Xe
thổ mộ (cuối trang)
Sách dọc đường đời
Đặng Yên Hòa
Anh nhìn lên kệ, thấy
những tựa sách thân thuộc, nhớ lại những câu chuyện đã khiến anh rung động,
những triết lý mà anh đã thích thú trong khi đọc sách… Cảm giác chông chênh lúc
ấy mới biến mất và anh mới thật sự cảm thấy đang sống trong nhà của mình.
Có những người xem sự
hiện diện của sách đối với con người như là cây cối trong rừng đối với loài dã
thú. Con thú có thể trốn trên cành hoặc nấp sau thân cây để tránh kẻ thù, có
thể tìm thấy mùi hương và dấu vết những loài khác trên một thân cây và cũng có
thể hái lượm trái chín để ăn, uống nước đọng trên lá và trong dây leo. Con
người cũng có thể nấp sau trang sách để quên đi nỗi lo và tìm sự bình yên, có
thể học bao nhiêu điều trong sách mà người đời không dạy và có thể kiếm sống
nhờ học qua sách vở. Đối với nhiều người, sách là một hệ sinh thái để sống.
Ngày nay, không khó để
lập một tủ sách, nhưng cách nay trên dưới nửa thế kỷ không dễ. Lý do chính là
việc thường xuyên mua sách khá tốn kém. Một tủ sách giá trị không thể làm nên
từ vài trăm cuốn sách mà phải gây dựng trong thời gian dài, có khi cả đời.
Lúc nào cũng vậy, sách
nghiên cứu nhập từ nước ngoài luôn cao giá, ví dụ như từ điển hay sách chuyên
khảo. Thời Pháp thuộc và trước năm 1975, có những người học giỏi nhưng vì nhà
nghèo nên không dám học lên cao vì không mua nổi sách học của Tây. Cho nên,
trong giới đọc sách và nghiên cứu, mượn nhau đọc là điều bình thường. Có người
để mất tình bạn vì không trả sách hay vì mượn sách không biết giữ gìn để sứt
gáy, mất trang. Ai có sách quý, nhất là tự điển, sách nghệ thuật, sách dịch tác
phẩm của tác giả nổi tiếng tậu về ắt được chủ nhân nâng niu, bọc nhựa trong,
đóng bìa cứng và làm sổ theo dõi ai mượn để đòi. Ai ghiền đọc chỉ có cách là đi
mướn sách mới mong đọc được nhiều sách trên thị trường chữ nghĩa.
Nhiều người “chữ nhiều
tiền ít” cố gắng tạo cho mình một “gia tài” nho nhỏ bằng việc gom từng cuốn
sách mình có, mua ở tiệm sách hay vỉa hè. Ban đầu chỉ có vài cuốn sách đặt bên
gối. Khá hơn chút thì cất trong rương. Nhiều hơn nữa thì bày trên kệ dài gắn
trên tường bằng dây kẽm. Cuối cùng là cố tậu tủ bằng gỗ cứng có cửa kính để
chứa sách, có thể chống mối mọt và bụi bặm.
Sau năm 1975, Đặng Thị Nhu là một con đường sách nổi tiếng mà dân mê sách, các nhà văn, nhà văn hóa ở Saigon không thể không biết.
Sách bán dạo và bày
bán như hàng chạp phô
Các món ăn và những đồ
vật thường dùng như chiếc chiếu, cây chổi lông gà… được bán dạo trên đường phố
vì đó là nhu cầu hằng ngày. Khi trở thành nhu cầu thường xuyên của nhiều người
ở một không gian nào đó, sách được đưa đi bán dạo như bán vé số hay đậu phộng
rang. Hoặc có khi được bày bán chung với hàng chạp phô.
Những năm 1990, ở các
bến xe đò thường thấy có những người bán sách dạo. Họ ôm bằng hai tay một chồng
sách cao gần tới cổ, rảo quanh bến xe mời khách mua sách. Sách gồm những tựa dễ
đọc, tác giả dễ đọc. Nếu không là truyện của Hồ Biểu Chánh, thì là những cuốn
sách giật gân ăn khách kiểu như “Vụ Án Đêm Giao Thừa,” “Lửa Hận Rừng Xanh,”
“Một Thời Ngang Dọc.” Ai cần mua cứ gọi họ đến ngay, đặt chồng sách xuống, tay
rút vài cuốn đang ăn khách để mời. Khách sẽ chọn một cuốn ưng ý để giết thời
giờ trên chiếc xe đò liên tỉnh chạy chậm rì. Lâu lâu có người mua vài cuốn làm
quà cho người ở quê. Kiểu bán sách dạo này không phổ biến so với bán báo dạo,
nhưng không phải mới mẻ mà đã có từ lâu.
Nhà văn Nguyễn Hiến Lê
kể trong bài viết “Kỷ nguyên tiêu thụ và nghề viết văn” (giai phẩm Bách Khoa số
kỷ niệm 16 năm và Xuân Quý Sửu 1973) kể là quê ông ngoài miền Bắc ngày xưa còn
có những người bán sách dạo mà ông thấy chỉ được một hai lần. “Họ gánh một đôi
bồ chứa đầy sách ghé vào nhà bác tôi ở quê. Có lẽ mỗi năm họ mới ghé một lần,
bán sách thì ít mà đổi sách thì nhiều: đổi sách lấy giấy đã viết rồi để ra tỉnh
bán ra cho những nhà làm lọng làm quạt. họ cũng như hạng người đi mua giấy báo
cũ bây giờ. Về sau số người cần sách mỗi ngày một hiếm, họ không đổi sách mà
đổi kẹo mạch nha lấy giấy. Rồi sau nữa người học chữ Nho mỗi ngày một hiếm,
giấy cũ cũng không có, nghề đó dẹp luôn”.
Trong báo Saigon, số
14344, ra ngày 8 Tháng Tư, 1940, bài viết “Nghề xuất bản sách” (không ghi tên
tác giả) cho biết tình hình bán sách báo lúc đó đầy chán ngán nhưng thực tế có
hai người biết cách bán sách rất hay dù không làm xuất bản. Đó là hai ông Phạm
Đình Khương và Phạm Văn Thình.
Hai ông chỉ phát hành
thơ, truyện, tuồng, bài ca thôi mà làm ăn khấm khá. Khắp các chợ nhỏ từ thành
thị ở thôn quê đều có tiệm bán sách của hai ông. Các loại sách này thường để
chung các đồ vật vụn vặt của người bán dạo bày trên chiếc chiếu trải dướt đất:
dao, kéo, gương soi, thuốc phong tình, thơ Chàng Nhái, vọng cổ ân tình… Tác giả
đi xuống Cà Mau thấy có năm người bán sách của hai ông này. Còn ở chợ các tỉnh
khác ở miền Nam có khá đông người hai bên dãy phố quanh chợ.
Ông tả: “Nhiều nơi, họ
choán một góc trong nhà chợ, dăng dây bốn phía và treo loại sách này lên như
thầy pháp lập đàn trận. Những tranh bìa các sách này sặc sỡ, màu in phủ tràn,
nét vẽ ngoằn ngoèo, người không ra người, nhà không ra nhà, cây không ra cây,
như bùa chú của pháp sư phá đàn, trông rất buồn cười. Anh chèo ghe, người phát
cỏ, người bán hàng gánh đều có thể mua được, đọc được, ngâm nga được.”
Tác giả cho biết thêm là
cả hai “nhà xuất bản” này tái bản mỗi cuốn hơn năm lần, mỗi lần hai ngàn cuốn,
tức một cuốn thơ bán ra mười ngàn cuốn, bán gái 5 xu, một cắc hay lên tới hai
cắc tùy cuốn. Người mua về bán lại, theo giá trăm, tức giá sỉ. Họ mua mỗi lần
cả trăm cuốn, “lạm xạm đủ thứ,” nhất là bài ca bán rất được.
Giữ sách: Từ “cặp”
sách đến tủ sách
Nhà văn Nguyễn Hiến Lê
trong bài viết dẫn ở trên kể về cách lưu trữ sách ngày xưa, hầu như là sách chữ
Hán, ở miền Bắc khoảng thập niên 1920: “Hồi tôi còn để chỏm, nhà tôi không có
tủ sách mà chỉ có hai cặp sách. Cặp sách của chúng tôi cao độ tám tấc gồm bốn
cái cọc một tấm ván gọi là đế, bề mặt bằng khổ tờ giấy bản gấp đôi, nghĩa là
chiều dài độ ba tấc, chiều ngang hơn hai tấc (tôi nhớ phỏng chừng như vậy),
đóng hai quai để treo lên, hoặc xách hoặc khiêng, thêm một tấm ván nữa ở phía
trên để dằn sách xuống. Khi đổi chỗ ở thì có người gánh, y như trong truyện
Kiều: ‘Túi dàn cặp sách đề huề dọn sang.’ Một cái cặp như vậy chứa Tứ Thư Ngũ
Kinh, ít bộ Bắc Sử và bộ Khang Hi tự điển thì vừa đủ. Còn cái nữa chứa một ít
sách thuộc, địa lý (tức sách phong thủy), tử vi, bói, vài bộ ngoại thư: Tình
Sử, Liêu Trai, Đường Thi, Tống Thi, Văn Tâm Điêu Long và ít cuốn sách Nôm:
Kiều, Hoa Tiên.”
Ông kể có một ông bác
chỉ có hai cặp sách gồm sáu bảy chục bộ mà đã nhiều sách nhất Tổng. Khi ấy muốn
mua sách thì xuống Hà Nội đến một tiệm ở phố Hàng Gai. Khoảng năm 1925 ở đó còn
có dăm bảy tiệm bày những sách in mộc bản ở trên một tấm phản kê hơi cao. Có
chừng trăm thứ sách rẻ tiền, còn sách quý cất riêng ở trong. Ít năm sau các
tiệm đó cũng dẹp luôn, thay vào là những tiệm bazar.
Trên đất nước có khí hậu
nóng ẩm, sách trong tủ thường phải đem ra phơi. Báo Phụ Nữ Tân Văn, số 198, 4
Tháng Năm, 1933, có bài tản văn “Phơi sách” của Phanh-Ni khá điệu đàng, có
đoạn: “Lại ngồi trên chiếu, chung quang ngổn ngang những sách chinh chòng, tôi
ngó qua một vòng, hay trong lòng hơi cảm động như đi tình cờ gặp lại bạn cũ, mắt
nhìn nhau chan chứa cảm tình. Bao nhiêu sách gợi bao nhiêu ngày xưa, bao nhiêu
tình cũ. Có đủ cả sách đấy: sách bằng thưởng cuối năm ở trường học, từ lớp nhỏ
đến lớp lớn, sách in đẹp thay, sơn son thếp vàng, trên bìa đầy những bông hoa
chạy lẫn chỉ vàng, cầm lên lại bâng khuâng nhớ những ngày… những ngày xưa, buổi
mình đưa tay lãnh sách, trái tim đập mạnh như vỡ ra nhồi máu trong đấy như xung
hết lên mặt, nóng đến hai tay…”
Bà Tùng Long, nhà văn nữ
viết truyện xã hội nổi tiếng trước 1975, kể trong hồi ký về thú đọc sách của
mình hồi còn nhỏ trong gia đình. Có cha là công chức Sở Thương Chánh thích đọc
sách báo và có viết bài gửi cho báo Nam Phong, Hữu Thanh, mua rất nhiều sách
báo nên bà may mắn từ nhỏ đã sống với sách báo thơ văn. Sách của người cha để đầy
các tủ, mẹ của bà lãnh phần chăm sóc đống sách báo không để mối mọt gặm nhấm.
Mỗi tháng một lần, người mẹ chọn ngày nắng ráo đem sách ra phơi, bà Tùng Long
còn làm một bé gái lãnh phần trông sách. Vừa trông vừa đọc báo, đọc sách có khi
say mê đến nỗi ngồi ngoài nắng mà không biết.
Quầy sách báo thiếu nhi trong một nhà sách tại Saigon.
Đối với những người có
điều kiện kinh tế, sách báo được mua về vẫn được xem là thứ vật chất quý giá để
giữ gìn. Tôi có đọc câu chuyện trong một cuốn bút ký sau 1975, về một anh trí
thức Sài Gòn nhà giàu Tây học bỏ nhà theo kháng chiến. Nói về sự kiên quyết dứt
bỏ giàu sang của anh ta, tác giả kể anh không hề tiếc ngôi biệt thự, cái tủ
rượu và một tủ sách đồ sộ. Bộ ba này được coi là những thứ phong lưu bậc nhất
mà người thời ấy có được.
***
Trong gia đình tôi, hầu
như ai cũng thích đọc sách từ ba mẹ đến các con, dù đã đi làm hay còn đi học..
Tuy vậy, cách nay năm mươi năm, số sách trong nhà chỉ độ vài chục cuốn đọc đi
đọc lại. Quý nhất chỉ là vài bộ truyện Tàu, bộ “Việt Nam Thi Nhân Tiền Chiến,”
vài tập thơ và vài sách bình luận văn chương của ông anh họcVăn khoa. Góp chung
chỉ đủ một kệ sách dài khoảng hai mét. Chỉ nhờ các tiệm cho mướn sách, từ giữa
thập niên 1960 anh em chúng tôi mới có thể đọc được nhiều sách.
Sinh thời, ba tôi còn
giữ ký ức về chợ sách trên lề đường Trần Quý Cáp (nay là Võ Văn Tần khu chợ
Đũi) khoảng 1954. Đọc cuốn “Một Mảnh Tình Riêng” của nhà văn Sơn Nam, thấy ông
nhắc tới chợ sách lề đường này và cho đó là “nét đẹp nhất vào màn chót của việc
chấm dứt một thế kỷ đô hộ của người Pháp.” Ở đó bán nhiều cuốn sách quý một thời
của những người sưu tập cất trong thư viện gia đình, mạ chữ vàng.
Ông kể: “Nhiều quyển
nhất là sách khảo cứu bán rẻ, thí dụ như sách cơ bản để tham khảo về văn minh
Chăm, điện Ăng-ko, đạo thiền, toàn tập văn chương của những bậc lừng danh Pháp,
hoặc Đức, Anh dịch sang chữ Pháp. Sách của những luật sư kỹ nghệ gia Pháp từng
lưu trú lâu đời ở Sài Gòn, già rồi họ về xứ để nhắm mắt. Lại còn sách lấy ra từ
các thư viện các câu lạc bộ sĩ quan Pháp, câu lạc bộ thể thao, đồn điền cao
su.”
Đây là cơ hội hiếm hoi
để sở đắc những cuốn sách đẹp và quý với kỹ thuật đóng sách cao cấp hơn hẳn
thời sau này. Tuy vậy, dù là sách vỉa hè, dù giá bán rẻ hơn trước nhưng theo ba
tôi, giới bình dân không mua nổi vì giá vẫn còn khá cao so với thu nhập của họ.
Đầu thập niên 1960, đại
lộ Lê Lợi trở thành thiên đường của giới ham đọc và ham học. Ở đó, ngoài khu
bán sách vỉa hè gần nhà thương Saigon, các quán bán sách báo và bưu ảnh, còn có
khoảng chục nhà sách, lớn nhất là Khai Trí, và các nhà sách Tự Lực, Việt Bằng,
Vĩnh Bảo, Dân Trí, Khai Trí, Phúc Thành, Lê Thành Tuân, Việt Hương, Nguyễn Văn
Trung, Văn Hữu, Lê Phan, Hoa San, Thu Tâm… Người đọc lúc ấy ra đến đó là mê
mẩn, nhưng mua phải dè sẻn. Nhà sách Khai Trí có cho đọc tại chỗ nên có rất
nhiều người tranh thủ coi cọp, tranh thủ nạp cho nhanh cho nhiều chữ nghĩa vào
đầu không mất tiền.
Trong hành lang Eden
khoảng thời gian này có ba nhà sách bán sách báo ngoại quốc, nổi bật là một
tiệm sách tiếng Anh tuy nhỏ nhưng khá nổi tiếng lấy tên là Book Shop. Lúc đó,
phong trào học Anh Ngữ đang lên, người Saigon đến học các trường tư dạy tiếng
Anh để mong tìm được việc làm thư ký hay phiên dịch ở các hãng buôn ngoại quốc,
các sở thông tin hay các tòa đại sứ Anh Mỹ. Lúc đó chỉ có sách dạy tiếng Anh
cho người Pháp, người Mã Lai, người Thổ Nhĩ Kỳ… Hiệu sách này ra đời đáp ứng
như cầu đa dạng hơn về sách tiếng Anh.
Được nơi thành lập là
Hội Ái Hữu Phụ Nữ Hoa Kỳ đứng ra nhập sách báo xuất bản tại Mỹ về Việt Nam,
hiệu sách có đủ các loại: Tiểu thuyết best-seller trong năm, sách khảo cứu đủ
loại từ làm vườn, trang hoàng nhà cửa, nuôi con… cho đến sách hội họa, văn
chương, chính trị. Ngoài ra, có cả các tuần san, nguyệt san như Life,
Saturday’s Evening Post, Esquire, Photography… Riêng sách học tiếng Anh có đủ
sách dành cho các cấp độ, từ “Tự Điển Bỏ Túi” cho đến “Bách Khoa Từ Điển.” Tuy
nhiên mỗi tựa sách ngoại ngữ nhập về đây không nhiều lắm nên chỉ một thời gian
ngắn là hết veo.
Các cuốn sách quý thật
sự trở thành của cải, có giá trị mua bán trao đổi trong giới đọc và chơi sách.
Trong thư viện gia đình của dân chơi sách tầm cỡ, thường là khá giả trở lên, sở
hữu nhiều sách giá trị mà nhà sách hay có khi thư viện không có, hoặc không
phong phú bằng.
Đường sách SAIGON ngày
nay.
Hồi mới lớn, sau 1975,
tôi có dịp vào hai ngôi nhà mà cả nhà đã bỏ ra nước ngoài. Một ngôi nhà trong
cư xá Nha Trước Bạ ở Phú Nhuận của một bác sĩ, có phòng tập thiền bằng gỗ và
một tủ sách nhỏ ở phòng khách. Tủ sách toàn những cuốn dày như “Papillion,
Người Tù Khổ Sai,” “Tội Ác và Hình Phạt,” “Bản Du Ca Cuối Cùng của Loài Người
Không Còn Đất Sống,” bộ “Thành Ngữ Điển Tích Danh Nhân Tự Điển,” cuốn “Tình Em
Vỗ Cánh” cùng nhiều cuốn tạp chí Thời Nay.
Lần đầu tiên tôi được
cầm những cuốn sách đó trên tay, mới toanh và cứng cáp, không bị đóng kẽm cứng
ngắt đến mức đọc mất chữ gần phía gáy sách như các tiệm cho mướn sách hay làm.
Tuy mê mẩn nhưng tôi chỉ dám mượn một cuốn để đọc. Sau đó, nó nhanh chóng vơi
bởi vì những người giữ nhà không thích đọc sách mà dùng vào việc khác, chỉ một
tháng sau đó.
Tủ sách thứ hai ở một
ngôi nhà phố trong hẻm của người Hoa trong Chợ Lớn. Buổi tối đứa bạn trong xóm
có người chị làm ở cơ quan tiếp nhận nhà người bỏ ra nước ngoài rủ tôi đến đó
tìm chị nó. Chị biết tôi thích sách nên bảo là sách chủ nhà để lại nhiều lắm,
thích thì cầm về. Tôi háo hức vào xem, hoa mắt nhìn các dãy kệ có rất nhiều
sách art books, các tập tranh Hoa điểu, đồ sứ cổ, đồ gốm và đồ gỗ kiểu xưa bên
Tàu.
Tôi chọn một cuốn vẽ các
loại khủng long in màu rất đẹp, sách tiếng Hoa in ở Hồng Kông. Về nhà, giở cuốn
sách dưới ánh đèn, tôi thấy rớt ra một tấm hình chụp năm người, hẳn là một gia
đình có hai vợ chồng, cô con gái lớn và hai cậu con trai nhỏ hơn. Trong hình,
cả nhà ăn mặc đẹp, dáng vẻ phong lưu và nền nếp. Tôi vẩn vơ nghĩ về gia đình đã
ra đi ấy. Hẳn là ngày xưa họ đã có những ngày sống hạnh phúc bên nhau, đã có
những buổi tối trong căn nhà đó, có hai cậu con trai được người cha chỉ xem và
giải thích từng bức tranh các loài bò sát cổ đại trong sách. Tủ sách này hẳn đã
được chắt chiu góp nhặt trong nhiều năm và là trung tâm của đời sống tinh thần
của gia đình này, để rồi cuối cùng phải bỏ lại.
Tôi biết trên thế giới
này, có rất nhiều người không cần đọc sách vẫn có cuộc sống hạnh phúc hay yên
ổn cả đời. Nên viết về chuyện đọc sách, mua sách, khen chê cái hay cái dở trong
một cuốn sách hóa ra chỉ trong thế giới những người đọc sách. Tản mạn về thú
đọc sách là muốn chia sẻ điều mình nghĩ trong thế giới chỉ dành riêng cho ai
tìm đến niềm vui, sự thức tỉnh và thổn thức trước những trang sách.
Đặng Yên Hòa
HOA TỰ DO
Văn diù cánh Phượng yên trăm họ
Võ thét oai Hùm dẹp bốn phương
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllVăn diù cánh Phượng yên trăm họ
Võ thét oai Hùm dẹp bốn phương
Chiếc xe Thổ mộ
Hoài
Hương sưu tầm
Sáng
sớm tờ mờ, người Saigon xưa nằm trong nhà đã nghe tiếng nhạc leng keng và tiếng vó ngựa lóc cóc của chiếc xe Thổ mộ ..
Xe Thổ mộ - tranh của Hoạ sĩ Bé Ký
Xe
thổ mộ chạy lên Gò Vấp chở hàng bông về Chợ Lớn. Từ lộ trình lên Gò
Vấp, nhiều xe còn ghé Chợ Lớn tranh thủ đón thêm khách. Thông thường xe
tập trung tại bến xe ngựa trên đường Mã Lộ (Q.1) hay ghé đậu bến xe ngựa
ở chợ Bến Thành.
Hình
ảnh chiếc xe ngựa với những tiếng kêu lenh keng, lóc cóc và cặp bánh gỗ
to đã trở nên thân thương, quen thuộc với bao thế hệ người miền Nam. Xe
dùng để chở người đi lại trong vùng hay vận chuyển hàng rau cải từ
những vùng quê lên Saigon. Mỗi khi có việc đi
lại trong vùng, đi mua sắm, thăm viếng, cưới xin, người ta đều chọn
phương tiện xe ngựa vì tính tiện lợi của nó. Thời điểm lúc bấy giờ, xe
ngựa vừa nhanh chóng, vừa tiện lợi bởi người ta có thể lên xuống bất kỳ
chỗ nào.
Bến xe Thổ mộ khi xưa cạnh Ga xe lửa Saigon
Xuất
xứ của xe Thổ mộ.
Về
xuất xứ của chiếc xe thổ mộ đầu tiên ở Nam Bộ có người cho là ở Saigon
nhưng cũng có ý kiến cho rằng xe thổ mộ có ở Bình Dương và điều này đã
được khẳng định trong câu vè: "Khô như bánh tráng là chợ Phan Rang, Xe thổ
mộ dọc ngang là chợ Thủ Dầu Một, Chẳng lo ngập lụt là chợ Bưng Cầu".
Xe
Thổ mộ xuất hiện khi nào?
Từ
cuối thế kỷ XIX, đất Thủ Dầu Một là nơi nghề thủ công phát triển mạnh,
kinh tế giao thông hàng hóa rộng khắp nhờ nguồn nhân lực thợ lành nghề
dồi dào, nhiều nguyên vật liệu, lại ở vào vị trí giao thương thuận lợi
cả về đường thủy và đường bộ, từ đây nhu cầu
về đi lại và vận chuyển hàng hóa rất lớn. Trên bộ, phương tiện giao
thông gần như duy nhất là xe ngựa, vì vậy mà nghề chế tác xe thổ mộ và
nghề chuyên chở bằng loại xe này nhanh chóng phát triển.
Theo
nhiều tài liệu khác thì vào khoảng đầu thế kỷ XX, phương tiện đi lại
của người dân vùng Saigon – Chợ Lớn và miền Đông Nam bộ rất hạn chế,
giao thông của cả vùng đấy này có khoảng năm ba chiếc xe ô tô (lúc bấy
giờ gọi là xe điện) chạy theo các tuyến đường
Saigon – Chợ Lớn, Saigon – Hóc Môn, Saigon – Thủ Dầu Một. Những
chiếc xe còn rất thô sơ nhưng chỉ những người quyền quý và có tiền mới
sử dụng để đi lại. Đa số dân lao động thường đi bộ, những người khá hơn
chút thì được đi xe thổ mộ, nhất là khi có hàng
hóa cần chuyên chở luôn phải dùng đến loại xe này. Vì thế xe thổ mộ có
cơ hội để phát triển nhanh.
Các
cơ sở đóng xe ngựa và nuôi ngựa đã sớm hình thành và cũng hình thành cả
đội ngũ chuyên làm nghề đánh xe ngựa. Đa số những nhà nghiên cứu đều
cho rằng, Đông Nam bộ thời đó chỉ có vài nơi sản xuất được xe thổ mộ,
trong đó Bình Dương có Thủ Dầu Một và Lái Thiêu.
Bình Dương còn có nhiều cơ sở đóng thùng xe đẹp nức tiếng như Bình
Hiệp, Tân An, Phú Cường. Nơi làm bánh xe đẹp, bền chắc có vùng Thuận
Giao, An Thạnh vì tại đây có nhiều thợ rèn lành nghề. Điều đó chứng tỏ
xe thổ mộ thời xa xưa đã rất phát triển ở Bình Dương
và người ta vẫn gọi xe thổ mộ ở đây là xe Thủ Dầu Một để phân biệt với
xe nơi khác.
Nguồn
gốc tên gọi “Xe Thổ Mộ”
Có
nhiều lý giải về nguồn gốc tên gọi này. Trong từ điển tiếng Việt miền
Nam, học giả Vương Hồng Sển giải thích, xe thổ mộ là xe do một con ngựa
kéo dùng để chở hàng hóa cho khách bộ hành vùng ngoại ô Saigon, Chợ
Lớn, Lái Thiêu. Còn theo nhà văn Sơn Nam và
Nguyễn Nguyên thì “thổ mộ” bắt nguồn từ hai chữ “thảo mã” nghĩa là loại
xe dùng ngựa để chở cỏ của người Trung Quốc. Cũng có ý kiến cho rằng,
trước đây việc chở quan tài đi chôn xa phải dùng xe ngựa để đưa đến chỗ
đất (thổ) mồ mả (mộ), nên quen gọi xe ngựa
là xe “thổ mộ”.
Bến xe Thổ mộ khi xưa cạnh Ga xe lửa Saigon
Một
số đông ý kiến khác lại cho rằng, vì mui chiếc xe có hình khum khum mu
rùa, giống như nấm mộ. Một số cụ già ở Bình Dương lại khẳng định “thổ
mộ” là tên gọi xe Thủ Dầu Một do nói nhanh, nói gọn của người Nam bộ.
Tất cả những lý giải về tên gọi của loại xe “thổ
mộ” còn cần phải được tìm hiểu thêm nhưng rõ ràng đất Thủ Dầu Một có
nhiều mối quan hệ trong việc hình thành, sáng tạo cũng như sử dụng rộng
rãi và lâu dài loại xe “thổ mộ”.
Cấu
tạo của một chiếc xe Thổ Mộ
Xe
thổ mộ có thùng (hay là khoang chứa người) dài 1,18m đến 1,2m, chiều
cao 1m, phía trên chia làm ba ô cửa sổ, chiều ngang (bề rộng) thùng xe
0,85m
Vật
liệu làm xe phần lớn từ gỗ giáng hương hoặc gỗ cây chò đây là hai loại gỗ quý, bền và có độ đàn hồi cao.
Thùng
xe được vít cứng trên một cái nhíp bốn lá hình ô van để tạo sự đàn hồi,
giữ thăng bằng cho thùng khi rong ruổi trên đường. Phía đầu thùng xe
hai bên là cặp tai đèn. Hai cái vè chở hàng (porte bagage) bằng gỗ bề
ngang hơn tấc tay, uốn lượn như dợn sóng rất
thẩm mỹ, cặp trên hai bên thùng xe có sức chịu lực mỗi bên khoảng ba
bốn mươi ký. Trên cùng là cái mui uốn cong, lợp thiếc nhô ra tới nửa
mình ngựa, khum lại như cái vành mũ .
Bên
trong thùng xe, khách ngồi trên chiếc chiếu bông đâu mặt nhau, chân co
về một phía, ít người thì khách ngồi thòng chân ở phía chỗ bàn đạp dành
cho khách lên xuống.
Giày
dép, thúng mủng, quanh gánh của khách thì máng ở hai cọc sắt phía sau
xe ở góc thùng. Dù chật hẹp như vậy nhưng không ai cảm thấy ngột ngạt vì
bên hông thùng xe là 3 ô cửa để hở cho gió lùa vào. Mỗi khi trời mưa,
khách có thể kéo tấm rèm xuống che mưa. Phía
trên nước mưa chảy xuống hết hai bên vì nóc là một cái mái khum tròn
như ngôi mộ đất.
Hai
bánh xe lớn hai bên, mỗi bánh xe được ghép từ sáu mảnh gỗ gắn với 12
chiếc tăm cắm vào trục bánh xe. Sau đó, dùng vòng sắt quấn quanh bảo vệ
bánh gỗ tạo thành một chiếc vành và dùng nệm cao su nịt chặt vòng ngoài.
Bánh xe được làm hoàn toàn từ gỗ và cao su
làm cho xe phát ra tiếng kêu lách cách đều đều ở bánh xe kết hợp với
tiếng chuông ở cổ ngựa.
Xe
thổ mộ là loại phương tiện đi lại phổ biến ở vùng Saigon-Gia Định của Việt Nam vào những năm 50 của thế kỷ XIX.
Chiếc
xe thổ mộ đã để lại nhiều kỷ niệm đối với người dân Nam Bộ là cũng là một nét văn hoá-lịch sử của vùng đất này.
Tài
liệu tham khảo : Wikipedia
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll