Tôi vốn xuất thân ‘phó
thường dân’. Từ thời thực dân Pháp, đến Việt Nam Cộng Hòa rồi lại ‘đổi đời’
sang Xã hội Chủ Nghĩa… thời nào tôi cũng là anh ‘phó thường dân’ nên rất khó
viết về những nhân vật vang bóng một thời của Saigon xưa. Họ là những ‘nhân vật
nổi tiếng’ (cả tiếng ‘lành’ lẫn tiếng ‘dữ’) nên rất khó len vào ‘thế giới’ của
họ. Có chăng chỉ là những góp nhặt các tư liệu để viết về họ. Tuy nhiên, sẽ là
một thiếu sót lớn nếu không có ít dòng về những nhân vật này. Họ
chính là những ‘viên gạch vàng’ và cũng có thể là những ‘hòn đất xấu xí’ trong
việc xây dựng một cộng đồng nhiều màu sắc của Saigon.
Nhưng họ là ai? Câu
trả lời tùy thuộc vào việc sắp xếp họ theo nhóm. Có thể bao gồm những người cầm
quyền, những ông tướng cầm quân, những người tranh đấu cho lý tưởng, những
‘thiểu số’ tài phiệt cầm trong tay tiền của ‘đa số’ dân chúng và kể cả những
‘anh hùng hảo hán’ nắm trong tay sinh mạng của người khác.
Đâu đó trong Hồi Ức
này có nói đến họ nhưng riêng trong bài viết này tôi chỉ chọn 2 nhóm: nhóm tài
phiệt và nhóm giang hồ.
Đối với Saigon ngày
xưa, giàu đến mức ‘triệu phú’ được coi là ‘nứt đố đổ vách’. Chẳng bù với thời
nay, tiêu chuẩn giàu đã lên đến mức ‘tỷ phú’ hay cao hơn nữa là ‘triệu phú
đôla’. Mới đây, theo một danh sách không chính thức, một số nhà giàu người
Việt, đặc biệt là ‘tư sản đỏ’, thậm chí đã gia nhập ‘câu lạc bộ tỷ phú’ của thế
giới. Tiền của họ từ đâu đến? Hỏi tức là đã trả lời khi tệ nạn ‘tham nhũng có
hệ thống’ đang hoành hành tại Việt Nam. Chính phủ luôn hô hào chống tham nhũng,
nhưng chính những thành viên cấp cao trong nội các, như một ông thứ trưởng, cả
đời tham gia cách mạng mà chỉ mới hơn chục năm tham chính làm sao có được cả
triệu đô la chỉ để… cá độ bóng đá? Chế độ ‘chuyên chính vô sản’ đã bị phá sản
bởi chính những bàn tay tham nhũng của những người đã sống chết với lý tưởng
đó.
Theo đạo lý từ nghìn
xưa, người ta chỉ trọng những người làm giàu một cách chân chính, bằng mồ hôi
nước mắt và tài trí của chính mình. Những kẻ làm giàu ‘cơ hội’ cuối cùng cũng
bị thế gian điểm tên, chỉ mặt. Ngạn ngữ Anh có câu: “Một lương tâm tội lỗi không cần kẻ buộc tội” (A
guilty conscience needs no accuser). Mỗi con người đều có ngày phán xét cuối cùng của riêng mình.
Hơn nữa, người Việt vẫn thường quan niệm, của phi nghĩa không bền, hoặc của
thiên trả địa. Vấn đề chỉ là thời gian.
***
Ngày trước, Chú Hỏa (1845-1901) hay Hứa Bổn Hòa, Hui Bon Hoa, Jean Baptiste Hui Bon Hoa, một thương nhân người Việt gốc Hoa, là một trong những người giầu nhất Saigon. Chú Hỏa gốc ở tỉnh Phúc Kiến,Trung Hoa, tên khai sinh là Hứa Bổn Hòa (Hui Bon Hoa), thuộc dòng dõi những người nhập cư vào miền Nam Việt Nam sau khi người Mãn Châu đánh bại nhà Minh.
Vào thời Pháp thuộc, để vinh danh Chú Hỏa, một con đường đã được mang tên Hui Bon Hoa và sau này, vào thời Đệ nhất Cộng hòa, đường được đổi tên thành Lý Thái Tổ, nơi có tiệm phở Tàu Bay nổi tiếng Saigon với tô ‘xe lửa’. Trên đường Lý Thái Tổ, gần Ngã 6 Cộng hòa, có một cụm gồm 7 biệt thự chiếm một khu đất hình tam giác là tài sản của Chú Hỏa ngày nào. Hiện giờ khu ‘tam giác vàng’ này đã trở thành khu Nhà khách Chính phủ…
Theo lời đồn đãi có tính cách ‘huyền thoại’, việc làm giàu của chú Hỏa ngoài sự cần cù, chịu thương chịu khó, cũng còn có chút may mắn. Người ta kể, có một ông Tây qua Nam kỳ làm ăn, sau một thời gian dài đã gom góp được một số tài sản rất lớn. Vì một tai nạn bất ngờ, ông chết mà chẳng kịp trăng trối. Luật sư yêu cầu con cái ông sang Việt Nam thừa kế di sản của người cha quá cố. Người con này lại không có ý định sống ở Việt Nam nên cho phát mãi hết tài sản của cha mình. Tài sản này rất lớn, gồm nhà cửa, đồn điền, cơ sở kinh doanh và một số tiền lớn gửi ở ngân hàng. Người con bán tất cả đồ đạc trong nhà vì người chủ mới không muốn sử dụng đồ đạc của người chết.
Lúc đó chú Hỏa đang mua bán ve chai. Chú bèn đến thầu mua tất cả những đồ lặt vặt ấy. Trong số những đồ đạc linh tinh này, có một tấm thảm đã cũ nhưng còn dùng được. Chú Hỏa đem tấm thảm chải sạch bụi, định để bán lại thì khám phá ra cả một tài sản to lớn gồm vàng lá, tiền vàng, giấy bạc loại lớn và một số kim cương…
… Có số tiền ‘từ trên trời rơi xuống’ này, chú Hỏa bắt đầu mua sắm nhà cửa, đất đai, xây nhà cho thuê, đầu tư kinh doanh và trở thành người giàu tiếng tăm nhất trong giới người Hoa lẫn người Việt tại thành phố Saigon-Chợ Lớn vào đầu thế kỷ 20.
Từ một anh Tàu mua bán ve chai trên đường phố, Chú Hỏa nhập quốc tịch Pháp và đổi tên thành Jean Baptiste Hui Bon Hoa. Chú Hỏa thành lập công ty Hui Bon Hoa, một công ty bất động sản sở hữu trên 20.000 (?) căn nhà ở Saigon, đồng thời xây dựng rất nhiều công trình công cộng có giá trị lớn ở vùng Saigon-Gia Định-Chợ Lớn vẫn còn tồn tại đến ngày nay. Khách sạn Majestic đường Tự Do, Bệnh viện Saigon đường Lê Lợi, Bệnh viện Từ Dũ đường Cống Quỳnh, khu Nhà khách Chính phủ đường Lý Thái Tổ, nhiều ngân hàng, trụ sở thương mại ở Quận 5 và các công trình nhà riêng, chùa chiền, bệnh viện khác đều của Chú Hỏa.
Dinh cơ đồ sộ, biệt thự nguy nga của chú Hỏa chiếm cả một khu vực rộng lớn gần 200 hécta ở quận Nhì, bao gồm khu tứ giác Phó Đức Chính – Nguyễn Công Trứ – Hồ Văn Ngà – Calmette.
Bỏ qua những yếu tố chính trị-xã hội, Chú Hỏa đã đóng góp một vai trò quan trọng trong việc hình thành bộ mặt thành phố Saigon với tấm lòng của một người giàu có hướng ra cộng đồng. Nhà biên khảo Vương Hồng Sển từng nhận xét: “Tuy làm giàu cho mình đã đành, nhưng Chú Hỏa cũng giúp ích rất nhiều cho sự mở mang thịnh vượng kinh tế miền Nam”. Sự nghiệp của ông ở Việt Nam vẫn được con cháu tiếp tục sau khi ông mất. Mãi đến sau năm 1975 họ đều đi ra nước ngoài sinh sống. Lý do vì sao thì chắc mọi người đã rõ kể từ khi Tư Bản và Vô Sản thề ‘không đội trời chung’.
***
Ở Sài Gòn vào những thập niên 40-50, nhãn hiệu Xà bông Cô Ba rất phổ biến, không những tại Việt Nam mà còn lan rộng sang tận xứ Cao Miên và Lào. Xà bông thơm Cô Ba nổi danh trong mấy thập niên liền, đủ sức đánh bạt xà bông ngoại hoá, nhập cảng từ Pháp. Nếu người miền Bắc khâm phục nhà tài phiệt Bạch Thái Bưởi thì ở miền Nam có ông Trương Văn Bền (1883 – 1956), chủ nhân nhãn hiệu Xà bông Cô Ba. Cả hai đều thành công trên thương trường nhưng lại không hề trải qua trường lớp và dĩ nhiên, cũng không bằng cấp. Họ là những con người có đầu óc kinh doanh, tháo vát, nhiều sáng kiến.
Xà bông Cô Ba từng vươn sang thị trường Đông Dương như Lào, Campuchia và có mặt tại các thị trường Hồng Kông, Singapore.
Trước khi làm một nhà doanh thương, ông Bền còn là một người thuộc Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ. Gia sản đồ sộ của Trương Văn Bền là do công sức của ông làm ra. Không phải ông Bền làm giàu bằng ruộng đất, ông có một lối đi riêng bằng con đường công nghiệp đáng để làm gương cho những người đi sau. Là người Việt gốc Hoa, sinh năm 1883 tại Chợ Lớn, ông Trương Văn Bền sinh trưởng trong một gia đình khá giả. Ông có đi Pháp nhiều lần, nhưng chưa hề học qua một trường lớp nào. Theo bảng lượng giá để đánh thuế của Phủ toàn quyền Đông Dương ở Hà Nội, năm 1941, ông Trương Văn Bền phải đóng thuế cho chính phủ một số tiền lên tới 107.000 đồng, trong khi đó, giá vàng khoảng 60 đồng/lượng.
Là người nhạy cảm trong kinh doanh, ông Bền biết rõ một tiềm năng kinh tế Việt Nam chưa được khai thác: đó là cây dừa. Từ năm 1918, ông đã lập xưởng ép dầu dừa (dùng trong kỹ nghệ xà bông, mỹ phẩm) mỗi tháng sản xuất 1.500 tấn. Năm 1932, hãng xà bông Trương Văn Bền được thành lập tại đường Quai de Cambodge trong Chợ Lớn (trước chợ Kim Biên bây giờ), ban đầu sản xuất 600 tấn xà bông giặt mỗi tháng. Từ khi Xà bông Cô Ba, xà bông thơm đầu tiên của Việt Nam, ra đời đã đánh bạt xà bông thơm của Pháp, nhập cảng từ Marseille, nhờ phẩm chất tốt, giá thành thấp.
Ông Trương Văn Bền, Cô Ba và gia đình
Trong thương trường, ông Bền chủ trương luôn cải tiến chất lượng và sản phẩm phải hợp với túi tiền người tiêu dùng. Ông nhìn xa thấy rộng, không theo lối chụp giựt, ăn xổi ở thì. Mặc đầu có địa vị cao trong xã hội, nhưng ông Bền không tự mãn. Ông luôn luôn tìm tòi, học hỏi kinh nghiệm mỗi lần có dịp qua Pháp.
Khi máy giặt được phát minh và nhập cảng vào Việt Nam, ông Bền liền sản xuất loại bột giặt để thích ứng ngay. Loại bột giặt Viso của ông Trương Văn Khôi, và bột giặt Việt Nam của hãng xà bông Trương Văn Bền (lúc đó đổi thành Hãng Xà bông Việt nam), có đủ sức cạnh tranh với bột giặt nhập cảng từ Mỹ.
Người Saigon không ai không biết đến xà bông Cô Ba. Hình ảnh quen thuộc của Cô Ba với mái tóc vấn cao in nổi ngay trên cục xà bông thơm, ngoài hộp xà bông bằng giấy carton cũng có in hình người đàn bà ‘búi tóc’.
Nhiều giai thoại kể lại rằng người đàn bà in hình trong cục xà bông thơm chính là người vợ thứ của ông Bền.
Cái hay của ông Trương Văn Bền là biết áp dụng tâm lý trong kinh doanh, đưa hình ảnh Cô Ba, người mang đậm vẻ đẹp của phụ nữ miền Nam làm nhãn hiệu cho sản phẩm hàng hoá của mình.
Khi đã định hình được tên tuổi sản phẩm và thị trường tiêu dùng, Trương Văn Bền đặc biệt chú trọng vào khâu quảng cáo, khuếch trương thương hiệu. Trong suốt thời gian dài, hầu hết báo chí thời đó đều đăng quảng cáo “Dùng xà bông xấu, mục quần áo” hoặc “Người Việt Nam nên xài xà bông Việt Nam” của Hãng Xà bông Trương Văn Bền. Trong các cuộc triễn lãm được mở cửa hàng năm tại Saigon và các tỉnh, bao giờ gian hàng của ông Bền cũng được thiết kế huy hoàng nhất với mô hình một cục xà bông khổng lồ, gây được sự chú ý và tò mò đặc biệt của người xem. Chưa dừng lại ở đó, tại các gian hàng còn bán xà bông gọi là ‘chào hàng’ với giá rẻ hơn bên ngoài đến 25%. Trương Văn Bền còn đưa nhãn hiệu xà bông Việt Nam vào những hình thức nghệ thuật dân tộc được người Việt yêu thích như vọng cổ, thơ lục bát, đề cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước. Có thể nói, từ giới bình dân đến trí thức đều biết, đều dùng và đều yêu mến sản phẩm của ông.
Với sự ra đời của Hãng Xà bông Trương Văn Bền ở Nam Kỳ năm 1932, Việt Nam có được một xưởng công nghệ quy mô, góp phần vào công cuộc phát triển kinh tế trong thời kỳ phôi thai. Các xưởng ép dầu, xưởng làm xà bông, tạo công ăn việc làm cho hơn 200 công nhân. Khi công việc làm ăn phát đạt thêm, ông Bền còn xuất tiền cất một dãy phố 50 căn, gần Ngã Sáu Chợ Lớn, nằm góc đường Armans Rousseau (đường Hùng Vương ngày nay) và Général Lizé (đường Minh Mạng, nay là Ngô Gia Tự).
Ông Bền có nhiều con. Tôi được nghe nhắc tới ông Trương Khắc Trí, từng là chủ tịch ban quản trị Việt nam Công Thương Ngân Hàng (thành lập năm 1953) tại Saigon. Người con trai út, ông Trương Khắc Cần, thay cha quản lý Hãng Xà bông Việt nam cho tới năm 1975. Ông Trương Khắc Cần được nhà nước ‘ưu ái’ cho phép hiến tặng tất cả tài sản mà gia đình thân phụ ông tạo lập từ hơn nửa thế kỷ nay, để được đi định cư tại Pháp!
Sau năm 1975, Công ty Trương Văn Bền và Các con trở thành Nhà máy Hợp doanh Xà bông Việt Nam thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ. Năm 1995, đơn vị này trở thành công ty Phương Đông thuộc Bộ Công nghiệp. Tháng 7/1995, công ty Phương Đông liên doanh với tập đoàn Procter & Gamble (P&G) lập một nhà máy mới ở Sông Bé.
Trong ký sự Một tháng ở Nam Kỳ, nhà văn Phạm Quỳnh có nhắc đến ông Trương Văn Bền, với giọng văn của thập niên 1940: “Ông Trương Văn Bền là một nhà công nghiệp to ở Chợ Lớn, năm trước cũng có ra xem hội chợ ở Hà Nội, đem xe hơi ra đón các phái viên Bắc Kỳ về xem nhà máy dầu và nhà máy gạo của ông ở Chợ Lớn. Xem qua cái công cuộc ông gây dựng lên, đã to tát như thế mà chúng tôi thấy hứng khởi trong lòng, mong mỏi cho đồng bào ta ngày một nhiều người như ông, ngõ hầu chiếm được phần to trong trường kinh tế nước nhà và thoát ly được cái ách người Tàu về đường công nghệ thương nghiệp”.
Những ông ‘vua’ ngành thuốc
Trong số những người thành công với nghề y dược tại Saigon trước đây, dược sĩ La Thành Nghệ là một khuôn mặt nổi bật, được nhiều người biết tiếng. Vốn người Triều Châu, sinh trong gia đình giàu có, La Thành Nghệ được du học bên Pháp và đậu bằng dược sĩ. Điểm qua những nhân vật giàu có, tiếng tăm thuộc ngành y dược thời đó còn có các dược sĩ Trần Văn Lắm, Nguyễn Cao Thăng, Nguyễn Thị Hai…
La Thành Nghệ được phong là ‘vua thuốc đỏ’, một sản phẩm rất tầm thường, giá trị thấp, nhưng được mọi giới ưa chuộng và rất phổ biến từ thành thị tới thôn quê. Khi chiến tranh càng ngày càng leo thang, nhu cầu sử dụng thuốc đỏ càng nhiều thì La Thành Nghệ được phép làm đại lý độc quyền phân phối thuốc đỏ, đem lại cho ông một nguồn lợi rất lớn. Ít ai nghĩ rằng với một thứ sản phẩm tầm thường, rẻ tiền như thuốc đỏ mà làm nên sự nghiệp kếch xù của La Thành Nghệ. Trước khi miền Nam thất thủ, những ai có dịp đi qua đường Tự Do chắc đã thấy Laboratoire La Thành, nằm giữa hai nhà hàng La Pagode và rạp Eden.
Thuốc đỏ, tiếng Pháp gọi là mercure au crome, một thứ dung dịch màu đỏ, dùng bôi lên các vết thương nhẹ để sát trùng. Thời đó, thuốc đỏ do Laboratoire La Thành sản xuất, được sử dụng trong các bệnh viện, các quân y viện, các bệnh viện dã chiến, các trung tâm y tế, các đơn vị quân y… và rất được dân chúng từ thành thị tới thôn quê ưa chuộng vì nó rẻ tiền mà lại hiệu nghiệm. La Thành Nghệ còn nhập cảng các loạithuốc trụ sinh, một thứ thần dược trị các vết thương.
Ngoài hai loại thuốc đỏ và trụ sinh, Laboratoire La Thành còn sáng chế một thứ pommade để trị bịnh phong tình. Bịnh này thường có mụn đỏ chung quanh háng và bộ sinh dục.
Muốn điều trị chỉ cần xức pommade vào chỗ đó, sau khi rửa vết thương cho sạch bằng thuốc đỏ. Chỉ vài ba lần xức pommade, người bịnh cảm thấy dễ chịu, không ngứa rát và bình phục! Thanh niên bị bịnh phong tình thường có mặc cảm không muốn đến bệnh viện hay đi bác sĩ tư để chữa trị. Họ mua thuốc pommade của dược sĩ La Thành Nghệ và tự chữa lấy. Nhờ biết được yếu tố tâm lý ấy, sản phẩm của La Thành Nghệ bán chạy như tôm tươi.
Khi trở nên giàu có, La Thành Nghệ sống thầm lặng, ít khoe khoang hay ăn chơi trác táng như một số nhà giàu khác. Ngược lại, dân ăn chơi Sài Thành, không ai không nghe tiếng hoặc biết đến ‘công tử’ Hoàng Kim Lân, con của ‘vua dây kẽm gai’ Hoàng Kim Quy. Tôi được nghe, có lần tại vũ trường Maxim, ông Hoàng Kim Lân đứng lên giữa sân khấu tuyên bố: “Hôm nay là ngày sinh nhựt của tôi. Tôi xin đãi tất cả quý vị có mặt tại đây. Quý vị tha hồ ăn uống bất cứ món gì mà không phải trả tiền”. Tiếp theo sau đó, rượu sâm banh chảy ra như suối và khách ăn chơi vỗ tay như sấm để tán thưởng sáng kiến độc đáo của mạnh thường quân Kim Lân!
Trở lại chuyện La Thành Nghệ, ông là người chỉ giao thiệp với giới nhà giàu và thượng lưu, trí thức ở Saigon.
Tuy sống trên đống vàng, nhưng ông không phung phí tiền bạc để mang tai tiếng như nhiều người khác. Năm 1967, La Thành Nghệ ra ứng cử Nghị sĩ Quốc Hội, chung liên danh Bạch Tượng với Dược sĩ Trần Văn Lắm và đắc cử. Ông Trần Văn Lắm có lúc làm Phó Chủ Tịch Thượng Viện và Tổng Trưởng Ngoại Giao dưới thời Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Tuy nhiên, danh nghĩa Nghị sĩ Quốc Hội chỉ để trang trí cho La Thành Nghệ hơn là nghề hái ra tiền như viện bào chế La Thành của ông. Do đó, trong thời gian tham chính, dư luận hay báo chí không nghe ông tuyên bố hay có hành động chính trị nào. Ông cũng tránh xa các áp-phe làm ăn của các ông tai to mặt lớn khác.
Dược sĩ La Thành Nghệ cuối cùng lại là nạn nhân của Tổng Thống Trần văn Hương, người đã gây khó khăn cho những người di tản bằng sắc lệnh cấm công chức, sĩ quan và thanh niên trong tuổi quân dịch ‘di tản’ vào những ngày cuối cùng của Sài Gòn. La Thành Nghệ vượt biển quá sớm, bị hải quân VNCH bắt đem về đất liền, ở lại Saigon và cuối cùng được ‘chính quyền cách mạng’ cho đi học tập cải tạo.
Một dược sĩ khác cũng thành công và nổi tiếng nhờ thứ thuốc ban nóng, cảm ho của trẻ em là ông Nguyễn Chí Nhiều. Ông Nhiều lập Nguyễn Chí Dược Cuộc, sản xuất vài thứ thuốc thông dụng trong đó nổi bật nhất là Euquinol, thuốc ban nóng dành cho trẻ em. Thuốc Euquinol trở nên quen thuộc đối với các bà nội trợ từ thành thị đến nông thôn. Hễ ai có con nóng đầu, người nhà hay lối xóm liền thúc hối… mua thuốc Euquinol. Euquinol được bào chế theo dạng thuốc Tây bằng bột màu trắng, khác với hình dạng gói thuốc cao đơn hoàn tán của các tiệm thuốc Bắc. Euquinol của Nguyễn Chí Nhiều vừa rẻ tiền, vừa hiệu nghiệm, lại được quảng cáo sâu rộng, được bày bán trong các tiệm thuốc tây và cả các tiệm tạp hoá nên dân chúng mua dễ dàng. Dần dần, thuốc ban Euquinol đánh bại thuốc “Ngoại cảm tán” của nhà thuốc Nhị Thiên Đường vốn độc chiếm thị trường mấy thập niên trước đó.
Ông Nguyễn Chí Nhiều là người có sáng kiến, biết lợi dụng các cuộc tranh tài thể thao để quảng cáo sản phẩm của mình. Hễ có cuộc đua xe đạp đường trường nào là cũng có các xe thuốc Euquinol đi kèm. Sau này ông trở thành ‘ông bầu’ của đoàn cua-rơ mang tên Euquinol. Đoàn xe đạp này là một ê-kíp gồm những tay đua do chính ông tuyển chọn và tài trợ để tập dượt và tranh tài trong các cuộc đua Vòng Cộng Hòa từ năm 1956 trở đi. Đội xe đạp Euquinol là một đội đua chuyên nghiệp, dược sĩ Nguyễn Chí Nhiều phát lương để họ tập dợt. Chính ông bỏ tiền ra mua xe đạp và cung cấp phụ tùng. Khi đã trở thành cua-rơ của đội họ khỏi bận tâm lo sinh kế, ngoài chuyện cố tâm luyện lập. Vì thế đội Euquinol thường lập được nhiều thành tích, chiếm các giải đồng đội và cá nhân trên các đường đua.
Những nhà thuốc tây xưa nhất ở Saigon phải kể đến các tiệm Pharmacie Mus của ông Beniot, Pharmacie Sohrenne, Pharmacie Normale, Pharmacie de France. Đó là những nhà thuốc Tây mà chủ nhân đều là dược sĩ người Pháp. Nhà thuốc nào cũng có phòng bào chế riêng để chế thuốc theo toa bác sĩ. Nhà thuốc của người Việt có Cường Lắm ở góc đường Mac Mahon (Công Lý) và đường Bonard (Lê Lợi), chủ nhân là dược sĩ Trần Văn Lắm. Dưới thời Nguyễn Văn Thiệu, ông Lắm trở thành Thượng Nghị Sĩ và Ngoại Trưởng. Ngoài ra còn có Pharmacie Lý, chủ nhân là dược sĩ Nguyễn Thị Lý; Pharmacie Dương Hữu Lễ của dược sĩ Dương Hữu Lễ ở đường Rue d’Espagne (Lê Thánh Tôn) và Pharmacie Nguyễn Văn Cao ở góc đường Chợ Mới và đường Bonard.
Trong các ngành công kỹ nghệ của Việt Nam Cộng Hòa (1954-1975), nhiều người cũng biết làm giàu bằng cách ‘chuyên môn hóa’ việc buôn bán một mặt hàng thông dụng, rẻ tiền nhưng có lợi tức lớn lao ít ai ngờ.
Thời thế đã giúp họ làm giàu nhanh chóng nhưng cũng không loại trừ khả năng họ phải ‘đóng thuế’ cho phía bên kia để được yên ổn làm ăn. Như vậy, họ phải chịu hai đầu thuế của Cộng Hòa và Việt Cộng. Tuy nhiên, những chi phí này được tính vào giá thành sản phẩm và thiệt thòi là… người tiêu dùng. Trong số những nhân vật giàu có này phải kể đến ‘Vua vương quốc Chợ Lớn’ là Bang trưởng Triều Châu Trần Thành; ‘Vua sắt thép, dệt may’ Lý Long Thân; ‘Vua lúa gạo’ Trần Thành, Mã Hỉ và Lại Kim Dung; ‘Vua nông cụ’ Lưu Kiệt, Lưu Trung; ‘Vua ngân hàng’ Nguyễn Tấn Đời và ‘Vua bột giặt Viso’ Trương Văn Khôi.
Giới Đông y cũng có những tên tuổi lừng lẫy với các loại thuốc gia truyền, rẻ tiền nhưng lại hiệu nghiệm.
Người ta thường nhắc đến Võ Văn Vân, người sáng lập nhà thuốc mang cùng tên với các sản phẩm như “Tam tinh hải cẩu bổ thận hoàn” trị bịnh yếu sinh lý, tráng dương, bổ thận, dùng cho đàn ông để tăng cường sinh lực và “Bá đả quân sơn tán” trị bịnh đau lưng, nhức mỏi rất công hiệu. Hồi đó, các xe quảng cáo của nhà thuốc Võ Văn Vân còn khoe rằng “Bá đả quân sơn tán” là thuốc dùng khi bị té, đặc biệt là các võ sĩ, người lao động chân tay như làm ruộng, làm công (vác lúa, chèo ghe, móc mương, bồi vườn) đều ‘phải’ uống thuốc này, vì nó ‘hiệu nghiệm như thuốc tiên’!
Vào khoảng những năm 1955-1957, các nhà thuốc thường tổ chức những xe thuốc đi bán dạo ở miền quê.
Mỗi xe có người làm trò vui như xiếc, ảo thuật, phụ họa với dàn kèn trống để thu hút khán giả. Xen kẽ vào những trò vui ấy là màn bán thuốc. Người nhà quê lúc ấy gọi các xe bán thuốc dạo là “Sơn Đông Mãi Võ”. Tuy là đông y sĩ, nhưng ông Võ Văn Vân lại cho các con qua Pháp du học các ngành y và dược. Trong số các con của Võ Văn Vân, có ông Võ Văn Ứng, từng nổi tiếng là Mạnh Thường Quân của túc cầu Saigon qua cái tên thân mật là ‘Bầu Ứng’. Ông Võ Văn Ứng còn làm Tổng Giám Đốc Nam Đô Ngân hàng và Khách sạn Nam Đô. Một nhà thuốc đông y khác, cũng nổi tiếng cùng thời, là nhà thuốc Võ Đình Dần ở Chợ Lớn. Thuốc ích khí bổ thận “Cửu Long Hoàn”, chuyên trị mệt mỏi, lao tâm lao lực, được quảng cáo sâu rộng, nên bán rất chạy. Thời đó, hầu như ai cũng thuộc lòng câu: “Một viên Cửu Long hoàn bằng 10 thang thuốc bổ” của nhà thuốc Võ Đình Dần. Nhà thuốc này cũng có một đội ngũ chuyên môn đi bán dạo khắp thôn quê, gồm 5 xe cam nhông Sơn Đông Mãi Võ. Theo nhà văn Hồ Trường An, thuốc Cửu Long hoàn được các người lao tâm, lao lực, thức đêm, làm việc nhiều như các vũ nữ ở các vũ trường, các nghệ sĩ sân khấu cải lương, các tay cờ bạc… tóm lại những kẻ ‘lấy ngày làm đêm’, đều dùng Cửu Long hoàn, để phục hồi sức lực.
Nhà thuốc Nhành Mai ở Phú Nhuận, nổi tiếng với món thuốc dưỡng thai hiệu Nhành Mai. Ngoài ra, món thuốc dán hiệu Nhành Mai, trị mụn nhọt rất hay. Không cần phá miệng mụn nhọt, chỉ cần trét thuốc vào miếng vải cắt tròn, lớn cỡ đồng xu, ở giữa có đục lỗ, rồi dán lên mụt nhọt. Chừng vài ngày sau, gỡ miếng vải ra thì mủ và cùi nhọt lòi ra.
Hồi Saigon còn xe điện chạy theo lộ trình Galliéni (Trần Hưng Đạo) Saigon-Chợ Lớn và Boulevard de la Somme (Hàm Nghi) đến chợ Tân Định, hai bên thành xe điện có nhiều bảng quảng cáo như: Một viên Cửu Long Hoàn bằng 10 thang thuốc bổ của nhà thuốc Võ văn Vân, Thuốc xổ Nhành Mai, Dầu khuynh diệp bác sĩ Bùi Kiến Tín, Kem đánh răng Hynos ‘cha-cha-cha’ mang hình anh Bảy Chà ‘đen như cột nhà cháy với hàm răng trắng bóc’, thuốc lá Jean Bastos và thậm chí cả Hòm Tôbia ‘danh tiếng nhất’.
Nhà thuốc Đại Quang do người Tàu ở Chợ Lớn cũng nổi tiếng với món thuốc “Huyết Trung Bửu”, loại thuốc điều hoà kinh nguyệt dành cho phụ nữ. Thuốc này từ khi xuất hiện trên thị trường đã đánh bạt “Nữ Kim Đơn” vì nhờ quảng cáo mạnh trên các báo chí. Đã vậy, hãng Đại Quang cũng như nhà thuốc Ông Tiên (của Nguyễn Hoàng Hoạnh), cứ mỗi năm cho ra cuốn sách quảng cáo, có truyện ngắn, thơ, có chuyện lịch sử, bài ca vọng cổ… để giới thiệu các thứ thuốc của hãng mình cho khắp đồng bào Lục tỉnh.
Nhà thuốc Đại Từ Bi cũng có xe cam nhông bít mui, bán dạo khắp Nam Kỳ, từ thành thị đến thôn quê, đặc biệt là các tài tử biết đờn ca vọng cổ, biết đóng tuồng cải lương, hát giúp vui mỗi khi xe neo ở một địa điểm nào đó để bán thuốc. Tuồng tích phần nhiều kể chuyện Ông Trương Tiên Bửu, Kim Vân Kiều, Cánh Buồm Đen.
Trước năm 1954, dân Nam Kỳ, nhứt là dân ‘thủ cựu’ ở thị thành và dân ở các vùng nửa chợ nửa quê, dân miệt vườn… đều chê thuốc Tây nóng nên không dùng. Cũng vì thế các tiệm thuốc Bắc mọc lên như nấm.
Người khách trú, một khi mở tiệm thuốc, ngoài các dược thảo, dược phẩm, còn bán thêm các loại cao đơn hoàn tán do các nhà thuốc Việt Nam bào chế, lại thêm các loại thuốc đặc chế từ bên Tàu như Thượng Hải, Hồng Kông, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quảng Tây nhập cảng vào. Thị trường thuốc tây, thuốc nam, thuốc bắc tại Saigon và cả miền Nam phát triển mạnh. ‘Trăm hoa đua nở, trăm nhà… uống thuốc’!
Bên cạnh mỹ phẩm như Bạch ngọc cao, một loại kem xức cho da mặt mịn màng, còn có Bóng nha duyên dùng để chà răng cho trắng. Bóng nha duyên xúc miệng không thơm bằng phấn chà răng của Tây đặc chế như Kool, Gibbs, nên bán không chạy. Dân miệt vườn thì dùng xác cau khô để chà răng, chưa quen với việc dùng bàn chải. Đến khi kem đánh răng Leyna xuất hiện với hình nữ minh tinh Kim Vui cười phô hàm răng trắng đều, và sau đó là kem Hynos của ông Vương Đạo Nghĩa (1965) với người đàn ông da đen cười răng trắng nhởn, thì Kool, Gibbs, Perlon bị cáo chung. Bóng nha duyên cũng rút lui không kèn không trống.
Điểm nổi bật của ông chủ trẻ Vương Đạo Nghĩa là nghệ thuật quảng cáo cho kem đánh răng Chú Chà Và Hynos sau khi anh được thừa hưởng gia tài từ một ông chủ người Mỹ có vợ Việt. Hình ảnh chú Hynos xuất hiện hầu như khắp hang cùng ngõ hẻm Saigon. Bên cạnh đó, điệp khúc Hynos cha cha cha… trên đài phát thanh và trên chiếc deux chevaux (2CV) bán hàng tại các chợ Saigon.
Người ta nói ông chủ Hynos đã không ngần ngại trích ra 50% lợi nhuận cho việc quảng cáo. Có thể nói, đây là một tỷ lệ quảng cáo đáng kể và hữu hiệu trong bối cảnh nền thương mại của Saigon xưa đang trên đường hội nhập vào thế giới tư bản.
Nguyễn Ngọc Chính
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Con người đất Nam Kỳ
Nam Kỳ là lãnh thổ cực
Nam của nước Đại Nam triều Nguyễn, là một trong ba kỳ hợp thành nước Việt Nam.
Tên gọi này do vua Minh Mạng đặt ra năm 1832. Sau khi Việt Nam giành được độc
lập năm 1945, Nam Kỳ bắt đầu được gọi là Nam Bộ, trong giai đoạn 1948-1954
thường gọi là Nam Việt. Quốc Gia Việt Nam và Việt Nam Cộng Hòa cũng dùng tên gọi Nam phần, vốn đã được
sử dụng từ năm 1947 trong giai đoạn sau của Cộng Hòa Tự Trị Nam Kỳ. Diện tích
Nam Kỳ là 67.293,1 km2.
Người dân miền Thuận Quảng, sau gần 400 năm tiếp cận với nền văn hóa bản địa
Phù Nam – Chân Lạp, với người Minh Hương, người Pháp, tác động bởi một môi
trường thiên nhiên khắc nghiệt thuở ban đầu nhưng trù phú về sau đã tạo cho họ
những nét đặc thù mà từ ngôn ngữ đến tâm tình lẫn tâm tính có nhiều khác biệt
với tổ tiên của họ ở đàng ngoài. Trước tiên, ngôn ngữ là một đổi thay lớn và nhanh chóng, chỉ một thế hệ, Nguyễn
Ðình Chiểu, con của Nguyễn Ðình Huy gốc người quận Phong Ðiền ở Huế được bổ
nhiệm vào Gia Ðịnh phò tá Lê Văn Duyệt, đã viết ra Lục Vân Tiên, một tác phẩm
tiêu biểu của miền Nam với những lời văn nôm na, bình dân trái với văn phong
Hán Học của ông cha:
Tiên rằng bớ chú cõng con,
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài.
hay:
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng,
Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây.
Nhiều nhà chánh trị, văn hóa nổi tiếng của Việt Nam và miền Nam vào thế kỷ 19
đa số là người Thuận Quảng hay người Minh Hương. Thí dụ Gia Ðịnh Tam gia gồm có
Trịnh Hoài Ðức gốc người Phước Kiến (định cư ở Biên Hòa, tác giả bộ địa phương
chí Gia Ðịnh Thành Thống Chí), Lê Quang Ðịnh gốc người Thuận Quảng (tác giả bộ
Hoàng Việt Nhất Thống Ðịa Dư Chí), Ngô Nhân Tịnh gốc người Quảng Ðông. Nhiều
gia đình danh gia vọng tộc ở miền Nam, đặc biệt ở Gò Công, cũng là con cháu
những người Thuận Quảng đã theo các đàn ghe bầu xuôi Nam lập nghiệp vào thế kỷ
17, như bà Từ Dũ, mẹ vua Tự Ðức là con của đại thần Phạm Ðăng Hưng, bà Ðinh Thị
Hạnh, thứ phi của vua Thiệu Trị. Ðến vùng đất mới, lưu dân Thuận Quảng mang
theo những câu hò, điệu hát đàng ngoài nhưng lại được cải biên theo địa danh
mới.
Bắp non mà nướng lửa lò
Ðố ai ve được con đò Thuận An
(Huế)
Bắp non mà nướng lửa lò
Ðố ai ve được con đò Thủ Thiêm
(Gia Ðịnh)
Ru em théc cho muồi
Cho mẹ đi chợ mua vôi ăn trầu
Mua vôi chợ Quán chợ Cầu
Mua cau Bát Nhị mua trầu Hội An
Hội An bán gấm bán điều
Kim Bồng bán cải, Trà Nhiêu bán hành
(Quảng Nam)
Ðố ai con rít mấy chưn
Cầu Ô mấy nhịp, chợ Dinh mây người
Chợ Dinh bán áo con trai
Chợ trong bán chỉ, chợ ngoài bán kim
(Gia Ðịnh)
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Bà Lữ đi xúc, con dâu đi mò
(Thuận Quảng)
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Sấu tha ông Lữ biết đâu mà mò
(Nhà Bè)
Chiều chiều ông Lữ đi câu
Trâu tha gảy ách ngồi bờ khoanh tay
Ngoài chuyện cải biên tiếng Việt, sự cộng cư giữa lưu dân Việt từ Ðàng ngoài
với người Tàu, người Miên đã tạo thành một thứ ngôn ngữ pha trộn. Biết bao địa
danh Nam Kỳ là nói trại từ tiếng Miên (Sóc Trăng, Trà Vinh, Bải Xàu, Chắc Cà
Ðao) danh từ tiếng Việt Miên ghép lại: cầu Mây Tức ở giữa Trà Vinh và Vĩnh Long
(Mây: tiếng Việt, Tức là nước, tiếng Miên) hay Việt Miên Tàu: sáng xỉn, chiều say,
tối lai rai nhậu tiếp, hay tối xà quần… hay là nóp, bao cà ròn (tiếng Miên)
thèo lèo, xá, gật, hủ tiếu, mì (tiếng Tàu) và tiếng quần xà lỏn, hay tà lỏn
(pantalon, Pháp).
Bàn về bản chất của người Nam Kỳ, tôi mượn hai tài liệu xưa: Trong Gia Ðịnh Thành Thống Chí của Trịnh Hoài Ðức viết vào khoảng 1820 có đoạn: Vùng Gia Ðịnh nước Việt Nam đất đai rộng, lương thực nhiều, không lo đói rét,
nên dân ưa sống xa hoa, ít chịu súc tích, quen thói bốc rời. Người tứ xứ. Nhà
nào tục nấy. Gia Ðịnh có vị trí nam phương dương minh, nên người khí tiết trung
dũng, trọng nghĩa khinh tài. John White, sau khi thăm viếng Saigon trở về Luân Ðôn có viết trong quyển hồi
ký “A voyage to Cochinchina” năm 1824 như sau:
Chúng tôi rất thỏa mãn với tất cả những gì chúng tôi nhìn thấy, mang theo cảm
tưởng tốt đẹp nhứt về phong tục và tánh tình của dân chúng. Những sự ân cần,
lòng tốt và sự hiếu khách mà chúng tôi thấy đã vượt quá cả những gì mà chúng
tôi đã quan sát đến nay tại các quốc gia châu Á. Tôi cố gắng tìm hiểu những đặc
tính của người dân miền Nam mà hai tác giả đã nhận định như trên qua cái nhìn
lịch sử và xã hội.
Sự cộng cư giữa người Việt với người Tàu và người Miên đã khiến người Việt học
được bản chất hiếu khách của hai sắc dân tộc nầy. Hơn thế, bản chất hiếu khách
còn là một nhu cầu sinh tồn của mọi lưu dân trong vùng đất mới. Trước những
khắc nghiệt của thiên nhiên, của bất trắc, lưu dân cần sống có nhau, tương trợ
nhau. Tính hiếu khách chẳng qua là một sự lo xa, phòng thân bởi lẽ nếu hôm nay
tôi giúp anh thì tôi hy vọng ngày mai anh sẽ giúp tôi khi tôi gặp khó. Do đó,
chúng ta không ngạc nhiên khi mới gặp nhau, dù chưa quen biết nhau, dân miền
Nam đều cơm nước trà rượu như đã là bà con cật ruột.
Ví dầu cầu ván đóng đinh
Cầu tre lắc lẻo gập ghình khó đi
Khó đi mượn chén ăn cơm
Mượn ly uống rượu mượn đờn kéo chơi
Có người còn giải thích tính hiếu khách, hào phóng của dân Nam Kỳ là do sự trù
phú, màu mỡ của ruộng vườn và tài nguyên dễ kiếm được, kiểu làm chơi mà ăn
thiệt của miền Nam. Giải thích như vậy có phần đúng, nhưng chưa đủ, bởi lẽ
không phải ai giàu cũng hào phóng nếu không sẵn có lòng hào phóng.
Biểu hiện của tính hiếu khách là các tiệc tùng, hợp bạn. Dân Nam Kỳ hay ăn
nhậu, đờn ca xướng hát. Nhưng phải hiểu rằng dân Nam Kỳ hôm nay là dân Thuận
Quảng khi xưa. Xa quê cha đất tổ, người lưu dân, sau những giờ lao động cực lực
hay sau những cơn hiểm nguy, cần có những phút giây để tâm sự hàn huyên với
nhau, kể cho nhau nghe những kỹ niệm xưa để vơi phần nào nỗi sầu ly hương.
Từ những chung rượu cay ở bờ rừng đến những buổi tiệc linh đình ở đám cúng
đình, đám giỗ có đờn ca xướng hát, người dân Nam Kỳ tìm trong những dịp gặp gỡ
ấy để giải khuây, để kết bạn. Tiệc rượu là dịp bàn chuyện làm ăn, chuyện thế
sự, do đó chúng ta không lấy làm lạ cái tiệm nước, quán rượu đầu làng là nơi tụ
hợp quen thuộc của mọi người dân trong làng, từ ban hội tề cho đến thứ dân.
Sơn Nam trong cá tánh của miền Nam đưa ra thêm một lý giải khác về bản tánh
hiếu khách, tứ hải giai huynh đệ của người miền Nam. Theo đó thì Thiên Ðịa Hội
tạo ra một nếp sanh hoạt sâu đậm khá hấp dẫn, thực tế: ăn cơm nhà lo chuyện
ngoài đường, sống chết nhờ anh em, tận tình giúp đỡ bạn. Trút tất cả tâm sự với
bạn kết nghĩa thì không có gì đáng ngại, đã là bạn với nhau rồi thì làm sao có
chuyện phản bội. Gặp chuyện bất bình, hoặc như bạn nào bị kẻ khác ăn hiếp thì
nổi nóng, trả thù cho bạn vô điều kiện, đó là đạo nghĩa giang hồ, là điệu nghệ
giữa anh em kết nghĩa, tứ hải giai huynh đệ.
Tưởng cũng nói thêm Thiên Ðịa Hội, là một thứ hội kín người Tàu phò nhà Minh,
liên kết nhau với một kỹ thuật chặt chẽ để giúp đỡ nhau (những chùa miễu, xí
nghiệp Tàu đều có tiền của Thiên Ðịa Hội) ảnh hưởng nhiều đến dân Minh Hương và
cả dân Việt Nam trong suốt thế kỷ 19 từ thành thị đến nông thôn, là một đồng
minh của các nhà ái quốc Việt Nam chống Pháp.
Những khía cạnh tiêu cực của bản tánh hào phóng là sự thiếu cần kiệm, hoang
phí, mà Trịnh Hoài Ðức phê là thói bốc rời. Hiện tượng những Cậu Hai, Cậu Ba,
Công tử Bạc Liêu, con của những đại phú hộ, thay vì dùng tiền rừng bạc biển để
kinh doanh, thì lại đắm chìm trong việc ăn chơi cho đến khi sạch túi. Kết quả
là đa số dân Nam Kỳ bị chôn chân ở ruộng vườn, ít bon chen trong thương trường,
để nền kinh tế cho người Tàu thao túng.
Bản chất đôn hậu mộc mạc là một đức tính khác của dân Nam Kỳ và cũng bắt nguồn
từ điều kiện sinh sống. Bản chất nầy cũng là một nhu cầu cần thiết trong cuộc
cộng cư của dân tha phương. Trong một cộng đồng nhỏ, mọi người trước lạ sau
quen tạo thành một đại gia đình quần tụ với nhau, do đó họ phải cư xử với nhau
bằng tình nghĩa. Những hành động bất tín, bất nghĩa sẽ đưa đến một hình phạt
nhục nhã là bị loại trừ ra khỏi cộng đồng, phải bỏ xứ mà đi. Người dân Nam Kỳ
vì vậy nhớ ơn và trung thành chẳng những với người sống mà cả với người chết.
Thông thường thì có đám giỗ, ngoài việc dọn mâm cơm cúng ông bà cha mẹ còn có
mâm cơm bày ra trước cửa nhà để cúng đất đai, cúng những người đã ra đi trong
công cuộc vở đất mới, cúng thần linh đất đai để những người nầy phù hộ.
Nói về sự phù hộ thì dân Nam Kỳ có không biết bao nhiêu thần hộ mạng bởi trên
con đường lập nghiệp, họ gặp không biết bao nhiêu hiểm nghèo. Một con thú dữ,
một con sông, một tiếng trời gầm, tất cả đều gieo cho họ sự sợ hãi. Trong nỗi
bơ vơ, họ luôn cầu nguyện đất trời để phù hộ họ.
Tới đây xứ sở lạ lùng
Con chim kêu phải sợ, con cá vùng phải kinh
Ðạo Phật vô Nam vì vậy mà biến thể, mang thêm bản chất dị đoan, bùa chú, cộng
thêm với bản chất mê tín của Phật giáo Théravada của người Miên và tục thờ cúng
nhiều ông Thần, ông Thánh của người Tàu. Dân Nam Kỳ do đó không phải là những tín
đồ Phật giáo thuần thành. Việc đi chùa, hành hương, làm công quả, ngoài chuyện cầu
nguyện, van vái còn mang thêm bản chất xã hội. Ðó là những dịp để bạn bè thân
thích gặp gỡ nhau trong một khung cảnh linh thiêng. Chùa chiền trong Nam đa số
không uy nghi, cổ kính như chùa miền Bắc và miền Trung, mà trái lại thường
khiêm tốn, thu mình trong những tàng cây cổ thụ, có khi diện tích cây trái xung
quanh lớn hàng chục lần ngôi chùa (các ngôi chùa Miên lại là giang sơn của các
loài chim muông). Ði chùa, đi hành hương đối với dân Nam Kỳ, đặc biệt với phụ
nữ còn là dịp đi vãn cảnh.
Không lấy làm lạ, là các ngày lễ hội truyền thống như Lễ Hội Bà Chúa Xứ (vía
Bà) ở núi Sam Châu Ðốc (25 tháng tư), Lễ Hội Ðền Bà Ðen ở Tây Ninh (rằm tháng
giêng), Lễ Hội Cúng Cá Voi ở các vùng ven duyên hải (ngày giờ tùy vùng), Lễ Hội
Thánh Ðịa Hòa Hảo ở làng Hòa Hảo Long Xuyên (18 tháng năm âm lịch)… đã diễn ra
trong nhiều ngày thu hút hàng trăm ngàn người, không những là tín đồ mà còn là
du khách. Sông nước bao la, kinh rạch chằng chịt và đồng ruộng cò bay thẳng
cánh lại là những yếu tố qui định cá tánh của dân miền Nam.
Trái với dân cư vùng châu thổ sông Hồng bị bao vây bởi một hệ thống đê điều,
làng mạc miền Bắc được thiết lập từ lâu đời nên bị bao bọc bởi những hàng rào,
lũy tre, thân tộc liên kết chặt chẽ nhau qua các thế hệ, làng xã ở miền Nam
thường thiết lập ven sông, chạy dài theo kinh rạch, không có lũy tre, hàng rào
ngăn cách, dòng họ thân tộc chưa phát triển chằn chịt như ở miền Trung, miền
Bắc. Nếu nói văn minh sông Hồng là văn minh đê điều thì văn minh đồng bằng sông
Cửu Long là văn minh sông rạch. Sông rạch đã qui định đời sống kinh tế, chính
trị của Nam Kỳ. Chúng ta không ngạc nhiên khi người Pháp bắt đầu thiết kế các
thành phố trong Nam, các dinh Chủ Tỉnh, hay các câu lạc bộ để ông tây bà đầm ra
hứng mát đều được cất hướng ra sông, rồi chung quanh đó là trường tiểu học, nhà
thương, trại lính và khám đường. Sông rạch lại qui định tâm tính và tâm tình của dân miền Nam. Ông Nguyễn văn
Trung đã viết: Do đó về phương diện xã hội, miền Nam không có chị Dậu trong tắt
đèn của Ngô Tất Tố, bị chà đạp ép bức mà vẫn chịu trận. Trái lại giai cấp điền
chủ ở miền Nam không thể áp bức hay áp bức dễ dàng nông dân như ở Bắc Kỳ vì nếu
không chịu nổi và nếu muốn, vợ chồng chị Dậu chỉ việc xuống ghe thuyền đi tìm
một miền đất hứa khác. Ðầm lầy, ruộng hoang còn thiếu gì sẵn sàng đón nhận
người đến vỡ đất lập nghiệp
Sông rạch và đất nước bao la vì vậy đã tạo cho dân Nam Kỳ tánh khẳng khái, bộc
trực, ít chịu cúi lòn, kém thủ đoạn. Tính lửa rơm, giận thì nói ngay, có khi
hung hăng, nhưng rồi cơn giận cuốn đi theo sông nước, đồng ruộng bao la. Cái cá
tính sẵn có ấy lại được tác động thêm bởi những ý niệm trung hiếu tiết nghĩa
qua các truyện Tàu đã ảnh hưởng sâu đậm trong tâm tính của dân miền Nam vào
suốt tiền bán thế kỷ 20 và truyện Tàu là một đặc thù của mảng văn học Nam Kỳ
Lục tỉnh. Nhưng bản chất cứng rắn nầy có khi là một khí giới yếu trong những
hoàn cảnh cần sự dẻo dai, uyển chuyển, nhất là trong các sinh hoạt chính trị.
Người ta thường nhắc đến ông Trần văn Hương với tất cả hai khía cạnh của đặc
tánh nầy.
Một khía cạnh tiêu cực khác của sự bộc trực là tánh thiếu cẩn mật và thiếu tế
nhị. Sự thẳng thắn đôi khi là một thất lợi trong cách ứng xử, làm vơi đi sự nể
trọng của người khách khi người khách không cần biết hết tuốt tuột chuyện
trong, chuyện ngoài của người chủ. Ngoài ra, trong dân gian còn lưu truyền câu “Ăn
mặn nói ngay. Ăn chay nói dối.” để diễn tả sự bộc trực của dân Nam Kỳ. Lịch sử
di dân và cuộc sống của lưu dân giải thích phần nào cái bản tính nầy. Lưu dân
trên đường xuôi Nam thường phải dùng ghe thuyền để vượt biển và chất mặn của
nước biển đã thấm sâu vào huyết quản của lưu dân. Họ quen với muối mặn nên họ
thích ăn mặn, thường trong bữa ăn thường có món kho và khô mặn. Chất mặn cần
thiết cho họ có nhiều sức lực để dãi dầu mưa nắng, để chịu đựng với sự khắc
nghiệt của thiên nhiên. Nhưng làm một phương trình giữa ăn mặn và nói ngay thì
có lẽ còn phải phân giải.
Dân Nam Kỳ không những nói ngay mà còn hay nói lớn tiếng, thiếu trau chuốt.
Phải hiểu rằng trên biển cả với sóng vổ ì ầm khi xuôi Nam, trong rừng sâu cây
cối dầy đặc khi khẩn đất hay trên khoảng đất rộng người thưa, cò bay thẳng
cánh, lưu dân khi cần phải nói với nhau phải nói ngắn gọn và nói to để vượt các
chướng ngại cách trở. Nhu cầu truyền thông trong một khung cảnh thiên nhiên
khắc nghiệt như vậy đã thay đổi phong cách truyền thông của người Thuận Quảng
xưa.
Trong công tác khai hoang vở đất, thiên nhiên khắc nghiệt không phân biệt giới
tính. Người phụ nữ Thuận Quảng vào miền Nam phải gánh chịu tất cả những thử
thách cam go y như nam giới. Người phụ nữ Nam Kỳ do đó đã được đào tạo và
trưởng thành trong cùng một môi trường với nam giới. Tính khí, diện mạo, y phục
của người phụ nữ miền Nam vì vậy có phần nào khác với người phụ nữ miền Trung
và Bắc. Họ rắn rỏi hơn trong các sinh hoạt, từ gia đình đến xã hội, từ tình cảm
đến tâm tình. Cách ăn mặc của họ cũng đơn sơ hơn, ít màu sắc hơn (người bán
hàng rong ở đất Bắc, đất Trung vẫn mặc áo dài, còn đại đa số người đàn bà Nam
Kỳ quần đen, áo bà ba đen, có khi còn quàng qua vai một cái khăn bàng hay khăn
rằn theo kiểu người Miên).
Chuyện Nam Kỳ tính chắc còn nhiều điều phải nói, phải lý giải. Nhưng điều tôi
muốn xin thưa với quý vị hôm nay là nếu xã hội miền Bắc và miền Trung đã thành
hình và phát triển lâu đời thành những khuôn khổ chặt chẽ, đó là những môi
trường tĩnh, thì đất Nam Kỳ vì là một vùng đất mới, vì là một môi trường động,
nên còn dễ dàng biến chuyển đổi thay.
Tác giả: Lâm Văn Bé
Chỉnh sửa từ bài viết “Người Nam Kỳ”
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll