Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
CÂU CHUYỆN "NĂM NGƯỜI MÙ RỜ VOI"
TK THÍCH CHÂN TUỆ
Trong
Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy câu chuyện năm người mù rờ voi, sau này thường được
viết trong sách giáo khoa, đem dạy ở trường học, đáng để chúng ta suy gẫm như
sau: Có năm người mù được dẫn tới rờ một con voi và sau đó cho biết ý kiến của
từng người. Người rờ được cái vòi thì nhứt định cho là con voi giống như con
trùng thật lớn. Người rờ được cái chân thì nhứt định cho là con voi giống như
cái cột nhà. Người rờ được cái tai thì nhứt định cho là con voi giống như cái
quạt thật lớn. Người rờ được cái bụng thì nhứt định cho là con voi giống như
cái trống thật lớn. Người rờ được cái đuôi thì nhứt định cho là con voi giống
như cái chổi.
Thế là cả năm người đều chấp chặt cái sở tri, cái hiểu biết của
riêng mình, có chứng nghiệm rõ ràng qua sự rờ rẫm hiện vật, cho nên cãi vã
nhau, chướng ngại nhau, không ai muốn nghe, muốn tin điều người khác nói ra,
nhứt định cho mình là đúng. Tức nhiên, câu chuyện nhứt định dẫn đến chỗ tranh
chấp, ấu đả và khổ đau.
Chúng ta cũng thường mắc phải những lỗi lầm như thế, trong cuộc sống,
cho nên phiền não khổ đau. Chúng ta thường nghe thoáng qua một câu chuyện
truyền miệng, không biết đâu là xuất xứ, rồi vội vàng kết luận là người này
tốt, người kia xấu, người này phải, người kia quấy, đưa đến chỗ bất đồng ý
kiến, tranh cãi, phiền não và khổ đau. Chúng ta không có thời gian, không có
khả năng, không có hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu "nguyên
hình" của con voi như thế nào, mà đã vội vàng kết luận thì nhứt định
không sai và cũng nhứt định không đúng vậy.
Chúng ta có thể chỉ "đúng
một phần" thôi, hãy lắng nghe ý kiến của người khác! Thực hiện được
như vậy, có phải chúng ta tránh được những cuộc tranh cãi vô ích, trong gia
đình cũng như ngoài xã hội. Thực hiện được như vậy, chắc chắn chúng ta tránh
được phiền não và khổ đau, chắc chắn chúng ta sống được an lạc và hạnh phúc,
không nghi ngờ gì nữa cả. Thực hiện được như vậy, chúng ta mới là người thực sự
biết tôn trọng chân lý.
Sự khổ đau, trong các gia đình, thường là do sự chấp chặt giữa cha mẹ và
con cái. Cha mẹ thì nhứt định phải như vầy và như vầy thì mới đúng, khác
đi là không được. Con cái thì nhứt định phải như vậy và như vậy thì mới
được, khác đi là không đúng. Những gia đình như thế và như thế nhứt định
không thể có hạnh phúc. Chúng ta đừng than phiền con cái đời nay khó dạy. Thực
ra, con người đời nào cũng vậy, con cái đời nào cũng vậy thôi, chỉ có chúng ta
"biết" cách nào dạy con cái, và nhứt là "biết" cách nào dạy
chính mình hay không, mà thôi.
Hai thế hệ khác nhau tức nhiên có những khác
biệt trong lề lối suy nghĩ và hành động. Nếu biết thông cảm, dung hòa, tha thứ,
hiểu biết, thì vui vẻ hạnh phúc. Trái lại nếu cố chấp, bảo thủ ý kiến, thì khiến
phiền não và khổ đau. Rõ ràng là như vậy. Tệ hơn nữa là người lớn nghe lời xúi
dại của con cái, làm những chuyện lợi mình hại người, gây nên tội báo nghiệp
báo.
Trên đây, chúng ta đã tìm hiểu qua thế nào là chấp ngã và chấp pháp.
Vượt qua được chấp ngã và chấp pháp, tức là chúng ta đã vượt qua được hết thảy
mọi khổ ách. Hiểu được tường tận như vậy, chúng ta dễ nhận định rằng: Sắc bất dị không,
không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc, thọ, tưởng, hành, thức,
diệc phục như thị. Tại sao vậy? Bởi vì sắc và không
chẳng có gì khác nhau, còn và mất cũng vậy, tuy không đồng nhau.
Chẳng hạn như một cái đồng hồ do nhiều thứ ráp lại tạo thành. Có người
tò mò tháo rời từng bộ phận ra, rồi không biết ráp lại thì cái đồng hồ không
còn nữa. Hoặc giả đến một lúc nào đó, lâu hay mau, sớm hay muộn, chúng ta cần
tiền đem bán, hoặc đem cho người khác, hoặc cái đồng hồ bị hư hoại, thì cũng
không còn nữa. Ngay khi cái đồng hồ còn hiện tiền, chúng ta đã hiểu biết bản
chất của nó là không, tức là không tồn tại vĩnh viễn. Cho nên mọi chuyện biến
đổi đối với cái đồng hồ không làm cho chúng ta ngạc nhiên, không làm cho chúng
ta phiền não và khổ đau, tức là chúng ta được an nhiên tự tại, trước sự còn mất
của cái đồng hồ, nói riêng, của tất cả muôn pháp trên thế gian, nói chung.
Chẳng hạn như có một căn nhà tiền chế, có thể tháo ráp được. Khi chưa
được ráp lại, đó chỉ là một đống vật liệu như là: cây, gổ, sắt, gạch, đá, ngói,
xi măng, khung cửa, máng xối, vân vân, chưa phải là căn nhà. Khi ráp xong rồi,
đó mới được gọi là căn nhà. Như vậy, bản chất của căn nhà vốn là không. Do
duyên hợp nên căn nhà tạm có. Khi hết duyên, cái nhà rã ra, trở thành đống gạch
vụn, không còn là căn nhà nữa vậy.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị
hư vọng". Nghĩa là: tất cả mọi thứ trên thế gian có hình tướng, nhỏ như hạt cải,
cái bàn cái ghế, cái nhà cái xe, to lớn như dãy núi, hay quả địa cầu, tất cả
đều hư vọng, không tồn tại vĩnh viễn, có ngày cũng biến hoại, sau vài chục năm,
vài trăm năm, hoặc vài chục triệu năm. Cũng vậy, cái thân tứ đại gồm có: đất,
nước, gió, lửa, hay còn gọi là cái thân ngũ uẩn gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành,
thức, của con người cũng như vậy mà thôi. Còn đối với các pháp trên thế
gian, chuyện gì có cũng như không, không có chuyện gì tồn tại vĩnh viễn, lâu
dài.
Cho nên khi đắc thời được thế, con người không nên kiêu căng phách lối,
ngạo mạn khinh người. Tại sao vậy? Bởi vì chuyện đó không tồn tại được lâu đâu.
Hoặc khi chuyện rắc rối bực bội, bất bình xui xẻo, hư hại thất bại xảy ra, con
người cũng đừng để tâm trí rối loạn quá đáng. Tại sao vậy? Bởi vì chúng ta biết
ngay: chuyện gì rồi cũng qua đi, chỉ sớm hay muộn, chóng hay chầy, mà thôi. Cố
gắng giữ sự bình tĩnh thản nhiên, được bao nhiêu tốt bấy nhiêu. Một cơn giận
tới, do bị chửi mắng sỉ nhục, do bị công kích khiêu khích, do bị phân biệt đối
xử, một cách bất công, do bị vu oan giá họa, nói chung, do bị ngoại cảnh chi
phối, do người đời chung quanh gây nên, không thể tránh được.
Nếu chúng ta quán chiếu: cơn giận đó không thiệt, không tồn tại lâu, chỉ
quấy động tâm sân của mình, không nhằm nhò gì đến con người chân thật của mình,
vốn bình tĩnh thản nhiên, vốn thanh tịnh từ ái. Chúng ta không theo cơn giận
đang khởi lên đó, cơn giận đó sẽ qua, sẽ tan biến, sẽ lắng xuống. Mây đen tan
biến, bầu trời quang đãng. Tuy nhiên, cơn giận qua mau hay chậm, tùy theo năng
lực tu tập, công phu quán chiếu, khả năng hành trì của mỗi người. Chúng ta
không theo, cơn giận sẽ nguội dần.
Mọi sự mọi việc sẽ bình yên. Bằng không, ngược lại, chúng ta theo cơn
giận đó gây sự, sinh sự thì sự sinh ra ngay. Thí dụ như tức quá nhịn không nổi,
phản ứng ngay tại chỗ: chửi cấp trên thì bị mất việc, đánh người thì bị phạt,
giết người thì ở tù. Một chuổi hậu quả liên tục sẽ đổ ập lên đầu chúng ta, tiếp
theo ngay sau cơn giận của mình, khó lường trước được. Khi gặp nghịch
cảnh, không dùng trí tuệ bát nhã quán chiếu, càng cầu mong chuyện qua mau,
chuyện lại càng chẳng chịu qua. Cứ để tự nhiên, đến đâu đối phó đến
đó, lo lắng quá nhiều, buồn bực thái quá, sức khỏe suy yếu, không ích lợi gì.
Sắc và không là hai từ ngữ chỉ sự đối đãi trong cảnh giới tương đối. Khi
còn ở trong cảnh giới tương đối, con người vẫn còn phiền não và khổ đau, cho
nên trong kinh sách gọi là còn trong vòng sanh tử luân hồi. Chẳng hạn như còn
thương thương ghét ghét, còn đúng sai phải quấy, còn thị phi nhơn ngã, tức là
còn khổ đau phiền não. Chẳng hạn như còn chấp chặt sự quan trọng của mặt mũi,
địa vị, danh vọng, tiền bạc, của cải, sự nghiệp, tức là còn phiền não khổ đau.
Không có cái gì tồn tại vĩnh viễn.
Bản chất của muôn pháp là không. Hiểu biết
được như vậy, chúng ta phá được chấp ngã và chấp pháp, tâm của mình mới được
thanh tịnh. Không bị cảnh trần chi phối, lôi cuốn, tức là không còn phiền não
khổ đau, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, chính là nghĩa đó vậy. Ðó là tinh thần bát
nhã, còn gọi là "pháp môn bất nhị". Bất nhị nghĩa là không hai, cũng
không phải là một. Nói hai cũng trật, nói một cũng sai, đó gọi là Không Hai.
Chúng ta tạm dùng cá thí dụ sau đây cho dễ hiểu. Người đời thường nói:
"Tuy hai mà một. Tuy một mà hai". Câu đó thường dùng để chỉ những cặp
vợ chồng hòa thuận đồng lòng, nhứt tâm nhứt trí, trong mọi vấn đề, trong mọi
hoàn cảnh, trong mọi trường hợp. Tuy là hai người khác nhau, nhưng họ chỉ có
một ý kiến, có một quyết định, khi cần chỉ hỏi một người cũng dủ, cũng như hỏi
người kia. Họ cũng như một người, nhưng thực tế họ là hai. Chúng ta thử xét thí
dụ khác: Mặt biển nổi sóng và mặt biển thanh bình, không phải là hai, nhưng hai
trạng thái hoàn toàn khác nhau.
Cũng vậy, tâm chúng ta lúc bình tĩnh thản nhiên
và lúc nổi cơn tức giận, không hai, nhưng cũng không phải một. Tuy hai mà
một, tuy một mà hai, chính là nghĩa đó vậy.
Trong cảnh giới tương đối, chúng ta thấy có cái này thì phải có cái kia.
Chẳng hạn như có sáng thì có tối, có đúng thì có sai, có thương thì có ghét, có
phải thì có quấy. Chấp một bên thì chúng ta khổ đau ngay, phiền não ngay. Ðó
còn gọi là cảnh giới nhị biên. Khi nào chúng ta phát huy được trí tuệ bát nhã,
vượt ra khỏi vòng tương đối, chúng ta sẽ hết phiền não và khổ đau, sẽ được giác
ngộ và giải thoát, sẽ được an lạc và hạnh phúc, sẽ được an nhiên và tự tại.
Chẳng hạn như khi gặp một người, nếu không quan tâm chuyện thương ghét, tâm
chúng ta sẽ bình thản. Chẳng hạn như khi vào một căn phòng không có mùi thơm,
không có mùi hôi, tâm chúng ta sẽ bình thản.
* * *
Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo
Phật: Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là chơn
tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm
đó, trở thành vọng tâm. Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi
là biển động. Khi có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, hay
bản tâm thanh tịnh. Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có, cúng kiến lễ lạy, van
xin cầu nguyện, không phải không còn gì khác.
Ðiều đáng quan trọng không phải là "vọng tâm" thay đổi
bất chợt, bất thường nói trên, mà chính là cái "chơn tâm bất sanh, bất
diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm" của tất cả chúng ta
vậy. Hiểu được, nhận được: "thế nào là chơn
tâm", chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, được Ðức Phật giảng giải rõ
ràng trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, và đồng thời, trong Bát Nhã Tâm Kinh, phần
tiếp theo sau đây:
"Xá Lợi Tử! Thị chư pháp không tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu,
bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Thị cố không trung vô sắc, vô thọ, tưởng, hành,
thức; vô nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý; vô sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp; vô
nhãn giới, nãi chí vô ý thức giới; vô vô minh diệc, vô vô minh tận, nãi chí vô
lão tử, diệc vô lão tử tận; vô khổ, tập, diệt, đạo; vô trí diệc vô đắc. Dĩ vô
sở đắc cố, bồ đề tát đỏa y bát nhã ba la mật đa cố, tâm vô quái ngại; vô quái
ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng, cứu cánh niết bàn. Tam
thế chư Phật y bát nhã ba la mật đa cố, đắc a nậu đa la tam miệu tam bồ
đề".
Nghĩa là: Hãy nhìn thấy các pháp không qua các hình tướng bên ngoài, chúng ta
mới có thể nhận thấy được bản thể chơn thực không sanh không diệt, không dơ
không sạch, không tăng không giảm. Hãy nhìn thấy trong chơn không, không có ngũ
uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành, thức, không có lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý, không có lục trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, không có lục thức: từ
nhãn thức giới cho đến ý thức giới, không có vô minh, không có hết vô minh,
không có già chết, không có hết già chết, không có tứ đế: khổ, tập, diệt,
đạo, không có trí tuệ, cũng không có chỗ chứng đắc.
Vì không có chỗ
chứng đắc, tức là không bị dính mắc, dù là pháp thế gian, hay pháp xuất thế
gian, cho nên Bồ Tát nương theo trí tuệ bát nhã, tâm không còn điều gì ngăn
ngại, không có gì cản trở được, không có gì làm cho sợ hãi, chính vì thế xa lìa
hẳn những chuyện điên đảo mộng tưởng, đạt tới cảnh giới cứu kính niết bàn. Chư Phật trong ba thời:
quá khứ, hiện tại và vị lai, đều nương theo trí tuệ bát nhã, đạt được đạo quả
vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Hình tướng của các pháp ở thế gian đều do con người tạo ra. Chẳng hạn
như chế tạo ra kiểu xe này, kiểu xe khác, tùy theo sáng chế của viên kỷ sư, tùy
theo nhu cầu của người mua sắm, tùy theo mức tiêu thụ, trên các thị trường khắp
nơi.
Chẳng hạn như xây cất nhà cửa, kiểu này kiểu khác, tùy theo đồ án thiết kế
của kiến trúc sư, tùy theo chức năng xử dụng của công trình, nào là nhà ở đủ
loại, nào là nhà thương, trường học, nhà máy, phi trường, vân vân. Chẳng hạn
như hình tướng người hiền, hình tướng người dữ, tùy theo tâm tánh của mỗi
người, hiển lộ trên gương mặt, trên tướng mạo bên ngoài. Những chuyên viên hóa
trang trong ngành điện ảnh, trong nghệ thuật sân khấu, kịch nghệ hay cải lương,
có khả năng "biến" một người thành dáng hiền nhân quân tử,
"biến" một người thành dáng đạo tặc tiểu nhân, thậm chí "biến"
một người thành dáng nam hoặc nữ, tùy theo yêu cầu của kịch bản. Chẳng hạn như
cùng một chất vàng, con người có thể làm ra đủ thứ loại nữ trang, hình tướng
khác nhau, nào là vòng, xuyến, cà rá, hoa tai, dây chuyền đủ kiểu. Cho nên khi
nhìn các món nữ trang, chúng ta không nên chấp vào hình tướng khác nhau, hình
thức bên ngoài, chúng ta sẽ dễ dàng nhận biết: tất cả đều được làm bằng vàng,
bản thể là chất vàng.
Cũng vậy, khi chúng ta nhìn con người không qua các hình tướng khác
nhau, không qua các hình thức bên ngoài, chẳng hạn như nam phụ lão ấu, già trẻ
lớn bé, giàu nghèo, sang hèn, quan dân, đẹp xấu, mạnh yếu, cao thấp, sắc tộc,
màu da, xuất xứ, học thức, địa vị, lúc đó chúng ta sẽ nhận ra được tất cả mọi
người đều giống nhau ở chỗ: Bất cứ người nào cũng có "Bản Tâm Thanh
Tịnh", còn gọi là
"Chơn Tâm". Bản tâm thanh tịnh của tất cả mọi người đều giống nhau, không khác, đều
đồng nhứt thể. Chỉ vì mê ngộ không đồng, con người tạo tội tạo nghiệp khác
nhau, cho nên hình tướng bên ngoài khác nhau.
Cốt Tủy Của Đạo
Phật
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
From: Pham Thi Le Hang
Sent: Tuesday, October 2, 2012 4:01:04 AM
Subject: Kính Thầy
Con không thấy hồi âm của Thầy, chắc Thầy bận việc?
Con đã đọc vài bài viết trên trang nhà Phật của Thầy rồi ạ.
Con muốn được nhìn thấy kiếp trước của con thì phải làm thế nào? và làm
thế nào để được nhìn thấy nhiều điều hơn nữa mà mắt thường không thể nhìn
thấy được ạ?
Vì con có quen 1 Phât tử ở Từ Liêm còn trẻ mà đã làm được điều ấy qua áp
dụng pháp môn Mật Tông, con đang đọc đến bài của Thầy là Mật Tạng Phật Giáo
Việt Nam, con muốn được như vậy thì phải làm như thế nào ạ?
Cái bàn phím của con hay nhảy chữ quá, mặc dù con muốn viết thư dài cho
Thầy, con đành ghi vài lời đến Thầy. Kính mong Thầy chỉ giúp cho con để con có
thể chữa bệnh, hay chữa tâm linh cho Mẹ con và con gái của con ạ!
Mong hồi âm của Thầy!
Con, Lệ Hằng, pháp danh Phương Hòa (Hà Nội)
Mô Phật
Kính ĐH Lệ Hằng,
Thầy rất bận việc, dĩ nhiên, nhưng Thầy không quên hồi âm cho Lệ Hằng
đâu.
Giáo lý đạo Phật giúp con người tu tập để giảm bớt
phiền não khổ đau trong cuộc đời.
Chẳng hạn như Đức Phật dạy: bớt lòng tham, bớt ham muốn vật chất,
thì đời bớt khổ, bởi vì bớt bon chen, không giành giật.
Đức Phật dạy: bớt lòng sân hận, bớt hờn dỗi khi gặp sự bất trắc, không
được sự như ý,
hay khi không gặp người dễ thương, hoặc gặp rồi nhưng thương không dễ,
thì con người sẽ ăn ngon và ngủ yên, và đời sẽ bớt khổ.
Đức Phật dạy: bớt lòng si mê, đừng tin những chuyện huyễn hoặc, huyền
bí, linh thiêng nào cả,
cũng đừng mong cầu thấy phép lạ, được phép lạ.
Tại sao?
- Bởi vì đức Phật, đức Chúa hay bất cứ vị giáo chủ nào cũng chết.
Có vị nào sống đến ngày nay hay sống vĩnh viễn đâu?
Các vị giáo chủ hiện đời cũng sợ chết như ai, cũng bị lôi cổ té trong
thánh đường lúc đang ban phép, ra ngoài công chúng cũng phải đi xe chống đạn.
Những chuyện phép lạ, hiển linh, huyền bí, thấy
kiếp trước, biết kiếp sau, tiên đoán năm này năm kia tận thế, niệm A Di Đà Phật để cứu trái đất
khỏi tan nát,
A Di Đà Phật hay A Mi Đà Phật mới linh thiêng, chữa người chết sống lại, rờ mắt người mù thành người mắt sáng, rờ chân người bại liệt thành lực sĩ chạy đua, rờ miệng người câm thành người chửi lộn số một, biến nước lã thành rượu ngọt, biến khúc cây thành bánh mì ngon, hình chụp thánh giá hiện ra trên sông biển, hình Phật bà hiện ra trên
mây, hình đức Mẹ hiện trên vách tường tiệm cà phê ế khách, bức tranh thánh chảy máu mắt, chảy máu dầu olive, tượng đức Mẹ hay tượng Phật bà biết khóc, ánh sáng mạnđàla hay hoa mạnthùsa, hiện trên nóc chùa, trên tượng Phật
ngọc 4 triệu đô la, hoa vô ưu nở trên tượng Phật đá, trên chuông đồng, trên khúc gỗ, trên
cửa sổ, hóa thân Phật Quán Âm hay Phật Di Đà chỉ tái sanh ở Tây Tạng, Bồ Tát Văn
Thù hay Bồ Tát Phổ Hiền chỉ hiện ra bên Trung Hoa, hành hương qua Ấn độ mới gặp
Phật đá, mới tu đắc quả, mới thành Phật tượng. Các mánh lới quảng cáo du lịch
qua tôn giáo như vậy thiệt là hiệu quả vô cùng. Tại sao?
- Bởi vì toàn là những chuyện mê tín, huyễn hoặc,
tào lao quá mức,
do các vị tu sĩ chức sắc, thuộc giáo phẩm cao cấp,
hay hàng lãnh đạo các giáo hội tôn giáo phịa ra, vì
lợi danh, với mục đích lôi kéo tín đồ,
gạt gẫm những người nhẹ dạ, những người còn sống
trong vô minh (tham sân si),
những người còn ham cầu nguyện cho mình, cho gia
đình mình, cho đạo mình,
ham vãng sanh cực lạc chỉ cần niệm Phật mười tiếng,
chẳng cần biết đức Phật dạy những gì,
chẳng cần học kinh điển, cho là xen tạp mất linh
nghiệm, mà thôi. Than ôi!
Tuy nhiên, đạo Phật có dạy điều tối thượng mà các tôn giáo khác không có
chỉ dạy.
ĐH. Lệ Hằng có muốn biết chăng?
- Đạo Phật có
dạy rằng:
1. Con người có 2 phần (ngũ uẩn):
Ngoài xác thân tứ đại phàm tục (sắc), còn có phần tâm linh (thọ, tưởng,
hành, thức).
Phần xác thân (tứ đại) khi hết phước (tận số) thì chết đi, đem chôn, hay
thiêu - không ai đem xác thối lên trời!
Con người không cần bận tâm đến cái xác chết, của mình hay của thân
nhân, không nên phiền não với mấy cái hủ tro từ nhà quàn - chưa chắc là tro
thiệt từ thân xác của thân nhân quá vãng. Quan trọng mấy cái vật chất đó, chỉ
làm khổ người thân còn sống, phải đem xác chôn chỗ này, đem tro rãi chỗ kia. Đó
chảng qua do tập quán, tín ngưỡng lâu đời của thế gian, và cũng chính do bản
ngã (EGO) của của con người, làm khổ con người mà thôi.
Cho nên, đạo Phật chủ
trương “Vô Ngã, Vị Tha”. Thầy sẽ giải thích thêm khi đủ thiện duyên qua đề tài:
Ngũ Táng (Địa táng, Điểu Táng, Hỏa Táng, Thủy Táng, và Thạch Táng). Tốt nhất là
hiến xác cho khoa học sau khi chết, hợp tình hợp lý, hợp tâm nguyện vô ngã vị
tha, có lợi ích đôi phần. Người chết thực hành hạnh bố thí (nội tài). Người
sống hưởng thành quả khoa học, thuốc men, giải phẩu qua ngành y dược. Đừng nghe
mấy vị sư Tàu (tào lao) tuyên truyền tâm ích kỷ rằng, hiến xác thì không được
vãng sanh? Kinh điển nào dạy như vậy, ngoài mấy vị sư tào lao hiện nay?
2. Tâm Linh lại có 2 phần: thật và giả.
2.1. Phần tâm giả là tâm tham lam, giận dữ, ngu si, mà con người thường
sống hàng ngày.
Phần tâm giả này khi có khi không, khi sanh khi diệt, khi khởi lên khi
biến mất. Cho nên con người thay đổi tâm tính thường xuyên (vô thường) khi đắc
thế khi thất bại (lợi/suy), khi thương khi ghét, khi thích khi chê, khi tán
dương khi chửi bới (xưng/ cơ hay hủy/ dự), khi vui khi buồn (khổ/lạc).
Phần tâm giả (vọng tâm) này lẫy lừng, mạnh mẽ vô cùng, chính là động cơ
(nghiệp lực) dẫn dắt con người sống đời khổ đau, luân hồi kiếp này đến kiếp
sau, và muôn kiếp sau nữa.
2.2. Bởi thế cho nên, cốt tủy của đạo Phật
là phải tìm cho ra (giác ngộ) phần tâm thật (chân tâm).
Những hình thức cúng kiến, cầu an cầu siêu, các nghi lễ rườm rà trai đàn
bạt độ, trong khắp các chùa, chỉ là hình thức của một tôn giáo để mọi người tìm
đến, cần thiết nhưng không thật, giả đó.
Tham dự xong rồi, con người thông minh phải phát tâm học đạo như ĐH Lệ
Hằng hiện nay.
Khi tâm con người không còn vọng động, không còn lăng xăng lộn xộn,
không còn mong điều này,
không còn muốn điều kia, thì chân tâm (tâm thật) hiển lộ. Khi chân tâm
hiển lộ, đời sống con người bớt phiền não khổ đau.
Cũng ví như mặt biển sóng to khi có gió lớn (tâm con người giận dữ khi
gặp chuyện bất như ý)
nhưng khi hết sóng to gió lớn, thì mặt biển trở nên thanh bình, phẳng
lặng,
có thể trông xa, thấy rộng bốn phương, đến tận chân trời góc biển.
Các tôn tượng của chư Phật đều có con mắt thứ ba, nằm giữa 2 con mắt
thường, thường tượng trưng bằng chấm đỏ, hay viên ngọc quí. Con mắt thứ ba này
gọi là con mắt thông minh trí tuệ (tuệ nhãn). Tuệ nhãn chỉ có được khi tâm con
người không còn vọng động, không còn những chuyện tham sân si, không còn loạn
động với cảnh trần hàng ngày, duy nhất, tâm chỉ còn trạng thái phẳng lặng, tịch
tịnh, gọi là nhất tâm bất động, hay nhất tâm bất loạn.
Tùy theo tâm con người dẹp được, bớt được bao nhiêu tham sân si vọng
tâm, thì trí sáng chân tâm (hay tuệ nhãn) hiển lộ bấy nhiêu. Ví như mây đen
(vọng tâm, phiền não) tan biến bao nhiêu, thì mặt trời (tuệ nhãn hay chân tâm)
hiển lộ ánh sáng bấy nhiêu. Tất cả đều do công phu tu tập của mỗi cá nhân, theo
từng thời gian ngắn hay dài, mau hay lâu.
Cho đến khi vọng tâm hoàn toàn biến mất, chân
tâm hoàn toàn hiển lộ, thì con người hoàn toàn giác ngộ và giải thoát,
không còn sanh tử luân hồi, gọi là đắc đạo. Đây chính
là cốt tủy của đạo Phật.
Muốn thành công, đạt được mục tiêu nầy (đáo bỉ ngạn) con người phải nổ
lực hàng ngày, không phải dễ dàng trong vài tháng, hay vài năm, nhưng cũng không phải không ai đạt được đâu. Trong lịch sử các
nước, nhiều vị chân tu thực học đạt được cảnh giới này, không phân biệt tại gia
hay xuất gia, không cần phải tu ở trong chùa, không phải là đệ tử của vị nầy
hay của môn phái nọ. Nhưng các vị không ai nói ra, các vị chỉ tu hành và dẫn
dắt người hữu duyên tu hành. Người nào nói rằng họ đạt được như vậy, như vậy,
nhờ pháp này hay pháp kia, toàn là những người muốn tự tôn làm lãnh tụ, muốn tự
đánh bóng để được tôn sùng, gạt gẫm mọi người, không ngoài mục đích danh và lợi
mà thôi.
Những chuyện vu vơ khác, xin miễn bàn để khỏi bị loạn tâm trong thế giới
đảo điên xưa nay.
Thầy mong rằng những điều giải thích trên đây giúp cho ĐH Lệ Hằng hiểu
được chánh pháp và Thầy mong ĐH Lệ Hằng đọc phần sau đây về ý nghĩa của sự cầu
nguyện, rất bổ ích, để suy nghiệm thêm.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật.
Kính thư,
VP.PHTQ.CANADA
Bát Chánh Đạo - Lục Độ Ba La Mật
* Bát chánh đạo gồm có:
- Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.
- Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.
- Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.
- Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
- Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
- Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.
* Lục độ ba la mật gồm có:
- Bố thí: dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.
- Trì giới: giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ, lời nói và hành động .
- Nhẫn nhục: kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh khi hay gặp khó khăn.
- Tinh tấn: cố gắng vượt mọi thử thách, mạnh mẽ giữ tâm chí vững bền.
- Thiền định: là tâm an nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
- Trí tuệ: là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.
(Trích Chuỗi Ngọc Trân Bão Pháp Thí)
TÁM ĐIỀU NGƯỜI TRÍ CẦN BIẾT RÕ
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
1. Điều thứ nhất: Người trí biết rõ cuộc đời là vô thường, quốc độ vốn không lâu bền, bốn đại vốn không, ngũ ấm vô ngã, sinh diệt
đổi thay, hư giả không có chủ tể. Tâm là mầm sinh các điều ác. Thân thể là nơi
tích tụ tội lỗi. Quán chiếu như vậy, dần dần thoát ly sanh tử.
2. Điều thứ hai: Người trí biết rõ ham muốn nhiều là khổ, sống chết khổ nhọc, ham muốn
bắt đầu từ lòng tham, ít ham muốn sống không tạo nghiệp, thân tâm được tự tại.
3. Điều thứ ba: Người trí biết rõ tâm không hề thấy đủ, chỉ biết cầu mong có được càng
nhiều, cho nên tăng thêm tội ác. Bồ-tát không như vậy, thường nhớ biết đủ, sống
đời thanh đạm để tu tập đạo hạnh, lấy trí tuệ làm sự nghiệp.
4. Điều thứ tư: Người trí biết rõ biếng nhác là đọa lạc, nên thường tinh tấn, dẹp bỏ
những phiền não xấu ác, hàng phục bốn ma, vượt ra ngoài sự trói buộc của thân
tâm.
5. Điều thứ Năm: Người trí biết rõ ngu si là gốc của sanh tử. Bồ tát thường nhớ kỹ điều
đó, nên cố gắng học rộng hiểu sâu, để mở mang, tăng trưởng trí tuệ, thành tựu
được pháp biện tài, giáo hóa hết thảy đều đạt niềm vui lớn.
6. Điều thứ sáu: Người trí biết rõ nghèo khổ thường có nhiều oán than, dễ tạo thêm nhiều
duyên xấu. Bồ-tát thường làm việc bố thí, tâm luôn bình đẳng, không phân biệt
thân hay thù, không nhớ thù xưa, không ghét kẻ xấu.
7. Điều thứ bảy: Người trí biết rõ năm thứ dục lạc (tiền tài, sắc tướng, danh lợi, ăn
uống, ngủ nghỉ) là năm món tội và năm mối họa. Cho nên, tuy là người thế tục,
nhưng người trí sống không nhiễm những lạc thú của thế gian, thường nhớ nghĩ và
nương tựa ba điều cao quí (Phật là tâm sáng suốt, Pháp là tâm chân chánh,
Tăng là tâm thanh tịnh). Người trí có chí nguyện xuất gia, giữ đạo trong sạch,
phạm hạnh cao xa, từ bi với mọi loài.
8. Điều thứ tám: Người trí biết rõ sống chết như ngọn lữa bừng cháy, khổ não vô cùng; cho
nên phát tâm rộng lớn, cứu độ hết mọi loài. Nguyện thay cho chúng sanh, nhận
chịu vô lượng khổ, khiến cho chúng sanh rốt ráo an vui.
(Bát Đại Nhân Giác Kinh)
Con đường tu hành chân chính theo đạo
Phật là phải xả bỏ những tâm niệm đầy tham lam, sân hận, si mê, trong kinh sách
gọi là tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm. Dù tại gia hay xuất gia, người tu
phải tự lực rèn luyện tu tập, luôn giữ gìn chánh niệm, luôn trau giồi thúc liễm
thân tâm, cố sức tránh xa các ác pháp lợi mình hại người.
Con người phải đầy đủ nghị lực, phải
gan dạ, kiên trì, chịu đựng và kham nhẫn, để mạnh dạn dứt bỏ những thói hư, tật
xấu, chứ không phải chỉ biết thường vào nơi điện Phật chỉ để cúng kiến, lễ bái,
cầu khấn, van xin, nương nhờ tha lực chư Phật, chư Bồ Tát gia hộ, tiếp độ, trợ
lực, cứu khổ cứu nạn, giải thoát khổ đau, tai ương, bệnh tật, hay phóng hào
quang tiếp độ những vong hồn người chết về cõi Tây Phương Cực Lạc.
Con người phải phát tâm tự lực học
hiểu chánh pháp, suy tư nghiền ngẫm những lời dạy quí báu trong kinh sách, để
biết cách áp dụng, thực hành trong đời sống thực tế hàng ngày. Chứ không phải
tu hành suông bằng cách chỉ biết tụng kinh, niệm Phật, trì chú, ngồi thiền, hay
chuyên luyện bùa, luyện phép để có thần thông, hay huyễn thuật, hoặc để khẩn
cầu được sinh về Cực Lạc, Niết Bàn bằng những oai thần, tha lực của chư Phật,
chư Bồ Tát, ngoài ra không còn gì hết, không biết gì hết !
[]
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
CHỦ-NHIỆM TẬP-SAN TỪ-BI TRÍ-TUỆ
(PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA)
5 Điểm Quan Trọng của Đạo
Phật
(Trích Tập san Phật Học Tịnh Quang Số 22
- Trang 26)
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Phật-Học
Tịnh-Quang Canada
Năm nay, dương lịch 2013, Phật lịch 2557, nhân lễ kỷ niệm lần thứ 2637
Ðức Phật Thích Ca đản sanh, vào ngày rằm tháng tư (15 - 4) âm lịch, nhằm ngày
24-5-2013, chúng ta cùng nhau ôn lại lịch sử và tìm hiểu ý nghĩa thâm trầm của
ngày lễ trọng đại này.
Ðức Phật Thích Ca đản sanh tại vườn Lâm Tỳ Ni thuộc xứ Ca Tỳ La Vệ, được
gọi là Thái tử Tất Ðạt Ða (hay Sĩ Ðạt Tha), con của đức vua Tịnh Phạn và Hoàng
hậu Ma Gia.
Ngài lớn lên trong hoàng cung, vâng lệnh song thân lập gia đình với Công
chúa Gia Du Ðà La, và hạ sanh Thái tử La Hầu La. Trong các chuyến xuất
cung du ngoạn ngoại thành, Ngài chứng kiến các cảnh: sanh, lão, bệnh, tử
trong nhân gian.
Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát. Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già, và 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm Ngài được 35 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ giải thoát giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.
Từ đó, Ngài luôn luôn trầm tư mặc tưởng, muốn tìm phương tự độ và cứu giúp chúng sanh thoát khỏi cảnh trầm luân sanh tử, cho nên Ngài lìa bỏ hoàng cung, lên đường tìm đạo giải thoát. Sau 6 năm tu khổ hạnh ở chốn rừng già, và 49 ngày đêm ngồi thiền định dưới cội cây bồ đề, tâm trí thanh tịnh, Ngài hoát nhiên giác ngộ, thành Phật, thành bậc vô thượng chánh đẳng chánh giác, vào năm Ngài được 35 tuổi. Sau đó, Ngài đi khắp nơi thuyết pháp, đem chân lý giác ngộ giải thoát giảng dạy cho mọi người trong 45 năm ròng rã, và Ngài thị tịch, nhập niết bàn, năm 80 tuổi tại khu rừng ta la song thọ.
Toàn bộ lịch sử của Ðức Phật Thích Ca từ ngày đản sanh, đến thành đạo và
nhập niết bàn, cũng như toàn bộ giáo lý của Phật giáo, không phân biệt tông phái,
nêu lên những điểm quan trọng như sau:
1) Mọi người trên thế gian đều có thể trở thành một vị Phật, một bậc
sáng suốt giác ngộ, không phân biệt dân tộc, nam nữ, xuất xứ, đẳng cấp, trẻ
già, thời đại, đã có gia đình hay chưa, nếu người đó biết phát tâm tìm hiểu và
tu tập theo đúng Chánh pháp, theo đúng bản đồ tu học. Do đó, có hằng hà
sa số các vị Phật, từ quá khứ, đến hiện tại và vị lai, chứ không phải chỉ có
một vị Phật duy nhất làm giáo chủ là Ðức Phật Thích Ca, còn tất cả các loài
chúng sanh khác đều phải thờ lạy theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu
cực.
Đây
chính là điểm nổi bậc của giáo lý đạo Phật vậy.
2) Ðức Phật không phải là vị thần linh hay thượng đế tưởng tượng chuyên
ban phước ra ơn hay giáng họa trừng phạt. Cho nên những ai cúng kiến, tin
tưởng, thờ lạy Ðức Phật theo tinh thần van xin, cầu khẩn một cách tiêu cực, dù
ở chùa hay ở nhà, đều không đạt được những ước muốn như ý. Bởi vậy, cúng
kiến nhiều thì buồn phiền nhiều, tin tưởng nhiều thì thất vọng nhiều, xin xỏ
nhiều đau khổ nhiều. Trái lại, những người sống đúng theo tinh thần những
lời dạy của Ðức Phật, dù tại gia hay xuất gia, dù có thờ lạy Ðức Phật hay
không, cũng đều được an lạc và hạnh phúc hiện thời, giác ngộ và giải thoát mai
sau.
Đây
chính là điểm chí công vô tư của giáo lý đạo Phật vậy.
3) Từ trước thời Ðức Phật xuất hiện trên thế gian
này, cuộc đời vẫn thường đầy dẫy những sự đau khổ, bất trắc, đấu tranh, lừa
đảo, chứ không phải chỉ có thời hiện tại mà thôi. Do đó, giáo lý của đạo
Phật thường được ví như chiếc thuyền, gọi là thuyền bát nhã, tức là thuyền từ
bi & trí tuệ, giúp đỡ con người vượt qua bể khổ, sông mê, lướt qua bát
phong của cuộc đời, đến bến bờ giác ngộ và giải thoát. Ðức Phật vẫn sống
ngay trên thế gian này, vẫn gặp bao nhiêu khổ nạn của cuộc đời, nhưng tâm trí
của Ngài vẫn an nhiên tự tại, không cần phải đợi đến lúc về tây phương cực lạc
hay thăng lên thiên đàng!
Ðây chính là cốt tủy của giáo lý đạo Phật vậy.
4) Ðạo Phật là một tôn giáo, cho nên cũng có những
hình thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện, cốt để giúp đỡ những người đang đau
khổ trên thế gian này tìm đến với đạo, trong những bước ban đầu. Nếu như
con người, dù tại gia hay xuất gia, đến với đạo Phật nhưng chỉ biết những hình
thức cúng kiến, lễ lạy, cầu nguyện mà thôi, cứ đứng ở đó bao nhiêu năm trời,
cho rằng như vậy là đủ rồi, không chịu bước thêm bước nữa, thì đau khổ vẫn hoàn
khổ đau, có khác chi bao nhiêu người khác đâu? Bước đó chính là: phát tâm học
hỏi, tìm hiểu Chánh pháp, xem Ðức Phật dạy những gì, để có thể áp dụng trong
cuộc sống thực tế hằng ngày, đạt an lạc và hạnh phúc, thêm nữa đạt được: giác
ngộ và giải thoát.
Ðây chính là chánh kiến và chánh tín của giáo lý
đạo Phật vậy.
5) Các buổi lễ của Phật giáo, quan trọng nhứt là Lễ Phật Ðản, đều nhằm
mục đích dẫn dắt con người đến với đạo, xoa dịu bớt những nỗi khổ đau của cuộc
đời. Và mục đích quan trọng hơn hết là: Hãy bước vào cửa đạo,
chứ không phải chỉ bước vào cửa chùa rồi thôi, hay vẫn cứ đi lang thang,
lòng vòng bên ngoài, bằng lòng với các hình thức cúng kiến, lễ lạy, các buổi
văn nghệ xổ số, các cuộc hành hương thương mại, các cuộc vận động in sách cầu
vãng sanh lưu xá lợi, kêu gọi đóng góp tạo chùa to tượng lớn, mà không quan tâm
việc tu học, không lo việc tu tâm dưỡng tánh, không biết đến Chánh pháp là
gì?
Bước vào cửa đạo nghĩa là: phải biết tu học
theo lời Ðức Phật dạy trong các kinh sách, để đạt giác ngộ và giải thoát, chứ
không phải là: không chịu học hỏi, chỉ biết tu mù, bảo sao làm vậy, nói sao
nghe vậy, người trước làm sao, người sau y vậy, chẳng hiểu ý nghĩa, nhiều điều
hết sức, mê tín dị đoan!
Ðây
chính là mục đích cứu cánh của giáo lý đạo Phật vậy.
[]
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Ban
Biên-Tập Phật-Học Tịnh-Quang Canada
TÂM
PHẬT SẼ THÀNH
TKN.Thích
Nữ Chân Liễu
Trong Phật giáo, xuất gia hay tại gia, dù có sinh
hoạt trong chốn Thiền môn hay không, chắc hẳn nhiều người cũng có nghe nhắc lại
hoặc biết đến câu nói, từ kim khẩu của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật ngay khi
chứng quả vô thượng chánh đẳng chánh giác sau 49 ngày đêm thiền tọa dưới cội bồ
đề: “TA LÀ PHẬT ĐÃ THÀNH - CHÚNG SANH LÀ
PHẬT SẼ THÀNH”.
Có nghĩa là Đức Phật tuyên bố đã thành Phật
ngay rạng sáng hôm đó và tất cả chúng sanh trong sáu cõi, gồm: trời, người,
atula, địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh, đều sẽ thành Phật trong tương lai. Trong hiện
tại, tất cả đều là nhân, là hạt giống, nếu biết tu tập theo đúng chánh đạo,
hành đúng chánh pháp, tất cả chúng sanh đều có khả năng giác ngộ, giải thoát khỏi
sanh tử luân hồi, trở thành một vị Phật.
Ở đây, chúng ta chỉ có thể cảm nhận được vai
trò của cõi người đang sống và phải chịu trách nhiệm về số phận nghiệp duyên và
nhân quả của chính mình. Bao giờ thì thành Phật, hay mãi mãi là chúng sanh? Câu
hỏi nầy có bao giờ con người nghĩ đến hay chưa?
Ngày nào đó với tâm thái trầm mặc, an bình, con
người chọn cho riêng mình một không gian tĩnh lặng, hít thở nhẹ nhàng, ngồi xuống
thiền tọa, chân xếp hình hoa sen, sau đó thực tập làm Phật vài ba phút.
TÂM
CHƯ PHẬT ĐÃ THÀNH
Phật tại Tâm, không phân biệt Tướng - xuất
gia tại gia, nam nữ, đẹp xấu, giàu nghèo. Phật Tâm không cố chấp, không phiền,
không giận, không trách. Ai tôn kính, ai không tôn kính cũng chẳng khác gì
nhau, chính là nghĩa bất tùy phân biệt. Tâm Phật là tâm bình đẳng, thanh tịnh tuyệt
đối. Lòng từ bi của Chư Phật là vô ngã vị tha, thương chúng sanh như cha lành
thương con.
Phật là Tâm sáng suốt, trí tuệ hiểu biết tất
cả thiện ác trong thế gian một cách rõ ràng, không nghi, nhưng bất tùy phân biệt.
Tâm Phật không phê phán, không chê trách, không thiên vị riêng tư một cá nhân
hay một tôn giáo nào, không kết án vội vã một ai, không tranh cãi, không hận
thù, không tà niệm, yêu thích người thiện, bỏ mặc người ác, khen mình chê người,
không dùng lời phỉ báng nặng nề bất chấp sự đau khổ của người để thỏa mãn cái
tôi - tự ngã.
Đức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni đắc đạo ngay nơi
cõi ác thế Ta Bà “ngũ trược” (tức là
cõi có 5 điều dục vọng và si mê):
1. Kiếp
trược:
Nhiều căn bịnh hành hạ đau đớn, nạn đói, chiến tranh, thiên tai.
2. Kiến
trược:
Nhiều tà kiến, sai trái, dụ dẫn tạo nghiệp ác, cuồng tín si mê.
3. Phiền
não trược:
Nhiều tham vọng, tâm lăng xăng điên loạn, không tự chủ.
4. Chúng
sanh trược: Chúng sanh chưa hiểu suốt nhân quả thiện ác, nên gây thù
oán, thân quyến tương tàn.
5. Mệnh
trược:
Thọ mệnh chúng sanh ngắn ngủi, vô thường biến đổi, luân hồi sanh tử đau khổ
muôn trùng.
Đức Phật vì lòng từ bi, không nhập Niết Bàn
sau khi chứng đạo. Ngài ở lại thế gian thuyết muôn vạn pháp môn tu và chỉ dạy con
đường tu thành Phật bằng thân giáo. Cử chỉ và hành động đầy khiêm tốn, bình đẳng,
từ bi và hết sức tế nhị. Trong thời gian Đức Phật còn tại thế, nhiều người
không hiểu biết thế nào là thành Phật. Có những vị còn không tiếc lời phỉ báng
và nhiều lần muốn giết Đức Phật để giành ngôi Thế Tôn. Giá trị tình thương
chúng sanh và đức độ kham nhẫn trong tâm lý hoằng pháp của Đức Phật là bậc trí
tuệ tuyệt diệu và thâm sâu vô cùng.
Chư Phật
và Chư Tổ thường dạy:
Lấy từ bi và trí tuệ làm thăng tiến đạo nghiệp
Lấy sự hy sinh và phụng sự chúng sanh làm niềm
hạnh phúc
Lấy bao dung và hỷ xả để cư xử với mọi người
Lấy sự nghiệp giác ngộ và giải thoát làm cứu
cánh.
Chư Phật tùy duyên thuyết pháp, cứu độ cho tất
cả những ai thật sự mong cầu một đời sống thánh thiện tốt đẹp. Chúng sanh nghe
lời dạy của Chư Phật, phát tâm tìm hiểu rõ ràng chân lý của sự giác ngộ và giải
thoát. Sau đó, con người thực hành ba chặng đường VĂN, TƯ, TU (nghe hiểu, suy
nghĩ, thực hành). Phát sanh trí tuệ sáng suốt mới mong vượt ra khỏi sự trói buộc
đau khổ của luân hồi sanh tử.
“Như Lai là người chỉ con đường chứng được cứu
cánh Niết Bàn tịch tịnh.
Thế Tôn là vị đã đoạn trừ phiền não của thế
gian và đem lại nhiều thiện pháp cho chúng sanh”. (Tăng Chi Bộ Kinh)
Phật Tánh không do cầu khẩn van xin mà có,
cũng không phát sinh từ lòng ái dục, hay tình cảm hạn hẹp ích kỷ. Phật Tánh
phát xuất từ tâm từ bi, bao la tươi nhuần và bình đẳng như tâm Chư Phật vậy. Đó
là những giây phút vô cùng trân quí, khi tâm vô trụ, vô chấp, đạt được an nhiên
và tự tại, hạnh phúc và giải thoát.
Bản tâm thanh tịnh của Chư Phật không tạp niệm,
không tà ý, ví như mặt biển thái bình lặng yên lúc không sóng không gió, mọi thời
mọi khắc đều an nhiên tự tại và hạnh phúc giải thoát. Nói chung tất cả niệm do
tâm chấp, tâm tham, tâm sân, tâm si, tâm đố kỵ, tâm khinh khi, tâm lúc thuận
lúc nghịch, lúc thân lúc thù, khi thương khi ghét, đó là những tạp niệm vọng
tâm vọng chấp mà Chư Phật đã hoàn toàn chế ngự, điều phục được tất cả, nên Chư
Phật là những vị “Phật đã thành”.
TÂM
NHỮNG VỊ PHẬT SẼ THÀNH
Người tu theo Phật tuy chưa được trọn thành
Phật đạo, nhưng ai cũng có nhân Phật Tánh và tâm ý thiện lành. Trong những giây
phút con người thật sự để lặng yên tâm thức, chẳng khởi lên một niệm suy tính
so đo, hơn thua, tranh chấp, phiền não, vọng động, thương ghét, đau khổ, thù hận
và xóa bỏ hết ranh giới của nhỏ nhen cố chấp nhị biên, thiện và ác, đúng và
sai, khi đó con người sẽ cảm nhận được Phật Tánh của mình hiển hiện vô cùng kỳ
diệu. Đó chính là tâm từ bi hỷ xả như Chư Phật. Nguồn an lạc hết sức trong sáng
với muôn ngàn thương yêu của lòng bao dung, đồng cảm và tha thứ.
Câu nói của Ngài Thường Bất Khinh Bồ Tát: Tôi
không dám khinh các Ngài vì các Ngài cũng sẽ thành Phật. Có tu nhiều đời nhiều kiếp
mới được làm thân người. Có tài, có sắc, có phước, vinh hiển trong đời, không
phải ai cũng có được. Nhưng dù sanh vào hoàn cảnh như thế nào cũng là do nhân
quả, đều có Phật Tánh sáng suốt để đi đến giác ngộ và sẽ thành Phật, nhanh hay
chậm, tùy theo nghiệp duyên, phước đức và công phu tu tập của mỗi người.
Chúng sanh bao gồm những con người còn sống
trong luân hồi sanh tử, chưa giác ngộ toàn vẹn, cho nên tâm vẫn còn hỷ, nộ, ái,
ố, tham lam, sân hận và si mê. Không một ai muốn phạm lỗi lầm, cũng không một ai
muốn bị hình phạt, hay bị sỉ nhục. Con người phàm tục vì những cảnh trần lôi cuốn,
đôi khi mất cảnh giác, phải chịu nhiều đau khổ và phiền não.
Cực Lạc Quốc là nơi chốn thanh tịnh trong sạch,
không phiền não, không ô nhiễm, không tham sân si. Đó là cõi Phật, là nơi chư
Thượng Thiện Nhơn (người tốt hoàn toàn) đồng câu hội. Người Phật tử sống ở thế
gian ai ai cũng muốn, sau khi xả báo thân nầy, được về cảnh giới tịnh độ của chư
Phật. Cho nên ngoài việc mỗi thời khắc nhất tâm niệm Phật, thiền tọa tập làm Phật,
để phát sanh trí tuệ. Phật Tánh luôn sáng suốt, chân thật và thanh tịnh tuyệt đối.
Chư Tổ dạy có bốn pháp cao thượng tu hành như
sau:
1. Giới đức cao thượng.
2. Định tâm cao thượng.
3. Trí tuệ cao thượng.
4. Giải thoát cao thượng.
Có nghĩa là giữ giới bền chặt, giữ tâm chánh
trực, có trí tuệ nhận rõ đúng sai, thiện ác, lòng không cố ý khoe khoang chứng
đắc, tự hào hơn thua, không vướng mắc một giả danh nào hết, cũng không tự gạt
tâm mình hay gạt người, không tạo khẩu nghiệp, thân nghiệp và ý nghiệp. Cuối
cùng là tâm được khinh an, thanh thản, tự tại và giải thoát.
Nước mắt chúng sanh như biển cả, thế gian đau
khổ nhiều lắm rồi. Nếu biết được ai ai cũng có một thứ quí giá vô cùng, đó là
“Phật Tánh Chân Như”, là nhân lành đưa đến hạnh phúc an lạc vĩnh cửu, không có
khổ đau sanh tử, thì con người cần gì phải tham gia vào sự tranh đua, sân hận,
lỗi phải những chuyện danh lợi thế gian. Buông bỏ hết thì tâm được khinh an.
Suy cho cùng có ai trên đời không một vài lần
phạm lỗi, hối hận, khổ đau. Thường thì con người có rất nhiều cách biện minh và
dễ dàng tha thứ cho chính bản thân, nhưng đối với người khác, kể cả người thân
sống chung quanh, thì không muốn tha thứ hoặc cảm thông, luôn luôn đòi công bằng
và xử lý thỏa lòng. Do đó, con đường đi đến cảnh giới Chư Phật thật là xa xôi
ngàn trùng.
Chúng sanh của thế kỷ 21 nầy có nhiều phương
tiện và phước duyên gặp Phật Pháp. Giáo pháp của Đức Bổn Sư Thích Ca được thế
giới tôn kính và đón nhận như nước cam lộ diệt trừ muôn ngàn phiền não. Sống với
Tâm Phật qua cung cách ứng xử đạo đức hằng ngày, tức là có được hạnh phúc tại
thế gian rồi đó. Con người cùng nhau phát nguyện tinh tấn tu học, nhân Phật
tánh càng ngày càng hiển lộ, cây bồ đề đâm chồi nảy lộc đơm hoa kết trái.
Trong kinh sách Chư Tổ có dạy:
Nội cần khắc
niệm chi công
Ngoại hoằng
bất tranh chi đức.
Đó là công phu và đức độ của người tu. Bên trong
tâm, giữ gìn chánh niệm, gọi là công phu. Bên ngoài thân, không hơn thua, không
tranh cãi, gọi đức độ. Thân và Tâm song hành tu tập gọi là Công Đức. Còn gọi là
Phúc Tuệ song tu.
Điều quan trọng là muốn tu phải phát tâm học
hiểu Phật Pháp cho thấu đáo và thực hành trong đời sống hằng ngày. Khi đó giới
hạnh được vẹn toàn, tâm định được phát triển, trí tuệ được khai mở, con người cảm
thấy được niềm an lạc thanh tịnh không thể nghĩ bàn.
Dù là người xuất gia hay tại gia, con người
muốn tu mà không tha thiết mong cầu giác ngộ Phật Pháp, thì cuộc đời đi tu sống
trong sự mệt mõi buồn chán, quanh năm suốt tháng, tin vào sự linh thiêng huyền
bí và chỉ biết chờ đợi phép lạ một cách tiêu cực. Khi cái chết gần kề, lúc đó
hoảng loạn, bơ vơ, tâm trạng vô thức, không biết rơi vào cảnh giới tốt xấu nào
đây, có phải muộn quá hay không?
Đạo Phật được thế giới tôn vinh là đạo bình đẳng
và từ bi trí tuệ bậc nhất. Tuyệt vời hơn nữa là tất cả người tu phát nguyện: “Vì
chúng sanh đạt thành ngôi chánh đẳng chánh giác. Tự giác, giác tha, giác hạnh
viên mãn”. Nghĩa là: tự thân giác ngộ và cứu độ tha nhân, cho đến khi hạnh giác
ngộ tròn đầy, tất cả chúng sanh ra khỏi lục đạo luân hồi.
Trong thời gian qua, nhân loại trên trái đất
chịu đựng quá nhiều thiên tai. Sóng thần Nhật Bổn, bão tố Sandy, đã cướp mất
bao nhiêu tài sản và nhân mạng của những người vô tội. Cảnh màn trời chiếu đất,
cha mẹ mất con, vợ chồng ly tán, đau khổ tột cùng. Nhưng sau đó, họ không thể
ngồi một chỗ than trời trách đất, suy sụp, buông trôi, hay giận cho trời già
cay nghiệt, hận bản thân vô phước. Họ cùng nhau xây dựng lại ngôi nhà, vườn
cây, khóm hoa, đem trở lại sự sống mãnh liệt trong tình người với người đầy
lòng nhân nghĩa thân ái và bao dung. Đó chính là sức mạnh của Phật Tâm, Phật
Tánh trong mỗi con người, trong cuộc sống hàng ngày, trên thế gian này.
Nói tóm lại, để sống một cuộc đời có ý nghĩa
hơn, với Tâm Phật sẵn có, con người cần được thăng tiến trên con đường giác ngộ,
giải thoát. Con người cần phải luôn phát nguyện vun bồi công đức và phước đức,
cho đến khi được đầy đủ từ bi và trí tuệ, lý sự viên dung. Đây chính là điểm
siêu việt của đạo Phật đối với chúng sanh với câu Phật ngôn bất hủ: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”.
Ai ai cũng có thể tu theo con đường Phật dạy và đều có nhân duyên trọn thành Phật
đạo.
Xin thành tâm cầu chúc cho những người con Phật,
dù xuất gia hay tại gia, cùng là chúng sanh ở cõi ta bà, buông bỏ được tảng đá
nặng nề của cái “ta” nhiều đau khổ phiền lụy và chuyển đổi những bất thiện nghiệp
thành chư thiện nghiệp. Trước mắt còn đầy dẫy những khó khăn và thử thách cho
người tu hành Phật đạo, con người cùng mạnh dạn bước từng bước chân chánh niệm,
sáng suốt, an lạc, đi trên con đường tìm cầu giác ngộ.
Nguyện cầu tất cả chúng sanh trong pháp giới
đều chứng ngôi Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đồng thành Phật Đạo.
NAM
MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN.Thích
Nữ Chân Liễu
CHUYỆN TRONG CHÙA
-
Thưa Thầy, tôi thường đi hộ niệm đám tang, chẳng biết như thế có ích lợi gì
chăng?
-
Đạo hữu phát tâm đi hộ niệm cho người khác như thế, ích lợi cho người thì khó
nói, nhưng đối với bản thân, thiện căn và tâm từ bi được tăng trưởng. Phước đức
vô lượng.
-
Thưa Thầy, chỉ vậy thôi sao?
-
Khi đi hộ niệm như thế, nếu mình quán niệm về sự vô thường trên thế gian: nay
còn mai mất, trên đời không vật gì, việc gì tồn tại mãi mãi. Ngay tấm thân của
mình cũng vậy, cát bụi sẽ trở về cát bụi. Cho nên mình phát tâm cố gắng tu tập,
để ngộ được bản tâm thanh tịnh thường hằng, bất biến, không hoại diệt theo thân
xác. Đó chính là con người thật của mình. Nhờ đó, con người thoát ly được sinh
tử luân hồi. Đây chính là mục đích cứu cánh của đạo Phật.
-
Tôi thành thực đa tạ tấm lòng từ bi của Thầy đã khai ngộ cho tôi.
-
Mô Phật !
CHUYỆN TRONG CHÙA
-
Chị Hai ơi, em mời mấy nhà sư đến nhà em tụng đám tang và mở cửa mả cho bố em,
tại sao nhà chùa lại đòi tiền? Chùa thì phải “free” chứ, bá tánh lập ra chùa,
chùa phải phục vụ bá tánh chứ, đúng không?
-
Ừa! Chị nói đúng quá hen! Chị đã cúng bao nhiêu tiền cho chùa, từ lúc lập chùa
đến nay?
-
Em có cúng đồng nào đâu?
-
Vậy thì chị đâu phải là “bá tánh” đã lập chùa, sao lại đòi được phục vụ “free”
?
-
? !
CHUYỆN TRONG CHÙA
-
Tui tu đã hơn 10 năm, cô kia mới tu mà đi trước tui, đứng trước tui, bậy quá,
coi sao được?
-
Cô kia mới tu, chưa biết qui củ. Cô nói tu đã hơn 10 năm, sao vẫn còn phiền não
đến thế ư ?!
-
? !
XIN
QUẺ ĐẦU NĂM
- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ
hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni
sư?
- Như vậy là xui tận mạng rồi chứ còn gì nữa. Con phải đi chùa lạy Phật
nhiều, cúng chùa nhiều, mới hóa giải tai ách này được. Nhớ đó.
- Trời ơi! Chết con rồi, trời!
* * *
- Thưa Ni sư, đầu năm xin xăm, con bắt nhằm quẻ “hạ
hạ”. Có phải con bị xui xẻo, tai nạn suốt năm không, con phải làm sao đây Ni
sư?
- Chào đạo hữu. Đạo hữu hãy an tâm, không có
gì xui xẻo hết đâu. Mấy cái quẻ xăm này để lắc cho vui, để những người còn tin
chuyện linh thiêng huyền bí, thích cầu khẩn van xin về chùa dịp đầu năm.
Chuyện hên hay xui của con người tùy thuộc chuyện làm thiện hay làm ác trong cuộc
sống, chứ không phải tùy thuộc nơi quẻ xăm này.
Đó là luật
nhân quả.
Người làm việc thiện thì gặp phước báo, gặp
may, gặp hên.
Người làm việc bất thiện thì gặp quả báo, gặp
xui, gặp nạn tai, trắc trở.
- Nếu muốn tránh xui xẻo, tai qua nạn khỏi
con phải làm sao?
- Con người nhiều đời nhiều kiếp vừa làm việc
thiện, vừa tạo nghiệp chẳng lành. Cho nên, có khi gặp may, có khi chẳng may. Để
tránh xui xẻo xảy đến, con người phải biết sám hối và nguyện không làm chuyện
sai trái, đem đau khổ cho người, qua thân
(đánh người), miệng (chửi mắng, nói
xấu), và ý nghĩ (nghĩ xấu, nghi
ngờ).
Thêm nữa, hãy tạo phước báu bằng cách cứu
người, giúp đời, tu nhân tích đức, bù lại việc xấu ác đã tạo nghiệp trước kia.
- Nhưng mà con vẫn lo sợ chuyện xui xẻo xảy
đến. Vậy con phải làm sao?
- Con thử xin quẻ khác xem sao, chắc là quẻ
khác?
- Ờ hén, cám ơn Ni sư chỉ dạy rõ ràng. Con sẽ
đi chùa thường xuyên để học đạo lý với Ni sư, Ni sư cho phép con nha.
- Mô Phật. Như vậy gọi là đi chùa đúng chánh pháp. Quí lắm. []
Ban Biên-Tập PHTQ
SỰ VÔ MINH TRONG PHẬT GIÁO
LUÂN HỒI SANH TỬ TRONG ĐẠO PHẬT
37 PHẨM TRỢ ĐẠO TRONG CHÁNH PHÁP
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2013/03/chanh-phap-trong-ao-phat-gom-co-37-pham.html
CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP TRONG PHẬT GIÁO
VÔ MINH DẪN CHÚNG SANH VÀO SANH TỬ LUÂN HỒI
NHỨT THIẾT DUY TÂM TẠO
PHẬT THUYẾT “CHUYỆN ĐÀN BÒ SANG SÔNG”
THÂN BỆNH VÀ TÂM BỆNH
KHÔNG CÓ THẦN LINH TRONG ĐẠO PHẬT, ĐỪNG HIỂU SAI VỀ ĐỨC PHẬT
http://www.phtq-canada.blogspot.ca/2012/12/khong-co-than-linh-trong-ao-phat-xin.html