Trường Trung Học nữ sinh Trưng Vương (Saigon)
Trường
nữ sinh Trưng Vương, tiền thân là trường nữ Trung Học Trưng Vương từ Hà
Nội di cư vào Nam sau năm 1954 nên đội ngũ giáo sư học sinh ban đầu chủ
yếu là gốc Bắc.
Trường
Trưng Vương ban đầu phải học ké tại trường Gia Long, nhưng sau đó
trường đã có cơ sở và khuôn viên riêng. Cụ thể là năm 1957, trường dời
về số 3 Nguyễn Bỉnh Khiêm,
gần Thảo Cầm Viên Saigon và cũng gần trường nam sinh Võ Trường Toản
nữa. Do vậy, có rất nhiều mối tình thuở thiếu thời Trưng Vương – Võ
Trường Toản vẫn đẹp mãi trong lòng những cựu học sinh hai
trường.
Ai
đã từng đi qua hàng cây trên con đường Nguyễn Bỉnh Khiêm ngày xưa thì
sẽ hiểu vì sao chỉ một mùa thu qua, mà nhạc sĩ Nam Lộc đã bâng khuâng
với cảm giác nắng vương nhẹ gót chân, với lá rơi đầy sân. Cảm giác ấy có
lẽ sẽ được những nữ sinh Trương Vương ngày đó mang theo trong ký ức của
họ đến mọi nẻo đường trong cuộc đời.
“Tim em chưa nghe rung qua một lần
Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần
Tình trần mong manh như lá me xanh
Ngơ ngác rơi nhanh…”
(Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu – Lời Việt: Nam Lộc)
TRƯỜNG TRUNG HỌC NỮ SINH GIA LONG (Saigon)
Trường
Gia Long là một trong những ngôi trường nữ sinh nổi tiếng một thời có
lịch sử tới hơn 100 năm. Trường được mở từ thời Pháp thuộc dưới kiến
nghị của nghị viên hội đồng Quản Hạt Nam Kỳ Lê Văn Trung và vợ Tổng Đốc
Phương cùng với một số nhân sĩ khác.
Đằng sau một ngôi trường thơ mộng từng được mệnh danh là trường “nữ sinh áo tím” (vì
trước đó nữ sinh Gia Long nổi tiếng với màu áo tím) là khát vọng về một
xã hội tự do, nơi có nam nữ bình quyền – đều có quyền được sống, được
hưởng một nền giáo dục và học tập ngang nhau.
Trường
nữ Gia Long là niềm tự hào của biết bao nhiêu nữ sinh thời ấy. Có thể
nói cho đến tận bây giờ, hai tiếng Gia Long vẫn có thể thay cho tiếng
chào kết bạn, là sợi dây kết nối khi họ tình cờ gặp nhau ở bất cứ nơi
nào trên thế giới, là niềm tự hào của người thiếu nữ trưởng thành trong
một nền lễ giáo của gia đình miền Nam thời ấy.
Nữ sinh Gia Long
Trong
âm nhạc, những bóng dáng thướt tha của nữ sinh Gia Long được nhạc sĩ
Nguyễn Văn Đông ghi lại trong ca khúc Cô Nữ Sinh Gia Long:
“Đường xa cô gái Gia Long về đâu
Dừng chân cho nhắn thăm cô vài câu
Bao cô dưới cùng mái trường
Khi xưa đã tặng hoa mừng
Nay có còn theo bước thương không…”
Bài hát này kể câu chuyện tình giữa cô nữ sinh và người lính.
Võ Thị Hai, một cựu nữ sinh Gia Long, hồi tưởng lại một thời áo trắng của bà và của những người cùng thế hệ:
“Có
lẽ đại đa số cựu nữ sinh Gia Long chọn người yêu đi lính là một sự vô
tình, không phải là sự chọn lựa. Vì thời đó là thời loạn, đại đa số
thanh niên phải đi nhập ngũ, làm nghĩa vụ của người trai. Có những người
trở về, có những người mất tích, một thiểu số ở lại nếu họ bị thương.
Những
mối tình của nữ sinh Gia Long rất trong sáng, tuyệt đặt trong vòng lễ
giáo, không bao giờ vượt quá lễ nghi của gia đình miền Nam Việt Nam lúc
đó”.
Cuộc
tình của cô nữ sinh và người chiến sĩ trong nhạc phẩm của Phượng Linh
(bút danh của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông) là một trong rất nhiều cuộc tình
khác đã nảy sinh trong thời kỳ loạn ly ấy. Ông gọi cô gái của mình với
cái tên chung là cô nữ sinh Gia Long, đơn giản như món quà là màu hoa
thép súng của người lính trao tặng cô ngày anh lập chiến công.
“Này cô xuân nữ Gia Long thành đô
Màu hoa thép súng xin dành tặng cô
Hoa em vẫn vẹn sắc màu
Trao anh chiếm cả tấm lòng
Một sắc màu em đã ghi sâu”
TRƯỜNG NỮ SINH LÊ VĂN DUYỆT (Saigon)
Khác
với sự lâu đời của trường Gia Long và Trưng Vương, trường nữ Lê Văn
Duyệt hiện ra với dáng dấp năng động của một ngôi trường nữ sinh trẻ.
Cũng như Gia Long, trường Lê Văn Duyệt “made in Saigon” chính
hiệu, nhưng có tiền thân là trường Trương Tấn Bửu đào tạo cả nam và nữ.
Sau khi tách cả nam nữ ra thì trường nữ sinh Lê Văn Duyệt được thành
lập tại số 95 đại lộ Lê Văn Duyệt – vốn là một lô đất mới (nay là đường
Đinh Tiên Hoàng). Năm 2021, đường này được trở lại tên ngày trước: đường Lê Văn Duyệt.
Nhiều
người thắc mắc tại sao một trường nữ sinh lại mang tên một nam nhân
vậy? Có lẽ ngày xưa trường Trương Tấn Bửu tọa lạc gần nơi thờ Đức Tả
Quân
Lê Văn Duyệt (Lăng Ông – Bà Chiểu), lại nằm trên đường Lê Văn Duyệt nên
người ta lấy tên ông đặt tên cho trường.
Còn trường Gia Long cũng mang tên một nam nhân, vua Gia Long, sao chẳng ai thắc mắc dzậy?
Có người đã nói về cái tên trường như sau: “Tiếc
thương cho người em Lê Văn Duyệt, không phải vì thua kém đàn chị Gia
Long hay Trưng Vương, nhưng tại cái tên… khó đưa vào văn thơ quá nên
chẳng thể nào khớp được vào thơ ca của Phạm Duy”.
Vào
năm 1963 thì trường chưa có lớp Đệ Nhất nên nữ sinh phải chia tay
trường sang Trưng Vương học lớp Đệ Nhất. Nhưng sau đó thì các lớp Đệ
Nhất đã được mở thêm. Sau năm 1975, trường mang tên Võ Thị Sáu đào tạo
cả nam lẫn nữ.
TRƯỜNG NỮ SINH ĐỒNG KHÁNH (Huế)
Trường
nữ sinh Đồng Khánh là trường dành cho nữ sinh duy nhất ở miền Trung.
Trường đặt tại Huế, miền đất của nét trữ tình và lãng mạn.
Lễ
đặt viên đá đầu tiên xây dựng ngôi trường này diễn ra vào ngày 15 tháng
7 năm 1917, với sự hiện diện của Vua Khải Định, Toàn Quyền Đông Dương
Albert Sarraaut, Khâm Sứ Trung Kỳ J.E. Charles, quyền Khâm Sứ Bắc Kỳ
J.Le Galler, các hoàng thân, các vị Thượng Thư và một số quan chức cao
cấp người Pháp tại Đông Dương.
Trong
buổi lễ này, vua Khải Định đã cho đặt xuống móng ngôi trường một số
hiện vật để làm kỷ niệm, gồm một cái hộp kim loại chứa 10 đồng Khải Định
thông bảo và hai tờ giấy ghi biên bản của buổi lễ bằng tiếng Pháp. Dưới
sự điều khiển của nhà thầu Leroy, gần hai năm sau, ngôi trường khánh
thành.
Đây
là ngôi trường nữ đầu tiên và duy nhất dành cho nữ sinh cả 13 tỉnh
Trung Kỳ bấy giờ đến học. Theo thời gian, trường được mang nhiều tên gọi
khác nhau:
– Từ 1919 – 1954, trường mang tên Cao Đẳng Tiểu Học Đồng Khánh
– Từ 1955-1975, trường mang tên Trường Nữ Trung Học Đồng Khánh gồm hai cấp: Đệ Nhất cấp và Đệ Nhị cấp.
– Sau 1975, trường mang tên Trường Cấp III Trưng Trắc.
– Từ năm 1981 đến nay, trường được đổi tên thành Trường THPT Hai Bà Trưng.
Nhạc sĩ người Huế – Thu Hồ (thân sinh của ca sĩ Mỹ Huyền) đã có bài hát nói về những cô gái Huế nữ sinh Đồng Khánh như sau:
Cô gái nữ sinh Đồng Khánh kia ơi
Cô đi về đâu tan buổi học rồi
Cô xuôi Đập Đá hay về Nam Giao
Cô về Bến Ngự hay về Đông Ba
Cô về Vỹ Dạ hay ngược Kim Long…
Khi gió mới lên làn tóc tung tăng
Xõa ngang bờ vai khi tuổi dậy thì
Đôi môi hồng thắm duyên là nên duyên
Mắt tròn như mộng say đời xinh xinh
Cô là tất cả trời đẹp xứ Kinh…
TRƯỜNG NỮ TRUNG HỌC BÙI THỊ XUÂN (Đà Lạt)
Trường
Bùi Thị Xuân được thành lập năm 1952 với cả nam và nữ theo học, là
trường nữ công lập đầu tiên ở vùng tây nguyên. Đến năm 1957 thì trường
chỉ đào tạo nữ theo yêu cầu của Bộ Giáo Dục VNCH. Nam sinh được chuyển
sang trường Trần Hưng Đạo.
Trái
với Trưng Vương, Gia Long hay Lê Văn Duyệt nằm ở chốn đô thành náo
nhiệt, Bùi Thị Xuân mang vẻ đẹp êm ả của xứ Đà Lạt mộng mơ. Do vậy mỗi
khi nhắc đến Bùi Thị Xuân là nhắc đến Đà Lạt, một vùng đất quanh năm
sương phủ đẹp đến nên thơ, nơi mà nhạc sĩ Lam Phương đã viết lên khúc
huyền thoại Thành Phố Buồn.
Tuy
vậy, trường có vị trí khá gần với những vùng chiến sự ác liệt của một
thời nên cũng trải qua biết bao thăng trầm, trôi nổi cùng lịch sử. Với
những người nghiên cứu về các trường nữ sinh xưa, không ai có thể quên
hình ảnh cô Hiệu Trưởng Lệ Minh – đóa hồng một thời. Cô là một người phụ
nữ đẹp, có đủ tài lẫn sắc. Hiện cô đang định cư tại Hoa Kỳ.
Hiện
nay, trường Bùi Thị Xuân vẫn giữ nguyên tên và được xem là một trong
những trường học lớn, số lượng học sinh đông và có tuổi đời lâu nhất của
thành phố Đà Lạt.
Trước khi ngôi trường chính thức mang tên Bùi Thị Xuân năm 1957 cho đến nay thì đã từng mang nhiều tên khác nhau:
Đầu
thập niên 1950, để đáp ứng nhu cầu học tập cho con em người Việt Nam ở
đây, chương trình Trung Học Việt Nam đã được thiết lập với sự ra đời của
trường Trung Học Việt Nam (Lycée Vietnamien) vào tháng 9 năm 1952 với
địa điểm đầu tiên tại trường Tây Hồ (nay là trường THCS Phan Chu Trinh).
Lúc này, trường chỉ có duy nhất 1 lớp Đệ Thất (lớp 6). Trường trở thành
một trong 3 trường Trung Học công lập của Đà Lạt lúc bấy giờ là trường
Lycée Yersin và trường Lycée Bảo Long.
Năm
1953, trường chuyển sang mượn tạm địa điểm tại trường Tiểu Học bổ túc
Đà Lạt (nay là trường Tiểu Học Đoàn Thị Điểm). Lúc bấy giờ trường có 3
lớp: 2 lớp Đệ Thất (lớp 6) và 1 lớp Đệ Lục (lớp 7).
Năm
1954, trường được chuyển về địa điểm hiện nay, lúc đó vừa mới được xây
xong. Trường lấy tên là trường Phương Mai – tên của Công Chúa, con gái
Quốc Trưởng Bảo Đại và chỉ có một dãy nhà A gồm 10 phòng học. Do hệ quả
của Hiệp định Genève được ký kết vào ngày 20/07/1954, rất nhiều người
dân đã di cư từ phía Bắc vào miền Nam và định cư tại Đà Lạt, số học sinh
của trường vì vậy cũng tăng lên khiến trường phải mở thêm các lớp Đệ
Ngũ (lớp 8), Đệ Tứ (lớp 9).
Năm
1955, khi Quốc Trưởng Bảo Đại bị truất phế sau một cuộc Trưng Cầu Dân Ý
do chính quyền Ngô Đình Diệm tổ chức vào tháng 5, trường Phương Mai
được đổi tên thành trường Quang Trung. Trường mở thêm Đệ Nhị Cấp (Tương
đương cấp THPT hiện nay).
Năm 1957, trường Quang Trung được đổi tên thành trường Bùi Thị Xuân và mang tên này cho đến nay.
TRƯỜNG TRUNG HỌC MARIE CURIE (Sài Gòn)
Ngay
khi chiếm xứ Nam Kỳ, người Pháp đã thiết lập trường học để giảng dạy
tiếng Pháp và tiếng An Nam, mở trường bổn quốc và trường nữ (trường nữ
là Trường Marie Curie sau này). Như vậy, Trường Marie Curie được thiết
lập trong khoảng từ năm 1858 đến 1862 (năm Pháp giành quyền bảo hộ xứ
Nam Kỳ theo Hòa ước Nhâm Tuất 1862).
Trường
mang tên nữ Bác Học Marie Curie từ năm 1918, là trường dành riêng cho
nữ sinh, với tên gọi ban đầu là Cao Đẳng Tiểu Học nữ sinh người Pháp
(Ecole Primaire Supérieure des Jeunes Filles Françaises) Lycée Marie
Curie.
Sau
khi Nhật tiến vào Đông Dương năm 1941, trường bị trưng dụng làm bệnh
viện nên phải chuyển địa điểm sang một trường Mẫu Giáo ở đường Phạm Ngọc
Thạch ngày nay.
Một năm sau, trường được trả lại và dời về địa điểm cũ với tên gọi mới là Trung Học cơ sở Calmette.
Sau khi quân Pháp trở lại chiếm Saigon vào ngày 23 tháng 9 năm 1945, trường được đổi tên thành Trung Học Lucien Mossard.
Đầu
năm 1948, trường trở lại với tên gọi cũ là Trung Học Marie Curie (hay
Lycée Marie Curie), mang tên nhà Khoa Học người Ba Lan – Pháp từng hai
lần đoạt giải Nobel Vật lý.
Trong thời kỳ VNCH, trường là trường Trung Học tư thục cho nữ sinh. Đến năm 1970, trường mới tiếp nhận thêm nam sinh theo học.
Sau
1975, Trường Marie Curie đổi tên thành Trường Phổ thông cấp 2&3
Marie Curie (cũ) cho hai niên học (1975-1976 và 1976-1977); đến niên học
1977-1978, trường không còn dạy các lớp cấp 2 phổ thông hệ 12/12 năm,
chỉ dạy cấp 3 phổ thông hệ 12/12 năm (lớp 10, 11 và 12 các khối AB – C –
D) nên Trường Phổ thông cấp 2&3 Marie Curie (cũ) đổi tên thành
Trường Phổ Thông Trung Học Marie Curie…
Năm
1997, trường được đổi tên thành Trung Học phổ thông bán công Marie
Curie. Trước đây, trường từng là trường Trung Học phổ thông lớn nhất
Việt Nam với hơn 5000 học sinh mỗi năm.
Năm 2006, trường được chuyển sang hệ công lập với tên gọi Trung Học phổ thông Marie Curie cho đến nay.
Ngôi
trường này có kiến trúc đậm chất Pháp lưu lại trên cổng chào, từng góc
cầu thang gỗ, khu vườn với đài phun nước… vẫn còn cho đến ngày nay.
TRƯỜNG TRUNG HỌC NGUYỄN BÁ TÒNG (Saigon)
Năm
1956, trường được thành lập mang tên vị Giám Mục tiên khởi của Công
Giáo Việt Nam có sự trợ giúp đặc biệt của cơ quan Caritas Germanica Đức
Quốc, cơ quan NCWC, Công Giáo Hoa Kỳ. Trường tọa lạc tại số 73-75 đường Bùi Thị Xuân, quận 1 Saigon.
Trường
có nhiều cấp lớp từ Đệ Thất đến Đệ Nhất đủ các ban A, B, C đặt dưới
quyền đìều khiển của 8 vị Linh Mục cùng với sự giáo dục của 160 vị giáo
sư, 30 nhân viên văn phòng (ghi nhận vào năm 1963). Là một trường Trung
Học tư thục nhưng trường được đánh giá cao trong việc giáo dục, uy tín
nhất thủ đô. Từ năm 1971 trường chỉ dành riêng cho học sinh nữ. Từ năm
1975, trường trở thành trường Trung Học phổ thông công lập và trường
được đổi tên thành trường THPT Bùi Thị Xuân, dành cho cả học sinh nam và
nữ.
Ngôi
trường này cũng là nơi đã sản sinh nhiều người nổi tiếng, trong đó có
ca sĩ Mai Hương, Khánh Ly, Ý Lan. Một số thầy giáo đã dạy trường này như
Nhạc sĩ Thu Hồ (nhạc), Nhà văn Bùi Nhật Tiến (Lý Hóa), Nguyễn Văn Kỷ
Cương (Toán), Linh Mục Đỗ Đình Tiệm làm Hiệu Trưởng.
TRƯỜNG TRUNG HỌC SAINT PAUL (Sài Gòn)
Khi
đi ngang ngôi nhà trắng tại số 4 Cường Để, quận 1 (nay là Tôn Đức
Thắng) mọi người chỉ biết đây là một Nữ Tu Viện. Tòa nhà này trước kia
còn được gọi là “Nhà Trắng”, không phải vì sơn toàn màu trắng
như Tòa Bạch Ốc (White House) mà vì ngôi nhà này được xây dựng và làm
chủ bởi những nữ tu dòng Saint Paul de Chartres (Thánh Phaolô thành
Chartres) “trinh bạch từ linh hồn đến những chiếc áo dòng trắng toát”.
Trước
năm 1975, trong nhà dòng này có một trường tư thục với các lớp từ Mẫu
Giáo tới Tú Tài với số lượng 1.600 học sinh (có ký túc xá cho học sinh
nội trú). Sau năm 1975, có một thời gian là Trường Sư Phạm Mầm Non.
Nếu
ai có dịp vào đây sẽ choáng ngợp với không gian rộng rãi, khoáng đãng
với kiến trúc ba khối nhà: cô nhi viện, nhà nữ tu ở và khu nhà nguyện.
Khu nhà nguyện có thiết kế đặc biệt, nhìn từ trên cao xuống rất giống
cây thánh giá, bên trong có thêm nhiều cột đỡ vững chãi, phía trước là
một sân cỏ rộng với tượng thánh bổn mạng của dòng Phaolô. Đó là thiết kế
mà theo nhận định của kiến trúc sư Ngô Viết Thụ là: “Một giáo đường
huy hoàng với đường nét thẩm mỹ lối Gothique. Các khu vòm hình liềm
cung, đua nhau vượt lên tới 20 thước, không một chút chạm trổ hoa hòe
làm cho khách tưởng nhớ đến giáo đường Sainte Chapelle. Cảm tưởng nhẹ
nhàng vì sự thành công của vị kiến trúc sư làm cho ai vào đó cũng cảm
thấy thoát tục”.
Theo
các tài liệu lịch sử truyền giáo, vào ngày 20/5/1860, các nữ tu dòng
Thánh Phaolô gốc ở thành Chartres (Soeurs de Saint Paul de Chartres) từ
Hong Kong đặt chân đến Saigon. Họ cùng tạm định cư tại một căn nhà nhỏ
vùng Chợ Cũ cùng các nữ tu dòng kín (đến Saigon năm 1861).
Vào
tháng 9/1862, Mẹ Bề Trên dòng thánh Phaolô Benjamin khởi công xây cất
nhà giám tỉnh tại khu đất Đường Thành (Rue de la Citadelle). Toàn bộ
công trình này hoàn thành vào ngày 10/8/1864. Trong bản thảo viết tay
của Mẹ Benjamin chỉ ghi lại tên Kiến Trúc Sư là Thầy Học. Lúc ấy các bà
phước chẳng biết Kiến Trúc Sư “Thầy Học” là ai. Không biết trước đây đã có tài liệu nào xác định Thầy Học là ai chưa.
Riêng cụ Vương Hồng Sển trong quyển Saigon Năm Xưa in năm 1958 cho biết: “Tương truyền nhà lầu cao lớn nơi đây là do ông Nguyễn Trường Tộ năm xưa đứng coi xây cất”. Vậy
Thầy Học, tức là ông Nguyễn Trường Tộ là người thiết kế, xây cất tòa
nhà này? Trong tạp chí Văn Đàn (số 4 năm 1961, Saigon) ông Phạm Đình
Khiêm đã công bố nhiều tài liệu trong thư khố tu viện đã chứng minh Thầy
Học chính là ông Nguyễn Trường Tộ.
TRƯỜNG COUVENT DES OISEAUX (Đà Lạt)
Trường nữ tu Couvent Des Oiseaux có vị trí khá đặc biệt khi không nằm trên địa hình bằng phẳng, mà là một đồi thông, thuộc số 2 đường Huyền Trân Công Chúa, khá gần thác Cam Ly, Đà Lạt.
Về
lịch sử của ngôi trường, thì cần nhắc đến người thiếu nữ Nguyễn Hữu Thị
Lan, là tiểu thư khuê các trong gia đình đại phú hộ Saigon xưa. Bà vốn
là nữ sinh của trường nữ tu dòng Đức Bà tại Paris (Cours des
Champs-Élysées, rue de Ponthieu).
Sau
khi về nước, kết hôn với vị Hoàng Đế cuối cùng của triều Nguyễn là Vua
Bảo Đại, trở thành bậc Mẫu Nghi Thiên Hạ, với tước hiệu Nam Phương Hoàng
Hậu, bà đã giúp các vị nữ tu dòng Đức Bà mở trường Công Giáo đầu tiên ở
Việt Nam cho các nữ sinh trên đồi Lâm Viên Đà Lạt vào năm 1935.
Thuở
ban đầu, trường có tên là Notre Dame du Langbian, gọi theo cách thuần
Việt là trường Đức Bà Lâm Viên. Cùng với trường Notre-Dame du Rosaire
tại Hà Nội (1937) và trường Regina Mundi tại Saigon (1950), thì Notre
Dame du Langbian đã đóng góp công lao trong việc giáo dục tri thức.
Tuy
nhiên, vào thời điểm mới thành lập, trường chỉ phục vụ là nữ sinh có
xuất thân từ các gia đình người Pháp, người Việt, người Campuchia và
Lào. Mô hình phát triển của trường được nâng lên dần từ vườn trẻ, trường
Tiểu Học rồi chuyển hóa thành nữ sinh Trung Học. Tên gọi chính thức của
trường là Couvent des Oiseaux. Đây cũng là một ngôi trường nổi tiếng
chu đáo và nghiêm khắc. Ngày nay, ngôi trường trở thành Trường Phổ Thông
Dân Tộc Nội Trú Lâm Đồng.
Trường THIÊN PHƯỚC (Saigon)
Vào
năm 1877, để đáp lại lời mời của Đức Cha Colombert, Giám Mục Địa Phận
Đàng Trong, Mẹ Benjamin cho lập một Nhà Dục Anh tại Tân Định và cơ sở
này được gọi là “Sainte Enfance de Tân Định”.
Soeur
Ignace lúc bấy giờ phụ trách Công Đoàn tiên khởi tại Viễn Đông. Hằng
năm bà và các nữ tu đón nhận cả trăm em sơ sinh bị bỏ rơi để săn sóc và
nuôi dưỡng chúng. Nhưng có một số trẻ vì quá yếu, bệnh tật không cứu
sống được.
Vào
năm 1881, Cha Sở Eveillard mời các chị em Dòng Thánh Phao-Lô đến dạy
giáo lý cho các em trai và gái của giáo xứ. Ba mươi năm sau, dưới sự
huớng dẫn của Soeur Suzanne, nguời phụ trách Công Đoàn, các chị em đảm
nhiệm luôn việc giáo dục các thiếu nhi nam nữ tại cơ sở cạnh Công Đoàn.
Gia
đình trong họ đạo gởi con em đến cơ sở của các nữ tu để vừa học giáo lý
vừa học văn hóa theo chương trình của Bộ Giáo Dục. Các con em của họ
học đạo chung với các cô nhi, cũng có một số em của họ đạo xin vào nội
trú hoặc bán trú tại trường.
Trong
khoảng năm 1918-1938, song song với sự phát triển của họ đạo, Công Đoàn
có những bước tiến đáng ghi nhớ trong thời kỳ Soeur Andréa Amé phụ
trách. Lần lượt các lớp Sơ Cấp được mở ra, học sinh đến mỗi ngày một
đông.
Vào
năm 1941, Soeur Marie Rose lúc bấy giờ đang dạy ở Trường Jeanne d’Arc,
Ngã Sáu Chợ Lớn, được mời đến phụ trách Công Đoàn Tân Định thế cho Soeur
Amé.
Vào
khoảng 1946-1948, lúc tình hình Đệ Nhị Thế Chiến lắng dịu, các lớp Nhì
và Nhất đuợc mở thêm để bổ túc chương trình Tiểu Học. Soeur Marie Rose
cũng dần dần cho mở thêm các lớp dạy theo chương trình Pháp. Được một
năm thì Soeur phải về Pháp chữa mắt và không trở lại. Soeur Alice de
Jésus phụ trách tiếp Công Đoàn.
Năm
1950, Soeur Alice de Jésus đã xây cất thêm các lớp học bên cánh phải
của cơ sở, lên lầu viện cô nhi, mở ký túc xá cho các nữ sinh ở tỉnh lên
học. Lúc bấy giờ nhà trường Sainte Enfance đã có đủ các lớp Mẫu Giáo,
các lớp Tiểu Học Việt-Pháp dọn thi Certificat d’Études Primaries
Franco-Indigènes (CEPFI) và mở năm đầu để dọn thi bằng Trung Học Pháp
BEPC.
Khoảng giữa thập niên 1950, trường Sainte Enfance có hai chương trình Trung Học Việt và Pháp.
Vào tháng 8 năm 1957, Công Đoàn Tân Định đón tiếp Soeur Pétronille de Marie, nữ tu sĩ Việt Nam đầu tiên đến phụ trách.