Chính quyền Việt Nam Cộng hòa sau 5 năm xây dựng dưới quyền Tổng
thống Ngô Đình Diệm đã dần vững mạnh. Các thế lực đối lập đều bị trấn áp
mạnh và bị suy giảm ảnh hưởng. Nhóm quân sự
; lực lượng vũ trang của các đảng phái Đại Việt, Quốc dân Đảng đều bị giải tán và sáp nhập vào
.
Để đảm bảo vị thế quyền lực của mình, Ngô Đình Diệm chủ trương
kềm chế các phe phái chính trị đối lập cũng như ảnh hưởng từ phía nước
ngoài như Mỹ, Pháp. Điều này giúp ông có thể tập trung sức mạnh để đương
đầu với đối thủ mà ông cho là nguy hiểm nhất: Cộng sản miền Nam, nhóm
chính trị và quân sự tuy bề ngoài không hoạt động hoặc hoạt động rời
rạc, nhưng thực tế chịu sự chỉ đạo thống nhất của Xứ ủy Nam Bộ. Nhất là
khi Nghị quyết Trung ương Đảng Lao động Việt Nam thứ 15 đã chỉ đạo Xứ ủy
Nam Bộ chuyển hình thái từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang.
Tuy nhiên, quan điểm này của Ngô Đình Diệm không được những người
đối lập tán đồng. Họ liên tục công kích chính sách độc tài chính trị
cũng như những thất bại về quân sự, mà nổi bật nhất là Phong trào Đồng khởi tại Bến Tre và Trận tập kích Tua Hai tại Tây Ninh cuối tháng 1 năm 1960, đều được thực hiện dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Nam Bộ.
Kế hoạch đảo chính đã được Trung tá Đông và các quan chức bất bình với chế độ Diệm, trong đó có Đại tá Nguyễn Chánh Thi,
chuẩn bị trong một năm. Đông đã cấu kết được với một Trung đoàn Thiết
giáp, một đơn vị Hải quân và ba Tiểu đoàn quân Nhảy dù. Phủ tổng thống
đã gởi Nha An ninh quân đội (và Bộ Tư lệnh Quân khu Thủ đô) chỉ thị phải
gấp rút điều tra Đại tá tư lệnh Lữ đoàn dù Nguyễn Chánh Thi về “những
hoạt động có hại cho quốc gia”. Lực lượng đảo chính quyết định tiến hành
cuộc đảo chính sớm hơn một ngày.[4]
Cuộc đảo chính nổ ra vào lúc 5 giờ sáng ngày 11 tháng 11. Lực lượng đảo chính chiếm đài phát thanh và phát nhật lệnh:
Tuy nhiên kế hoạch đã được thực hiện không hiệu quả, quân nổi loạn đã
không phong tỏa các con đường vào đô thành Sài Gòn. Ngô Đình Diệm sử
dụng hệ thống phát sóng đặc biệt nằm trong dinh Độc Lập yêu cầu các tư
lệnh Quân khu phải bình tĩnh và tự vệ cẩn mật để chờ lệnh của sĩ quan
liên lạc Phủ Tổng thống. Đại tá Trần Thiện Khiêm quân khu 5 được lệnh
phải cho đoàn Thiết giáp Mỹ Tho lấy một Chi đoàn lên ngay đậu tại Phú
Lâm chờ lệnh.[6]
Đầu tiên, lực lượng đảo chính đã bao vây dinh Độc Lập nhưng Ngô Đình
Diệm cử đại diện truyền đạt cho phe đảo chính lời hứa giải tán chính phủ
và vợ chồng Ngô Đình Nhu sẽ phải ra đi[5].
Phe đảo chính trì hoãn tấn công trong 36 tiếng đồng hồ vì tin rằng Diệm
sẽ tuân thủ theo yêu sách của họ. Đông đã cố gắng gọi điện cho đại sứ
Mỹ Elbridge Durbrow
để gây áp lực lên Diệm. Tuy nhiên, Durbrow dù chỉ trích Diệm vẫn giữ
lập trường của chính phủ Mỹ ủng hộ Diệm, cho rằng "chúng tôi ủng hộ
chính phủ này cho đến khi nó thất bại". Tổng tham mưu trưởng Quân lực
Việt Nam Cộng hòa, Đại tướng Lê Văn Tỵ,
tỏ thái độ ủng hộ và đồng ý hợp tác với phe đảo chính. Ông yêu cầu phe
đảo chính ngừng bắn để thương lượng với Tổng thống Ngô Đình Diệm. Lúc 4
giờ 45 phút sáng ngày 12/11/1960, Đài phát thanh Sài Gòn đã truyền đi
"Nhật lệnh 3 điểm" của Tổng tham mưu trưởng Lê Văn Tỵ:
Lợi dụng thời gian trì hoãn này, Diệm đã xuống tầng hầm dinh Độc Lập
và viết một bài diễn văn kêu gọi các tướng lãnh của Quân đội Việt Nam
Cộng hòa thành lập một Chính phủ lâm thời và hứa hẹn phối hợp với Ủy ban
cách mạng của phe đảo chính thành lập một Chính phủ liên hiệp để tránh
đổ máu và trấn an dân chúng.
Khi các thỏa hiệp đang được phát trên các phương tiện truyền thông ngày 12 tháng 11, Đại tá Huỳnh Văn Cao chỉ huy Bộ binh và Thiết giáp thuộc Sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho cùng Đại tá Trần Thiện Khiêm và Trung tá Bùi Dzinh chỉ huy Bộ binh và Pháo binh thuộc Sư đoàn 21 đóng ở Sa Đéc
đã tiến vào Sài Gòn. Cuộc giao tranh sau đó chớp nhoáng nhưng khốc liệt
với khoảng 400 người chết, trong đó có nhiều thường dân tò mò xuống
đường để xem cuộc giao tranh. Lực lượng trung thành đã tiêu diệt gọn
quân đảo chính.
LỰC LƯỢNG PHÒNG VỆ TỔNG THỐNG PHỦ BẮN DÂN CHÚNG TRƯỚC DINH ĐỘC LẬP ĐƯỜNG THỐNG NHỨT
Luật Nhân Quả
và các vấn đề tái sinh, số
mệnh, cầu an, cầu siêu
Trong
đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều thắc mắc, có nhiều vấn đề cần phải
giải quyết, chẳng hạn như là:
1)
Luật nhân quả là một lý thuyết của Phật giáo mà tất cả vạn vật trong vũ trụ đều
hoạt động, vận hành theo quy luật đó. Vậy, luật nhân quả là gì?
Luật nhân quả có phải do Đức Phật chế ra, như một số quốc gia đặt ra luật đi
đường chăng?
2)
Nếu có luân hồi thì khi chết rồi một người chỉ tái sanh một người thôi, tại sao
thế giới này ngày xưa thì ít mà nhân loại mỗi ngày thêm đông?
3)
Người và thú hoàn toàn khác nhau, làm sao sau khi chết người có thể tái sanh
thành thú và thú có thể thành người?
4)
Theo luật nhân quả thì ai làm nấy chịu. Tại sao có những việc cha làm con
bị ảnh hưởng, hoặc con làm mà cha bị liên can?
5)
Nếu "nhân nào quả nấy", tại sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp
lắm tai nạn khổ sở, trái lại người hung ác sao vẫn được an lành và nhiều may
mắn?
6)
Nếu "nhân nào quả nấy" thì chùa làm lễ cầu an, cầu siêu có đúng với
luật nhân quả không?
7)
Luật nhân quả và thuyết định mệnh giống nhau hay có gì khác biệt?
***
Câu
hỏi 1: Luật nhân quả là một lý thuyết
của Phật giáo mà tất cả vạn vật trong vũ trụ đều hoạt động, vận hành theo quy
luật đó. Vậy, luật nhân quả là gì? Luật nhân quả có phải do Đức
Phật chế ra, như một số quốc gia đặt ra luật đi đường chăng?
Luật
nhân quả thực ra có trước đạo Phật. Tuy nhiên, khi Đức Phật thành đạo
dưới cội bồ đề, ngài chứng được tam minh, lục thông, thấy được do nguyên nhân
nào con người luân hồi trong sáu nẽo, thấy được vô lượng kiếp quá khứ, như
người đứng trên lầu cao, nhìn xuống ngã ba, ngã tư, có đông người qua
lại. Do đó, luật nhân quả được giáo lý của đạo Phật hoàn chỉnh và luôn
luôn được đề cập trong tam tạng kinh điển, cho nên luật nhân quả trở thành lý
thuyết căn bản, là chánh kiến quan trọng trong Phật giáo. Luật nhân quả
là một chân lý hiển nhiên, luôn luôn đúng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị
lai, không lệ thuộc thời gian và không gian, áp dụng cho tất cả mọi sự sự vật
vật.
Trong
khi các quốc gia đặt ra luật đi đường chỉ để áp dụng trong phạm vi quốc
gia của mình, trong thời hiện tại mà thôi. Về sau, luật đi đường đó có
thể sửa đổi, tu chính cho thích hợp với sự tiến hóa của xã hội. Quốc gia
khác có thể không áp dụng cùng luật đi đường như vậy, đôi khi còn ngược hẳn
lại.
***
Câu
hỏi 2:
Nếu có luân hồi thì khi chết rồi một người chỉ tái sanh một người thôi, tại sao
thế giới này ngày xưa thì ít mà nhân loại mỗi ngày thêm đông?
Thuyết
luân hồi tái sanh ảnh hưởng cho tất cả mọi loài chúng sanh trong sáu cõi:
thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, và trong tam thiên đại thiên
thế giới, chứ không phải chỉ áp dụng cho loài người ở trên quả địa cầu này mà
thôi. Do đó, chúng sanh ở cõi này, thế giới này có thể tái sanh sang cõi
khác và thế giới khác, cho nên số chúng sanh lên xuống, hay thay đổi ở các cõi
là vì vậy.
***
Câu
hỏi 3:
Người và thú hoàn toàn khác nhau, làm sao sau khi chết người có thể tái sanh
thành thú và thú có thể thành người?
Người
và thú hoàn toàn khác nhau về hình tướng, về nghiệp thức, qua cái nhìn của thế
gian, nhưng qua con mắt trí tuệ của đạo Phật, người hay thú cũng đều có thân tứ
đại bao gồm đất, nước, gió, lửa như nhau, và nhất là đều có Phật Tánh, có tâm
thức. Sau khi hưởng hết phước báo, lại tạo tội tạo nghiệp, tức là tạo
nghiệp nhân chẳng lành, con người lãnh nghiệp quả chẳng lành tương ứng, bị đọa
vào ba đường khổ: địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh. Hoặc sau khi đền trả hết
nghiệp báo ba đường khổ, con người được trở về các cảnh giới thiên, nhơn, a tu
la.
Sự
tái sanh theo luật nhân quả qua lại trong sáu cõi luân hồi như vậy, trong kinh
sách gọi là: trầm luân sanh tử. Tu tập theo đạo Phật có mục đích cứu kính
là giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi nói trên.
***
Câu
hỏi 4: Theo
luật nhân quả thì ai làm nấy chịu. Tại sao có những việc cha làm con bị ảnh
hưởng, hoặc con làm mà cha bị liên can?
Đúng
là theo luật nhân quả, ai làm nấy hưởng, ai làm nấy chịu. Đó chính là sự công
bằng tuyệt đối, gọi là biệt nghiệp, tức là nghiệp riêng của từng người. Nghiệp
có ba thứ:
thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Thí dụ như: nhảy cao thì bị gảy
cẳng, nói bậy thì bị chúng chửi, nghĩ bậy thì bị nhức đầu, đó gọi là biệt
nghiệp. Thí dụ như: ở hiền thì gặp lành, nói hiền thì người thương, nghĩ
tốt thì bình yên.
Khi
người cha gặp nạn, thì không những người con bị ảnh hưởng, mà cả gia đình đều
chịu khổ sở chung, đó gọi là cộng nghiệp, tức là nghiệp chung của một số người
có liên hệ với nhau về huyết thống, về sắc tộc, về nghề nghiệp, về địa phương.
Còn người con làm mà người cha bị liên can cũng chính là cộng nghiệp, hoặc theo
luật pháp, người cha không biết dạy dỗ người con vị thành niên, khi người con
làm chuyện phạm pháp thì người cha phải chịu trách nhiệm liên đới. Đây là
nói về đời sống hiện tại. Nếu bàn về nhân quả nghiệp báo ba đời thì người
này có thể thiếu nợ người kia, người kia sanh lên làm con trong đời này, tiêu
pha hưởng thụ cho đủ số nợ rồi đi, có khi phá tan sản nghiệp của cha mẹ
nữa!
***
Câu
hỏi 5: Nếu
"nhân nào quả nấy", tại sao có người cả đời hiền từ mà lại gặp lắm
tai nạn khổ sở, trái lại người hung ác sao vẫn được an lành và nhiều may
mắn?
Thường
thường, chúng ta thấy gieo nhân nào thì gặt quả nấy, một cách nhãn tiền. Thí dụ
như: sinh sự thì sự sinh, gieo gió thì gặt bão, ở hiền thì gặp lành, làm thiện
thì hưởng phước. Gieo hột cam ngọt thì gặt quả cam ngọt, gieo hột chanh
chua thì gặt quả chanh chua.
Tuy
nhiên, cũng có nhiều người thắc mắc: Tại sao có người ăn hiền ở lành, tu tâm
dưỡng tánh, thường xuyên đi chùa, hay đi nhà thờ, không làm việc gì bất nhơn
thất đức, nhưng cứ bị nạn, bệnh hoạnliên miên, họa vô đơn chí, xui xẻo dồn dập?
Trái lại, có rất nhiều người, điêu ngoa hung tợn, lừa thầy phản bạn, làm đủ mọi
chuyện tồi tệ, ném đá giấu tay, không chừa bất cứ thủ đoạn, phương tiện gian
manh nào, nhằm đoạt cho bằng được mục đích vị kỷ của họ, tại sao họ vẫn cứ nhởn
nhơ phây phây, bình yên vô sự, ăn nên làm ra, gặp nhiều may mắn, tậu nhà sắm
xe?
Luật
nhân quả giải thích được các việc đó trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị
lai.
Có những nguyên nhân được tạo ra trong quá khứ, kết quả hay hậu quả nhận được
trong hiện tại. Có những nguyên nhân được tạo ra trong hiện tại, kết quả
hay hậu quả nhận được trong vị lai.
Người
hiền lành đang gieo nhân lành trong hiện tại, kết quả tốt chưa kịp đến thì hiện
nay phải đền trả quả báo xấu do nghiệp nhân xấu đã gây tạo trong quá khứ. Khi
quả báo xấu hết rồi, vận xui qua rồi, con người bắt đầu gặp may mắn, gặp vận
hên, gặp số đỏ, gặp quới nhơn, ăn nên làm ra, tiền vô như nước, vạn sự hanh
thông. Do đó, sách có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", chính
nghĩa như vậy.
Những
người hiện đời đang gieo nhân ác, tạo tội tạo nghiệp, hậu quả xấu chưa kịp trổ,
nhưng hiện tại đang thụ hưởng phước báo lành do nghiệp nhân tốt đã gieo trong
quá khứ. Khi hưởng hết phước báo rồi, con người bắt đầu đền trả nghiệp
báo, tai nạn triền miên, tán gia bại sản, lâm bệnh ngặt nghèo, hay chết thê
thảm. Các vị quốc vương, hay tổng thống bị đảo chánh và ám sát, các tay
tài phiệt bị phá sản phải tự tử, các hoàng gia, công nương, công tử bị bất đắc
kỳ tử trên xa lộ, dưới biển sâu, hay trên núi tuyết, cho thấy rằng luật nhân
quả không chừa bất cứ ai, không có ngoại lệ, không hề sai chạy!
Trong
Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Dục
tri tiền thế nhân, đương kim thọ giả thị.
Yếu
tri lai thế quả, kim sanh tác giả thị.
Nghĩa là:
Muốn
biết kiếp trước mình đã gieo nhân gì,
hãy
nhìn việc mình thọ nhận hiện tại.
Muốn
biết kiếp sau mình sẽ nhận quả nào,
hãy
nhìn việc mình đang làm hiện tại.
Nếu
hôm nay mình dốt nát nghèo nàn khốn khổ, gặp tai nạn liên miên, thậm chí chết
người, thì đó là quả của cái nhân tạo ác nghiệp và không biết làm việc phước
thiện trước đây. Nếu hôm nay mình thông minh, đủ ăn đủ mặc, thì đó là quả
của cái nhân tu tâm dưỡng tánh, tích phước tích đức trước đây, nhiều đời và đời
này. Hôm nay mình được bình an là quả của cái nhân mình không tạo sự bất
an cho kẻ khác, dù đó là kẻ thù. Hôm nay mình được hạnh phúc là quả của
cái nhân mình không phá hoại hạnh phúc kẻ khác, dù đó là kẻ thù.
Tùy
theo "cái
nhân"
là hạt giống loại nào, sau khi được gieo xuống đất, phải chờ đủ "thời tiết nhân
duyên",
mới gặt hái "cái quả" của nó, có khi sớm, cũng có khi muộn.
Cũng có khi gặt phải quả chanh chua, nhưng có thể đem bán đi, mua quả cam
ngọt. Đó là trường hợp chúng ta đã "lỡ" gieo nhân xấu, nhưng
nhờ thiện hữu tri thức nhắc nhở, chúng ta biết phục thiện, quay trở về chánh
đạo, chuyển ba nghiệp xấu ác thành ba nghiệp thiện lành, làm nhiều việc phước
đức, tu tâm dưỡng tánh, chúng ta có thể gặt "quả tốt", hay ít ra cũng
giảm bớt được "quả xấu".
Tức
là chuyện khó hóa dễ, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không. Cũng ví
như gieo nhân biết tiết kiệm, con người có thể gặt quả giàu có, hay giảm bớt
được nợ xưa đó vậy.
***
Câu
hỏi 6: Nếu
"nhân nào quả nấy" thì chùa làm lễ cầu an, cầu siêu có đúng với luật
nhân quả không?
Ngoài
các tính chất triết học, tín ngưỡng, đạo đức, luân lý, tâm lý, duy thức, Phật
giáo cũng là một tôn giáo. Cho nên Phật giáo cũng có những nghi thức, nghi lễ
để truyền bá chánh pháp một cách rộng rãi trong mọi tầng lớp dân gian.
Dân
chúng đông đảo có nhiều căn cơ trình độ khác nhau. Chư Tổ sư nhận biết điều đó,
nên đặt ra rất nhiều nghi thức, nghi lễ, như là: cầu an, cầu siêu, sám hối, thích
hợp với từng hoàn cảnh, từng trường hợp của mọi người trong dân chúng.
Chẳng hạn như là: trong gia đình có một người lâm trọng bệnh, ngoài việc cố
gắng chữa trị theo y học đông hay tây, thân nhân cần có thêm niềm tin vững
mạnh, để giúp đỡ người bệnh lên tinh thần, bệnh tình chóng khỏi. Thân
nhân bèn đến chùa mong được quí sư làm lễ cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia
hộ cho người bệnh chóng bình phục, tai qua nạn khỏi. Do đó nhà chùa có lễ cầu
an để giúp đỡ dân chúng về mặt tín ngưỡng, trong hoàn cảnh mọi người đang bối
rối, để đuợc an tâm phần nào trong lúc điều trị cơn bệnh.
Nếu
chẳng may, trong gia quyến có người qua đời, thân nhân xót thương đau khổ, tìm
đến chùa để mong được quí sư làm lễ cầu nguyện chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ cho
người mãn phần được vãng sanh về cõi an lành, về cõi tịnh độ. Do đó nhà
chùa có lễ cầu siêu để giúp đỡ dân chúng về mặt tín ngưỡng, trong hoàn cảnh mọi
người đang bối rối, để được an tâm phần nào trong lúc lo lắng hậu sự cho thân
nhân của mình. Nhân các cơ hội đó, quí sư đem chánh pháp giảng giải cho
dân chúng được thấu rõ về lý nhân quả, về sự vô thường trên thế gian, nâng cao
trình độ hiểu biết chánh pháp cho những người hữu duyên. Nhờ nhân lành
này, dân chúng được khai ngộ, có được chánh kiến, đó là cái thấy biết như thật,
trở về qui y Tam Bảo, phát nguyện tu tâm dưỡng tánh, hưởng được quả lành sau
đó, được an lạc và hạnh phúc, được giác ngộ và giải thoát, nhờ công phu tu tập
của chính bản thân.
Tuy
nhiên, nhiều khi có những người ngoại đạo, ngoại đạo nghĩa là: ngoài tâm cầu
đạo, khoác màu áo của tu sĩ Phật giáo, nhưng không có Phật Pháp, chuyên làm
nghề thợ tụng, lợi dụng kinh kệ, lợi dụng lòng mê tín, lợi dụng sự đau khổ
trong hoàn cảnh bối rối của người khác, để kiếm lợi dưỡng mưu sinh, như vậy
chẳng ích lợi gì cho chánh pháp, chẳng ích lợi gì cho dân chúng. Tệ nạn
này thực đáng nên bài trừ!
Tóm
lại, các buổi lễ cầu an, cầu siêu trong chùa hoàn toàn đúng với chánh pháp, áp
dụng luật nhân quả một cách khéo léo, đã được chư vị Tổ sư từ bi đặt ra để
hướng dẫn dân chúng bước vào ngưỡng cửa từ bi của nhà Phật, trong khi và sau
khi gặp hoàn cảnh khổ đau trong đời sống hằng ngày, nhằm truyền bá rộng rãi
chánh pháp vào trong dân gian, đem lại sự bình an trong tâm hồn của mọi người
đang sống trên thế gian đầy dầy sự bất trắc này.
***
Câu
hỏi 7: Luật
nhân quả và thuyết định mệnh giống nhau hay có gì khác biệt?
Thuyết
định mệnh chủ trương con người có một linh hồn cố định và một số mệnh, hay số
mạng, đã được định sẵn, đã được an bài, đã được quyết định, đã được xếp đặt, do
một đ?ng tối cao, gọi là thượng đế hay tạo hóa hay bất cứ tên gọi gì khác, và
con người phải chịu chấp nhận cái định mạng, định mệnh sắp sẵn này, không
phương né tránh, không có cách gì thay đổi, tất cả mọi cố gắng hay nỗ lực của
con người đều vô ích, vô dụng! Nếu thuyết định mệnh là đúng sự thực thì
con người trở thành tiêu cực, thụ động, yếu hèn, yên phận, yếm thế, vô trách
nhiệm, việc làm nào, thiện cũng như bất thiện, cũng cho là do ý muốn của thượng
đế, và lắm khi trở nên hung dữ, bạo tàn, bất nhân, để chống lại định mệnh đen
tối, bất công, do tạo hóa áp đặt, an bài, định sẵn, do đó con người tạo tội tạo
nghiệp, và làm cho bản thân và xã hội thêm đau khổ.
Đạo
Phật dạy rằng:
chúng sanh chỉ có "tâm
thức"
luôn luôn thay đổi, mang theo "nghiệp báo" từ nhiều kiếp trước.
Do dòng nghiệp lực chi phối, dẫn dắt, trói buộc, lôi cuốn, tâm thức luân hồi
sanh ra trên nhân gian này làm con người. Nhưng do nghiệp báo khác nhau,
cho nên hình tướng mỗi người khác nhau: đẹp xấu, mạnh yếu, nam nữ, khôn ngu,
lớn nhỏ, giàu nghèo, sang hèn, thậm chí anh chị em trong gia đình cũng khác
nhau. Nếu có ý chí mạnh mẽ, thấu rõ luật nhân quả, thấu hiểu được chân lý,
con người có thể vượt thoát được dòng nghiệp lực này, chuyển hóa được nghiệp
báo này. Trong kinh sách gọi đó là: giác ngộ và giải thoát.
Chẳng
hạn như là:
con người thường bị tam nghiệp thân khẩu ý sai khiến, lôi cuốn cho nên gây ra
không biết bao nhiêu là sự đau khổ trên thế gian này cho chính mình và cho
những người chung quanh. Con người do lòng tham lam đi cướp của giết
người, sang đoạt tài sản, giựt hụi quịt nợ, lập mưu toan tính kế gian, thưa gửi
kiện tụng người khác để đòi tiền bồi thường bạc triệu. Con người do lòng
sân hận đi trả thù kẻ hãm hại mình bằng các thủ đoạn tàn nhẫn hơn, chửi mắng
rủa xả người khác bằng những lời nói cay độc hơn. Con người do lòng si mê
đi tạo tội tạo nghiệp, gây thù chuốc oán, tạo ra biết bao điều đau khổ cho
người khác.
Nếu
con người hiểu rõ, tin sâu luật nhân quả, cộng thêm ý chí giác ngộ mạnh mẽ, con
người có thể dừng nghiệp và chuyển nghiệp, tức là con người có thể chấm dứt
dòng nghiệp lực, chuyển
đổi số mệnh, chuyển hóa cuộc đời khổ đau của mình, tu tập các nghiệp lành, tức
nhiên sẽ gặt các quả báo lành. Do nghiệp lực quá khứ, con người sanh ra
trên cõi đời này là không thay đổi được, gọi là định nghiệp, chỉ có điểm này
giống với thuyết định mệnh mà thôi. Nhưng sau khi sanh ra trên cõi đời
này, mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên từ trước, đó là nghiệp
báo, chứ không phải là số mệnh định sẵn hay định mệnh.
Luật
nhân quả, nhân duyên, hay thuyết nghiệp báo, thúc đẩy con người luôn luôn sống trong
đạo đức, nâng cao giá trị, nhân phẩm của con người, tránh mọi điều ác, làm mọi
điều lành, giữ tâm ý trong sạch, nếu được hiểu sâu rộng, tường tận và đem thực
hành, áp dụng vào đời sống hằng ngày, chắc chắn sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt
đẹp cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Trong sách có câu: "Đức năng
thắng số", nghĩa là: công đức và phước đức do nghiệp nhân lành, có khả
năng thắng, có khả năng chuyển đổi số phận hay vận mệnh của con người, tức là
chuyển đổi nghiệp báo vậy. Vận mệnh của con người bao gồm bốn yếu tố: thiên
mệnh, thời mệnh, địa mệnh và nhân mệnh.
Trong
kinh sách, có ghi trường hợp của Angulimala, vốn là một tên cướp tàn bạo
ở vương quốc Kosala, nhưng sau khi gặp Phật, được nghe thuyết pháp và thành tâm
ăn năn hối lỗi, cải tà qui chánh, tu hành không bao lâu chứng được thánh
quả. Nhiều người sanh ra với nghiệp báo thân thể yếu đuối, trí tuệ kém
cỏi, nhưng với ý chí mạnh mẽ, rèn luyện thân thể và chăm chú học hành cũng có
cơ hội trở thành lực sĩ, trở nên các nhà bác học, các bậc triết gia. Quá
khứ đã qua rồi, không thể thay đổi được, tương lai thì chưa đến, không nên quá
lo lắng, con người hãy sống trong hiện tại tỉnh giác, nhận chân thiện ác, giữ
gìn chánh niệm, hành động lành, lời nói lành, ý nghĩ lành, đó chính là nghiệp
nhân lành, nhất định nghiệp quả lành chắc chắn sẽ đến với con người ngay trong
đời này và luôn cả đời sau.
Trong
kinh sách, Đức Phật dạy:
"Mỗi người tùy theo nghiệp của mình tạo ra, mà có được thân phận hạnh phúc
hay bất hạnh".
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
vp.phat-hoc tinh-quang canada