Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
Trong các buổi lễ chúng ta thành kính cảm niệm, ghi ơn Ðức Phật Thích Ca đã tìm ra con đường cứu khổ nhân loại. Chúng ta thường phát nguyện như sau: "Chúng con khổ nguyện xin cứu khổ. Chúng con khổ nguyện xin tự độ". Sống trên thế giới ta bà khổ này, một mặt, chúng ta cầu nguyện xin Ðức Phật từ bi cứu khổ. Mặt khác, tích cực hơn, chúng ta phát nguyện theo Ðức Phật, để học hiểu và thực hành theo những lời dạy vô cùng quí báu của Ngài, để đạt được mục đích cứu kính là giác ngộ và giải thoát. Hay ít ra, ngay trong đời này, chúng ta cũng tạo dựng cho mình, cho đời, một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, trên thế gian đầy phiền não và khổ đau này.
Chúng
ta thường nghe người đời than thở: Trời ơi, tại sao tôi khổ quá vậy? Làm sao
cho tôi hết khổ nè, trời ơi! Người đời thường kêu trời than khổ vì đủ thứ
chuyện, vì nghèo khó, vì bệnh tật, vì thất nghiệp, vì thất tình. Tuy nhiên,
cũng có không ít người giàu có, khỏe mạnh, có sự nghiệp, có tình yêu, nhưng vẫn
kêu khổ, khổ ơi là khổ! Người già than khổ, người trẻ cũng than khổ! Người ngu
dốt than khổ, người thông minh cũng than khổ! Già trẻ lớn bé, nam phụ lão ấu,
ai ai sống ở đời, mỗi người đều có nỗi khổ riêng. Những người không tín ngưỡng
kêu khổ đã đành, thậm chí những người có tín ngưỡng vẫn cứ kêu khổ dài dài.
Dân
da đen, da vàng, da đỏ than khổ. Dân da trắng cũng than khổ. Dân thường than
khổ, hoàng gia quí tộc cũng than khổ. Công nhân than cực, than khổ. Chủ nhân
ông, chủ nhân bà cũng than khổ, kêu khổ nhiều hơn là khác.
Ðạo
Phật nhận định:"Cuộc đời là bể khổ". Nhận định như vậy có phải đạo
Phật chủ trương bi quan yếm thế, thụ động chấp nhận định mệnh sẵn có, chấp nhận
số phận đã an bài, chấp nhận những cảnh khổ đau của cuộc đời? Ðạo Phật có dừng
lại ở nhận định như vậy, hay đạo Phật có dạy chúng ta phương pháp "Làm sao
cho đời bớt khổ, làm sao cho đời hết khổ?". Thực ra, đây mới chính là mục
đích cứu kính của đạo Phật vậy.
*
* *
Trên
cuộc đời này, nói chung, chúng ta có hai thứ khổ: khổ về vật chất và khổ về
tinh thần. Khổ về vật chất chẳng hạn như: nghèo khó, bệnh tật, thất nghiệp, thì
có thể giải quyết được, bằng cách này cách khác, trong một thời gian nào đó.
Thí dụ như để giải quyết chuyện nghèo khó, chúng ta phải làm việc cần cù hơn,
biết tiết kiệm hơn, trong một thời gian. Ðể giải quyết chuyện bệnh tật, chúng
ta phải biết giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh công cộng, phải đi bác sĩ khám
định kỳ, dùng thuốc men đúng liều lượng chỉ dẫn, ăn ngủ điều độ, tập thể dục
thường ngày. Ðể giải quyết chuyện thất nghiệp, chúng ta phải biết cách giữ gìn
công ăn việc làm, siêng năng chăm chỉ, cải tiến nghiệp vụ cá nhân, gia tăng
năng suất.
Cái
vấn đề nan giải chính là cái khổ về mặt tinh thần. Chúng ta hãy thử tìm hiểu
nguồn gốc của cái khổ về mặt tinh thần này để tích cực tìm cách tạo dựng cho
chúng ta một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, ngay tại thế gian hiện đời. Còn
chuyện thiên đàng, thế giới cực lạc là chuyện đời sau. Tại sao chúng ta lại phí
phạm đời sống quí giá hiện hữu, chỉ tiêu cực chờ đợi hưởng phước trên thiên
đàng, hay trên miền cực lạc, ở kiếp sau mà thôi? Mà có chắc gì chúng ta được
lên thiên đàng, được vãng sanh tây phương? Chúng ta hãy tỉnh thức ngay kẻo
muộn, đừng nằm mơ nữa!
Ở
đây, chúng tôi xin nói ngay, thông thường khi gặp cảnh ngộ khổ sở về mặt tinh
thần hay tâm linh, chẳng hạn như cuộc sống cá nhân hay gia đình không được hạnh
phúc, không được như ý, chúng ta thường cầu nguyện các đấng thiêng liêng giúp
đỡ phù hộ, hoặc đi nhờ các ông thầy bói, các bà thầy tướng, rờ rẫm mu rùa, xin
xăm xủ quẻ, cúng kiến thần linh, cầu xin giải hạn, giải tai giải nạn! Thành
thực mà nói, chúng ta có thấy, có biết người nào hết khổ nhờ các cách này
chăng? Hay là chúng ta chỉ nghe thấy có nhiều người bị khổ lụy nhiều thêm vì
mấy ông mấy bà xem bói xem tướng này?
Các
đấng thiêng liêng, các vị thần linh thực sự đều do con người tưởng tượng ra đó,
hiện đang ở đâu, liệu có nghe lời cầu khấn để đến giúp chúng ta chăng? Thí dụ
các đấng thiêng liêng đó là người Do Thái, người Ấn Ðộ, người Trung Hoa, có
nghe hiểu thấu lời cầu khẩn bằng tiếng Việt của chúng ta chăng? Còn các ông bà
bói tướng có bói được, ngày hôm nay, có bao nhiêu khách đến nạp tiền cho họ
tiêu xài chăng? Họ có khả năng gì, tư cách gì, để có thể cầu khấn, hay sai
khiến thần linh nào đó đến, để hóa giải tai nạn cho chúng ta, có thực là linh
thiêng ứng nghiệm như thần, như họ thường khoe khoang khoác lác, trong các
quảng cáo láo hay không, trong khi họ cũng đang gặp cảnh rắc rối về tiền bạc,
về hạnh phúc trong gia đạo của chính họ? Họ bảo xoay cái giường, thay cái cửa,
sửa cái bếp, là có hạnh phúc sao? Hạnh phúc đâu dễ tìm từ bên ngoài như vậy
được.
Thực sự, hạnh phúc ở ngay trong tầm tay của chúng ta, ở ngay trước mặt
của chúng ta mà chúng ta không nhận thấy đó thôi, lại mất công chạy đông chạy
tây, tìm thầy tìm thuốc, để mưu cầu hạnh phúc. Hạnh phúc là do chính chúng ta
có biết cách xây dựng và gìn giữ hay không. Nhờ giáo lý của đạo Phật, chúng ta
sẽ tự tìm được nguyên nhân gây ra phiền não và khổ đau, biết cách tu tập để
tiêu diệt hết phiền não và khổ đau, tức là chúng ta tìm được an lạc và hạnh phúc
vậy.
Nguồn
gốc của sự đau khổ về mặt tinh thần chính là "lòng cố chấp" của chúng
ta. Trong Kinh Viên Giác, Ðức Phật có dạy: "Con người vì vô minh cho nên
có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp. Ðó là hai nguyên nhân chính gây ra
phiền não và khổ đau của cuộc đời". Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và
phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau về mặt tinh thần này, chúng
ta sẽ tìm được an lạc và hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại vậy.
A.
- Chấp Ngã:
Trước
hết, chúng ta cần tìm hiểu: Thế nào là "chấp ngã"? Chấp ngã có nghĩa
là chúng ta chấp cái thân giả tạm và cái tâm vô thường của chúng ta, lại cho là
"thực", lại tưởng chính là "mình", cho nên mới phiền não và
khổ đau. Trong Bát Nhã Tâm Kinh, thân và tâm, gọi chung là "ngũ uẩn"
gồm có: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
1)
Nói về cái "sắc thân" này của chúng ta, tức là cái thân xác, lúc mới
sanh ra đời, chỉ có vài ký lô thôi, nhưng bây giờ thì cân nặng đến mấy chục ký
lô, chỉ do các chất: đất, nước, gió, lửa, tạo nên mà thôi. Chất đất là những thứ
cứng trong thân người như: tóc, lông, răng, móng, xương, thịt. Khi còn sống,
chúng ta mượn những thứ từ đất mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như: cơm
gạo, bánh mì, trái cây. Ðến khi chết, những thứ này trở về với đất. Chất nước
là những thứ lỏng trong thân người như: máu, mủ, nước miếng. Khi còn sống,
chúng ta mượn những thứ từ nước mà ra, để bồi bổ cái thân này hằng ngày như:
canh, sữa, nước giải khát. Ðến khi chết, những thứ này trở về với nước. Chất
gió là những thứ hơi trong thân người. Khi còn sống, chúng ta mượn những thứ từ
không khí, thở ra thở vô, để bồi bổ cái thân này hằng ngày. Ðến khi chết, những
thứ này trở về với không khí. Chất lửa là những thứ ấm trong thân người. Khi
còn sống, chúng ta mượn những thứ sanh nhiệt, để bồi bổ cái thân này hằng ngày
như: gừng, chất đạm. Ðến khi chết, những thứ này trở về với hư không.
Cái
thân giả tạm nặng mấy chục ký lô này của chúng ta gồm bốn thứ nói trên, trong
kinh sách gọi là "thân tứ đại", không phải "thực" là của
chúng ta. Tại sao vậy? Bởi vì nếu cái thân tứ đại này "thực" là của
chúng ta, thì nó phải tuân lệnh và tùy thuộc quyền xử dụng của chúng ta. Chúng
ta ai ai cũng muốn cái thân tứ đại này trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau,
còn mãi không hoại, nhưng từ xưa đến nay, từ đông sang tây, từ hoàng gia cho
đến thứ dân, từ giàu sang đến nghèo hèn, từ học thức đến bình dân, có ai được
toại nguyện như vậy đâu! Vậy mà ai động đến "nó", chúng ta liền nổi
xung, nhứt định ăn thua đủ, nhứt định đâm đơn kiện, ra ba tòa quan lớn, cho hả
giận cho đã nư, nhứt định không nhịn nổi, chỉ nhằm bảo vệ cái thân tứ đại vốn
giả tạm, không "thực" này, để rồi một ngày kia, chúng ta cũng phải bỏ
lại, dù-muốn-hay-không, để đi sang thế giới khác, để đi sang kiếp khác.
Ðời
người chẳng qua chỉ là hơi thở, khi thở ra mà không hít vào nữa thì ô hô tử
vong! Ðời người chỉ là tạm vay mượn đất, nước, gió, lửa, từ bên ngoài, để bồi
bổ cho đất, nước, gió, lửa, bên trong thân, từng ngày, từng giờ, từng phút,
từng giây. Khi không còn vay mượn nữa thì con người không còn tồn tại được. Chỉ
vì con người mãi quay cuồng với cuộc sống, nên lúc nào cũng cứ tưởng "đời
còn dài" nên mãi lo đấu tranh, tranh chấp, giành giựt miếng ăn tồi tàn,
tiền bạc phi nhân, danh lợi phù du, hơn thua từng câu từng lời, cho nên mới đau
khổ. Con người quên rằng: ở ngoài nghĩa trang, đâu phải chỉ có mộ phần của các
cụ già trăm tuổi mà thôi! Hiểu được như vậy, chúng ta không còn chấp cái thân
tứ đại mấy chục ký lô này là "thực" của chúng ta nữa, thì sự đau khổ
chắc chắn sẽ giảm bớt. Cái thân tứ đại không còn là "thực" của chúng
ta nữa, thì những thứ phụ thuộc như: nhà cửa, tiền bạc, danh vọng, địa vị còn
có nghĩa gì nữa đâu mà tranh chấp và đấu tranh hơn thua, được mất, cho đời thêm
đau khổ?
Trong
Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng
yên. Hơn thua hai đều bỏ. Giấc ngủ được an lành". Làm được như vậy, chúng
ta khỏe re! Chuốc khổ vào thân là tự chúng ta mà thôi. Không ai làm cho chúng
ta đau khổ và phiền não được, nếu chúng ta không muốn tiếp nhận sự phiền não và
đau khổ đó. Ví như người ta đưa lửa phiền não đến, nếu chúng ta không đưa thân
tâm mình ra đón nhận, thì lửa đó chẳng có tác dụng gì cả!
2)
Cái sắc thân tứ đại mấy chục ký lô của chúng ta là như vậy đó. Còn cái
"tâm" của chúng ta thì sao? Con người chúng ta là một, mà cái tâm thì
thay đổi liên miên. Chúng ta sở dĩ bị khổ đau nhiều đời nhiều kiếp, bởi vì
chúng ta chấp lầm cái "vọng tâm" lăng xăng lộn xộn, thay đổi liên
miên đó là "mình", rồi theo đó mà chợt vui chợt buồn, suốt ngày suốt
đêm, suốt tháng suốt năm, suốt cả cuộc đời này, và cả những đời sau! Vọng tâm
của chúng ta gồm có: thọ, tưởng, hành và thức.
Cái
tâm nghĩ suy tính toán, lăng xăng lộn xộn, suốt ngày đêm đó, có phải
"thực" là của chúng ta chăng? Sách có câu: "Người buồn cảnh có
vui đâu bao giờ?". Nghĩa là cùng một cảnh, nếu chúng ta có tâm sự buồn
phiền lo âu, thì thấy cảnh không vui chút nào. Còn nếu chúng ta có tâm trạng
hân hoan vui vẻ, thì dù cây khô trụi lá, cảnh vẫn đẹp vui như thường. Cái tâm
hân hoan vui vẻ là của chúng ta, hay cái tâm buồn thảm lê thê là của chúng ta?
Sách
cũng có câu: "Tâm buồn cảnh được vui sao. Tâm an thì cảnh ngộ nào cũng
an". Cùng một câu nói, nếu tâm của chúng ta an ổn vui vẻ, thì cho là nói
đúng, nói-sao-cũng-được. Ngược lại, khi tâm của chúng ta đang bực bội, thì cho
là nói-xiên-nói-xỏ, nói-hành-nói-tỏi, nói-bóng-nói-gió. Ðối với người thân mến,
người thương yêu, thì chúng ta có tâm tốt, mặc dù chưa chắc hẳn lúc nào cũng
tốt được như vậy. Còn đối với kẻ thù người oán, thì chúng ta có tâm không tốt,
sẵn sàng gây phiền não đau khổ cho họ. Họ càng khổ mình càng khoái! Vậy, thực
sự, chúng ta là người có tâm tốt hay không tốt? Chẳng hạn như nếu chúng ta đang
cần sự giúp đỡ, khi gặp tai biến, thì viên cảnh sát chính là ân nhân. Còn nếu
chúng ta đang vi phạm luật pháp, thì bóng dáng của viên cảnh sát thực không
đáng ưa chút nào cả. Cùng một câu chuyện, nếu chúng ta ưa thích thì cho là
đúng, ngược lại không ưa, chúng ta cho là sai. Cái tâm thay đổi bất thường như
vậy "thực" là của chúng ta sao?
Bởi
vậy, kinh sách có câu: "Tùy tâm biến hiện". Nghĩa là mọi sự việc trên
thế gian này biến hiện như thế nào, tốt hay xấu, lành hay dữ, đúng hay sai,
phải hay quấy, được hay không, đều do tâm của chúng ta biến hiện ra cả. Cái sự
cảm thọ tùy theo tâm trạng của chúng ta, tùy theo từng cá nhân, không ai giống
ai, không lúc nào giống lúc nào, không nơi nào giống nơi nào, không thời đại
nào giống thời đại nào. Do đó, "tâm thọ" thực không đáng tin cậy chút
nào.
3)
Lại thêm nữa, tâm của chúng ta luôn luôn giàu sự tưởng tượng nên mới gây ra đau
khổ. Có người nói một câu vô-thưởng-vô-phạt, chúng ta tưởng tượng thêm ra, suy
diễn thêm ra, vẽ rắn thêm chân, để rồi tự chuốc lấy bực bội, phiền não và khổ
đau. Chuyện này xảy ra rất nhiều trong cuộc sống của mọi gia đình ở khắp mọi
nơi. Trong mọi cuộc nói chuyện, thảo luận, thường dễ xảy ra mích lòng, chỉ vì
một câu nói hiểu lầm nào đó của một người, cộng thêm tâm trí tưởng tượng của
các người khác. Tâm tưởng tượng của người vợ hay người chồng thường dẫn tới
chuyện ghen tuông, tạo nên sóng gió, làm giảm hạnh phúc gia đình. Do đó
"tâm tưởng" thực hết sức là nguy hại vậy.
4)
Tâm suy nghĩ của chúng ta luôn luôn tiếp nối không ngừng, từ chuyện này đến
chuyện khác, từ việc này đến việc khác, từ người này đến người khác, từ nơi này
đến nơi khác, từ đời này đến đời khác, từ xứ này đến xứ khác, tạo thành một
dòng tư tưởng kéo dài vô cùng vô tận, gọi là tâm hành. Những lúc tâm của chúng
ta có những dòng tư tưởng tiếp nối liên tục như vậy, chúng ta hãy thử tìm cách
dừng nó lại, ngưng nó lại, xem có được không? Chắc là không! Lúc đó, dừng nó
lại không phải dễ, mới biết rằng chúng ta không làm chủ được tâm hành của chính
chúng ta vậy. Lúc còn khỏe mạnh như vậy, chúng ta còn không kiểm soát, không
điều khiển, không làm chủ được tâm hành của chính mình. Lúc sắp chết, thân thể
đau đớn rã rời, thần kinh suy nhược, chắc chắn chúng ta sẽ bị nó dẫn đi đâu thì
đến đó vậy. Thí dụ như lúc lên giường muốn ngủ mà cái tâm cứ lo lắng, suy nghĩ
vớ vẫn vẫn vơ hoài, muốn dừng cũng không được, cứ tiếp nối liên tục, trằn trọc suốt
đêm thâu, không thể nào chợp mắt được! Do đó, "tâm hành" thực là một
động cơ dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi, nên còn được gọi là
"hành nghiệp".
5)
Tâm thức của chúng ta cũng luôn luôn khởi vọng niệm đẹp hay xấu khi trông thấy
một hình sắc nào đó, khởi vọng niệm dễ nghe hay khó nghe khi nghe thấy một âm
thinh nào đó, khởi vọng niệm dễ chịu hay khó chịu khi ngửi thấy một mùi nào đó,
khởi vọng niệm ngon hay dở khi nếm thấy một vị nào đó, khởi vọng niệm thích hay
không thích khi xúc chạm một vật nào đó. Ðể rồi những vọng niệm như vậy đưa đến
một kho tàng tâm thức, trong kinh sách gọi là tàng thức, là nơi chứa đựng những
chuyện vui hay buồn, thương hay ghét. Chính những vọng niệm, vọng thức này là
nguồn gốc của khổ đau. Tại sao vậy?
Bởi
vì, những vọng niệm đẹp hay xấu, dễ nghe hay khó nghe, dễ chịu hay khó chịu,
ngon hay dở, thích hay không thích, đâu có phải lúc nào cũng đúng tuyệt đối hết
đâu. Chẳng hạn như cùng một con người, chúng ta khen đẹp, người khác chê xấu,
sanh ra mích lòng, đưa đến đấu tranh, cãi cọ cãi vã, cuối cùng đánh nhau, tức
nhiên khổ đau. Chẳng hạn như cùng một món ăn, lúc mới bắt đầu, ăn vì đói bụng,
chính mình khen ngon, ngon đáo ngon để, đến lúc no rồi, thì lại thấy dở, hết
còn ngon miệng. Cùng một món trái cây như sầu riêng, một món ăn như khô mắm
chẳng hạn, người khen ngon thơm quá xá, thấy là phát thèm, người chê hôi thúi,
khó nuốt khó ngửi, tức nhiên sanh ra, tranh cãi phiền não, đưa đến khổ đau. Như
vậy, "tâm thức" hay các vọng niệm, vọng thức đó chính là nguồn gốc
của sự khổ đau vậy.
Cái
thân tứ đại gọi là hình sắc, và các tâm thọ, tâm tưởng, tâm hành, tâm thức, nói
chung gọi là "ngũ uẩn". Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Ðức Phật có dạy:
"Chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách". Nghĩa là nếu
chúng ta quán sát, chiếu soi, xem xét, thấu hiểu "ngũ uẩn" giai
không, tức là không thực, không thường còn, không vĩnh viễn, không cố định,
không đáng để chúng ta quan tâm, thì chắc chắn chúng ta sẽ độ được, sẽ qua được
hết thảy mọi khổ ách trên đời, sẽ sống được một cuộc đời hạnh phúc không nghi
ngờ gì cả.
Lúc
đó, lòng tự ái của chúng ta, tức là sự chấp ngã, giảm bớt được bao nhiêu thì
chúng ta sẽ được an vui trong cuộc sống được bấy nhiêu. Cái đáng quan tâm không
phải là cái "vọng tâm" thay đổi bất chợt, bất thường nói trên, mà
chính là cái "chơn tâm bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng,
bất giảm" của tất cả chúng ta vậy. Làm sao hiểu được"thế nào là chơn
tâm" chính là mục đích cứu kính của đạo Phật, được Ðức Phật giảng giải rõ
ràng trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm.
B.
- Chấp Pháp:
Chúng
ta đã hiểu qua thế nào là chấp thân và chấp tâm, nói chung là "chấp
ngã". Bây giờ, chúng ta thử tìm hiểu: Thế nào là "chấp pháp"?
Chấp pháp có nghĩa là đối với tất cả mọi sự, mọi việc trên đời, chúng ta thường
chấp chặt ý kiến, thành tích, sự suy nghĩ, sự hiểu biết, kiến thức, sở học,
kinh nghiệm, tài năng của mình, không muốn thay đổi, không muốn cải thiện,
không muốn sửa chữa, không muốn chuyển hóa, dù cho có người khuyên bảo. Thậm
chí, dù biết mình nghĩ sai, tin sai, làm sai, nói sai, cũng vẫn cứ chấp chặt!
Có
câu chuyện hai anh chàng vào rừng kiếm củi, cả hai mỗi người bó được một gánh
củi đem về. Trên đường về, hai anh chàng gặp được quế. Anh thứ nhứt bỏ củi,
gánh quế đem về vì biết quế có giá trị hơn, bán được nhiều tiền hơn. Anh thứ
hai tuy cũng biết như vậy, nhưng chấp chặt cái công gánh củi từ nãy đến giờ,
không chịu thay đổi. Trên thực tế, lắm khi chúng ta biết là đi sai đường, làm
sai việc, nói lỡ lời, suy nghĩ tầm bậy, nhưng đã lỡ rồi, cho lỡ luôn, sửa lại
thì quê quá, xin lỗi thì chạm tự ái quá, mất mặt quá, nhứt định là không được,
tới-đâu-thì-tới, việc gì phải ngán ai chứ!
Lòng
cố chấp nặng nề như vậy thường dẫn chúng ta đến chỗ đấu tranh bằng lời, đấu
tranh bằng võ lực, tức nhiên dẫn đến khổ đau. Những người có thêm một chút học
thức, lòng cố chấp càng tăng thêm một chút, họ ít khi chịu nhìn thấy sự thực,
ít khi chịu nhận lỗi lầm, ít khi chịu nhường bước người khác. Trong kinh sách
gọi đó là "sở tri chướng". Nghĩa là cái sở tri, cái kiến thức, sự
hiểu biết, đã có từ bấy lâu nay, thường làm chướng ngại, ngăn cản, cản trở
chúng ta nhận ra lẽ phải, nhận ra chân lý. Chân lý không lệ thuộc tôn giáo nào,
giai cấp nào, dân tộc nào, quốc gia nào, thế lực nào, thời đại nào, không gian
nào. Chân lý bất tùy phân biệt chính là nghĩa đó vậy.
Có
câu chuyện một học giả đến xin hỏi đạo với một thiền sư. Thiền sư mời học giả
ngồi, rồi mang trà ra tiếp đãi. Thiền sư chậm rãi rót trà ra tách trước mặt
khách và tiếp tục rót cho đến khi tràn ra ngoài, vẫn không dừng. Học giả thấy
vậy không còn nhịn được, bèn lên tiếng và hỏi lý do. Thiền sư từ tốn đáp rằng:
Ngài đến đây với đầy ắp kiến thức trong tâm trí, đâu còn chỗ để thu nhận lý
thiền, lẽ đạo. Cũng như tách trà đã đầy, không còn chỗ nhận thêm nữa vậy.
Trong
cuộc sống, chúng ta chứa đầy ắp những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên
kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, trong tâm trí, cho nên khó mà
chấp nhận được bất cứ ý kiến nào của người khác, khó mà nhận được thế nào là
chánh kiến. Trong cuộc sống vợ chồng, ai cũng chấp chặt ý kiến của mình là
đúng, không chịu nghe giải thích, không chịu bàn luận với nhau, làm sao gia
đình có được hạnh phúc! Ðổi cái cửa, sửa cái bếp, xoay cái bàn, trở cái giường,
thực ra chỉ tốn công sức, hao tiền của một cách vô ích mà thôi. Ðiều cần phải
sửa chính là cái "lòng cố chấp" của chúng ta mà thôi.
Trong
Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy câu chuyện năm người mù rờ voi, sau này thường được
viết trong sách giáo khoa, đem dạy ở trường học, đáng để chúng ta suy gẫm như
sau: Có năm người mù được dẫn tới rờ một con voi, và sau đó, từng người cho
biết ý kiến. Người rờ được cái vòi thì nhứt định cho là con voi giống như con
trùng thật lớn. Người rờ được cái chân thì nhứt định cho là con voi giống như
cái cột nhà. Người rờ được cái tai thì nhứt định cho là con voi giống như cái
quạt thật lớn. Người rờ được cái bụng thì nhứt định cho là con voi giống như
cái trống thật lớn. Người rờ được cái đuôi thì nhứt định cho là con voi giống
như cái chổi. Thế là cả năm người đều chấp chặt cái sở tri, cái hiểu biết của
riêng mình, có chứng nghiệm rõ ràng qua sự rờ rẫm hiện vật, cho nên cãi vã
nhau, chướng ngại nhau, không ai muốn nghe, muốn tin điều người khác nói ra,
nhứt định cho mình là đúng. Tức nhiên câu chuyện dẫn đến chỗ tranh chấp, ấu đả
và khổ đau.
Chúng
ta cũng thường mắc phải những lỗi lầm như thế trong cuộc sống cho nên khổ đau.
Chúng ta thường nghe thoáng qua một câu chuyện truyền miệng, không biết đâu là
xuất xứ, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải,
người kia quấy, đưa đến chỗ bất đồng ý kiến, tranh cãi, phiền não và khổ đau.
Chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không có
điều kiện, để tìm hiểu "nguyên hình" của con voi như thế nào, mà đã
vội vàng kết luận thì nhứt định không sai và cũng nhứt định không đúng vậy.
Chúng ta có thể chỉ "đúng một phần" thôi, hãy lắng nghe ý kiến của
người khác! Thực hiện được như vậy, có phải chúng ta tránh được những cuộc
tranh cãi vô ích trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Thực hiện được như vậy,
chắc chắn chúng ta tránh được phiền não và khổ đau, chắc chắn chúng ta được an
lạc và hạnh phúc, không nghi ngờ gì nữa cả. Thực hiện được như vậy, chúng ta
mới là người thực sự biết tôn trọng chân lý.
Sự
khổ đau trong các gia đình thường là do sự chấp chặt giữa cha mẹ và con cái. Cha
mẹ thì nhứt định phải như vầy và như vầy thì mới đúng, khác đi là không được.
Con cái thì nhứt định phải như vậy và như vậy thì mới được, khác đi là không
đúng. Những gia đình như thế và như thế nhứt định không thể có hạnh phúc. Chúng
ta đừng than phiền con cái đời nay khó dạy. Thực ra con cái đời nào cũng vậy
thôi, chỉ có chúng ta "biết" cách nào dạy con cái và "biết"
cách nào dạy chính mình hay không mà thôi. Hai thế hệ khác nhau tức nhiên có
những khác biệt trong lề lối suy nghĩ và hành động. Nếu biết thông cảm, dung
hòa, tha thứ, hiểu biết, thì vui vẻ hạnh phúc. Trái lại nếu cố chấp, bảo thủ ý
kiến, thì phiền não và khổ đau. Rõ ràng là như vậy. Tệ hơn nữa là người lớn
nghe lời xúi dại của con cái, làm những chuyện lợi mình hại người, gây nên tội
báo nghiệp báo.
Tóm
lại, để kết thúc, chúng ta hãy suy gẫm câu chuyện về một ông trưởng giả có bốn
bà vợ. Ông trưởng giả thương nhứt là cô vợ bé, nên đi đâu ông cũng mang theo,
không bao giờ thiếu vắng, nhứt định chặt không đứt, bứt không rời. Ông vẫn thương
bà vợ thứ ba nhiều lắm, nên đi đâu ông cũng thường mang theo, tuy cũng có lúc
quên. Ông vẫn còn thương bà vợ thứ hai, nên thỉnh thoảng nếu nhớ, ông đem ra
khoe cho vui. Ông dường như quên lửng bà vợ cả, một thời đầu ấp tay gối, mặn
nồng xưa kia. Suốt ngày ông chỉ bận bịu với ba bà vợ kia mà thôi. Ðến lúc sắp
phải đi theo tổ tiên, ông bèn kêu các bà vợ đến bên giường bệnh, và hỏi xem có
bà vợ nào muốn đi theo ông hay không?
Cô
vợ bé trả lời: Dù khi còn sống, ông cưng chiều, săn sóc tôi hết mức, chăm lo
ngày cũng như đêm, không thiếu thứ gì cả. Nhưng ông có ra đi thì ra đi một
mình. Khi ông hết thở, tôi sẽ bỏ ông tức khắc, không thể đi theo ông được đâu!
Bà vợ thứ ba trả lời: Khi ông hết thở, tôi sẽ phải qua tay người khác, không
thể nào tránh được đâu! Tôi không muốn cũng không được. Bà vợ thứ hai trả lời:
Tôi sẽ theo ông tới nấm mồ thôi, không thể theo xa hơn được, không thể nào theo
ông mãi mãi được đâu! Ông đi một mình đi! Tới phiên bà vợ cả, bà từ tốn trả
lời: Ông đừng lo, dù ông có quan tâm đến tôi hay không, dù ông có muốn hay
không, đã là vợ chồng với nhau, lúc nào, đời nào, kiếp nào, ông đi đến đâu, tôi
sẽ theo ông tới đó, như bóng với hình vậy!
Câu
chuyện trên ngụ ý rằng: Khi ông trưởng giả hết thở ra đi, trước nhứt, ông bỏ
lại cô vợ bé nhí, chính là cái thân tứ đại mấy chục người khiêng của ông, mà
lúc nào ông chẳng mang theo khi còn sống. Kế đó, ông bỏ lại bà vợ thứ ba chính
là tiền bạc, của cải, phải sang tay người khác ngay. Bà vợ thứ hai chính là
danh vọng, chức tước chỉ có thể theo ông trưởng giả tới nấm mồ, được nhắc lại
trong các điếu văn của bằng hữu, và được ghi khắc trên mộ bia của ông mà thôi.
Còn
bà vợ cả chính là "nghiệp báo", do ông trưởng giả đã hành động, đã
nói năng, đã suy nghĩ, từ thân khẩu ý của chính ông, khi còn sanh tiền, sẽ theo
ông mãi mãi, và dẫn dắt ông tái sanh vào cõi lành hay cõi dữ, tùy theo ông
trưởng giả đã làm lành hay dữ, khi còn sanh tiền. Chứ không có đấng nào, không
có thần linh nào, không có ai, cứu rỗi hay trừng phạt ông trưởng giả cả. Tự ông
làm, chính ông hưởng, hay tự ông làm, ông gánh chịu, mà thôi.
Khi
còn sanh tiền, con người chỉ biết lo săn sóc, cưng chiều, cung phụng tấm thân
tứ đại cho đầy đủ, sung túc. Lo kiếm tiền bạc cho thiệt nhiều, có tiền rồi thì
dùng tiền kiếm tí danh, địa vị, dù chỉ là danh hão cũng được, chứ ít có người
biết quan tâm đến "nghiệp báo", ít có người biết lo tu tâm dưỡng
tánh, lo dừng nghiệp và chuyển nghiệp, lo tu nhân tích phước, lo làm việc phước
thiện, để dành "phước báo" cho mai sau.
Vị
trí của cái cửa, cái giường, cái bếp, cái bàn, đâu có giúp chúng ta được hạnh
phúc, cũng đâu làm mất hạnh phúc của chúng ta. Hạnh phúc có được là do chúng ta
có bỏ được "Lòng Cố Chấp" của chính chúng ta hay không mà thôi. Bỏ
được bao nhiêu thì hưởng được hạnh phúc bấy nhiêu. Rất là đơn giản. Vậy, để tạo
dựng an lạc và hạnh phúc đời này và đời sau, chúng ta hãy tích cực quán sát và
dẹp bỏ hai thứ "Chấp Ngã và Chấp Pháp".
Hiểu được như vậy, làm được
như vậy, chúng ta mới thực sự tôn kính, tán thán, biết ơn và đền ơn cứu khổ của
Ðức Phật Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni và tìm được sự an lạc và hạnh phúc trong ánh
đạo vàng.
cutranlacdao@yahoo.com
10 bí
quyết giúp bạn thành công trong học tập
Cho dù
bạn đã trở thành một sinh viên đại học hay chỉ là một học sinh cấp hai thì nắm
bắt 10 kĩ năng dưới đây sẽ vẫn giúp bạn đạt được thành công trong học tập đấy!
1. Quản
lý thời gian
Bạn biết
đấy, một ngày chỉ có 24 giờ thôi. Việc bạn sử dụng quỹ thời gian ngắn ngủi đó
như thế nào sẽ quyết định năng suất làm việc của bạn. Một học sinh THPT sẽ có
khoảng 35 tiếng học tập trên lớp mỗi tuần, nhưng với một sinh viên Đại học thì
chỉ có từ 15-18 tiếng. Thói quen sử dụng khoảng thời gian còn lại của bạn một
cách hợp lí ngay từ bây giờ sẽ giúp bạn “quản lí” tốt thêm 20 tiếng rãnh rỗi
mỗi tuần khi đã trở thành sinh viên năm nhất – lúc mà nhu cầu cho việc học và
giao tiếp xã hội của bạn lớn hơn bao giờ hết.
Nếu bạn
chưa từng làm được điều này thì hãy bắt đầu bằng việc lên kế hoạch hằng ngày
ngay từ bây giờ. Bạn có thể viết thời gian biểu của mình vào một quyển sổ tay,
cho vào túi xách và mang đi khắp mọi nơi. Bạn sẽ rất dễ “vượt kế hoạch” nếu
không cẩn thận. Học cách quản lí tốt quỹ thời gian cảu mình sẽ khiến bạn thấy
mỗi ngày dường như dài hơn đấy!
2. Thói
quen học tập khoa học
Nếu bạn
đã có được điều này thì thật là tuyệt vời nhưng nếu không, thì vẫn còn chưa
muộn để bắt đầu. Một thói quen học tập tốt chỉ bao gồm những điều rất đơn giản
sau:
+ Luôn
chuẩn bị bài trước khi đến lớp, đi học một cách đều đặn và đừng bao giờ nghĩ
đến chuyện “cúp” tiết, teen nhé!
+ Hoàn
thành công việc được giao một cách cẩn thận, tỉ mỉ và đúng hạn.
+ Sắp xếp
một khoảng thời gian nhất định trong ngày để học, ngay cả khi bạn không có bài
tập về nhà hay tiết kiểm tra vào ngày mai.
+ Luôn
đặt những dụng cụ học tập của bạn (máy tính, sách, vở ghi, laptop...) ở một vị
trí thuận tiện nhất để không phải tìm kiếm nó khi bạn cần.
+ Học
nhóm cũng là một ý tưởng không tồi, miễn là bạn có thái độ học tập nghiêm túc
và không sa vào những chuyến “buôn dưa lê” bất tận.
3. Biết
đặt mục tiêu phù hợp
Việc xác
định mục tiêu là rất quan trọng và cần thiết đối với học sinh trung học phổ
thông, do việc đặt ra mục tiêu giúp chúng ta thấy được ý nghĩa của công việc mà
mình đang và sẽ làm. Xác định hướng đi của mình gần như quyết định sự thành
công của bạn. Đặt ra một mục tiêu quá cao sẽ chỉ khiến bạn thất vọng và mất
lòng tin vào bản thân.
4. Sự tập
trung
Hãy lắng
nghe giáo viên của bạn thật chăm chú và chắc chắn rằng bạn hiểu thầy, cô đang
nói gì. Nếu bạn không nắm rõ về bất cứ điều gì hãy đưa ra câu hỏi. Các thầy, cô
sẽ giải đáp nhiệt tình đến khi bạn hiểu ra vấn đề mới thôi. Đừng che giấu sự
thiếu sót của bản thân, bạn nên tự hào vì mình luôn là một người ham học hỏi.
5. Học
cách ghi chép hợp lý
Bạn hoàn
toàn không thể viết tất cả những gì mà giáo viên giảng khi mà chúng ta nói với
tốc độ khoảng 225 từ/ một phút. Nhưng bạn cần phải ghi lại những vấn đề cốt
lõi.
Để đảm
bảo rằng những thông tin bạn ghi lại có giá trị, hãy thử tìm câu trả lời cho
bài kiểm tra trong vở ghi của mình. Nếu có, bạn đã học được cách ghi chép thông
minh còn nếu không, hãy xem lại và học tập cách thức từ vở ghi của những người
bạn cùng lớp hoặc nhờ giáo viên giúp đỡ trong việc nâng cao khả năng nắm bắt
những ý chính.
6. Hoàn
thành công việc được giao
Hằng
ngày, sau mỗi tiết học, thầy, cô giao cho bạn cả “núi” bài tập về nhà. Đó quả
là một công việc bận rộn và đôi khi làm bạn cực “oải”. Nhưng nếu bạn cứ tiếp
tục ngồi đó than vãn, bạn sẽ chỉ thấy nó càng ngày càng nhiều lên. Đừng bao giờ
chép miệng: “Mai rồi làm bù cũng chẳng sao!” Nên nhớ rằng ngày mai sẽ còn gấp
đôi hôm nay. Bạn biết không? “Cách tốt nhất để vượt qua khó khăn là đi xuyên
qua nó.”
7. Luôn
xem lại những gì đã học mỗi ngày
Hãy xem
lại bài học hằng ngày chứ không phải mai kiểm tra mà đêm hôm nay bạn mới cuống
cuồng lên ngồi “tụng kinh” đâu nhé! Lướt qua những gì bạn đã học khi mà bài
giảng của thầy, cô vẫn còn nguyên trong đầu sẽ giúp bạn ghi nhớ rất sâu những
kiến thức. Viết lại một lần nữa tất cả những gì mà bạn đã học cũng là một chiêu
thức ghi nhớ không tồi đâu.
8. Nghiêm
khắc với bản thân
Bạn phải
nghiêm túc thực hiện những gì đã đề ra. Chỉ có như thế bạn mới có thể có đủ
thời gian để làm tất cả những gì phải làm. Người sáng lập tập đoàn sản xuất đồ
chơi hàng đầu thế giới Nitendo đã từng phát biểu rằng: “Mọi sự dễ dãi đều dẫn
đến thất bại. Dễ dãi với người thì bạn thất bại một, nhưng nếu dễ dãi với bản
thân, bạn sẽ thất bại suốt đời.”
9. Động
lực cho bản thân
Bạn cần
học tập và làm việc thật chăm chỉ cho dù bạn có thích môn học hoặc giáo viên đó
hay không. Tự tạo cho bản thân một động lực để thúc đẩy việc học của mình là
cực kì quan trọng khi bạn chẳng mấy hứng thú với môn Sử buồn tẻ hay rất sợ cô
Sinh khó tính… Nếu cần, bạn hãy coi tiết học đó như một trở ngại mà bạn bắt
buộc phải vượt qua. Sau đó, thật sự để tâm đến nó và bạn sẽ thấy bất ngờ khi
mọi chuyện diễn ra thật trôi chảy. Bạn tài giỏi hơn những gì bạn nghĩ đấy!
10. Cam
kết
Khi đã
bắt đầu một việc gì đó như một khoá học tiếng Anh hay kế hoạch cho lớp tập
yoga, ai cũng sẽ vô cùng hào hứng. Nhưng đôi lúc, bạn sẽ tự tìm cho mình một lí
do để thoái thác những buổi lên lớp hay viện cớ quá bận rộn để làm bài tập về
nhà. Hãy nhớ rằng, một khi đã tự tay mở một cánh cửa mới ra thì hãy là người
đóng lại chứ đừng bao giờ để người khác làm việc đó. Thành công phụ thuộc vào
bạn!
Theo Thùy
Dương (Phapluatxahoi)
THẾ NÀO ĐƯỢC GỌI LÀ TU
CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP TRONG PHẬT GIÁO
VÔ MINH DẪN CHÚNG SANH VÀO SANH TỬ LUÂN HỒI
NHỨT THIẾT DUY TÂM TẠO
PHẬT THUYẾT “CHUYỆN ĐÀN BÒ SANG SÔNG”
THÂN BỆNH VÀ TÂM BỆNH
KHÔNG CÓ THẦN LINH TRONG ĐẠO PHẬT, ĐỪNG HIỂU SAI VỀ ĐỨC PHẬT