CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT
GIÁO VIỆT NAM (PHTQ số 16)
TK. Thích-Chân-Tuệ
Cơ-Sở Phật-Học Tịnh-Quang Canada
http://phtq-canada.blogspot.com/2021/07/cach-xung-ho-trong-phat-giao-viet-nam.html
http://phtq-canada.blogspot.com/2011/09/ai-chi-bo-tat-canh-hoa-sen-mau-xanh.html
http://phtq-canada.blogspot.com/2011/05/cach-xung-ho-trong-phat-giao-phtq-so-16.html
Trong khóa nghiên tu
an cư mùa hạ năm 2005, tại Tổ đình Từ Quang Montréal, Canada, các thắc mắc sau
đây được nêu lên trong phần tham luận:
1) Khi nào gọi các vị
xuất gia bằng Thầy, khi nào gọi bằng Đại Đức, Thượng Tọa hay Hòa Thượng?
2) Khi nào gọi các vị
nữ xuất gia bằng Ni cô, Sư cô, Ni sư hay Sư Bà? Có bao giờ gọi là Đại Đức Ni,
Thượng Tọa Ni hay Hòa Thượng Ni chăng?
3) Khi ông bà cha mẹ
gọi một vị sư là Thầy hay Sư phụ, người con hay cháu phải gọi là Sư ông, hay
cũng gọi là Thầy? Như vậy con cháu bất
kính, coi như ngang hàng với bậc bề trên trong gia đình chăng?
4) Một vị xuất gia
còn ít tuổi đời (dưới 30 chẳng hạn) có thể nào gọi một vị tại gia nhiều tuổi
(trên 70 chẳng hạn) bằng “con” được chăng, dù rằng vị tại gia cao niên đó xưng
là “con” với vị xuất gia?
5) Sau khi xuất gia,
một vị tăng hay ni xưng hô như thế nào với người thân trong gia đình?
Trước khi đi vào phần
giải đáp các thắc mắc trên, cần thông qua các điểm sau đây:
*1) Chư Tổ có dạy: “Phật pháp tại thế gian”. Nghĩa là: việc đạo không thể tách rời việc đời. Nói một cách khác, đạo ở tại đời, người nào
cũng đi từ đời vào đạo, nương đời để ngộ đạo, tu tập để độ người, hành đạo để
giúp đời. Chư Tổ cũng có dạy: “Hằng thuận chúng sanh”. Nghĩa là: nếu phát tâm tu theo Phật, dù tại
gia hay xuất gia, đều nên luôn luôn thuận theo việc dùng tứ nhiếp pháp (bố thí,
ái ngữ, lợi hành và đồng sự) để đem an lạc cho chúng sanh, tức là cho mọi người
trong đời, bao gồm những người đang tu trong đạo.
*2) Từ đó, chúng ta
chia cách xưng hô trong đạo Phật ra hai trường hợp:
Một là, cách xưng hô
chung trước đại chúng nhiều người, có tính cách chính thức, trong các buổi lễ,
cũng như trên các văn thư, giấy tờ hành chánh. Hai là, cách xưng hô riêng giữa hai người, tại gia hay xuất gia, mà
thôi. Người chưa rõ cách xưng hô trong đạo
không nhứt thiết là người chưa hiểu đạo, chớ nên kết luận như vậy. Cho nên, việc tìm hiểu và giải thích là bổn phận
của mọi người, dù tại gia hay xuất gia.
*3) Có hai loại tuổi
được đề cập đến, đó là: tuổi đời và tuổi đạo.
Tuổi đời là tuổi tính theođời, kể từ năm sinh ra. Tuổi đạo là tuổi thường được nhiều người tính
từ ngày xuất gia tu đạo. Nhưng đúng ra, tuổi đạo phải được tính từ năm thụ cụ
túc giới và hằng năm phải tùng hạ tu học theo chúng và đạt tiêu chuẩn, mỗi năm
như vậy được tính một tuổi hạ. Nghĩa là tuổi đạo còn được gọi là tuổi hạ (hay hạ
lạp). Trong nhà đạo, tất cả mọi việc, kể cả cách xưng hô, chỉ tính tuổi đạo, bất
luận tuổi đời. Ở đây không bàn đến việc
những vị chạy ra chạy vào, quá trình tu tập trong đạo không liên tục.
Bây giờ, chúng ta bắt
đầu từ việc một người tuổi đời dưới 20 phát tâm xuất gia, hay do gia đình đem gửi
gắm vào cửa chùa, thường được gọi là chú tiểu, hay điệu. Đó là các vị đồng
chơnnhập đạo. Tùy theo số tuổi, vị này được giao việc làm trong chùa và học tập kinh
kệ, nghi lễ. Thời gian sau, vị này được
thụ 10 giới, gọi là Sa di (nam) hay Sa di ni (nữ), hoặc Chú (nam) hay Ni cô (nữ).
Khi tuổi đời dưới 14, vị này được giao việc đuổi các con quạ quấy rầy khu vực tu
thiền định của các vị tu sĩ lớn tuổi hơn, cho nên gọi là “khu ô sa di” (sa di đuổi
quạ).
Đến năm được ít nhất
là 20 tuổi đời, và chứng tỏ khả năng tu học, đủ điều kiện về tu tánh cũng như tu
tướng, vị này được thụ giới cụ túc, tức là 250 giới tỳ kheo (nam) hay 348 giới tỳ
kheo ni (nữ) và được gọi là Thầy (nam) hay Sư cô(nữ). Trên giấy tờ thì ghi là Tỳ Kheo (nam) hay Tỳ
Kheo Ni (nữ) trước pháp danh của vị xuất gia.
Ở đây xin nhắc thêm,
trước khi thụ giới tỳ kheo ni, vị sa di ni (hoặc thiếu nữ 18 tuổi đời xuất gia
và chưa thụ giới sa di ni) được thụ 6 chúng học giới trong thời gian 2 năm, được
gọi là Thức xoa ma na ni. Cấp này chỉ có bênni, bên tăng không có. Tuy nhiên trong tạng luật, có đến 100 chúng học
giới chung cho cả tăng và ni. Cũng cần
nói thêm, danh từ tỳ kheo có nơi còn gọilà tỷ kheo, hay tỳ khưu, tỷ khưu. Bên
nam tông, tỷ kheo có 227 giới, tỷ kheo ni có 311 giới. Giới cụ túc (tỳ kheo hay tỳ kheo ni) là giới đầy
đủ, viên mãn, cao nhất trong đạo Phật để từng vị xuất gia tu tập cho đến lúc mãn
đời (thường gọi là viên tịch, không nên lạm dụng từvãng sanh), không phải thụ
giới nào cao hơn. Việc thụ bồ tát giới
(tại gia hay xuất gia) là do sự phát tâm riêng của từng vị theo bắc tông, nam
tông không có giới này.
Ở đây, xin nói thêm
rằng: Bắc tông (hay bắc truyền, phát triển) là danh từ chỉ các tông phái tu theo
sự truyền thừa về phương bắc của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tây Tạng, Trung Hoa, Triều
Tiên, Nhật bổn và Việt Nam. Nam tông (hay nam truyền, nguyên thủy) là danh từ chỉ
các tôngphái tu theo sự truyền thừa về phương nam của xứ Ấn Độ, qua các xứ Tích
Lan, Thái Lan, Miến Điện, Lào, Cao Miên và Việt Nam.
Trong lúc hành đạo,
tức là làm việc đạo trong đời, đem đạo độ đời, nói chung sự sinh hoạt của Phật
giáo cần phải thiết lập tôn ti trật tự (cấp bậc) có danh xưng theo hiến chương của
Giáo Hội Phật Giáo như sau:
1) Năm 20 tuổi đời,
vị xuất gia thụ giới tỳ kheo được gọi là Đại Đức.
2) Năm 40 tuổi đời,
vị tỳ kheo được 20 tuổi đạo, được gọi là ThượngTọa.
3) Năm 60 tuổi đời,
vị tỳ kheo được 40 tuổi đạo, được gọi là Hòa Thượng.
Còn đối với bên nữ
(ni bộ):
4) Năm 20 tuổi đời,
vị nữ xuất gia thụ giới tỳ kheo ni được gọi là Sư cô (hiện nay ở Canada, có giáo
hội gọi các vị tỳ kheo ni này là Đại Đức).
5) Năm 40 tuổi đời,
vị tỳ kheo ni được 20 tuổi đạo, được gọi là Ni sư.
6) Năm 60 tuổi đời,
vị tỳ kheo ni được 40 tuổi đạo, được gọi là Sưbà (bây giờ gọi là Ni trưởng).
Đó là các danh xưng
chính thức theo tuổi đời và tuổi đạo (hạ lạp), được dùng trong việc điều hành Phật
sự, trong hệ thống tổ chức của Giáo Hội Phật Giáo, không được lạm dụng tự xưng,
tự phong, tự thăng cấp, mà phải được xét duyệt và chấp thuận bởi một hội đồng
giáo phẩm có thẩm quyền, và được cấp giáo chỉ tấn phong, nhân dịp Đại Lễ hay Đại
Hội Phật Giáo, trong các Giới Đàn, hay trong mùa an cư kết hạ hằng năm.
Như trên, chúng ta
có thể hiểu rằng: Sư cô nghĩa là Đại đức bên ni bộ. Ni sư nghĩa là Thượng tọa
bên ni bộ. Sư bà (hay Ni trưởng) nghĩa
là Hòa thượng bên ni bộ. Bởi vậy cho nên,
các buổi lễ hay văn thư chính thức, thường nêu lên là: “Kính bạch chư tôn Hòa
thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni”, chính là nghĩa đó vậy. Tuy vậy, trên thực
tế, chưa thấy có nơi nào chính thức dùng các danh xưng: Đại đức ni, Thượng tọa
ni, hay Hòa thượng ni. Nếu có nơi nào đã
dùng, chỉ là cục bộ, chưa chính thức phổ biến, nghe không quen tai nhưng không
phải là sai. Đối với các bậc Hòa Thượng mang trọng trách điều hành các cơ sở Giáo
Hội Phật Giáo trung ương cũng như địa phương, hay các Đại Tùng Lâm, Phật Học Viện,
Tu Viện, thường làcác vị trên 80 tuổi đời, được tôn xưng là Đại Lão Hòa Thượng
hay Trưởng Lão Hòa hượng. Các vị thuộc hàng giáo phẩm này thường được cung thỉnh
vào các hội đồng trưởng lão, hoặc hội đồng chứng minh tối cao của các Giáo Hội
Phật Giáo. Tuy nhiên, khi ký các thông bạch, văn thư chính thức, chư tôn đức vẫn xưng
đơn giản là Tỳ kheo, hay Sa môn (có nghĩa là: thầy tu).
Đến đây, chúng ta nói
về cách xưng hô giữa các vị xuất gia với nhau và giữa các vị cư sĩ Phật tử tại
gia và tu sĩ xuất gia trong đạo Phật.
1)* Giữa các vị xuất
gia, thường xưng con (hay xưng pháp danh, pháp hiệu) và gọi vị kia là Thầy (hoặc
gọi cấp bậc hay chức vụ vị đó đảm trách).
Bên tăng cũng như bên ni, đều gọi sư phụ bằng Thầy, (hay Sư phụ, Tôn sư,
Ân sư).Các vị xuất gia cùng tông môn, cùng sư phụ, thường gọi nhau là Sư huynh,
Sư đệ,Sư tỷ, Sư muội, và gọi các vị ngang vai vế với Sư phụ là Sư thúc, Sư bá.
Có nơi dịch ra tiếng Việt, gọi nhau bằng Sư anh, Sư chị, Sư em. Ngoài đời có
các danh xưng: bạn hữu, hiền hữu, thân hữu, hội hữu, chiến hữu. Trong đạo Phật
có các danh xưng: đạo hữu (bạn cùng theo đạo), pháp hữu (bạn cùng tu theo
giáo pháp). Các danh xưng: tín hữu (bạn cùng tín ngưỡng, cùng đức tin), tâm hữu
(bạn cùng tâm, đồng lòng) không thấy được dùng trong đạo Phật.
2)* Khi tiếp xúc với chư tăngni, quí vị cư sĩ Phật
Tử tại gia (kể cả thân quyến của chư tăng ni) thường đơn giản gọi bằng Thầy, hay
Cô, (nếu như không biết rõ hay không muốn gọi phẩm trật của vị tăng ni có tính
cách xã giao), và thường xưng là con (trong tinh thần Phật pháp, người thụ ít giới
bổn tôn kính người thụ nhiều giới bổn hơn, chứ không phải tính tuổi tác người
con theo nghĩa thế gian) để tỏ lòng khiêm cung, kính Phật trọng tăng, cố gắng tu
tập, dẹp bỏ bản ngã, dẹp bỏ tự ái, cống cao ngã mạn, mong đạt trạng thái: niết
bàn vô ngã, theo lời Phật dạy. Có những
vị cao tuổi xưng tôi hay chúng tôi với vị tăng ni trẻ để tránh ngại ngùng cho cả
hai bên. Khi qui y Tam Bảo thụ ngũ giới (tam qui ngũ giới), mỗi vị cư sĩ Phật Tử
tại gia có một vị Thầy (Tăng bảo) truyền giới cho mình. Vị ấy được gọi là Thầy Bổn sư.
Cả gia đình có thể cùng chung một vị Thầy Bổn sư, tất cả các thế hệ cùng gọi vị ấy
bằng Thầy. Theo giáo phái khất sĩ, nam tu sĩ được gọi chung là Sư và nữ tu sĩ được
gọi chung là Ni. Còn nam tông chỉ có Sư, không có hay chưa có Ni. Việc tâng bốc,
xưng hô không đúng phẩm vị của tăng ni, xưng hô khác biệt trước mặt và sau lưng,
tất cả đều nên tránh, bởi vì không ích lợi cho việc tu tâm dưỡng tánh.
3)* Khi tiếp xúc với quí vị cư sĩ Phật Tử tại gia,
kể cả người thân trong gia quyến, chư tăng ni thường xưng là tôi hay chúng tôi
(hay xưng pháp danh, pháp hiệu, hoặc bần tăng, bần ni), cũng có khi chư tăng ni
xưng là Thầy, hay Cô, và gọi quí vị là đạo hữu, hay quí đạo hữu. Cũng có khi chư
tăng ni gọi quí vị tại gia bằng pháp danh, có kèm theo (hay không kèm theo) tiếng
xưng hô của thế gian. Cũng có khi chư tăng ni gọi quí vị tại gia là “Quí Phật Tử”.
Chỗ này không sai, nhưng có chút không ổn, bởi vì xuất gia hay tại gia đều cùng
là Phật Tử, chứ không riêng tại gia là Phật Tử mà thôi. Việc một Phật Tử xuất gia (tăng ni) ít tuổi gọi
một Phật Tử tại gia nhiều tuổi bằng “con” thực là không thích đáng, không nên.
Không nên gọi như vậy, tránh sự tổn đức. Không nên bất bình, khi nghe như vậy,
tránh bị loạn tâm. Biết rằng mọi chuyện trên đời:ngôi thứ, cấp bậc, đều có thể
thay đổi, nhưng giá trị tuổi đời không đổi, cứtheo thời gian tăng lên. Theo
truyền thống đông phương, tuổi tác (tuổi đời) rất được kính trọng trong xã hội,
dù tại gia hay xuất gia.
4)* Trong các trường hợp tiếp xúc riêng, tùy thuận
theo đời, không có tính cách chính thức, không có tính cách thuyết giảng, chư
tăng ni có thể gọi các vị cư sĩ Phật Tử tại gia, kể cả người thân trong gia quyến,
một cách trân trọng,tùy theo tuổi tác, quan hệ, như cách xưng hô xã giao người
đời thường dùng hằng ngày. Danh xưng Cư sĩ hay Nữ Cư sĩ thường dùng cho quí Phật
Tử tại gia, qui y Tam bảo, thụ 5 giới, phát tâm tu tập và góp phần hoằng
pháp. Còn được gọi là Ưu bà tắc (Thiện
nam, Cận sự nam) hay Ưu bà di (Tín nữ, Cận
sự nữ).
5)* Chúng ta thử bàn qua một chút về ý nghĩa của
tiếng xưng “con” trong đạo Phật qua hình ảnh của ngài La Hầu La. Ngài là con của
đức Phật theo cả hai nghĩa: đời và đạo. Ngài sớm được tu tập trong giới pháp,
công phu và thiền định khi tuổi đời hãy còn thơ. Ngài không ngừng tu tập, cuối
cùng đạt đượ cmục đích tối thượng. Ngài thực sự thừa hưởng gia tài siêu thế của
đức Phật, nhờ diễm phúc được làm “con” của bậc đã chứng ngộ chân lý. Ngài là tấm
gương sáng cho các thế hệ Phật tử tại gia (đời) cũng như xuất gia (đạo), bất luận
tuổi tác, tự biết mình có phước báo nhiều kiếp, hoan hỷ được xưng “con” trong
giáo pháp của đức Phật.
6)* Đối với các vị bán thế xuất gia, nghĩa là đã lập
gia đình trước khi vào đạo, vẫn phải trải qua các thời gian tu tập và thụ giới
như trên, cho nên cách xưng hô cũng không khác. Tuy nhiên để tránh việc gọi một
người đứng tuổi xuất gia (trên 40, 50) là chú tiểu, giống như gọi các vị trẻtuổi,
có nơi gọi các vị bán thế xuất gia này là Sư chú, hay Sư bác. Hai từ ngữnày có
nơi mang ý nghĩa khác. Việc truyền giới cụ túc, hay tấn phong, có khi không đợi
đủ thời gian như trên đây, vì nhu cầu Phật sự của giáo hội, hay nhu cầu hoằng
pháp của địa phương, nhất là đối với các vị bán thế xuất gia có khả năng hoằng
pháp, từng đảm nhận trọng trách, hay nghiên cứu tu tập trước khi vào đạo.
7)* Vài xưng hô khác trong đạo như: Sư Ông, Sư Cụ
thường dành gọi vị sư phụ của sư phụ mình,hoặc gọi chư tôn đức có hạ lạp cao,
thu nhận nhiều thế hệ đệ tử tại gia và xuấtgia. Một danh xưng nữa là Pháp Sư,
dành cho các vị xuất gia tăng hay ni (sư) có khả năng và hạnh nguyện thuyết pháp
(pháp) độ sanh. Ngoại đạo lạm dụng danh xưng này chỉ các ông bà thầy pháp, thầy
cúng.
8)* Danh xưng Sư Tổ được dành cho chư tôn đức lãnh
đạo các tông phái còn tại thế, và danhxưng Tổ Sư được dành cho chư tôn đức đã
viên tịch, được hậu thế truy phong vì có công lao trọng đại đối với nền đạo. Đối
với các bậc cao tăng thạc đức thường trụ ở một tự viện, người trong đạo thường
dùng tên của ngôi già lam đó để gọi quí ngài, tránh gọi bằng pháp danh hay pháp
hiệu của quí ngài, để tỏ lòng tôn kính.
9)* Ngày xưa khi đức Phật còn tại thế, các vị tỳ
kheo thường dùng tiếng Ðại Ðức (bậc thầy đức độ lớn lao, phúc tuệ lưỡng toàn) để
xưng tán Ngài, mỗi khi có việc cần thưa thỉnh. Các vị đệ tử lớn của đức Phật
cũng được gọi là Ðại Ðức. Trong các giới đàn
ngày nay, các giới tử cũng xưng tán vị giới sư là Đại Đức.
10)* Nói chung, cách xưng hô trong đạo Phật nên thể
hiện lòng tôn kính lẫn nhau, noi theo Bồ tát Thường bất khinh, bất tùy phân biệt,
bất luận tuổi tác, dù tại gia hay xuất gia, nhằm ngăn ngừa tư tưởng luyến ái của
thế tục, nhắm thẳng hướng giác ngộ chân lý, giải thoát sinh tử khổ đau, vượt khỏi
vòng luân hồi loanh quanh luẩn quẩn. Nhất giả lễ kính chư Phật. Nhất thiết chúng
sanh giai hữu Phật tánh. Cho nên đơn giản nhất
là: “xưng con gọi Thầy”.
Theo các bộ luật bắc
tông và nam tông còn có nhiều chi tiết hơn.
* * *
Tóm lại, ngôn ngữ,danh
từ chỉ là phương tiện tạm dùng giữa con người với nhau, trong đạo cũng như ngoài
đời, có thể thay đổi theo thời gian và không gian, cho nên cách xưng hôtrong đạo
Phật tùy duyên, không có nguyên tắc cố định, tùy theo thời đại, hoàn cảnh, địa
phương, tông phái, hay tùy theo quan hệ giữa hai bên. Đó là phần tu tướng.
Các vị phát tâm xuất
gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi thường mọi thứ danh lợi, địa
vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô, tranh hơn thua chi lời nói,
quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước đứng sau, tranh chấp danh tiếng,
tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo. Đồng quan điểm hay không, được cung kính hay
không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, tránh sự tranh cãi.
Nơi đây không bàn đến cách xưng hô của những người không thực sự phát tâm tu tập,
hý ngôn hý luận, náo loạn thiền môn, dù tại gia cũng như xuất gia. Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng
môn khai. Nhất niệm sân tâm khởi, thiêu vạn công đức lâm, chính là nghĩa như vậy.
Cách xưng hô nên làm
cho mọi người, trong đạo cũng như ngoài đời, cảm thấy an lạc, thoải mái, hợp với
tâm mình, không trái lòng người, không quá câu nệ chấp nhứt, thế thôi! Đó là phần
tu tâm.
Trong đạo Phật, cách
xưng hô có thể biến đổi nhưng có một điều quan trọng bất biến, không biến đổi,
đó là phẩm hạnh, phẩm chất, đức độ, sự nổ lực, cố gắng tu tâm dưỡng tánh không
ngừng, cho đến ngày đạt mục đích cứu cánh: giác ngộ và giải thoát, đối với Phật
Tử tại gia cũng như xuất gia.
Đó chính là một phần
ý nghĩa của “tùy duyên bất biến” trong đạo Phật vậy.[]
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll