HT THÍCH THANH TỪ |
Trong
kinh Phật dạy pháp của Phật là những phương thuốc trị tâm bệnh cho
chúng sanh. Chúng sanh có tám muôn bốn ngàn phiền não, thì Phật có tám
muôn bốn ngàn pháp môn. Như vậy mỗi pháp của Phật trị mỗi bệnh của chúng
sanh. Nếu chúng sanh có bệnh, biết rõ bệnh của mình, lấy pháp của Phật
trị thì bệnh sẽ lành. Còn người có bệnh mà không biết thì chịu thua,
hoặc biết bệnh nhưng không biết thuốc cũng không dùng được.
Như
vậy pháp Phật là pháp trị bệnh cho chúng sanh. Thế nhưng pháp Phật đã
có hai ngàn năm trăm mấy chục năm rồi, mà bệnh chúng sanh cũng không
hết, bởi vì chúng sanh nhiều bệnh quá.
Như
chúng ta đã biết, sau khi đức Phật giác ngộ dưới cội bồ-đề rồi, Ngài
tìm đến năm anh em ông Kiều-trần-như để hóa độ. Bài pháp đầu tiên Phật
nói là Tứ Diệu Đế. Tứ Diệu Đế chia ra hai phần, một phần chỉ ra sự đau
khổ, một phần dạy cách diệt đau khổ.
Về
phần đau khổ, Phật chỉ thân này chứa đựng bao nhiêu sự đau khổ, nên có
thân là có khổ. Vậy cái khổ đó ai đặt ra, từ đâu đến? Đức Phật bảo cái
khổ đó có nguyên nhân. Nguyên nhân đó là gì? - Gọi là Tập. Như vậy khổ
là một lẽ thật, nguyên nhân tạo khổ cũng là một lẽ thật. Vì vậy nên nói
Khổ đế, Tập đế.
Khổ
đã không phải ngẫu nhiên đến mà có nguyên nhân. Vậy khi biết nguyên
nhân rồi muốn cho hết khổ thì phải tiêu diệt nguyên nhân gây khổ. Tiêu
diệt được nguyên nhân gây khổ thì sẽ hết khổ. Nhưng muốn tiêu diệt
nguyên nhân đau khổ không thể nói suông, mà phải có phương pháp. Cũng
như thầy thuốc biết bệnh đang hành, bệnh nhân đang khổ, thì phải truy
nguyên tìm ra vi trùng gây bệnh. Biết
chính xác vi trùng rồi thì phải diệt vi trùng, diệt vi trùng xong mới
hết bệnh. Nhưng nói diệt vi trùng suông thôi thì không được, phải có
phương thuốc cụ thể, mới diệt hết vi trùng.
Cũng
vậy, Phật dạy tất cả khổ của chúng sanh đều có nguyên nhân. Nếu chúng
ta tra cứu biết rõ nguyên nhân rồi thì phải tiêu diệt nó, muốn tiêu diệt
nó phải có phương pháp. Nên Phật nói Khổ đế là quả, Tập đế là nhân.
Diệt đế là diệt hết nhân khổ. Muốn diệt hết nhân khổ phải có phương
pháp, phương pháp đó là Đạo đế. Có phương pháp mới dùng phương pháp ấy
diệt hết nguyên nhân đau khổ. Do đó, Diệt đế là quả giải thoát, còn nhân
của quả giải thoát là Đạo đế, tức phương pháp diệt khổ.
Đức
Phật dạy chúng sanh đâu khác gì việc của các thầy thuốc đang làm. Nên
đạo Phật rất thực tế, không nói chuyện viển vông xa vời gì hết. Ai có
bệnh chỉ cần dùng thuốc đúng thì trị lành bệnh. Trị lành bệnh là hết
khổ, nên nói đạo Phật là đạo cứu khổ chúng sanh.
Ở
thế gian, thầy thuốc trị về thân bệnh. Trong đạo, Phật trị tâm bệnh.
Giữa hai việc điều trị đó, việc nào quan trọng hơn? - Điều trị tâm bệnh
quan trọng hơn. Bởi vì dù thầy thuốc hay mấy, biết bệnh nhân đang bị đau
tim, hay đau phổi, thầy thuốc có thuốc nhưng người bệnh cứ rầu, cứ
buồn, thì trị nổi không? - Không nổi. Vì tâm người bệnh không an, không
vui thì điều trị khó lành. Vì vậy nên tâm bệnh rất là hệ trọng. Nếu thầy
thuốc có được hai phương thuốc, một trị thân bệnh, một trị tâm bệnh thì
hay biết mấy. Trị như vậy mới toàn hảo, còn chỉ một phần thì chưa được.
Để
trị tâm bệnh Phật dạy những pháp để tiêu trừ nguyên nhân sanh ra bệnh.
Bệnh của chúng sanh tới tám muôn bốn ngàn, pháp của Phật cũng có tới tám
muôn bốn ngàn. Nhưng nói về cội gốc của bệnh, thì có sáu thứ căn bản
phiền não. Trước khi nói pháp trị bệnh chúng ta cần phải biết các thứ
bệnh. Bệnh tình đó đang thế nào, muốn giới thiệu thuốc thì phải biết hậu
quả hay hiện trạng bệnh đang hoành hành ra sao.
Bây
giờ thử nghiệm lại tất cả chúng ta trong hiện đời khổ hay vui? Nếu vui
thì không có bệnh, không bệnh thì cần gì thuốc. Nếu có bệnh mới tìm
nguyên nhân gây bệnh và trị bằng cách nào. Trong nhà Phật nói con người
bị bốn, hoặc tám thứ khổ vây hãm, không ai thoát khỏi. Sanh khổ, già
khổ, bệnh khổ, chết khổ, có ai khỏi đâu? Như vậy quả thật chúng ta là
bệnh nhân rồi. Ngoài ra còn ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất
đắc khổ, ngũ ấm xí thạnh khổ. Nghĩa là thương yêu xa lìa khổ, oán thù mà
gặp mặt hoài khổ, mong muốn không được khổ, thân này tự bại hoại không
an khổ. Kiểm lại trong tám thứ khổ chúng ta đều có đủ. Rõ ràng xác định
được chúng ta là bệnh nhân rồi, thì mới nói tới trị liệu.
Muốn
trị bệnh thì phải phăng tìm nguyên nhân. Nguyên nhân nào sanh ra những
thứ khổ đó. Phật nói nhiều lắm nhưng ở đây tôi chỉ kể sáu thứ: tham,
sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Vì có nhân này nên có quả kia. Thí dụ như
tham, căn bản là tham sống. Có người nào không tham sống sợ chết đâu?
Nhưng rồi cũng phải chết, bởi vậy nên khổ. Bây giờ mình hết tham sống
thì không sợ chết. Mà không sợ chết thì đâu còn khổ.
Từ
tham sanh bao nhiêu thứ khổ. Đức Phật chia ra hai thứ: một là tham về
ngũ dục, hai là ngũ trần. Tham ngũ dục là: tài, sắc, danh, thực, thùy.
Tài là tiền của, sắc là sắc đẹp, danh là danh vọng, thực là ăn uống,
thùy là ngủ nghỉ, năm cái này để cho mình tham. Từ những tâm tham này
sanh ra các thứ khổ kia. Vậy chúng ta phải lấy thuốc gì để trị vi trùng
tham?
Tham
tài phải lấy hai thứ thuốc hòa hợp lại trị: thuốc thứ nhất là “bố thí”,
thuốc thứ hai là “vô thường”. Phật dạy tất cả tài sản của chúng ta bị
năm nhà cướp lấy. Năm nhà là gì:
1- Nước lụt,
2- Trộm cướp,
3- Con bất hiếu,
4- Lửa cháy,
5- Vua chúa hay quan quyền tìm cách cưỡng đoạt.
Như
chúng ta chứng kiến nạn lụt miền Trung vừa rồi, bao nhiêu năm dành dụm
chỉ một cơn lũ là cuốn sạch, không còn gì cả. Như vậy tài sản của chúng
ta có bảo đảm đâu, nên Phật nói nó thuộc về năm nhà. Nếu không bị lụt,
có khi bị cháy cũng rụi. Không cháy thì bị trộm cướp, không bị trộm cướp
thì con bất hiếu phá hết sự nghiệp. Không bị con cái thì gặp những thế
lực bên ngoài cưỡng bức cướp lấy.
Tuy
nói tiền bạc của cải của mình nhưng không bảo đảm giữ được lâu dài, như
vậy tham để làm gì? Nghĩ đến lý vô thường chúng ta bớt tham. Bớt tham
thì bớt khổ. Con người thường có bệnh hễ tiền của trong tay thì được một
đòi hai, được hai đòi bốn, muốn thêm hoài. Ở đây Phật dạy phải xả, phải
bố thí. Nên nghĩ chúng ta có bao nhiêu đủ ăn rồi, phần dư bố thí cho
người. Như vậy là bớt lòng tham. Nếu người dư dả đem bố thí, vì biết
rằng của cải giữ không được, không có tâm gom góp, keo sẻn là đã trị
được bệnh tham tài. Rõ ràng có bệnh thì có thuốc. Biết được nguyên nhân
vì tham tài, mà cầu bất đắc nên khổ. Muốn nhiều của nhưng muốn hoài
không được thì khổ. Bây giờ mình đem ra bố thí tức không cần giữ gìn nữa
thì đâu còn lòng tham. Mà không tham thì đâu có khổ.
Người tham sắc Phật dạy dùng thuốc “quán bất tịnh”
để trị. Bởi vì khi tham sắc thì thấy người đẹp, tự nhiên chúng ta nghĩ
ngợi người đó đẹp thế này, người đó quí, sang thế nọ v.v… Ngược lại nếu
chúng ta quán thân mình bẩn thỉu không ra gì, thân mọi người cũng vậy.
Quán đến khi mình gớm thân mình, thì thân người khác mình cũng gớm luôn.
Mà gớm thì hết tham. Đó là cách trị bệnh tham sắc.
Đến tham danh phải dùng pháp quán “vô thường”.
Bởi vì mọi thứ trên đời này được rồi sẽ mất. Thí dụ như người ứng cử
Tổng thống được đắc cử, thì bốn năm năm cũng hết nhiệm kỳ, có còn mãi
đâu! Bởi nó không bền, vì vậy phải quán vô thường, quán nó là khổ hai
thứ hòa hợp. Khi chưa được danh vì lo lắng chạy chọt đủ thứ đã là khổ.
Khi được rồi lo nó mất lại khổ nữa. Nếu thật sự nó mất thì càng buồn.
Cho nên quán tham danh gốc là khổ đau. Người không hiếu danh dù được mời
gọi cũng không muốn. Nếu có làm việc gì thì vì tất cả lợi ích chung chớ
không vì danh vị của mình. Đã vì tất cả lợi ích chung thì được không
mừng, mất cũng không lo, như vậy mới không khổ.
Đến việc tham ăn (thực) cũng là gốc của khổ. Phải dùng hai thứ thuốc “vô thường” và “bất tịnh” hòa
lại. Thức ăn khi còn ở miệng thì quí, nhưng nuốt qua khỏi cổ rồi thì
hết quí. Giả sử nó không chịu vào mà ụa ra thì có gớm không? Như vậy nó
quí khi còn ở ngoài. Nuốt vô rồi nó trở thành dơ, đâu phải là quí. Tại
vì chúng ta cứ mê say nên cho là quí. Nếu thấy nhơ nhớp thì đâu có tham.
Lại một điều nữa, thức ăn ngon được bao lâu? Chỉ một hai phút ở trong
lưỡi trong miệng thôi, qua khỏi cổ thì hết ngon rồi, nên nó tạm bợ vô
thường, tham làm gì. Xét như vậy thì bớt được tham ăn.
Tới bệnh tham ngủ. Nhà Phật dạy muốn trừ bệnh tham ngủ phải dùng thuốc “vô thường”, thuốc “tinh tấn”
hòa lại. Nên nghĩ mạng sống này không bao lâu, không có gì bảo đảm. Giờ
nào còn sống thì mừng giờ đó, qua giờ khác thì không thể biết được. Vì
thân này rất mỏng manh, rất tạm bợ. Nên chúng ta hiện sống, có những
việc nên làm đáng làm mà không lo làm, cứ nằm ngủ hoài. Nhà Phật dùng
câu: “cần tu như lửa cháy đầu”,
nếu đốm lửa rơi trên đầu thì chúng ta chần chờ hay phủi ngay? Vô thường
đến bất kể lúc nào, chúng ta không thể lường trước được. Vì vậy giờ nào
còn sống, còn khỏe thì nên làm tất cả những gì có thể làm, chớ không bỏ
trôi ngày giờ lãng phí một cách vô ích.
Như
vậy vừa quán vô thường, vừa tinh tấn thì trừ được bệnh tham ngủ. Nên
tôi thường nói với Tăng Ni muốn trị bệnh tham ngủ thì phải dùng cây roi
tinh tấn mà đánh cho nó thức.
Như
vậy là trị năm thứ ngũ dục bằng năm thứ thuốc rồi. Ở đây tôi không nói
ngũ trần vì ngũ trần cũng anh em với ngũ dục vậy thôi.
Qua
sáu thứ căn bản phiền não: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Bệnh tham
đã có mấy bài thuốc ở trên rồi, đến đây khỏi phải nhắc lại. Kế bệnh
sân, thì trị bằng hai thứ thuốc “từ bi” và “nhẫn nhục”.
Nhẫn nhục là giải quyết cấp thời, khi người ta làm trái ý, mình nổi sân
lên liền phải nhẫn, buông xả đi thì gọi là nhẫn nhục. Buông xả dừng được
cơn thịnh nộ rồi, nhưng lâu lâu nhớ lại cũng tức. Nghĩ rằng người ta
nói bậy, làm bậy, mình mới giận. Nhưng nếu chúng ta biết nghĩ lại, tại
vì ngu si nên họ làm quấy thật đáng thương. Nghĩ như vậy mới hết giận
luôn, chớ còn đè nén, mai mốt nhớ lại giận nữa thì không được.
Cho
nên có thuốc nhẫn nhục mà không có thuốc từ bi thì cũng dễ tái phát. Có
nhẫn nhục rồi phải có từ bi quán theo sau đó. Bởi vì nếu chúng ta có
tình thương thì lỗi nhiều thấy ít, nếu không thương thì lỗi ít thấy
nhiều, không thể thứ tha được. Vì vậy phải vừa nhẫn nhục, vừa quán từ bi
mới trị hết bệnh nóng giận.
Đến si, tức si mê. Si mê có hai tầng bậc:
Thứ nhất không biết gì là tội, gì là phước, gì là tà, gì là chánh, không phân biệt rành rẽ. Đó là si mê hạng thấp.
Tuy
nhiên quí Phật tử thử xét lại xem thiện, ác chúng ta đã phân biệt rành
chưa? Đôi khi chúng ta tưởng như mình đã biết rất rành về thiện ác,
nhưng có nhiều cái thiện mà thành ác, ngược lại ác lại thành thiện. Thí dụ cô giáo phạt học trò lười, trốn học hoài thì thấy như ác. Nhưng nhờ phạt nó sợ cố gắng học, như vậy thì ác hay thiện?
Còn giả sử như kẻ ghiền á phiện bị ụa mửa, có người thấy vậy mua á
phiện đưa cho họ hút, như vậy thiện hay ác? Mới nhìn như thiện vì kẻ
đang khổ, cho hút thì họ đỡ khổ, nhưng sự thật thì ác vì làm cho họ
ghiền hoài. Nên nhiều việc mới nhìn thấy thiện, mà hậu quả lại ác hoặc
ngược lại mới nhìn thấy ác nhưng hậu quả lại thiện.
Vì
vậy phân biệt thiện ác cũng không phải dễ, phải có trí tuệ mới có thể
phân biệt được. Phân biệt được thiện ác mới phân biệt được tội phước.
Cái gì tội, cái gì phước? Nếu việc làm giúp ích được người lâu dài thì
có phước. Còn việc làm trước mắt thấy như thiện mà tạo thành cái khổ cho
người lâu dài thì trở thành ác. Như vậy thiện ác thật khó xử, khó giải
quyết. Nhưng nếu chúng ta phân biệt được thiện ác thì tội phước mới
không lầm lẫn.
Cũng vậy tà chánh, rất khó phân biệt. Có những trường hợp mới nghe như phải, như chánh, nhưng mà rốt cuộc lại tà. Như
có người trong đạo Phật, rất cung kính Phật. Bởi quá cung kính nên tin
đức Phật có đầy đủ vạn năng xin cái gì cũng được. Vì vậy mỗi khi có tai
nạn hoặc gặp vui buồn cứ đến xin Phật cầu Phật. Quan niệm như vậy là đã
thành tà. Cung kính Phật tại sao lại tà, đó là vấn đề mà đôi khi Phật tử
chúng ta không nhận ra.
Đức Phật từng tuyên bố “ta không có quyền ban phước giáng họa cho ai”.
Vậy chúng ta xin Phật cho hết tai họa thì có ngược lại lời Ngài nói
không? Phật dạy một đàng, chúng ta làm một ngả, không phải tà là gì?
Trong đạo, người mắc kẹt bệnh này rất nhiều. Tu thì không chịu tu mà cứ
xin. Phật dạy dùng pháp để trị tâm bệnh mà chúng ta cứ xin là sao? Có
nhiều Phật tử nói tôi theo đạo Phật mười năm rồi, mà động tới thì phiền
não đủ thứ. Tu mà không hết khổ thì đạo Phật vô hiệu, không giá trị. Như
vậy kẻ ấy làm tăng giá trị đạo Phật hay làm giảm giá trị đạo Phật? Việc
này thật tế nhị. Quí Phật tử phải hiểu tin Phật là nên tin điều gì và
không nên tin điều gì. Người ta cứ ỷ lại vào Phật, cầu mong Phật cho cái
này cái nọ. Được như ý thì nói Phật linh, rủ nhau đi chùa. Nếu không
được như ý thì Phật không linh.
Phật
dạy chúng ta phương pháp tu, nếu có nóng giận nên tu pháp gì, đâu có
cầu ai. Ứng dụng pháp Phật để tu thì phiền não giảm, đau khổ bớt. Như
vậy Phật cứu khổ cho mình rồi. Cũng như thầy thuốc khám bệnh, cho thuốc,
nhưng bệnh nhân không chịu uống, vậy làm sao hết bệnh? Kẻ ấy thầy thuốc
cũng chịu không có cách nào khác. Phật là thầy thuốc trị tâm bệnh cho
chúng sanh. Nhưng chúng sanh không chịu dùng thuốc thì làm sao hết bệnh,
nên theo đạo Phật mà vẫn tà như thường. Hiện nay có rất đông người theo
đạo Phật như vậy.
Nhiều
huynh đệ than phiền nói tôi tu mà cứ chỉ trích người này chỉ trích
người kia. Vì tôi thấy việc tà mà không xây dựng, không chỉ dạy thì đối
với Phật pháp tôi đã có tội rồi. Do đó muốn phân biệt tà chánh rất là khó.
Đó
là chưa kể nhiều người tuyên bố mình là Bồ-tát tái thế để độ chúng
sanh, hay họ tuyên bố có câu chú lá bùa trị lành tất cả bệnh. Quí Phật
tử nghĩ sao, điều đó chánh hay tà? Trong nhà Phật dạy không có vị Bồ-tát
nào hiện thân ra đời mà vỗ ngực xưng tên ta là Bồ-tát cả. Bồ-tát đi lẫn
trong quần chúng hành mật hạnh Bồ-tát. Nếu nói ta là Bồ-tát để được
người cung kính lễ lạy thì làm sao hành hạnh Bồ-tát?
Chỉ
như có người bệnh cần phải cõng đi bệnh viện thì Bồ-tát làm. Người gặp
cảnh nghèo đói cần giúp thì Bồ-tát giúp thầm lặng, không hiện tướng khác
người. Đôi khi vì thử người, Bồ-tát hiện thân thấp kém để thử người mến
đạo. Nếu xưng Bồ-tát, mọi người đều quí kính hết thì làm được gì. Tự
xưng Bồ-tát còn không phải hạnh Bồ-tát, huống nữa tự xưng Phật thì chúng
ta bái không nên lại gần, vì đó là tà rồi.
Điểm
kế nữa, người dạy tu mà bảo phải thề độc, nếu bỏ đạo sẽ bị đọa địa ngục
v.v… Như vậy tà hay chánh? - Chắc chắn là tà rồi. Bởi tà nên họ sợ
người ta bỏ. Vì vậy bắt thề độc, lỡ vô rồi phải trung thành. Đó là tà
giáo, nhiều Phật tử bị lầm đáng thương lắm.
Đức
Phật dạy chúng ta qui y Phật thề tránh điều dữ nguyện làm việc lành,
chớ không thề thốt gì hết. Lúc nào không muốn tu nữa thì thôi, không có
chuyện hăm dọa bỏ đạo bị đọa địa ngục. Phân biệt tà chánh phải dùng trí
tuệ. Muốn trị bệnh si mê thì vận dụng trí tuệ quán chiếu mới trị được.
Bởi vì từ si mê người ta tạo đủ thứ nghiệp, chịu đủ thứ khổ. Nay muốn có trí tuệ chúng ta phải: một học chánh pháp (Hữu sư trí), hai tu Thiền định (Vô sư trí). Lấy trí tuệ dẹp si mê.
Phần
thứ nhất tôi nói về si mê cạn, đến phần thứ hai tôi nói về si mê sâu.
Si mê sâu là giả mà tưởng là thật, cái thật lại không biết. Như thân này
giả mà chúng ta tưởng thật. Đó là si mê. Si mê sâu này rất nguy hiểm vì
chấp giả làm thật, nên không bao giờ biết được cái thật. Đến tâm cũng
chấp cái giả của tâm cho là Tâm thật. Trong kinh Lăng Nghiêm, phần bảy
chỗ hỏi tâm, Phật hỏi ngài A-nan:
- Cái gì là tâm của ông?
Ngài A-nan trả lời:
- Bạch Thế Tôn cái hay suy nghĩ là tâm con.
Phật quở:
- Cái đó không phải tâm ông.
Ngài hoảng hốt hỏi Phật:
- Vậy con không có tâm sao?
Phật nói:
- Ông có tâm, nhưng cái suy nghĩ đó không phải là tâm ông.
Phật
liền dùng thí dụ chàng Diễn-nhã-đạt-đa đứng trước mặt gương soi mặt,
thấy đầu mặt rõ ràng trong gương. Khi úp gương xuống, đầu mặt mất, ông
ôm đầu chạy nói: “Tôi mất đầu rồi, tôi mất đầu rồi.” Tại sao ông ôm đầu
chạy lại la mất đầu? Tại chấp bóng cho là đầu thật, nên mất bóng liền ôm
đầu thật chạy la mất đầu. Chúng ta cũng vậy, suy nghĩ phân biệt mà cho
là tâm mình. Thật ra đó là duyên theo bóng, nghĩ về người thì có bóng
người, nghĩ về vật có bóng vật. Nó lăng xăng nhưng tìm lại thì mất dạng.
Không phải bóng là gì? Khi không suy nghĩ, không tính toán gì hết, lặng
yên, lúc đó có tâm mình không? Tâm là cái biết, mắt thấy biết, tai nghe
biết. Vậy mà chúng ta không bao giờ nhận cái đó, cứ nhận bóng dáng cho
là mình. Như vậy chúng ta có giống Diễn-nhã-đạt-đa không, cứ chấp bóng
là tâm mình? Chấp bóng là mình tức chấp tâm giả cho là thật, thì không bao giờ thấy được Tâm thật.
Nên
biết, tại sao chúng ta phải tu thiền? - Là để cái tâm tạm bợ bóng dáng
đó lặng xuống, nếu theo nó liên tục thì làm gì thấy cái thật. Tôi thường
ví dụ như cái gương, nhìn vào thấy có bóng người, bóng vật. Lúc đó
chúng ta thấy mặt gương rõ không? Bởi mải lo thấy bóng mà quên gương.
Nếu khi không thấy bóng mới nhận ra mặt gương luôn trong sáng. Cũng vậy,
tâm chúng ta luôn hiện tiền trong sáng. Nhưng chạy theo vọng tưởng thì
quên tâm. Khi dừng được vọng tưởng, cũng như gương không có bóng, mặt
gương hiện rõ ràng. Chúng ta tu thiền chủ yếu là vì thế.
Tâm
theo cảnh là tâm tạo nghiệp, buồn thương giận ghét là mầm tạo nghiệp.
Nếu không nghĩ ngợi lăng xăng thì có buồn thương giận ghét không? Tâm
không buồn thương giận ghét đâu có sanh diệt! Không sanh diệt mới thật
là cái chân thật của mình. Do đó si mê tầng thứ hai này rất sâu. Tầng
thứ nhất vừa nói có thể biết liền, còn thứ si mê này thật thâm trầm,
Phật gọi đó là vô minh.
Đối
với si mê cạn thì chúng ta dùng trí tuệ hữu học phân biệt chánh, tà.
Đối với si mê sâu chấp giả làm thật thì phải có công phu tu. Từ trí do
huân tu mới nhận chân được lẽ thật. Đây là nhân giải thoát sanh tử.
Tóm
lại, muốn trị bệnh si mê phải dùng thuốc trí tuệ và Thiền định. Trí tuệ
là trí hữu học, còn Thiền định để tăng Trí vô sư. Như chỉ thắp đèn mới
phá được bóng tối. Nếu không như thế thì làm sao phá được phiền não. Cho
nên người học Phật không có trí tuệ thì không làm sao phá được phiền
não. Vì trí tuệ phá si mê. Mà si mê sanh ra phiền não. Si mê chấp thân,
si mê chấp tâm v.v… Bao nhiêu khổ đau theo đó mà ra.
Đến
bệnh mạn, tức ngã mạn. Tại sao chúng ta có bệnh khinh mạn hay ngã mạn
này? Vì một là chấp thân, hai là chấp tâm. Thí dụ người đẹp, sang cả thì
thấy ta hơn thiên hạ, hoặc người thông minh học giỏi cũng thấy ta hơn
người. Từ hai thứ chấp thân chấp tâm, thân đẹp thì cho là quí, tâm lanh
lợi thì cho là khôn ngoan, đó là bệnh ngạo mạn. Bệnh này phải dùng thuốc
“vô ngã” để trị.
Vô ngã có hai: về thân thì do tứ đại hòa hợp, về tâm thì tất cả suy
nghĩ đều là vọng tưởng hư dối, có gì thật đâu mà chấp! Ta đã không thật
mà trọng mình khinh người là điều vô lý. Nên dùng pháp quán vô ngã, thân
tứ đại duyên hợp nên không có ngã thật, tâm cũng là bóng dáng của ngoại
trần, nên cũng không thật, có gì là khôn có gì là hơn? Lấy vô ngã để
phá ngã mạn, đó là thuốc trị bệnh mạn.
Đến
nghi, thường nghi có hai loại: Trong nhà thiền hay nói “đa nghi đa ngộ”
thì cái nghi này là nghi quí. Còn nghi bệnh như: một là nghi mình, hai
là nghi Tam Bảo. Nghi không biết Phật có thật không, pháp Phật dạy có
đúng không, các thầy tu có thật không? Do nghi như vậy nên đối với Tam
Bảo mất hết lòng tin. Kế, nghi mình tu không nổi. Đã nghi mình, nghi Tam
Bảo thì làm sao tiến được! Cho nên muốn hết nghi phải lấy thuốc “chánh
tín” để trị. Tức là lấy lòng tin. Lòng tin ở đây là từ trí tuệ mà có,
chớ không phải tin mù quáng. Bởi tin có hai: tin do trí tuệ gọi là chánh
tín, tin một cách mù quáng gọi là mê tín. Chữ tin này cần phải hiểu cho
rõ ràng.
Dùng
chánh tín tức là lòng tin chân chánh để dẹp cái nghi. Chánh tín là tin
thế nào? Một: Tin Tam Bảo bằng trí tuệ, đức Phật có thật hay không,
chúng ta phải tra khảo tìm hiểu cho rõ. Khi nào biết thật có đức Phật là
con người tu hành thành đạo, tin được Phật rồi. Thứ hai là tin pháp của
Phật. Pháp này đúng sự thật hay huyền hoặc sai với chân lý? Nếu đúng
thì chúng ta mới tin pháp.
Thứ
ba là tin Tăng, những vị xuất gia tu theo Phật gồm có Tăng Ni. Các vị
này có tu chân chánh hay không? Nghiệm xét thấy hoàn toàn chân chánh
đúng với chánh pháp của Phật mới tin. Nhờ biết nhận định từ trí tuệ nên
gọi là chánh tín. Vì
vậy Phật dạy phải Văn Tư Tu. Xét đủ rồi mới đủ lòng tin Tam Bảo. Tin
Tam Bảo là tín tha, kế đến phải tự tín, tức là tin nơi mình. Tin chắc
rằng mình có thể tu được.
Nhờ tin như vậy nên mới cố gắng tu. Nếu không, chúng ta sẽ sợ mình ăn
chay không nổi, ngồi thiền không nổi. Không tin mình thì không thể làm
gì được, mặc dù tin Tam Bảo. Cho nên tin Tam Bảo còn phải tự tin nữa.
Những việc Phật làm được chúng ta cũng làm được. Mình sẽ tu được, không
thua ai. Lòng tự tín phải mãnh liệt như vậy. Tóm lại, lấy thuốc chánh
tín để trị bệnh nghi ngờ.
Cuối
cùng là ác kiến. Trong phần ác kiến có: thân kiến, biên kiến, kiến thủ,
giới cấm thủ, tà kiến. Ở đây, tôi chỉ nhấn mạnh phần tà kiến, bởi vì
phần này rất tế nhị. Thường người ta nói tà là lệch là nghiêng. Kiến ở
đây không phải thấy mà nhận định. Tà kiến nghĩa là nhận định một cách
sai lầm. Thí dụ như nói chết là hết, hoặc cho rằng chết rồi, linh hồn
vẫn còn hoài, A trở lại làm A, muôn kiếp vẫn là A thôi. Đây là tà kiến,
vì một bên chấp đoạn kiến, một bên chấp thường kiến. Ngoài ra như chuyện
đến núi Sam xin vay tiền Bà chúa Xứ về làm ăn v.v… Đây là vừa thuộc về
mê tín, vừa là tà kiến.
Nếu
nói Bà chúa Xứ linh thiêng, ai vay tiền Bà đều phát đạt hết thì từ Long
Xuyên lên Châu Đốc mọi người phải giàu hết vì họ ở gần, dễ chạy lên
vay. Nhưng thực tế xét kỹ từ Long Xuyên lên Châu Đốc hay vùng lân cận
được bao nhiêu người giàu? Lẽ ra từ gần tới xa, nhưng ở gần đã không ra
gì thì ở xa làm sao xin được! Tin như vậy là tin nhảm nhí, tin tà kiến. Tà
kiến ngay con người mình, cứ nghĩ mình có linh hồn, mình chết rồi linh
hồn còn nguyên trở lại làm người v.v… Nhà Phật gọi như thế là tà kiến,
vì chấp thường kiến. Còn cho rằng chết là hết không có nhân quả báo ứng gì cả thì thuộc về đoạn kiến, cũng là tà kiến.
Trong
đạo Phật không nói còn mãi, cũng không nói chết là hết. Quan trọng là
phải làm sao nhận ra nơi con người mình phần nào sanh diệt, phần nào
không sanh diệt. Nhận được như vậy rồi, phải làm sao cho phần không sanh
diệt không bị phủ che. Còn trên mặt sanh diệt, nói còn hoài là sai, nói
hết cũng sai. Bởi vì lâu nay người ta hay nói cái gì mất rồi là hết,
nhưng sự thật không hết. Tất cả đều là một vòng chuyển biến tụ tán, tụ
tán. Kể cả các hình thức nhỏ nhất như bụi đất v.v… Cục đất to đập nát
thành bụi nhỏ, nhìn cục đất thì thấy mất, nhưng nó thành cát bụi chớ
không mất, chỉ chuyển biến đổi hình đổi dạng thôi. Thân này cũng vậy khi
hoại đất trả về đất, nước trả về nước, gió trả về gió, lửa trả về lửa
chớ không mất, không hết. Vậy mà chúng ta thường nhận định sai lầm, chết
là hết. Đó là tà kiến. Nên người Phật tử phải biết từ thể xác đến tinh
thần đều tùy duyên. Chúng luân chuyển tụ nơi này tan nơi kia chớ không
hết. Tùy duyên luân chuyển tức là luân hồi.
Biết
rõ nguyên nhân tạo thành luân hồi như vậy mới có thể chận đứng nó lại.
Hiểu thế mới tu giải thoát sanh tử. Nhiều người nói tu để giải thoát
sanh tử, nhưng hỏi giải thoát cái gì, làm sao giải thoát thì không biết.
Nếu chấp thân sanh diệt là thân mình, chấp tâm sanh diệt là tâm mình,
đó là tiếp tục tạo nghiệp luân hồi, không bao giờ dừng. Còn không chấp
hai thứ đó mà sống được với cái chân thật không sanh diệt của mình thì
không tạo nghiệp, đó là giải thoát, không bị lôi cuốn đi trong sanh tử
nữa. Có
người hiểu lầm đạo Phật, nói đạo Phật là đạo cứu khổ nhưng sao quí thầy
ít làm việc từ thiện hơn người tu đạo Chúa. Thầy chỉ giảng kinh như vậy
thì cứu khổ chúng sanh chỗ nào? Bởi vì cái nhìn của đạo Phật
khác đạo Chúa. Thí dụ như thấy đứa bé ra bãi biển vun cát làm núi non
chơi, một lát sóng biển ào lên cuốn trôi mất hết, rồi nó tiếp tục làm
nữa, cũng bị cuốn trôi mãi, như vậy tội nghiệp nó tốn công vô ích, sao
không làm gì khác hay hơn.
Đây
cũng vậy, nếu chúng ta còn luân hồi, bỏ thân này tụ lại thân khác kiếp
kiếp đời đời không ra khỏi, nên Phật nói không có khổ nào lớn bằng khổ
luân hồi. Cuộc sống mấy chục năm ra gì, có thiếu, có đói cũng là tạm
thời. Dài thì chết muộn, ngắn thì chết sớm, tất cả cũng phải chết, không
ai thoát được. Như vậy điều đáng lo nhất là làm sao ngay nơi thân này
đừng tiếp tục làm việc vô ích nữa. Chúng ta xét xem cứ mỗi lần sanh ra
chết đi, ta làm được những gì cho người cho mình? Hay sanh ra lớn lên
rồi già chết, đời này qua đời khác! Cứ như vậy hoài thật là vô lý! Nên Phật nói đi trong luân hồi không có khổ nào bằng. Cứu khổ chúng sanh là làm sao cho họ thoát khỏi luân hồi.
Đó
là gốc của đạo Phật. Điều này chỉ có Phật thấy chớ chúng ta đâu thấy.
Con người chỉ thấy đói rách và những thứ cần thiết trong cuộc sống. Mà
thân này đã tạm bợ thì những thứ phụ thuộc trong cuộc sống càng tạm bợ
hơn. Vì vậy Phật nói khổ từ đời này sang đời khác liên tục không biết
khi nào dừng.
Trong kinh đức Phật dạy rằng:
“Cái khổ bị thiêu đốt ở địa ngục chưa phải là khổ, cái khổ làm ngạ quỉ
đói khát chưa phải là khổ, cái khổ làm trâu ngựa kéo cày kéo xe chưa
phải là khổ, chỉ si mê không biết lối đi mới là khổ.”
Cho
nên đức Phật nói vô minh mê lầm là khổ nhất. Bởi vì nó dẫn mình đi
trong luân hồi vô số kiếp. Phá được nó, không còn lầm lẫn nữa, gọi là
giải thoát sanh tử. Được vậy mới thật sự hết khổ. Đạo Phật hết sức thâm
sâu, chỉ vì người ta không biết nên mới phê phán thế này thế nọ. Vì
đạo Phật đưa chúng ta đi quá cái tầm thường của con người, nên con
người khó tin khó nhận. Đức Phật thấy tột cội nguồn nên Ngài thương chỉ
dạy cho chúng ta đến chỗ đó mới là cứu kính. Không phải tu chút ít được
phước sanh cõi lành mà cho là đủ. Sợi dây xích dù bằng vàng, nhốt chúng
ta trong nhà lầu cũng bằng vàng, nhưng chúng ta vẫn thấy khổ như thường.
Bởi vì còn dây xích là còn khổ. Dù xích vàng hay sắt gì cũng đều khổ hết. Khi nào thoát khỏi dây xích mới hết khổ. Giải thoát là như vậy. Cho nên đạo Phật không khuyên chúng ta tu để đời sau được sanh lên cõi trời, mà phải giải thoát sanh tử. Đó mới là cội gốc.
Thế
nên chúng ta phải biết những gì đức Phật dạy là những phương thuốc trị
bệnh cho chúng sanh hết khổ. Từ bệnh tham, bệnh sân, bệnh si v.v… những
bệnh đó bớt được là bớt khổ. Nếu được hết sạch thì sẽ đi đến chỗ giải
thoát sanh tử. Những phương pháp Phật dạy gọi là Đạo đế. Dứt được mầm
đau khổ là Diệt đế, là giải thoát sanh tử.
Như
vậy học Phật, tu Phật là phải ứng dụng phương pháp Phật dạy. Thầy thuốc
cũng vậy, chẩn bệnh, cho thuốc, bệnh nhân phải uống thuốc mới lành
bệnh. Nếu cứ xin thầy cho tôi hết bệnh mà không chịu uống thuốc thì có
lành bệnh không? Đạo Phật vì thế rất thực tế chớ không phải huyền hoặc
như người ta tưởng.
Hiểu
được vậy mới thấy giá trị đạo Phật rất chân thật. Người Phật tử không
hiểu vô tình làm cho đạo Phật trở thành mê hoặc. Lỗi đó tại ai? Cũng tại
một phần ở nhà chùa. Giáo lý Phật dạy quá rõ ràng mà người tu không áp
dụng, không đem ra dạy, lại dạy những chuyện đâu đâu rốt cuộc nhìn đạo
Phật có khác gì ngoại đạo! Những gì ưu, những gì quí của đạo Phật cũng
không biết, cứ nói đạo nào cũng dạy ăn hiền ở lành thôi, mà không biết
gốc của đạo Phật là thế nào.
Vì không thấy được điều đó nên ngày nay theo đạo Phật, mai mốt theo đạo
khác, miễn đạo nào cũng ăn hiền ở lành là được. Như vậy là không hiểu
đạo Phật.
Hôm
nay nhân gặp gỡ quí vị thầy thuốc nên tôi nói về thuốc của đạo Phật.
Bởi vì Bác sĩ, thầy thuốc là thực tế khoa học, thì đạo Phật cũng thực tế
khoa học không có gì huyền bí hết. Chỉ tại người không hiểu và nhận
định sai lầm thôi.
Mong quí vị suy gẫm kỹ và ứng dụng tu hành cho có kết quả.
|
Đúng như quí Đạo Hữu nhận xét, hiện nay tình trạng ấn tống kinh sách, băng dĩa rất được hưởng ứng, bởi nhiều lý do. Lý do trước hết là nhiều người hiểu rằng bố thí pháp (hùn phước ấn tống kinh sách, băng thuyết pháp) có công đức và phước đức trên tất cả các dạng bố thí khác. Hoặc, có nhiều người cầu khẩn, van xin, khấn vái điều gì đó cho gia đình hay cho công việc làm ăn, buôn bán, bèn bỏ ra chút tiền để in các loại gọi là “kinh sách” để hối lộ thần linh trước, cho được việc mình mong cầu.
Thuở ấy, đức Thế Tôn đang ngự tại tinh xá Kỳ Viên. Mai sớm, có 10 vị tỳ kheo từ Câu Thi Na đến yết kiến Ngài. Lúc mới vào tinh xá, nhóm sa môn này gặp một chú tiểu ra vái chào. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, đoàn sa môn lui ngồi một bên. Phật hỏi họ:
BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
TKN.Thích
Nữ Chân Liễu
(15.4.2012)
Bồ Tát Thiên Thủ
Thiên Nhãn còn có danh hiệu Bồ Tát Chuẩn Đề hay Phật Quán Thế Âm thị hiện. Qua
hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn chúng ta cũng có thể thấy được ý nghĩa Công Đức và Phước Đức của Bồ Tát Hạnh.
Với tư tưởng giải thoát rốt ráo tuyệt đối của đạo Phật, nhận thức tâm lý con
người ở thế gian thân, miệng, ý là nguyên nhân tạo những nghiệp thiện hay ác
qua nhiều kiếp luân hồi, chỉ có tu hạnh bồ tát mới chuyển đổi được nhân quả.
Cho nên những
tôn tượng bồ tát vẫn luôn luôn là đề tài thu hút một cách mãnh liệt các tín đồ
Phật giáo. Hiểu theo chánh kiến một cách sáng suốt, thì tín ngưỡng dân gian chỉ
nhằm mục đích giác ngộ thật tánh chân như bình dị tự nhiên và cốt tủy đạo Phật
dạy: “Tu tâm chuyển ý hành bồ tát đạo”.
Trên mạng
lưới Internet, nhiều người phổ biến rộng rãi một đoạn phim ngắn vũ khúc ngàn
tay ngàn mắt, do các nghệ nhân câm điếc biểu diễn rất công phu điêu luyện.
Hình ảnh đẹp
của những nghệ nhân khuyết tật, múa theo mẫu pho tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên
Nhãn, một biểu tượng tuyệt vời về tư tưởng Từ
Bi và Trí Tuệ của đạo Phật. Ngoài những đường nét tinh tế điêu luyện, họ
thể hiện tuyệt đỉnh của nghệ thuật Đông Nam Á, bằng con tim (tâm) và khối óc (ý),
vì họ hoàn toàn không nghe được âm thanh của tiếng nhạc. Tuy họ bất hạnh, nhưng
khi biểu diễn, gương mặt các nghệ nhân khuyết tật nầy toát ra sự bình an từ nội
tâm trong ánh hào quang của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn.
TRÍ TUỆ (CÔNG
ĐỨC)
CỦA BỒ TÁT
THIÊN THỦ
THIÊN NHẢN
Trong những
khóa lễ thường có phẩm trì chú Đại Bi: “Thiên Thủ Thiên Nhãn vô ngại đại bi tâm
đà la ni…” là sự truyền đạt cho người tụng đọc cảm nhận đại trí lực, đại từ bi,
vô quái ngại của vị Bồ Tát ngàn tay ngàn mắt.
Bậc tu hành
giác ngộ trong dân gian ngày xưa có lẽ cảm nhận được sự mầu nhiệm bất khả tư
nghì nầy, khó nói hết được, nên các Ngài tạo tôn tượng bồ tát từ những tảng đá
trong thiên nhiên.
Đó là những
phương pháp giáo hóa chúng sanh không bằng lời, mà bằng “Tâm”, thật sự bản chất của tảng đá không có sự linh thiêng nào cả.
Hình ảnh tôn
tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn mỗi bàn tay đều có con mắt trí tuệ, trong tay
cầm nhiều pháp khí dùng hàng phục ma chướng, những cánh tay cầm kiếm, búa,
tràng hoa, châu báu, vải lụa gấm vóc, hoa sen, bánh xe pháp, bình tịnh thủy,
chày kim cang.. cũng tượng trưng cho mọi ngành nghề trong cuộc sống trên thế
gian này.
Ý nghĩa tượng
trưng vị bồ tát có đầy đủ năng lực khắc chế sự trói buộc của mọi cảnh trần (sắc,
thinh, hương, vị, xúc, pháp), không khuất phục mọi quyền lực ngoại đạo tà giáo,
tuyệt đối bình đẳng trong khi cứu độ chúng sanh, biểu trưng công đức và phước
đức siêu việt. Con người có sáu cơ quan là mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Kinh sách gọi là lục căn.
Khi sống trên
đời, con người tiếp xúc hàng ngày với cảnh trần. Mắt thấy sắc (các vật có hình
tướng). Tai nghe tiếng (âm thinh, lời nói). Mũi ngửi mùi hương. Lưỡi nếm vị.
Thân xúc chạm. Ý nghĩ duyên theo pháp trần. Kinh sách gọi chung sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp là lục trần.
Trong cuộc
sống hàng ngày, khi tiếp xúc với trần cảnh như vậy, tâm con người hay sanh ra sự phê phán:
đẹp hay xấu (mắt), dễ nghe hay khó nghe (tai), dễ ngửi hay khó ngửi (mũi), ngon
hay dở (lưỡi), mịn màng hay thô nhám (thân), thương hay ghét (ý). Những sự phê
phán trong tâm thức như vậy, kinh
sách gọi chung là lục thức.
Con người đời
thường do lục căn dính mắc với
lục trần sanh ra lục thức, và bắt đầu tạo nghiệp, thường là nghiệp chẳng lành. Người
tu muốn phát sanh trí tuệ phải nhận rõ nguyên nhân bị cuốn vào sanh tử luân hồi
là do sự dính
mắc.
- Nếu mắt thấy sắc, tâm không phê phán đẹp
xấu, khỏi bị trói buộc.
- Nếu tai nghe tiếng, tâm không phê phán, khỏi
bị não phiền.
- Nếu mũi ngửi mùi, tâm không phê phán, khỏi
bị bực mình.
- Nếu lưỡi nếm vị, tâm không phê phán, khỏi tạo
nghiệp chướng.
- Nếu thân xúc chạm, tâm không phê phán, khỏi
bị tham đắm.
- Nếu ý nhớ tưởng, tâm không phê phán, khỏi
khởi sân hận, hay luyến tiếc, nhớ thương.
Tâm không phê phán nghĩa là không dính mắc,
không nhiều chuyện, không chạy theo sự suy nghĩ sanh diệt, chứ không phải không
nhận thức rõ đẹp xấu, đúng sai, ngon dở.
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy:
"Tâm
và cảnh không dính nhau là giải thoát".
Trong cuộc sống,
chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các cảnh trên trần đời,
nếu tâm không dính mắc, không tham đắm,
thì không phiền não. Không phiền não tức là giải thoát.
Hành Bồ Tát
đạo là con đường nhập thế của người tu, 84 ngàn pháp môn diệt trừ phiền não tự
thân và muôn ngàn phương cách đưa giáo lý đạo Phật giúp người cùng tu giải
thoát. Con người trải qua trăm ngàn kiếp tái sanh luân hồi trong thập loại
chúng sinh, tâm còn nhiều chánh tà lẫn lộn, tốt có, xấu cũng có.
Khi được thân
người, thiện duyên kỳ ngộ với Phật Pháp, con người phát tâm tu muốn trở về Thật tánh chân như của mình, trước hết
phải tẩy trừ nghiệp chướng sâu dầy nơi thân
khẩu ý. Kinh sách dạy 48 ngàn pháp môn trừ sạch phiền não ma, phiền não chướng,
chính là ngàn tay cầm pháp khí trừ
ma, ngàn mắt trí tuệ sáng suốt xóa trừ
vô minh.
Con đường cứu
cánh của Bồ Tát là sự kiên định, ý chí bền vững để giác ngộ được khổ, không, vô ngã, vô thường trong Thật tánh của mỗi người. Để
đạt được tâm thiền định và ý chí bền vững, cần áp dụng pháp tu quán Tứ Niệm Xứ,
gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.
Niệm thân: Quán
thân bất tịnh. Biết rõ thân là bất tịnh, nhiều phiền lụy, không trau chuốt
theo nhu cầu đòi hỏi của thân, tu thân đoan chính trang nghiêm, đơn giản.
Niệm thọ: Quán
thọ thị khổ. Thọ nhận nhiều thì khổ nhiều. Không thọ vui buồn sướng khổ, không tham đắm quyền lợi vật chất,
biết tri túc sống thanh bần, đạt được an lạc trong đời sống.
Niệm tâm: Quán
tâm vô thường. Tâm con người nay thương mai ghét, nay tốt mai xấu. Hoặc ngược
lại. Do đó, khi có hạnh phúc không vui quá, khi gặp khổ nạn không than trách. Không
tự tôn, chẳng tự ti, thì tâm tự tại.
Niệm pháp:
Quán pháp vô ngã. Mọi sự việc
xảy ra trên đời đều do nhiều nguyên nhân, nguyên do, xa và gần, không có một
nguyên nhân đơn độc gây ra sự việc, nên gọi là vô ngã. Thấy được, hiểu được như
vậy, tâm không còn phiền não.
Chúng sanh
lăn lộn đầu thai trong lục đạo sanh tử luân hồi do nhiều căn bịnh từ vô minh
ngàn kiếp, gồm: tham ái, dục vọng, chấp thủ, đoạn kiến, thường kiến, ngã mạn.
Sự chân thật của Thật Tánh là người tu theo con đường Đức Phật dạy, đạt được
tâm thanh tịnh, đầy đủ trí tuệ, có thể chuyển phàm phu trở thành thánh nhân hay
bồ tát.
Đức Phật
Thích Ca chứng đắc tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu tận minh. Mắt
trí tuệ của Ngài thấy được tam thiên đại thiên thế giới, thấy nhân quả trong
nhiều đời nhiều kiếp, phá vô minh phiền não chấp ngã chấp pháp không còn sanh tử,
ra khỏi lục đạo luân hồi. Lục đạo là sáu cảnh giới luân hồi mà con người phải
đầu thai chuyển kiếp, nếu chưa sạch hết nghiệp chướng, gồm: Thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ,
súc sinh.
Cõi Thiên: Sanh về cõi thiên, nơi cực lạc thế
gian, hưởng phước báo thiện căn nhiều đời, được giàu sang, đủ ăn đủ mặc, có
người hầu hạ, nhà cao cửa rộng, an lạc hạnh phúc.
Cõi Nhơn: Sanh vào cõi người, giàu có nghèo có,
ưa thích làm việc phước thiện, cũng có khi tạo nghiệp bất thiện, hưởng phước báo
và cũng chịu quả báo đau khổ, sanh, lão, bịnh tử.
Cõi A Tu La: Sanh vào nhà quyền quí, hưởng phước
tốt của gia đình, có danh tiếng, có tiền của, tánh tình nóng nảy và kiêu mạn,
thích bạo động, có trí thức đời và thông minh, không khéo dễ tạo nghiệp ác.
Cõi Địa Ngục: Sanh vào cõi đau khổ, vì nghiệp ác
hại người sâu nặng, bị hành hạ tra tấn ngày đêm, sống không được chết không
xong, đau khổ vô cùng.
Cõi Ngạ Quỉ: Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn
sẻn, thường bị hãm hại, không chỗ dung thân, luôn đói khát, không có sức tự
kiếm ăn, sống nhờ vào lòng tốt của mọi người.
Cõi Súc Sanh: Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát
quá nặng mà đọa vào cõi nầy, lúc nào cũng sợ bị giết, sống nơi ẩm thấp rừng sâu
nước độc, mang lông đội sừng suốt kiếp.
Phật dạy: Rời
xa kiến chấp, an lạc niết bàn, hàng phục ma chướng, chứng đắc trí tuệ sáng suốt,
thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, vượt khỏi giả danh, không còn chỗ thọ của bản
ngã, không bị ràng buộc các pháp ác của tà ma ngoại đạo. Đó là chỗ nhận biết
của người trí tuệ và là chỗ cư trú các bậc thánh, các bồ tát, các bậc giác ngộ.
(Kinh Duy Ma
Cật)
TỪ BI (PHƯỚC
ĐỨC)
CỦA BỒ TÁT
THIÊN THỦ
THIÊN NHẢN
Xuất gia hay
tại gia được các vị Tôn túc hay Sư phụ thường khuyến khích thọ bồ tát giới, vì
đó là gieo căn lành cho người tu chuyển hóa phàm phu thành bồ tát. Nghĩa là
nhiều đời nhiều kiếp, bằng trí tuệ sáng suốt, hạnh nguyện một vị Bồ Tát trong
dân gian có thể cứu khổ cùng một lúc hàng trăm, hàng ngàn người, hoặc nhiều hơn
nữa, mà không làm tổn hại bản thân hay một ai khác. Những Bồ Tát sống trong nhân gian có rất nhiều hình tướng,
tùy cơ nghi xiển dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh, diệt ác sanh thiện, cứu
khổ ban vui.
Với tâm Bồ
Tát con người có thể khuyên nhủ vấn đề nan giải trong gia đình, bức xúc trong
tình cảm, nỗi tuyệt vọng bị áp bức, bất công, xung đột, tranh chấp. Thiền môn
cũng là nơi người Phật tử trở về nương tựa, tịnh tu, gởi gắm niềm tin hy vọng
và tìm được những phương pháp xoa dịu nỗi đau tâm linh, giải quyết đau khổ mà
họ đang gánh chịu.
Uy đức thiện
lành từ các vị chân tu thật học, phước trí trang nghiêm có biện tài thuyết phục
nhân vật quyền thế, kêu gọi hòa bình, hòa giải chiến tranh. Đó là trí lực nhiệm
mầu của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong nhân gian, đã cứu được hàng ngàn,
hàng vạn sanh linh trong biển lửa đao binh. Tâm nguyện của người tu hành:
Thượng cầu Phật đạo,
hạ hóa chúng sanh.
*
Trên cầu giác ngộ,
dưới cứu dân gian.
Có rất nhiều
người trên thế gian phát tâm từ thiện, vô úy thí, bố thí ngoại tài, nội tài vô
điều kiện cho những mãnh đời bất hạnh, nghèo khổ, thiên tai, bịnh tật, phiền
não sầu bi, gia đình tan vỡ.
Khi mới bắt
đầu chỉ có một tấm lòng với hai tay đơn độc, cùng đôi mắt từ bi biểu lộ tình
thương và cảm thông. Nhưng lòng từ bi của họ lâu dần lan rộng, cảm ứng tâm từ
thiện đến những người xung quanh, thêm người, góp thêm một bàn tay, ngàn người
tạo thành ngàn cánh tay, với tinh thần vô ngã vị tha tuyệt đối không danh không
lợi.
Đó chính là
những vị Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong nhân gian ở khắp mọi nơi.
Tóm lại, sức
mạnh thiện căn của Phật Tâm Phật Tánh
con người ở thế gian rất thâm sâu khó nói hết được. Trong Kinh Pháp Hoa, phẩm
Tùng địa dũng xuất, Đức Phật ca ngợi đức độ và tin tưởng tuyệt đối, sự việc
người phàm xuất thân cõi ta bà chuyển pháp luân, đầy đủ bi trí dũng, hành Bồ
Tát đạo, tự tu, tự độ. Khi một người tu học Phật hiểu và hành trì giới, được
định lực, có trí tuệ và từ bi, tinh thần rất mạnh mẽ cao thượng vô cùng, họ làm
được những chuyện kỳ diệu nhiệm mầu không thể nghĩ bàn.
Bồ Tát Thiên
Thủ Thiên Nhãn trong dân gian xả thân cứu độ mọi loài, hành đạo giúp đời có
thật không phải là hoang tưởng và Bồ Tát cũng là tâm Phật, là “Thật Tánh” của những con người biết tu
tâm dưỡng tánh, rốt ráo đoạn trừ ma chướng tự thân.
Đạo Phật
không dựa vào cầu khẩn, mê tín, trông chờ sự cứu độ của Bồ Tát bên ngoài, mà
dạy phải tự chuyển đổi nghiệp xấu nơi
tâm, tự cứu và phát tâm thành bồ tát muốn cứu độ những người hữu duyên sống
xung quanh.
Người có tâm
bất thiện nhìn thấy oai lực hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên nhãn cảm giác sợ
hãi kinh hoàng, tưởng tượng phép lạ, mơ ước kỳ nhân, chỉ biết cầu khẩn van lạy
xin thật nhiều thứ. Một khi con người phước đức thiện tâm có tu, thì có cảm ứng
sự dịu mát kính ngưỡng khó nghĩ bàn, tự phát nguyện tu giới hạnh và hành trì
theo đức độ Bồ Tát. Tôn tượng các vị Bồ Tát thường được ngầm ý biểu trưng thuộc
về tâm thức, muốn tán thán đức hạnh cao thượng của những người tu xuất thế gian
có đủ Từ Bi
và Trí Tuệ.
Đó là tất cả
ý nghĩa thâm sâu của Vi Diệu Pháp cần suy ngẫm thấu đáo. [ ]
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu
Ni Phật
TKN.Thích Nữ Chân Liễu
CHUYỆN TU HÀNH
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 16
- Thưa Thầy, tôi có nghe câu nói: Thứ nhứt thì tu tại gia.
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.
Vô chùa tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, thọ bát,
bái sám, thì đúng là tu rồi, dễ hiểu quá. Còn tu tại gia, tu tại chợ là làm
sao, thế nào, kính xin Thầy từ bi chỉ dạy cho. Cám ơn Thầy trước.
- Thông thường, ai cũng nghĩ vô chùa mới gọi là tu
thì quả thật không sai. Nhưng chưa hẳn hoàn toàn đúng.
Người thường đi chùa, hoặc cạo tóc ở luôn trong
chùa, nếu không tu sửa tâm tánh, vẫn tham lam, vẫn sân hận, vẫn si mê, có khi
còn làm phách, dè bĩu, hay khinh khi người khác không biết tu như mình, rủa xả,
mắng nhiếc người khác đọa địa ngục, phê phán không căn cứ, phỉ báng không tiếc
lời, thích ăn trên ngồi trước, giành miếng ngon, lựa chỗ tốt, thì không gọi là
tu được. Có chăng đó chỉ là hình tướng người tu, dù tại gia hay xuất gia, gọi
là tu tướng mà thôi.
Còn tu tại gia, tu tại chợ thì rộng rãi hơn, chiếm
toàn bộ thời gian trong một ngày, dù là người tại gia hay xuất gia. Lúc nào
cũng tự xem xét, hôm nay mình có làm tổn thương ai qua hành động, lời nói và
trong tư tưởng. Chẳng hạn như tại
chợ, mình có để xe nghinh ngang giữa đường, bất kể người khác có đi qua được
hay không. Chẳng hạn như tại gia, mình có ngồi coi TV chờ ông chồng (hay bà vợ)
mời ăn cơm, ăn xong coi TV tiếp, không phụ giúp làm cơm, không phụ giúp dọn
bàn, dọn dẹp, rửa chén bát, có khi lại ỷ mình là người làm ra tiền, nuôi cả
nhà!
Tóm lại, tu tâm dưỡng tánh, hôm nay mình tốt hơn
chính mình hôm qua, đó mới chính thực là tu.[]
BBT. PHTQ.
CHUYỆN TRONG ĐỜI
- Thế nào gọi
là tu?
- Trong cuộc sống hàng ngày, khi xài điện, nước,
giấy, nên tiết kiệm, không lãng phí, dù tại gia, tại chợ hay tại chùa. Như thế
gọi là tu đó.
CHUYỆN TRONG CHÙA
- Chị hai! Thầy nói em bị vong ma nhập, nó cứ xúi
em nhẩy xuống sông hoài. Em thì không biết lội chết chắc?!
- Khi nào con ma đó có xúi em nữa, em nghe lời chị
nói với nó vậy nè: Mầy nhẩy đi, tao không nhẩy. Vậy chết chắc là nó, không phải
là em.
- Ừ có lý hén!
CHUYỆN TRONG NHÀ
- Anh ơi, anh đem đồ đi chợ vào nhà, anh làm một
mình hết nha!
- Còn em, sao không phụ anh chứ?...
- Em bịnh!
- Bịnh gì lẹ vậy, vừa rồi em ăn một lúc hai tô phở
mà!
- Bịnh làm biếng được không thì bảo nào?
CHUYỆN TRONG CHÙA
- Thầy nói anh nghiệp chướng nặng nề, không chịu đi
chùa, lo đi làm kiếm tiền, coi chừng bị đọa đọa… đó!
- Em nói với Thầy dùm anh, ngày mai anh không đi
làm nữa, anh sẽ đi chùa, nhưng không có tiền giúp chùa gây quỹ nữa, được không?
CHUYỆN TRONG ĐỜI
- Sách có câu: “Hoa hồng là rác, rác sẽ là hoa
hồng”.
Câu đó đúng lắm! Nhớ hồi mới quen em, anh tặng “hoa
hồng” cho em, quay lưng đi em cho vào thùng rác ngay. Nếu anh khôn một chút,
tặng kim cương thì tốt rồi!
CHUYỆN TRONG CHÙA
- Thưa Thầy chồng con làm Bác sĩ lương hằng tháng
rất cao, nhưng có điều là phải dùng những con thú như chim, chuột, thỏ, để thí
nghiệm, như vậy có tội không vậy?
- Không được rồi! Nguy thay! Nguy thay! Tội lỗi!
Tội lỗi! Bảo ông ấy bỏ “Job” liền lập tức đi nhá!
- Không được rồi! Nguy thay! Nguy thay! Thế thì cả
nhà con chết đói rồi! Thầy ơi cứu con với! []
CHUYỆN
TRONG CHÙA
- Thưa Thầy, tôi nghe nói hùn phước in kinh sách ấn
tống, phát hành băng giảng, được rất nhiều công đức thù thắng, cho nên có nhiều
cá nhân cũng như tổ chức, chùa viện quyên góp thực hiện. Tuy nhiên, tôi thấy
trong nhiều chùa, số lượng kinh sách, băng dĩa phát không, tràn ngập, bỏ bừa
bãi, không trang nghiêm. Trong đó có quá nhiều kinh sách, băng giảng không có
nội dung tốt, thậm chí mê tín dị đoan, sai lạc giáo lý, chẳng những không lợi
ích gì, còn góp sức truyền bá tà pháp. Kính mong quí Thầy cho biết tôn ý về vấn
đề này.
Đáp:
- Các dạng bố thí gồm có: tài thí, pháp thí và vô
úy thí. Tài thí có: ngoại tài (tiền bạc, của cải), và nội tài (các bộ phận của
cơ thể). Pháp thí là bố thí chánh pháp, giúp người hiểu rõ chánh đạo, chánh
kiến, chánh tín, sự thật của cuộc đời, để sống đời được an lạc và hạnh phúc,
hơn nữa, đạt được giác ngộ và giải thoát. Và vô úy thí là giúp người vượt qua
cơn sợ hãi, sợ chết, sợ đủ mọi thứ, ổn định được tâm bất an.
Trong các dạng bố thí vừa kể, bố thí pháp thù thắng
nhất. Bởi lẽ, chánh pháp giúp đỡ con người trong kiếp này được khai mở trí tuệ,
tránh tà pháp và mê tín dị đoan, biết tu tâm dưỡng tánh theo đúng chánh đạo,
tránh tà đạo, nhận rõ tà sư và tà pháp. Cao cả nhất là chánh pháp giúp con
người thoát ly được phiền não khổ đau trong sanh tử luân hồi.
Đúng như quí Đạo Hữu nhận xét, hiện nay tình trạng ấn tống kinh sách, băng dĩa rất được hưởng ứng, bởi nhiều lý do. Lý do trước hết là nhiều người hiểu rằng bố thí pháp (hùn phước ấn tống kinh sách, băng thuyết pháp) có công đức và phước đức trên tất cả các dạng bố thí khác. Hoặc, có nhiều người cầu khẩn, van xin, khấn vái điều gì đó cho gia đình hay cho công việc làm ăn, buôn bán, bèn bỏ ra chút tiền để in các loại gọi là “kinh sách” để hối lộ thần linh trước, cho được việc mình mong cầu.
Họ đâu biết rằng các loại sách rẻ tiền, các loại
băng giảng tạp nhạp, hình thức bề ngoài có vẻ như đạo Phật, do chính các chùa
in, các nhà sư giảng, nhưng nội dung rất phi chánh pháp, cho nên vô tình góp
phần truyền bá tà pháp, mê tín dị đoan, làm cho nhiều người ngộ độc, tin theo,
rất tai hại.
Chẳng hạn trước đây vài năm, có người góp tiền in
sách Niệm Phật vãng sanh lưu xá lợi. Nghe qua có vẻ Phật pháp, nhưng nội dung
chứa đựng, xen lẫn nhiều tà pháp. Người không học hiểu giáo lý, không nghiên
tầm kinh điển, kể cả một số nhà sư già cũng như trẻ, rất dễ nhầm lẫn, ngộ nhận
rồi ngộ độc, và đem truyền bá nọc độc cho nhiều người khác.
Thêm nữa, có vô số sách thuộc loại tà pháp, mê tín
dị đoan, được in và bỏ bừa bải trong các chùa như: Bạch Y Thần Chú, Linh Cảm
Thần Chú, Pháp Sám Đại Bi, Kinh Di Lặc cứu đời, Kinh Cứu khổ, Địa Mẫu chơn
kinh, Kinh Hoàng Mẫu, Những điều linh ứng, Lời Nguyện,…
Các vị trụ trì chân tu thực học không phổ biến các
loại sách nhảm này trong phạm vi hoằng pháp và các vị Phật tử chân chánh không
góp phần tội nghiệp in phát hành hay phổ biến các loại sách này.
Chúng ta nên nhớ: nếu cầu nguyện mà được linh ứng
(hữu cầu tắc ứng) thì trái với lý nhân quả nghiệp báo.
Mình làm mình hưởng.
Mình làm mình chịu.
Thế Nào Là Thượng Tọa
Thuở ấy, đức Thế Tôn đang ngự tại tinh xá Kỳ Viên. Mai sớm, có 10 vị tỳ kheo từ Câu Thi Na đến yết kiến Ngài. Lúc mới vào tinh xá, nhóm sa môn này gặp một chú tiểu ra vái chào. Sau khi đảnh lễ đức Thế Tôn, đoàn sa môn lui ngồi một bên. Phật hỏi họ:
- Sáng giờ, các thầy có gặp
một vị Thượng Tọa vừa rời khỏi nơi đây không?
Các thầy sa môn đồng thưa: -
Bạch Thế Tôn, không ạ!
- Các thầy không gặp ai cả
sao?
- Bạch Thế Tôn, chúng con có gặp một chú tiểu chưa đến 20 tuổi.
- Bạch Thế Tôn, chúng con có gặp một chú tiểu chưa đến 20 tuổi.
- Này các tỳ kheo! Vị ấy
không phải là một chú tiểu. Ðó chính là bậc Thượng Tọa mà ta muốn nói.
- Nhưng, chú ấy còn quá
trẻ, bạch Thế Tôn.
-
Này các tỳ kheo! Ta không gọi ai là Thượng Tọa vì tuổi tác, vì họ được ăn trên
ngồi trước, hay họ xuất thân từ dòng dõi danh gia vọng tộc. Chỉ có người nào
thấu đạt chánh pháp, cư xử tốt với mọi người, ta mới gọi vị ấy là Thượng Tọa.
SUY NGẪM
Gọi là bậc trưởng lão, đâu
phải căn cứ trên tuổi tác già nua? Bởi vì đó chẳng qua chỉ là tấm thân già yếu,
râu tóc bạc phơ, rút cục chỉ là hạng giả danh ngu xuẩn mà thôi.
Sở
vị trưởng lão
Bất
tất niên kỷ
Hình
thục bạch phát
Xuẩn
ngu nhi dĩ.
Dù
tuổi cao mày bạc
Không
tịnh hạnh tu trì
Tôn
xưng là trưởng lão
Danh
suông nghĩa lý gì?
(Kinh Pháp Cú 260)
Những người chân tu thực học,
giữ gìn tâm tính nhân từ, sáng suốt, cư xử rất mực từ bi & trí tuệ, khắp nơi
cảm thấy thanh lương khi thân cận, thiền môn phát triển, nhiều người tìm tới nương
tựa. Thế mới xứng danh là bậc trưởng lão trong chốn thiền môn.
Vị
hoài chánh pháp
Thuận
diệu từ nhân
Minh
đạt thanh khiết
Thị
vi trưởng lão
Những
ai thấu chánh pháp
Tự
điều phục thân tâm
Thanh
tịnh và sáng suốt
Xứng
đáng là trưởng lão.
(Kinh Pháp Cú 261)
Trong kho
tàng kinh điển của Phật giáo, danh &
thực là hai phạm trù thường được đề cập, phân tích cặn kẻ. Danh là tên gọi, hình thức bên ngoài. Thực là phẩm chất, nội dung bên trong.
Danh là một trong năm món dục được chúng sanh ưa thích, tham
đắm cần phải loại trừ (tài, sắc, danh, thực, thùy).
Thực là nội dung của giác ngộ giải thoát, mỗi người phải phấn
đấu để chứng đạt.
Cả hai phương
diện này nếu tương ưng nhau thì thật là tốt. Nếu có thực mà không danh thì càng
hay, nhưng có danh mà không thực thì quả là tai họa.
Thí dụ: các vị
có danh Hòa Thượng, Thượng Tọa, lại nắm giữ các trọng trách trong nhà chùa, nhưng
thực chất do bè phái, sống lâu lên lão làng, không thực tâm hoằng pháp lợi sanh,
không thực tâm tu dưỡng, cư xử tàn độc với đồng môn, tự tôn tự đại, tai hại vô
cùng!
Thời Đức
Phật, các bậc đạo cao, đức trọng thường được tôn xưng là Thượng Tọa, là Trưởng
Lão. Vì thế, hàng thượng tọa rất được Tăng chúng và tín đồ cung kính, nể trọng,
cúng dường hậu hỷ, đồng thời các Ngài là bậc lãnh đạo, mô phạm trong đại chúng,
nên luôn được Phật ca ngợi, tán thán.
Cũng vì sự
trọng vọng này mà không ít người chưa điều phục được tâm tham danh, cũng mong
ước bước lên hàng thượng tọa, cầu đắc lợi lộc, thích được cung kính, say mê
danh vọng.
Đức Thế Tôn
biết rõ người đời sau phước mỏng nghiệp dầy, đam mê danh vọng, cho nên Ngài
dạy: Thượng Tọa là bậc đã thấu được
Chánh Pháp, cư xử tốt với mọi người (từ bi & trí tuệ viên dung), chứ không
vì tuổi tác hay nguồn gốc xuất thân. Một
chú tiểu nếu xứng đáng cũng được gọi là Thượng Tọa.
Thời nay, các
danh xưng như chú Tiểu, Đại Đức, Thượng Tọa, Hòa Thượng cũng chỉ là để có tôn
ti trật tự trong thiền môn. Các danh xưng vốn chẳng có giá trị hay liên hệ nào
đối với nội tâm an tịnh, tuệ giác và sự tự tại giải thoát cả. Ai ăn nấy no, ai tu
nấy chứng. Nhưng dù sao thì mỗi người cũng cần phải có một hư danh
để phân biệt với các hư danh khác.
Như thế, nếu thực
nội tâm tu dưỡng chưa xứng với danh xưng cao, thì điều phải làm chính là: tự
phản tỉnh, tự vấn lương tâm, tự tàm quí, tự hổ thẹn, hơn là vỗ ngực xưng danh
và tự mãn vui mừng. Ai cũng biết danh xưng là giả huyễn, tự phong hoặc người
khác phong cho cũng vậy thôi, nhưng lâu ngày thấy đó là thật, nguy hiểm vô
cùng.
Về hình thức,
chú Tiểu và Thượng Tọa tuy có khác nhau, nhưng nội dung bất khả tư nghì. Vì
thế, khi biết rõ về cái giả danh không thật, người có tâm cầu pháp, muốn giác ngộ chân lý vô thượng, phải luôn
phấn đấu cho xứng đáng, xứng danh là người có tuệ giác biết buông xả, không
dính mắc, vượt qua hết thảy các pháp - dù
thực hay giả.
Tóm
lại, các vị phát tâm xuất gia tu hành, các vị phát tâm tu tập tại gia, đã coi
thường mọi thứ danh lợi, địa vị của thế gian thì quan trọng gì chuyện xưng hô,
tranh hơn thua chi lời nói, quan tâm chi chuyện ăn trên ngồi trước, đi trước
đứng sau, tranh chấp danh tiếng, tranh cãi lợi dưỡng, tranh giành địa vị, đòi
hỏi chức vụ, nếu có, trong nhà đạo. Đồng quan điểm hay không, được cung kính
hay không, xưng hô đúng phẩm vị hay không, chẳng đáng quan tâm, không nên tranh
cãi. []
Ban Biên-Tập
PHTQ.
Tất Cả Là Do Con Người Gạt Gẫm Nhau Thôi!!
Khi tứ
đại tan rã, hệ thần kinh ngừng hoạt động, thần thức đã ra khỏi thân xác để đi
sanh sang cõi khác. Những trò hề hộ niệm được vãng sanh hiện nay cũng khá phổ
biến, bởi do con người không hiểu rõ chánh pháp, dễ bị gạt gẫm.
Đạo
Phật dạy rằng xác thân chỉ là sự duyên hợp của vật chất, gọi là tứ đại, bao
gồm: đất, nước, gió, lửa. Sau khi chết, những thứ này lại trở về với đất, nước,
gió, lửa.
Con
người ai ai cũng phải chết, và đi đầu thai qua kiếp khác, hoặc thiên đàng hay
địa ngục, đều do nghiệp thiện hoặc nghiệp ác, con người đã làm ra khi sanh
tiền. Chính con người quyết định kiếp sau đầu thai chốn nào, cõi nào, lành hay
dữ, tịnh độ hay ác đạo, chứ không phải do thượng đế hay thần linh nào khác -
cũng không do các ban hộ niệm cầu vãng sanh tào lao hiện nay rất nhiều.
Con
người quyết định đời sống kiếp này và kiếp sau bằng các hành động qua thân,
khẩu, ý hàng ngày, hàng giờ, hàng phút trong cuộc sống hiện tại. Do lòng thương
yêu và sự hiếu hạnh - nhưng không học hiểu chánh pháp - khiến cho con người
không còn sáng suốt, theo tà pháp, nên nghe quí thầy, quí cô trong chùa, bảo
sao làm vậy chứ không có suy nghĩ chín chắn. Quí thầy quí cô này cũng ngu dốt,
u mê, đời trước bảo sao, đời sau làm vậy, chẳng rõ chánh tà khác nhau ra sao.
Các tăng ni không học hành dẫn dắt theo bao nhiêu người khác đọa lạc - tai hại
vô cùng là chỗ này. Đầu tàu lạc đường, hay trật đường rầy, cả đoàn tàu không
đến được mục tiêu mong muốn. Bởi vậy bọn trọc đầu đọa lạc dưới địa ngục nhiều
hơn người có tóc, chính là nghĩa đó vậy.
Sự tin
tưởng thiếu thực tế, không trí tuệ của một số người đã làm giàu cho các chùa và
biến các chùa thành một nơi sinh hoạt mê tín chứ không còn là nơi chốn tu hành
của tăng ni và cư sĩ nữa. Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt, khi có thân
nhân chết, người ta đem thiêu xác, gửi vào chùa. Khi gửi nắm tro tàn như vậy
thì phải tốn bao nhiêu tiền đóng vào và còn phải cúng dường tiền cho chùa rất
nhiều hằng năm. Nếu thân nhân không cúng dường tiền thì hũ hài cốt ấy sẽ bị dẹp
vào chỗ khuất lấp. Còn ai cúng dường tiền nhiều thì hũ hài cốt sẽ được để trên
chỗ sang trọng trong tháp. Nhiều chùa hiện giờ lấy hài cốt làm con tin, để làm
tiền người thân một cách phi nhân nghĩa, thiếu đạo đức. Tháp hài cốt là núi
tiền, các lễ trai đàn bạt độ mê tín là những mẫu ruộng mầu mỡ xài hoài không
hết.
Có
nhiều thầy chùa cạo tóc có tiếng là đi tu, nhưng không học hiểu chánh pháp,
không rành giáo lý, chỉ lo mua bằng thượng tọa, trèo lên hòa thượng, học tổ
chức các lễ trai đàn bạt độ, các lễ vớt vong trên sông trên biển như vớt bèo,
các lễ phóng sanh nhưng hại vật, các lễ rải tro trên sông cho người chết được
giải thoát. Các loại lễ cúng này hét ra bạc, khạc ra vàng. Thiệt là các trò gạt
gẫm của bọn giặc thầy chùa.
Thầy
chùa nào biết luyện giọng, biết làm lễ mang màu sắc linh thiêng huyền bí, bẻ
tay giậm chân, mặc y áo như kép cải lương rực rỡ xanh đỏ tím vàng, la la, hét
hét, ợ ợ, ngáp ngáp, trợn trợn, chui vô màn vô mùng, đứng trên bục cao quơ quơ,
rắc rắc, thì người ngu u mê càng tin tưởng và cúng tiền càng nhiều, bởi lẽ ai
ai cũng có người thân đã qua đời. Mọi người đều thấy tệ nạn lừa đảo hiện giờ
trong các chùa rất lộ liễu, kể cả các hàng gọi là lãnh đạo cao cấp của các giáo
hội trong và ngoài nước. Nhà chùa vô hình, vô tình đã biến nơi tu hành thành
nơi nhà mồ nghĩa địa, nơi thực hiện sự mê tín của dân gian, gạt gẫm, lừa đảo bá
tánh u mê.
Trong
lúc con người còn sống mà còn chưa hiểu biết được Cực Lạc, Thiên Đàng ở đâu? Có
hay không có? Huống là người chết, nằm trong hũ tro còn nghe thấy được những
gì? Nếu người chết rồi quả thật nghe kinh và được sanh về Cực Lạc Thiên Đàng,
thì người sống tu hành làm gì cho cực khổ. Khi còn sống, con người cứ lo tạo
nhiều tiền nhiều của, bất chấp thiện ác. Khi chết, người đó dặn thân nhân,
thỉnh mời hàng trăm thầy chùa, hàng trăm ông cha đến cầu siêu, cầu hồn thì khoẻ
quá. Sống ngon chết tốt như vậy ai mà không ham chớ.
Đó là những tệ nạn trong chùa - không phải chính là Phật
Giáo - mọi người nên cảnh giác các mánh khoé lừa đảo này. Phật giáo là những
giáo lý dạy NGƯỜI SỐNG, ăn hiền ở lành, tu tâm dưỡng tánh, giác ngộ giải thoát,
quay đầu hướng thiện (đáo bỉ ngạn) - chứ không dạy con người đợi đến lúc nằm
trên giường bệnh mới biết niệm Phật, đợi nằm trong quan tài, trong nấm mồ,
trong lò thiêu, hay nằm trong hủ tro, mới chịu nghe kinh kệ. Tất cả đã quá muộn
màng. Tất cả là do con người gạt gẫm nhau thôi.
KHOA HỌC VÀ KIẾN THỨC TRONG PHẬT GIÁO
CON CHIM TRONG BÀN TAY
TÌM HẠNH PHÚC Ở ĐÂU
THƯ NGỎ VÀ MỤC LỤC PHTQ SỐ 20
THUYẾT TRÌNH VÀ HỘI THẢO CHƯƠNG TRÌNH ĐI TÌM HẠNH PHÚC