc một nét “văn hóa
xưa” vừa được khơi gợi lại giữa thành phố Saigon. Nhưng với tôi, nó
chỉ còn cái tên Givral của thời xa xưa thôi. Tất cả đều khác trước, giá
cả lại quá cao không phù hợp chút nào với cánh phóng viên Việt Nam. Nó
sẽ chỉ còn thích hợp với khách du lịch ghé ngang qua thành phố này. Dù
sao cũng xin gửi đến bạn đọc nặng lòng với những hoài niệm cũ, với Saigon xưa, một cái gì đã mất đi không thể tìm lại được.
Văn Quang
Posted by: Truc Chi <trucsonchi@yahoo.com>
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Tranh của các họa sĩ trường Mỹ Thuật Gia Định
thuyai43@yahoo.com [diendan_songvui]diendan_songvui@yahoogroups.ca |
May 10, 2020, 11:46 PM (10 hours ago)
|