Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
BÁT CHÁNH ĐẠO
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
Trong
cuộc đời đau khổ trên thế gian này, khi gặp những việc tai biến, những
sự bất trắc, những chuyện bất như ý, con người thường có khuynh hướng
cầu nguyện van xin tổ tiên ông bà, thánh thần thiên địa, ngọc hoàng
thượng đế, Bồ Tát Phật Tổ, từ bi gia hộ, thương xót cứu giúp, tai qua
nạn khỏi, cho được bình yên. Nhưng thực ra, chúng ta ai ai cũng hiểu
rằng việc cầu nguyện chỉ có tác dụng giúp cho con người được an tâm
trong giây phút cầu nguyện đó thôi. Có mấy ai cầu gì được nấy? Cầu xin
không được đáp ứng, chẳng lẽ thiên địa không bác ái, Bồ Tát không từ bi?
Còn Ðức Phật cứu độ chúng sanh bằng cách nào, như thế nào?
Ðạo
Phật không chỉ dạy cầu nguyện như là cứu kính. Theo quan niệm của Phật
giáo, cầu nguyện được xem như những lời chúc lành, những mong muốn thiết
tha, với mục đích vị tha bất vị kỷ, vì người không vì mình, một cách
phát tâm đại từ bi. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho quốc thới dân
an, chúng sanh an lạc. Chúng ta làm được việc tốt gì, có được công đức
hay phước báu nào, cũng hồi hướng, cầu nguyện cho tất cả chúng sanh đều
trọn thành Phật đạo. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho cha mẹ được
mạnh khỏe bình yên, sống lâu trăm tuổi. Song việc đó có được hay không,
còn tùy phước duyên của cha mẹ. Tuy nhiên, việc cầu nguyện như vậy cũng
nói lên được lòng hiếu thảo chân thành của chúng ta.
Trong
Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên
với Chánh Pháp". Nghĩa là mọi người hãy tự mình tích cực chuyển hóa thân
tâm của mình, bằng cách cố gắng học hiểu giáo lý của đạo Phật, đó là
ngọn đuốc Chánh Pháp, soi đường chỉ lối, giúp con người thoát ly phiền
não và khổ đau của cuộc đời, khi thực sự đem áp dụng vào đời sống hằng
ngày. Ðó là cách duy nhất thập phương tam thế chư Phật cứu độ chúng
sanh. Người Phật Tử chân chánh cần nên nhớ kỹ điều này.
* * *
Theo
giáo lý của đạo Phật, con người can đảm nhìn nhận sự thực là: cuộc đời
khổ nhiều vui ít, nhưng không tư tưởng tiêu cực, không bi quan yếm thế,
không ngán ngẩm chán chường. Trái lại, con người tích cực tìm phương
cách để được giác ngộ và giải thoát, không thụ động chấp nhận, không cầu
nguyện van xin. Ðể giúp chúng sanh được sống an vui, xả trừ triền
phược, cắt đứt trói buộc, dẹp tan phiền não, thoát ly đau khổ, trong tam
tạng kinh điển, Ðức Phật thuyết minh "Bát Chánh Ðạo".
Bát
chánh đạo là phương pháp giản dị, thích hợp với đời sống hằng ngày của
chúng sanh, nhằm mục đích cải thiện tâm lý, ngôn từ và hành động, giúp
đỡ con người bỏ tà đạo theo chánh đạo. Bát chánh đạo giúp chúng sanh
hướng về, tiến đến một đời sống chí diệu cao siêu, hay ít ra cũng xây
dựng được đời sống an lạc và hạnh phúc. Vì vậy, "Bát Chánh Ðạo" còn được
gọi là "Bát Thánh Ðạo".
Bát
chánh đạo là con đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát,
gồm tám điều chân chánh, đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ,
chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm, chánh định.
1.- CHÁNH KIẾN:
Trước
hết, chúng ta nhận thức mọi sự sự vật vật hiện hữu, tức là muôn pháp
trên thế gian, khắp pháp giới, đều do nhân duyên sinh, không trường tồn
và sẽ biến diệt. Ðó là "Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", hai chánh kiến
quan trọng mọi người cần thấu triệt.
A. Thế nào là chánh kiến?
- Chánh kiến là kiến thức chân chánh. Nghĩa là con người cần có sự hiểu
biết và sự nhận thức sáng suốt và hợp lý. Chánh kiến có ích lợi giúp
con người không sống trong mê lầm, điên đảo. Người có chánh kiến thấy
như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không thay đổi trắng đen, không kỳ
thị xấu tốt, không phê phán hay dở. Chánh kiến là sự hiểu biết và nhận
thức không bị tập quán, thành kiến, dục vọng hay tâm phân biệt, ngăn che
và làm sai lạc. Người có chánh kiến hiểu biết tường tận thế nào là
chánh tà, chơn ngụy, đại tiểu, thiên viên, nhưng với tâm bình thường,
tâm chính trực và tâm bất tùy phân biệt.
a) Lý nhân quả: Chúng ta ai ai cũng biết: "Gieo nhân nào gặt quả
nấy". Thí dụ như có hột cam gieo xuống đất, gọi là "nhân", cộng thêm
nước tưới, ánh sáng, phân bón, công chăm sóc, gọi là "trợ duyên", chúng
ta sẽ gặt hái được "quả cam", sau một thời gian nào đó. Không thể nào
gieo hột cam ngọt lại gặt quả chanh chua được, hay ngược lại. Lý nhân
quả còn được gọi là lý nhân duyên.
Không bao giờ có quả mà không có nhân. Có mây mới có mưa, có lửa mới có
khói, gieo gió mới gặt bão, sinh sự thì sự sinh. Không thể có chuyện tự
nhiên có cái cây mọc lên, mà không có hạt giống trong đất. Không thể có
chuyện tự nhiên chúng tới chửi mình, mà mình chẳng có làm gì hết, trong
kiếp này hay những kiếp trước! Ðó là chân lý. Ðó là lý nhân quả hay lý
nhân duyên. Nhận rõ quả báo của hành vi, ngôn từ và ý niệm của chính
mình như vậy, chúng ta sẽ không trách người, trách trời, trách đất gì
hết, chỉ biết trách mình, cho nên không còn phiền não và khổ đau nữa.
Trái lại, chúng ta tích cực sửa đổi tâm tánh, làm sao cho mỗi ngày một
tốt đẹp hơn, để cuộc đời được sáng sủa hơn, gia đình được hạnh phúc hơn.
Việc này sinh ra do việc kia đã sinh ra. Không có chuyện gì xảy ra, dù
lớn hay nhỏ, dù quan trọng hay bình thường, mà không do có chuyện khác
xảy ra trước đó. Thí dụ như chúng ta có cái bánh để ăn, nguyên do trước
đó có bột, có đường và có công thợ, dĩ nhiên cũng do chúng ta có tiền
mua. Thí dụ như: Cơ thể phát phì nguyên do ăn uống quá độ. Nghèo túng
nguyên do làm biếng. Bệnh tật nguyên do thiếu vệ sinh. Con cái không có
tình thương đậm đà nguyên do cha mẹ không thường xuyên chăm sóc, gần
gũi. Thiên hạ thù ghét nguyên do lời nói khó nghe. Vợ chồng lục đục
nguyên do thiếu sự cảm thông, thiếu sự hiểu biết, thiếu sự hòa hợp.
Muôn sự muôn vật trên thế gian này đều do nhân duyên sinh. Mọi sự mọi
việc không do ông trời, không do một đấng tạo hóa đầy quyền năng nào tạo
ra cả. Có người cho rằng: chính con người sinh ra thượng đế, bởi vì
thượng đế chỉ là sản phẩm do con người tưởng tượng mà thôi. Mỗi đạo
giáo, mỗi dân tộc, mỗi thời gian, có mỗi quan niệm khác nhau về thượng
đế. Thượng đế, nếu có thực, không thể để cho các người thế gian lợi dụng
danh nghĩa và phải là đấng chí công vô tư. Tại sao lại có những chuyện:
trời thương người này hơn người kia, cho người này sung sướng hơn người
kia, người này sinh ra khỏe mạnh, trong cảnh giàu sang, người kia sinh
ra tật nguyền, trong cảnh nghèo khó, dân tộc này giàu sang sung sướng,
dân tộc khác nghèo nàn khổ cực?
Theo
giáo lý của đạo Phật, sở dĩ người này khác người kia về phương diện này
hay phương diện nọ, bởi vì mỗi người tạo tác nghiệp nhân khác nhau, cho
nên nhận nghiệp quả khác nhau. Cũng như người làm bánh thì ăn bánh,
người nấu chè thì ăn chè. Chính mình làm mình hưởng. Chính mình làm mình
chịu. Ðó mới thực là chí công vô tư vậy.
b) Lý vô thường:
Chúng ta ai ai cũng biết: "Có sinh ắt có diệt". Nghĩa là muôn sự muôn
vật trên thế gian này đều không tồn tại vĩnh viễn. Trong Kinh Kim Cang,
Ðức Phật có dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Nghĩa là bất cứ
vật nào có hình tướng, nhìn thấy được bằng cặp mắt thường, lớn như quả
núi, tòa nhà, nhỏ như tấm thân chúng ta, như hạt cải, hạt cát, tất cả
đều hư vọng, đều trải qua bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị, diệt". Mọi vật
sinh ra, trụ thế một thời gian ngắn dài, rồi cũng biến dị và cuối cùng
cũng bị diệt mất! Thí dụ như: Cây bông hồng từ hạt giống trong đất sinh
ra, mọc lên, trổ hoa. Hoa hồng khoe hương sắc, ít ngày sau héo úa, tàn
lụi, trở thành phân bón cho bông hồng khác sau này. Cuộc đời cứ như thế
tiếp diễn không ngừng, đạo Phật gọi là "sự luân hồi", cũng như bánh xe
quay mãi, quay mãi vậy.
Hiểu
được như vậy, khi của cải vật chất, xe hơi đồ đạc bị mất mát hư hao,
khi con cái lỡ tay đập bể hay làm hư hại vật gì, dù quí giá đến đâu,
thậm chí khi người thân đến lúc qua đời, chúng ta sẽ không khổ đau
nhiều. Hiểu được như vậy, khi gặp một việc tai biến, một sự bất trắc,
một chuyện bất như ý, thậm chí tán gia bại sản, người thân biến thành kẻ
thù, chúng ta cũng sẽ không đau khổ nhiều. Chuyện gì rồi cũng sẽ qua,
có gì tồn tại mãi mãi đâu mà cố chấp, tranh đua hơn thua, cái mạng sống
này còn không giữ được nữa, huống là thứ gì khác trên đời này? Có ai
sống mãi không chết? Có ai trẻ mãi không già? Có ai khỏe mãi không đau?
Ðó là lý vô thường. Có câu: Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết. Cuộc
đời cứ như thế xoay vần đổi thay, không bao giờ dừng. Thường xuyên quán
chiếu, tin sâu "Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", cuộc đời của con người
sẽ an lạc và hạnh phúc hơn.
Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu
sinh. Nhân duyên ly tán hư vọng hữu diệt". Nghĩa là: Muôn sự muôn vật
trên thế gian này do nhân duyên hình thành, tạm gọi là sinh. Muôn sự
muôn vật do nhân duyên tan rã, tạm gọi là diệt. Thí dụ như: Một chiếc xe
mới được hình thành do tất cả các bộ phận, các phụ tùng ráp lại, tạm
gọi là sinh. Ðến khi xe hư, các phụ tùng, các bộ phận được tháo rời ra,
chiếc xe không còn nữa, tạm gọi là diệt. Thí dụ khác: Tấm thân tứ đại
của chúng ta cũng vậy, hình thành do đất, nước, gió, lửa, tạm gọi là
sinh. Sống đời một thời gian nào đó, khi hết nhân duyên, thì cát bụi trở
về với cát bụi, tạm gọi là chết. Tại sao vậy? Bởi vì khi đó, chính là
lúc chúng ta bắt đầu một kiếp khác. Bánh xe luân hồi đang chuyển động đó
vậy.
B.Thế nào là tà kiến?
- Ngược lại, tà kiến là sự hiểu biết và nhận thức sai lầm. Theo quan
điểm của Phật giáo, cho sự hiện hữu của tự thân và hoàn cảnh đều là tự
nhiên, không có quả báo cùng nhiều duyên khác tập hợp, đó là tà kiến và
mê tín. Chấp thượng đế tạo vật, phủ nhận nhân quả nghiệp báo, chủ trương
định mệnh, phủ nhận kết quả của hành nghiệp, đó là tà kiến và mê tín.
Quan niệm thương ghét khác biệt giữa người và người, giữa người và vật,
coi thú vật sinh ra để nuôi sống con người, đó là tà kiến và mê tín.
Cố
chấp thành kiến, quan niệm phân biệt phải trái, đúng sai cố định, đi
tới kết luận, người nào không tin theo tín ngưỡng như mình, đều phải bị
trừng trị nghiêm khắc, phải bị đọa địa ngục đời đời, đó là tà kiến và mê
tín. Chấp theo thần thoại, đồng bóng bói toán, xem sao giải hạn, định
hướng nhà cửa, tin bướng tin càn, tin vô căn cứ, làm bể cái gương, điềm
không may mắn, đầu năm quét nhà, tài lộc ra cửa, mùng năm mười bốn hăm
ba của dân ta, con số 13 của dân tây, cho là xui xẻo, đó là tà kiến và
mê tín. Ðốt vàng mã, tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, áo quần, hình nhơn bằng
giấy, cho người chết xài dưới âm phủ, đó là tà kiến và mê tín. Không may
đau bệnh, không khám bác sĩ, không đi bệnh viện, không muốn uống thuốc,
không chịu kiêng cữ, lại đi xem bói, thỉnh bùa chú giấy, đem về đốt
uống, nước tiên nước thánh, nước suối nước sông, chẳng hạp vệ sinh, cũng
đem về uống, đó là tà kiến và mê tín.
Nói
chung, những điều gì phản khoa học, trái với chân lý, không theo lý
trí, chẳng thể xét suy, không thể kiểm chứng, đều được gọi là tà kiến và
mê tín. Tà kiến và mê tín thường có nơi những người có lòng cố chấp
nặng nề, chấp ngã và chấp pháp, dù người bình dân, hay kẻ học thức, ở
ngoài thế gian, cũng như trong đạo. Ðức Phật ra đời, thuyết pháp độ
sinh, phá màn vô minh, dẹp tan tà kiến, mê tín dị đoan, chỉ nhằm mục
đích, khai thị chúng sanh, ngộ nhập trí tuệ bát nhã, trong Kinh Pháp
Hoa, gọi là Tri Kiến Phật, để được giác ngộ và giải thoát.
2. - CHÁNH TƯ DUY:
Sách
có câu: "Bình an dưới thế cho người thiện tâm". Người thiện tâm luôn
luôn nghĩ tốt, nghĩ đúng, nghĩ thiện, cho nên làm tốt, làm đúng, làm
thiện, và nói tốt, nói đúng, nói thiện. Người thiện tâm là người có tâm
trí luôn luôn được bình an, thảnh thơi, thư thái.
A.Thế nào là chánh tư duy?
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người cần phải
nghiệm xét, nghĩ suy, quán chiếu một cách đúng đắn, hợp với chân lý,
không trái với lẽ phải, có lợi cho mình và cho người. Chúng ta thường
xuyên suy nghĩ đến "giới, định, tuệ" để tu tập giải thoát, suy nghĩ
nguyên nhân gây đau khổ cho chúng sanh, để giải thích và khuyến tu, suy
nghĩ những hành vi lỗi lầm, những lời nói sai trái và những tâm niệm xấu
xa của chính mình để sám hối và cải đổi. Tất cả những điều đó gọi là
chánh tư duy. Chư Tổ có dạy: "Phản quan tự kỷ bổn phận sự". Nghĩa là
quay lại chiêm nghiệm, suy xét, quán sát tự tâm chính mình là phận sự
của chúng ta. Chánh tư duy có ích lợi giúp con người không sống trong
đen tối, không phạm lỗi lầm do mê tín dị đoan.
Ngày
xưa, thời Ðức Phật còn tại thế, có một người con của vị quốc sư, tên là
Ma Ha Ca Chiên Diên, đến với Ðức Phật xin được xuất gia tu hành. Ðức
Phật hỏi nguyên do nào ông phát tâm như thế. Ông trả lời rằng: Bởi vì
ông chiêm ngưỡng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói:
Như vậy, sau này khi thân tướng Như Lai già yếu, ông không còn phát tâm
nữa sao? Lần thứ hai, ông lại đến xin được xuất gia. Ðức Phật lại hỏi
nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông tôn trọng pháp âm vi diệu của Ðức
Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi Như Lai không thuyết pháp,
ông không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ ba, ông lại đến xin được xuất
gia. Ðức Phật cũng hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông kính phục
chư tăng tu hành nghiêm túc, cẩn mật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này
khi tình cờ thấy vị tăng nào tu hành không như ý ông, ông không còn
phát tâm nữa sao?
Ba
lần xin được xuất gia đều không toại nguyện, dù ông hết lòng tán thán
tam bảo bên ngoài: Phật, Pháp, Tăng. Lần sau cùng, ông đến với Ðức Phật
và bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn, từ lâu con đã nghe Thế Tôn thuyết pháp,
con đã suy nghĩ tường tận chín chắn. Sau đó, đem áp dụng cho bản thân,
áp dụng trong gia đình, con thấy có ích lợi thiết thực, tâm được khinh
an, gia đạo được yên vui. Cho nên con phát tâm xuất gia để tu hành rốt
ráo, cho đến giác ngộ và giải thoát, để tự lợi và lợi tha. Ngưỡng mong
Ðức Thế Tôn rủ lòng từ bi hứa khả. Lần đó, Ðức Phật chấp nhận. Sau này,
Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên trở thành vị đệ tử nghị luận bậc nhứt trong
tăng đoàn thời Phật.
Lời
tác bạch của Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên mang ý nghĩa sâu sắc trong nhà
Phật: Ngài đã nghe Ðức Phật thuyết giảng giáo lý, đã suy nghĩ một cách
chín chắn tường tận, mới đem áp dụng vào đời sống của Ngài và của gia
đình. Ðó chính là ba bước "văn, tư, tu" để phát triển trí tuệ bát nhã.
Văn có nghĩa là nghe, là học hỏi, là nghiên cứu. Tư có nghĩa là tư duy,
là suy nghĩ chân chánh. Tu có nghĩa là sửa đổi, là thực hành, là áp
dụng. Còn được gọi là "Tam Tuệ Học" trong Phật giáo. Ba lần đầu, Ngài
hướng lòng tôn kính đến tam bảo bên ngoài, nên chưa được chấp nhận.
Sau
cùng, Ngài biết "phản quan tự kỷ", hướng về "tam bảo tự tâm", biết
đường hướng tu hành, để phát sanh trí tuệ. Nghĩa là Phật Tử biết hướng
về bản tánh sáng suốt của tự tâm gọi là Phật, hướng về pháp môn vi diệu
của tự tâm gọi là Pháp, hướng về bản thể thanh tịnh của tự tâm gọi là
Tăng. Do đó Ngài được chấp nhận, bởi vì đạo Phật là đạo giác ngộ và giải
thoát, con người đến với đạo Phật bằng cửa trí tuệ, chứ không phải bằng
niềm tin như các tôn giáo khác. Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Tin
tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai". Ðó chính
là chánh tư duy vậy.
B. Thế nào là tư duy bất chánh?
- Ngược lại, sự suy nghĩ ích kỷ, lợi mình hại người gọi là tư duy bất
chánh. Người nào suy nghĩ đến chuyện tà thuật để mê hoặc lòng người, suy
nghĩ đến những phương cách sâu độc để hại người hại vật, suy nghĩ đến
mưu cơ để trả thù báo oán, suy nghĩ đến tài sắc danh vọng, đều gọi là tư
duy bất chánh. Người nào luôn luôn suy nghĩ đến chuyện lợi mình hại
người như vậy, chắc chắn cuộc sống không bình an, luôn luôn bất ổn, hại
người nên sợ người hại, gạt người nên sợ người gạt.
3. - CHÁNH NGỮ:
Trong
Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ
gìn lời nói. Lời nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi
cho mình cho người". Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Dù nói hàng
ngàn lời vô ích, không bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có ích lợi
làm cho tâm người nghe được an tịnh".
A. Thế nào là chánh ngữ?
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh. Nghĩa là con người nên nói lời thật
thà lương thiện, công bình ngay thẳng, có ích lợi chánh đáng. Chánh ngữ
là lời nói thành thật và sáng suốt; lời nói ngay thẳng hợp lý, hòa nhã,
rõ ràng và giản dị; lời nói ích lợi, dung hòa, khuyến tấn và duy nhất.
Chánh ngữ là lời nói hợp Chánh Pháp, có ích lợi, đem lại hòa bình, yên
vui cho mọi người mọi nơi. Người giữ gìn chánh ngữ là người dè dặt khẩu
nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự thực, không thiên
vị, không xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa.
Cổ
nhân có dạy: "Hãy uốn lưỡi bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần
thì khỏi nói luôn. Lúc đó gọi là ngộ đạo, bởi vì: "Ðạo bổn vô ngôn
thuyết", bởi vì: "Ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là đạo lý cao siêu, vốn
không thể nói, không có lời nào diễn đạt được. Khi còn nói lên được, đó
chỉ là phương tiện hướng dẫn mà thôi. Cho nên muốn kiến đạo, đừng chấp
lời nói, đừng chấp văn tự. Thí dụ như có người dùng ngón tay để chỉ mặt
trăng cho người khác thấy. Ngón tay chỉ là phương tiện. Mặt trăng mới là
mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng gọi là thấy đạo, kiến đạo. Cho
nên muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón tay thế này thế nọ.
Tục
ngữ có câu: "Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng
nhau". Trong xã hội hay gia đình, nếu mọi người đều thực hành hai câu
trên, xã hội sẽ an vui, gia đình sẽ hạnh phúc. Vợ chồng con cái trên
thuận dưới hòa, cộng đồng trên kính dưới nhường, cuộc đời tươi đẹp biết
là bao nhiêu. Một lời nói nói ra làm cho người nghe hoan hỷ, nụ cười
tươi tắn, tâm trí khinh an, đó gọi là chánh ngữ vậy.
B. Thế nào là tà ngữ?
- Ngược lại, lời nói bất chánh hay tà ngữ là lời nói không chánh đáng,
phi lý, tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người. Một lời nói ra có
khi làm người nghe phải xức dầu cù là, nhức óc nhói tim, có khi ngất xỉu
tắt thở luôn, đó là lời nói sâu độc, hiểm ác, đay nghiến, nguyền rủa,
nhiếc mắng, thô tục. Một lời nói ra có khi làm tan vỡ hạnh phúc gia đình
người khác, đó là lời nói đặt điều thêm bớt, thay trắng đổi đen, nước
lã khuấy nên hồ, lộng giả thành chơn, có nói không, không nói có.
Một
lời nói ra có khi làm người khác mang họa vào thân, đó là lời nói vu
khống cáo gian, vu oan giá họa cho người. Một lời nói ra có khi làm
người khác lầm lẫn, đó là lời nói không đúng sự thực, không ngay thẳng,
thiên vị, dua nịnh, xuyên tạc, ngụy biện, trau chuốt, với mục đích thủ
lợi. Một lời nói ra có khi làm người khác xung đột oán thù, thưa gởi
kiện tụng, đó là lời nói dối trá, gây chia rẽ, đâm bị thóc thọc bị gạo,
có di hại cho mọi người và muôn vật. Những người có nhiều tự ái, thường
khó lòng nhịn được khi nghe những lời nói trái ý, không thuận theo ý
mình, thường hay tranh cãi bằng mồm hoặc bằng thư rơi.
Có
những lời nói vô nghĩa, nhưng cũng có thể làm cho người khác bực mình,
tức giận, bất an. Chẳng hạn như có người nói mình ngu như con bò mà bày
đặt dạy đời. Lời nói đó thực ra vô nghĩa lý, bởi vì mình không ngu, mình
không phải là con bò, cho nên không cần phải quan tâm đến những lời nói
như vậy. Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa
là chúng ta chỉ nên quan tâm đến ý nghĩa, không nên chấp vào lời nói.
Ðược như vậy, chúng ta bớt nhiều phiền não trên thế gian này.
4. - CHÁNH NGHIỆP:
Con
người thường có ba nghiệp, đó là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Ở đây, chúng ta chỉ bàn về thân nghiệp. Còn khẩu nghiệp thuộc phần
chánh ngữ và ý nghiệp thuộc phần chánh niệm.
A. Thế nào là chánh nghiệp? -
Chánh nghiệp là nghề nghiệp và hành động chân chánh. Nghĩa là con người
nên chọn nghề nghiệp chân chánh, hành động một cách ngay thật, có ích
lợi chánh đáng cho mình và cho người. Chánh nghiệp có ích lợi giúp con
người mang lại bình an, hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người xung
quanh.
Người
giữ gìn chánh nghiệp là người dè dặt thân nghiệp, luôn luôn thận trọng,
giữ gìn mọi hành động, cử chỉ, cách cư xử của mình, để không làm thương
tổn đến quyền lợi, nghề nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc và tánh
mạng của mọi người. Người giữ gìn chánh nghiệp là người hành động theo
lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh phúc của mọi người và muôn
vật, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản của mọi người, không
trác táng, tận tâm với chức nghiệp, biết hy sinh để giải thoát khổ đau
cho mọi người.
Người
giữ gìn chánh nghiệp là người giữ gìn tam nghiệp được thanh tịnh. Kinh
sách có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật vãng tây phương".
Nghĩa là nếu biết giữ gìn tam nghiệp luôn luôn được thanh tịnh, chúng ta
cùng với chư Phật, hiện đời sống trong cảnh giới niết bàn, tự tại giải
thoát, không phiền não, chẳng khổ đau, không sợ địa ngục, chẳng cầu niết
bàn.
B. Thế nào là tà nghiệp?
- Ngược lại, tà nghiệp tức là hành vi hay động tác không chánh đáng,
phi lý bất lương, tổn hại mọi người. Ðó là các hành vi sát hại bạo tàn,
giết người hại vật coi như trò giải trí, thú vui tiêu khiển, vui thích
trên sự đau đớn của con người và của con thú, trộm cắp của cải, chiếm
đoạt tài sản, xúi giục kiện thưa, thưa kiện kiếm tiền, ăn chơi trụy lạc,
xa hoa trác táng, khuyến khích người khác xa hoa trác táng, thượng đội
hạ đạp, giẫm lên người khác để tiến thân, bất chấp thủ đoạn, sáng tác
thư rơi, đe dọa mạng sống, nặc danh khủng bố, tinh thần người khác.
5. - CHÁNH MẠNG:
Có
một vị thiền sư khi tuổi đã cao, vẫn cứ ngày ngày làm lụng như mọi
người khác, các đệ tử thấy vậy bèn đem giấu các dụng cụ làm việc của
thầy. Ngày đó, vị thiền sư không làm việc được, nên chẳng chịu ăn uống,
và dạy rằng: "Một ngày không làm là một ngày không ăn".
A. Thế nào là chánh mạng?
- Chánh mạng là mạng sống chân chánh. Nghĩa là con người cần sinh sống
một cách chánh đáng, có đời sống lương thiện, ngay thật, trong sạch,
không bạo tàn, không hèn mạt. Chánh mạng có ích lợi giúp con người có
cuộc sống bình đẳng, tương kính, không bị rẻ khinh. Người giữ gìn chánh
mạng là người sống một cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình, lợi người, không
ăn bám ai, cũng chẳng ăn không ngồi rồi. Người theo đúng chánh mạng là
người sinh sống theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh phúc của
mọi người, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản, tận lực làm
việc, không tổn hại mọi người và muôn vật, sinh sống với tài năng chân
chánh, không giả dối lừa gạt mọi người, sinh sống thanh cao không luồn
cúi, không thượng đội hạ đạp, sinh sống theo chánh giáo, không mê tín dị
đoan.
B. Thế nào là tà mạng?
- Ngược lại, tà mạng là sinh sống bất lương, gian tham, không chánh
đáng, phi lý, phạm pháp, có tổn hại trực tiếp hay gián tiếp đến mọi
người, làm tổn hại chúng sanh, giết thú lột da, cưa ngà xẻ thịt, moi óc
bẻ sừng, vặt lông làm đồ trang sức, may áo may quần, cúng trăng cúng
sao, tiên đoán vận mệnh, xem quẻ bói xăm, coi tuổi tình duyên, tương lai
gia đạo, ăn gian nói dối, lường gạt mọi người, giao dịch gạt gẫm, sáng
chế vũ khí, giết người hại vật, chế đồ giả mạo. Quan niệm một ngày ăn
cướp bằng ba năm làm, sống theo lối nước đục thả câu, ngư ông hưởng lợi,
đó là tà mạng.
6. - CHÁNH TINH TẤN:
Trong
Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy: "Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có
việc gì khó. Ví như nước chảy mãi, đá cũng phải mòn". Trong Kinh Tứ Thập
Nhị Chương, Ðức Phật có dạy: "Người học đạo phải nên kiên tâm, trì chí,
tinh tấn, dũng mãnh, không sợ cảnh khổ trước mắt, phá diệt tà tâm, đạt
thành đạo quả".
A. Thế nào là chánh tinh tấn?
- Chánh tinh tấn là sự siêng năng chân chánh. Nghĩa là con người siêng
năng làm những việc có ích lợi cho mình và cho người. Chánh tinh tấn có
ích lợi giúp con người cải tạo thân tâm ngày một thanh tịnh, tốt đẹp
hơn, cuộc đời có ý nghĩa hơn. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ
cũng phản quan tự kỷ, quay lại xét mình, siêng năng chuyển hóa tâm trí,
cải đổi tánh tình.
Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác.Sách
có câu: "Có công mài sắt có ngày nên kim", nói lên sự kiên tâm bền chí,
nhẫn nại phi thường, trải qua thời gian năm tháng, không sờn lòng,
không khuất phục, để đạt cho bằng đượChúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ
ý. Thị chư Phật giáo". Nghĩa là: Không bao giờ nên làm các điều ác, các
điều bất thiện, dù là nhỏ nhặt. Luôn luôn tinh tấn làm tất cả các điều
thiện, dù là điều thiện rất nhỏ. Tự thanh tịnh tâm ý của chính mình. Ðó
là lời dạy của thập phương tam thế chư Phật.
Người theo đúng chánh tinh
tấn bao giờ cũng siêng năng sám hối, trừ bỏ những lỗi lầm tội ác đã
sinh, siêng năng tu tập các pháp lành, ngăn ngừa tội ác chưa sinh, siêng
năng làm việc thiện để tạo thêm phước, phát triển việc lành, siêng năng
tu tâm dưỡng tánh, việc thiện chưa sinh làm cho phát sinh, dù trong bất
cứ hoàn cảnh nào cũng vậy, không hề đổi thay, không chút chán chường có
mục đích cao cả của mình. Người tu theo hạnh tinh tấn của Bồ Tát Ðại
Thế Chí, làm các việc thiện, cứu người giúp đời, không biết mệt mỏi,
không hề nản lòng, không màng tính toán, không chút so đo, không chịu
ngừng nghỉ, mặc dù đang gặp nghịch cảnh, đang mắc khổ nạn, đang gặp oán
thù, mặc dù có gặp người lấy oán báo ân, cũng vẫn bình thản. Ðó là chánh
tinh tấn vậy.
B. Thế nào là tinh tấn bất chánh?
- Ngược lại, có rất nhiều người siêng năng làm những việc bất chánh. Ðó
là những người chuyên sát nhơn hại vật, gian xảo trộm cắp. Có những
người siêng năng trong các việc dối trá hiểm độc, sáng tác thư rơi, dua
nịnh xuyên tạc, rượu chè cờ bạc, xa hoa phung phí, phỉ báng mọi người.
Cũng có những người siêng năng bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, soi
mói đời tư, viết thư nặc danh, ngụy tạo chứng cớ, thưa gởi kiện tụng,
làm khổ chúng sanh.
7. - CHÁNH NIỆM:
Trong
Kinh Ðại Tập, Ðức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm,
tâm không loạn động, dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành
quả vô thượng bồ đề". Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Không hạnh
phúc nào có thể so sánh với sự yên tĩnh của tâm trí".
A. Thế nào là chánh niệm?
- Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh. Nghĩa là con người có những ý
niệm chánh đáng, những đạo lý giác ngộ và giải thoát. Chánh niệm có ích
lợi giúp con người sống trong an ổn, yên vui, không tạp niệm, ngày ăn
ngon, tối ngủ yên. Người giữ gìn chánh niệm là người dè dặt với ý
nghiệp, luôn luôn nhớ nghĩ tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân đất
nước, ân mọi người, nhớ nghĩ lỗi lầm để sửa đổi. Người giữ gìn chánh
niệm là người sống trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc. Ðể giúp giữ gìn
chánh niệm, Ðức Phật có dạy bốn phương pháp tập trung tư tưởng như sau:
quán thân bất tịnh, quán thọ thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô
ngã. Các pháp quán tưởng này được gọi là "Tứ niệm xứ". Tứ nghĩa là bốn.
Niệm nghĩa là thường nhớ nghĩ. Xứ nghĩa là nơi chốn.
a) Quán thân bất tịnh:
Nghĩa là quán tưởng thân mình là tập hợp những thứ bất tịnh, không
trong sạch, nhơ nhớp, được bọc ngoài bởi lớp da cũng chẳng mấy gì sạch
sẽ cho lắm. Khi mạnh khỏe thì còn tạm tạm. Khi ốm đau, tai nạn, bệnh
hoạn, già nua, thân mình nhơ nhớp, máu mủ tanh hôi, ghẻ chốc gớm ghiếc,
da dẻ nhăn nhúm, đến lúc tắt thở, sình chương hôi thúi, không ai chịu
nổi! Món ăn dù ngon, đưa vô miệng rồi, lỡ rớt ra ngoài, không dám ăn
lại!
b) Quán thọ thị khổ:
Nghĩa là quán tưởng sự cảm thọ, thọ nhận là khổ. Do tâm tham lam, con
người thọ nhận đủ thứ vật chất của cải để vinh thân phì gia, không cần
biết của thọ nhận chính hay tà, bo bo giữ gìn, đến lúc chết, sinh lòng
tiếc của, nhắm mắt không yên. Do tâm sân hận, con người thọ nhận đủ thứ
lời nói khó nghe, dù vô nghĩa, để bực dọc, tức tối, bất an, sinh lòng
thù oán. Do tâm si mê, con người thọ nhận những tư tưởng mười năm báo
thù không muộn, do điều gì bất như ý, chạm chút tự ái, cũng hăm he thưa
kiện, nhứt định trả thù, để rồi gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho người,
dù thân hay thù. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì khổ nhiều, chấp nhiều
thì mệt nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ thì thư thái. Chuyện rất
đơn giản, thực hành không dễ dàng, nhưng không phải bất khả.
c) Quán tâm vô thường: Nghĩa là quán tưởng
cái tâm nhỏ hẹp của mình luôn luôn thay đổi, mới nghĩ thế này liền nghĩ
thế khác, lúc thương yêu đắm đuối lúc thù hận ngập tràn, lúc thân lúc
thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc ghét, lúc hiền thiện lúc gian tà.
Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần bên ngoài, kinh sách gọi
là tâm phan duyên. Cảnh trần bên ngoài thuận ý, vừa tai thì vui thích.
Cảnh trần bên ngoài nghịch ý, chói tai thì tức tối. Nếu chỉ chạy theo sự
sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, con người tạo tác không biết
bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân trong sinh tử không
biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!
Trong
kinh sách có câu: "Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền". Nghĩa là khi nào tâm
của chúng ta không còn dính với cảnh trần nữa, thản nhiên trước sự
thịnh suy, thăng trầm của đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng
chê, vượt qua được sóng gió của cuộc đời, tức nhiên tâm của chúng ta sẽ
được khinh an, tự tại, niết bàn và thiền định rồi đó vậy.
d) Quán pháp vô ngã:
Nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian này đều không có bản thể
nhứt định, gọi là vô ngã. Các pháp, là tất cả sự sự vật vật trên cuộc
đời, không có cái gì cố định. Tất cả chỉ là một dòng chuyển biến không
ngừng. Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi cũng đổi thay, rồi cũng
qua mau. Ðừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp của thế gian. Chẳng hạn
như có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", hoặc "Sau cơn mưa trời
lại sáng".
Trong
Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Chư pháp tùng nhân duyên sanh. Chư pháp
tùng nhân duyên diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật trên đời tùy theo nhân
duyên mà sinh ra, cũng tùy theo nhân duyên mà diệt đi. Không có cái gì,
vật gì có thực tướng, không có cái gì, vật gì tồn tại vĩnh viễn. Người
ta chửi mình do mình gây nghiệp bất thiện cảm với người. Người ta chửi
mãi mõi miệng thì cũng ngưng thôi, tức giận làm chi cho mệt! Ðừng đưa
cái bản ngã của mình, tức là cái tôi, cái ta, tây phương gọi là "EGO",
ra hứng những ngọn lửa của thế gian, thì mình đâu có bị đốt cháy, đâu có
bị nhiệt não, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không ngon, tối ngủ
chẳng yên. Ngọn lửa không thể đốt hư không được, sẽ tự dập tắt thôi. Vô
ngã đơn giản là như vậy đó!
B. Thế nào là tà niệm, tạp niệm, vọng niệm?
- Ngược lại, tà niệm là những ý niệm không chánh đáng, vọng niệm là
những ý niệm hư dối, tạp niệm là những ý niệm lung tung linh tinh lang
tang. Những người luôn luôn nhớ nghĩ lỗi người để phê bình chỉ trích,
nhớ nghĩ oán thù để phục hận trả thù, nhớ nghĩ ngũ dục: tiền tài, nhan
sắc, danh vọng, ẩm thực, thùy miên, luôn nhớ nghĩ đến những thành tích
xấu xa, gian giảo, để tự hào tự đắc, đó gọi là tà niệm, tạp niệm hay
vọng niệm.
Chư
Tổ có dạy: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là: Bên trong, chúng ta cố gắng khắc phục tâm niệm lăng xăng lộn
xộn, giữ gìn chánh niệm, chăn giữ ý nghiệp, đó mới là công phu tu tập
đúng Chánh Pháp. Bên ngoài, chúng ta giữ gìn chánh ngữ, canh chừng khẩu
nghiệp, không tranh cãi, không hơn thua, đó là đức độ của người tu theo
đạo Phật. Cho dù có bị phỉ báng, có gặp nghịch cảnh, cũng vẫn bình tĩnh
thản nhiên, ngoài mặt cũng như trong lòng, không khởi lên bất cứ tâm
niệm gì cả.
8. - CHÁNH ĐỊNH:
Muốn
được cuộc sống an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải khắc phục tâm ý của
chính mình. Khắc phục tâm ý và an trụ tâm ý là mục đích chính yếu của
người tu theo đạo Phật. Chế ngự được, khắc phục được tâm viên ý mã, tức
là tâm như con vượn, ý như con ngựa nhảy nhót lung tung, chúng ta mới
đạt được chánh định, đó là cảnh giới niết bàn, an nhiên tự tại, không
khổ đau, chẳng phiền não.
A. Thế nào là chánh định?
- Chánh định là sự thiền định chân chánh. Nghĩa là con người tập trung
tư tưởng vào một vấn đề chánh đáng, đúng với chân lý, hợp lẽ phải. Người
đạt được chánh định là người bình tĩnh, thản nhiên trước bát phong của
cuộc đời. Chánh định có ích lợi giúp con người phát triển trí tuệ, mau
tiến đến giác ngộ và giải thoát. Tâm trí của con người thường xuyên lăng
xăng lộn xộn, nhớ nghĩ lung tung, linh tinh lang tang, không có dừng
nghỉ, từ đông sang tây, từ cổ chí kim, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, từ
thế giới năm châu đến phụ nữ nhi đồng, từ quốc gia đại sự đến hang cùng
ngõ hẹp, hết chuyện gia đình đến chuyện hàng xóm, chuyện xưa chuyện nay,
thương ghét tốt xấu, thị phi phải quấy. Tất cả những chuyện như vậy làm
cho tâm của chúng ta luôn luôn loạn động. Tâm loạn động thì trí bất an.
Ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ðể giúp con người đạt được chánh
định, Ðức Phật dạy các pháp quán tưởng sau đây:
a) Quán sổ tức:
Nghĩa là quán tưởng bằng cách đếm hơi thở ra hơi thở vào, để đối trị
tâm loạn động. Ðến khi thuần thục, chỉ cần theo dõi hơi thở, không cần
đếm số như lúc mới bắt đầu, đó gọi là tùy tức quán. Sách có câu: "Thở
vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười".
b) Quán bất tịnh:
Nghĩa là quán tưởng thân mình là một tập hợp những thứ bất tịnh, không
có gì đáng quan trọng, khi chết thân mình chỉ còn là một cái thây ma
không ai dám đến gần, kể cả những người thân thiết nhất trên đời, để đối
trị tâm tham dục.
c) Quán từ bi:
Nghĩa là quán tưởng mọi người đều bình đẳng, đều có Phật Tánh như nhau,
đều đáng thương như nhau, thương người như thể thương thân, để diệt trừ
tâm sân hận, thù hằn, oán hờn, ganh ghét, ích kỷ, đố kỵ. Không thể chỉ
vì một chút tự ái nhỏ nhặt, một chút mặt mũi, danh dự nào đó, có thể tạo
nghiệp oán thù, kiện tụng thưa gởi. Cổ nhân có dạy: "Chuyện gì mình
không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người khác",
cho dù với mục đích trả thù, trừng trị kẻ khác, vì bất cứ lý do gì!
d) Quán nhân duyên:
Nghĩa là quán tưởng tất cả muôn pháp đều do nhân duyên sinh ra, cho nên
giả hợp, không bền vững, không tồn tại vĩnh viễn, để đoạn trừ si mê,
chấp ngã và chấp pháp. Muốn thực hành pháp quán này, cần thấu triệt và
tin sâu "Lý Nhân Quả" hay "Lý Nhân Duyên".
e) Quán giới phân biệt:
Nghĩa là quán tưởng lục căn tiếp xúc với lục trần sinh ra lục thức, tất
cả đều giả tạm, không thực. Lục căn, là sáu cơ quan của thân, đó là:
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý, tiếp xúc với lục trần, là sáu cảnh trên
trần đời, bao gồm: sắc tướng, âm thinh, mùi hương, mùi vị, cảm xúc, ký
ức. Sự tiếp xúc đó gây nên những cảm giác, những ấn tượng, gọi là lục
thức. Trong kinh sách, lục căn, lục thức và lục trần gọi chung là thập
bát giới.
Thí
dụ như mắt trông thấy sắc là viên kim cương, bèn sinh lòng ham thích.
Sự ham thích đó chỉ giả tạm, không nên theo. Bây giờ thấy thích, về sau
có thể không còn thích nữa. Nhưng nếu theo nó, thì chúng ta phải lo
tranh giành, lo kiếm tiền, làm việc quần quật, đầu tắt mặt tối, từ sáng
sớm đến khuya lơ, để mua sắm cho bằng được, cho nên cực khổ tấm thân,
mệt nhọc trí óc. Thí dụ như tai nghe thấy tiếng khen thì khoái chí,
thích ý, tối ngủ không được, cứ nhớ tới hoài. Nếu tai nghe thấy tiếng
chê tiếng chửi, thì đâm ra bực dọc tức tối, càng khó ngủ hơn, cho nên
tấm thân cực khổ trăm bề. Trong kinh sách, có bài kệ như sau:
Mắt trông thấy sắc rồi thôi, (không dính, thôi được thì tốt) Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không. (không mắc, lơ được thì hay) Trơ trơ lẳng lặng cõi lòng, (bình thản, tâm được khinh an) Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân. (giải thoát, khỏi phiền não và khổ đau)
B. Thế nào là tà định hay tà thiền?
- Ngược lại, tà định hay tà thiền là sự bình tĩnh trong việc làm tổn
hại đến mọi người, lạnh lùng tàn nhẫn khi thấy người khốn khổ đớn đau,
không chút xót thương, không hề tình cảm. Những người tu tập thiền định
để luyện trường sanh bất tử, thiền định để dối gạt người, đều không phải
là chánh định.
Tóm
lại, Bát Chánh Ðạo là pháp môn rất thiết yếu, rất thực tế, rất thông
dụng cho bất cứ ai, không cứ phải là Phật Tử, trên thế gian này, muốn
xây dựng một cuộc sống có ý nghĩa, muốn sống trong an lạc và hạnh phúc.
Bát chánh đạo giúp con người cải thiện tự thân. Con người do mê mờ nên
hành vi bất chánh, ngôn ngữ đảo điên, ý niệm tà vạy, chạy theo dục vọng,
sống theo tà đạo, làm việc bất lương. Trái lại, nếu con người biết tu
theo bát chánh đạo thì sẽ chuyển hóa được những sự bất chánh nói trên,
kiến tạo được một đời sống chân chánh, ích lợi, an lạc và hạnh phúc.
Bát
chánh đạo giúp con người cải tạo hoàn cảnh. Hoàn cảnh là phản ánh của
tự tâm. Tự tâm bình thản thì hoàn cảnh an vui. Tự tâm rối loạn thì hoàn
cảnh bất an. Trong kinh sách, tự tâm gọi là chánh báo, hoàn cảnh gọi là y
báo. Chánh báo thế nào thì y báo thế ấy. Người có tâm lương thiện thì
sống trong cảnh hiền lành. Người có tâm gian ác thì luôn luôn sống trong
cảnh âu lo căng thẳng, thấp thỏm phập phồng. Trên thế gian này, sở dĩ
có những hoàn cảnh khổ đau, bởi vì con người không biết sống theo bát
chánh đạo. Nếu mọi người đều biết sống theo bát chánh đạo, thì thế gian
này chính là thiên đàng, là cực lạc. Ðừng đứng núi này trông qua núi nọ.
Như vậy chỉ khổ thân và khổ tâm mà thôi. Tùy theo chỗ ở thường an lạc.
Sách có câu:
Tâm buồn cảnh được vui sao Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an.
Chư
Tổ có dạy: "Tu mà không học là tu mù. Học mà không tu là đãy sách".
Nghĩa là người phát tâm thực hành việc tu sửa thân tâm mình, mà không
chịu học giáo lý, không tìm hiểu Chánh Pháp, ai nói gì cũng nghe, ai bảo
gì cũng tin, đúng là mù quáng. Còn người chỉ biết lo nghiên cứu, học
rộng hiểu nhiều, không lo tu tâm dưỡng tánh, không chịu quán sát tự tâm,
chỉ lo phê bình chỉ trích người khác, đúng là cái tủ, cái đãy, hay cái
bị đựng sách mà thôi, chẳng ích lợi gì cả. Thí dụ như có người suốt ngày
đếm tiền ở nhà băng của chủ, có người suốt ngày chăn trâu ngoài đồng
cho chủ, chiều về đến nhà, tiền không có, trâu cũng không!
Trong
Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Tuy có học rộng hiểu nhiều mà
không tu hành, cũng đồng như người không học không hiểu. Chẳng khác nào
người nói ăn mà không ăn, trọn không thể nào no được". Theo quan điểm
của Phật giáo, không cần phải thờ phượng Ðức Phật Thích Ca, hay bất cứ
vị Phật nào, vị Bồ Tát nào, chỉ cần sống đúng theo tinh thần bát chánh
đạo, bất cứ người nào cũng đều được an lạc và hạnh phúc, cao hơn nữa,
đều được giác ngộ và giải thoát. Bằng như ngược lại, lập bàn thờ Phật
tại gia, đi chùa lễ lạy, mà không sống đúng theo tinh thần bát chánh
đạo, dù là Phật tử tại gia hay xuất gia, cũng chẳng có ích lợi gì! Ðó
mới thực là chí công vô tư, mới thực là chánh đạo vậy.
TU TRONG ĐỜI SỐNG HÀNG NGÀY
Có người
tuyên truyền rằng các sư ngoại quốc, đọc thần chú rất linh thiêng, có thể giúp
mình rửa sạch nghiệp, có thể giúp trị bệnh ung thư, dù ở bất cứ thời kỳ nào,
nên rước thỉnh về nhà để bát cúng dường. Lại có người quảng cáo là có thể
truyền nhân điện chữa lành bệnh ung thư mà bác sĩ từ chối, nhờ hào quang của
Phật. Các chuyện này có thật không, có đúng giáo lý đạo Phật không, hay chỉ là mê
tín dị đoan, lường gạt?
Đức
Phật có dạy:
Dù cho
lên non
xuống
biển vào hang
nghiệp
báo đã mang
vẫn theo
con người
như hình
với bóng
không ai
có thể
tránh
được thoát được.
Con người
thường thích chuyện linh thiêng huyền bí, nhất là những chuyện giúp mình chạy
tội, tránh quả báo xấu của nghiệp nhân xấu đã gây nên, đã tạo ra trong đời. Nếu
các chuyện này có thật, các sư ngoại quốc đó có thần lực ghê gớm, đâu có phải
sống kiếp lưu vong, lang thang kiếm sống kiểu phi Phật pháp như thế đó!
Phật pháp
là phương thuốc mầu nhiệm chữa trị tâm bệnh, chứ không chữa trị thân bệnh. Khi
có thân bệnh, con người cần đến thuốc men, tây y hoặc đông y, cần đến bệnh
viện, dưỡng đường để được bác sĩ, y tá, chuyên viên y tế chăm sóc. Khi có tâm
bệnh, phiền não khổ đau, các bác sĩ đông hay tây y cũng phải tìm đến
Phật pháp để chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau
thành an lạc hạnh phúc.
Khi tâm
được bình yên, cuộc sống thoải mái, sức khỏe có thể tăng thêm, các bệnh có thể
sớm chữa khỏi.
Khi hết
trần duyên, con người đã trải qua sanh, già, bệnh, thì ai cũng phải chết. Không
thấu hiểu luật vô thường, mong kéo dài mạng sống khi không thể, con người dễ bị
những tà sư, ma giáo lường gạt, tiền mất tật mang.
Tóm lại,
trong cuộc sống, chúng ta cố gắng tu tâm dưỡng tánh, sống hạnh phúc,
chết bình an. Thế thôi!
- Thường
ngày, khi nói năng, nên cẩn trọng lời nói và cách nói, tránh làm người khác tổn
thương danh dự, va chạm tự ái cá nhân, không nên làm người nghe khó chịu, dễ
sanh giận hờn, dễ gây oán thù. Như vậy gọi là tu đó.
- Bình
thường, người đời nói năng với cấp trên, bề trên, khá cẩn thận và lễ độ. Nhưng
với người dưới quyền, người đời thường hay cao giọng, lên giọng kẻ cả, không
giữ gìn lời nói, không để ý cảm giác của người nghe, cho nên ít người ưa thích
cấp trên, thường tìm cách xa lánh, chỉ có kẻ dua nịnh đến gần. Nếu mình có
trách nhiệm, trong đời hay trong đạo, mà giữ được sự hòa nhã, tương kính, trong
lời nói và cách nói, thì tất được người chung quanh cảm mến, thân cận, ưa thích
gần gũi. Như vậy gọi là tu đó. ■
BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG
THA THỨ.
TK* Thích Chân Tuệ
Một thiền sinh hỏi:
“Thưa sư phụ, con đau khổ vì cha mẹ
tàn nhẫn, người yêu con ruồng bỏ, anh em phản bội, bạn bè phá hoại… Con phải
làm sao để hết oán hờn và thù ghét đây?”
Vị sư phụ đáp:
“Con ngồi xuống tịnh tâm, tha thứ hết
cho họ”.
Vài hôm sau, người đệ tử trở lại:
“Con đã học được tha thứ cho họ sư phụ ạ. Thật nhẹ cả người! Coi như
xong!”
Sư phụ đáp:
“Chưa xong, con về tịnh tâm, mở hết
lòng ra thương yêu họ”.
Người đệ tử gải đầu:
“Tha thứ thôi cũng đã quá khó, lại
phải thương yêu họ thì… Thôi được, con sẽ làm”
Một tuần sau, người đệ tử trở lại,
mặt vui vẻ hẳn, khoe với sư phụ là đã làm được việc thương những người mà
trước đây đã từng đối xử tệ bạc với mình.
Sư phụ gật gù bảo:
“Tốt! Bây giờ con về tịnh tâm, ghi ơn
họ. Nếu không có họ đóng những vai trò đó thì con đâu có cơ hội tiến hóa tâm
linh như vậy”.
Người đệ tử trở lại, lần nầy tin
tưởng rằng mình đã học xong bài vở.
Anh tuyên bố:
“Con đã học được và ghi ơn hết mọi
người đã cho con cơ hội học được sự tha thứ!”
Sư phụ cười:
“Vậy thì con về tịnh tâm lại đi nhé.
Họ đã đóng đúng vai trò của họ chứ họ có lầm lỗi gì mà con tha thứ hay không
tha thứ.”
SUY NGẪM:
Câu chuyện thật ý nghĩa, chúng ta có
thể nhận ra rằng tha thứ giúp cho chúng ta đóng lại những đau thương, bất công
trong quá khứ và nhìn nhận các sự việc rõ ràng để buông xuống.
Tha thứ giúp cho chúng ta mở rộng
lòng yêu thương, giúp cho ta nhìn lại chính mình đã làm hao phí năng lượng
khi đánh mất lòng khoan dung.
Tha thứ chính là một tiến trình tiến
hóa tích cực của nội tâm, khi chúng ta thật sự đối diện và buông xuống những
đau thương, mất mát, bất công… chúng ta sẽ không còn mang lòng oán hận, giận
dữ…
từ đó giúp cho chúng ta không nuôi
dưỡng những niềm cay đắng, phẫn uất, trả thù…
để rồi tạo thêm những điều bất thiện
ở hiện tại và tương lai lại phải nhận sự khổ đau.
Qua đó, chúng ta nhận rõ tha thứ giúp
cho chúng ta sống an ổn hiện tại và tương lai.
Vì vậy, có thể nói rằng “tha thứ cho
người khác chính là tha thứ cho chính mình”,
vì khi chúng ta buông bỏ lòng thù
hận, sẽ giúp cho tâm mình luôn bình an.
Tâm bình an sẽ là chất liệu để tạo
dựng nên lòng yêu thương từ bi cho mình và cho tất cả.
Đọc và suy ngẫm câu chuyện một lần
nữa, chúng ta thấy rõ như một trình tự khi bạn biết tha thứ , bạn sẽ có lại
tình thương với những đối tượng đã gây cho mình đau khổ mà bấy lâu mình đánh
mất vì thiếu lòng khoan dung , hiện khởi Tâm Từ Bi rộng lớn, nhớ ơn tất cả đã
cho chúng ta sự thành tựu này và chợt nhận ra rằng “vạn pháp vốn bình đẳng”.
Trên bước đường tu tập của người con
Phật, chúng ta phải cảm ơn những bậc thiện hữu tri thức đã đưa đến cho mình
nghịch duyên để chúng ta có cơ hội nâng cao đời sống tâm linh của chính mình.
Nghịch tăng thượng duyên là vậy!
Thật vậy, nếu lúc nào cũng thuận duyên,
cũng đều được quí mến thì ta dễ dàng bị ru ngủ trong niềm tự hào, hãnh diện ,
ta đang biến mình thành nô lệ cho sự cống cao ngã mạn… tự đánh mất chính mình
lúc nào không hay.
Vì vậy, vị Sư đã dạy người học trò
của mình phải biết ghi ơn những người đã đem đến cho mình những phiền não,
oan uổng…. để chúng ta có cơ hội nhìn lại chính mình, thực hành và chuyển hóa
nội tâm, để nhận chân sự thật “chẳng có ai là người tha thứ và được tha thứ
cả!”
Với tôi, việc học cách tha thứ và
hành theo những lời dạy của Chư Phật, Chư Tổ không phải đơn giản và dễ dàng
nhưng cũng không phải là quá khó nếu mình muốn và tôi đã bắt đầu cho những sự
việc nhỏ nhất từ trong cuộc sống của chính mình với mọi người xung quanh…để
có được sự bình an hạnh phúc chân thật!
Cổ Đức có câu này:
Càng buông bỏ dưới chân này.Ấy là chỗ
đứng càng ngày càng cao.
Tha thứ hay không tha thứ là lối suy nghĩ nhị biên.
Con người thường sống trong thế giới nhị biên nên thường phiền não và
khổ đau.
Thế giới nhị biên là sự suy nghĩ: thị/phi, đúng/sai, phải/quấy,
tốt/xấu, trắng/đen.
Người nào đạt được "thế giới bất nhị" hay hiểu được và hành
được "pháp môn bất nhị"
người đó đạt an lạc và hạnh phúc, xa hơn, người đó đạt được "giác
ngộ và giải thoát".
|
SỐNG HẠNH PHÚC CHẾT BÌNH AN
TK Thích Chân Tuệ
Xưa kia, khi còn ở trong nước, đi ngang qua
một địa phương, có người tự hỏi tại sao có quá nhiều nhà thờ,
khoảng vài cây số lại có một nhà thờ trong
khi dân chúng nghèo khổ?
Bây giờ thì chùa chiền cũng mọc lên rất
nhiều, không kém gì các nhà thờ xưa kia, mà có vẻ đồ sộ hơn,
còn dân chúng nghèo thì vẫn nghèo.
Cớ sao các vị tu sĩ không nhớ lại là khi đi
tu, trong tâm chỉ xin Đức Chúa cho được hằng ngày đủ dùng, Đức Phật cũng dạy
con người phải biết tri túc để sống đời an vui hạnh phúc.
Tri túc chi nhơn, tuy ngọa địa thượng, du vi
an lạc.
Nghĩa là: Người nào biết đủ, tuy nằm trên
đất, cũng thấy yên vui.
Khi đủ sống rồi thì người tu phải làm gì để
giúp đỡ người nghèo khổ,
người cầu học chánh pháp, người muốn giác ngộ
và giải thoát.
Như thế mới thể hiện được lời dạy của các
Đấng Tối Cao về lòng bác ái, tâm từ bi, thương người như thể thương thân.
Ngày xưa Đức Phật, đã từ bỏ ngôi báu, cung
vàng điện ngọc, với một bát,
một cà sa, đi từng nhà này qua nhà khác để
khất thực: «Nhất bát thiên gia phạn. Cô thân vạn lý du»
(Một bát ngàn nhà xin cơm. Đơn thân muôn dặm
độc hành).
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đồng thời Ngài cũng bố thí pháp để cứu độ chúng sanh.
Đây chính là điểm quan trọng nhất mà các tu
sĩ nhất định nên làm, phải làm.
Hình ảnh Đức Phật đi khất thực như thế đã cho
chúng ta bài pháp thâm thúy nơi thân giáo của Ngài. Vài người chưa kịp hiểu ý nghĩa cao thượng về
pháp khất thực đã vội có tư tưởng và lời nói không hay.
Mỗi tu sĩ Phật giáo, nếu có cái nhìn sâu sắc,
thì chính mỗi vị là một ngôi chùa di động vì trong họ có đủ Tam bảo Phật, Pháp, Tăng.
Phật chính là tâm sáng suốt.
Pháp chính là tâm chân chánh.
Tăng chính là tâm thanh tịnh.
Ba tâm đó nói chung mọi người đều có - không
phân biệt tôn giáo - người tu sĩ cũng như người cư sĩ đều có.
Họ chỉ cần tu tập, xây dựng vững chắc ngôi
chùa trong bản thân thì ngôi chùa bên ngoài cũng có cơ hội hình thành. Nơi đâu cũng là đạo tràng, cũng là thiên
đàng, cũng là niết bàn.
Ngôi chùa bên ngoài chỉ là phương tiện để
hoằng pháp, chứ không phải là cứu cánh của người tu.
Người tu - dù là tu sĩ hay cư sĩ - đi đến
chùa là để học hiểu chánh pháp,
đặng áp dụng trong đời sống thức tế hàng
ngày, chứ không phải để cầu nguyện suông được vãng
sanh cực lạc, mà chẳng tìm học và áp dụng những điều đức
Phật dạy.
Do đó, người tu sĩ nhận của cúng dường, bố
thí từ nơi bá tánh,
phải luôn luôn nhớ bổn phận tự tu, tự độ
chính bản thân
và giúp mọi người biết cách tu đúng chánh
pháp, gọi là độ người, độ tha nhân.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Người xưa có nói tu thân rồi mới tề gia.
Một tu sĩ tự độ rồi mới độ tha, phải là một
vị thầy sáng suốt, chân chánh, thanh tịnh, phải là một vị minh sư, mới có thể
đem đạo vào đời, giúp đời giảm thiểu phiền não khổ đau, gieo tình thương, an
lạc, hạnh phúc vào vườn tâm mọi giới: «Minh sư hưng đạo».
Tu sĩ còn là người lèo lái con thuyền bát
nhã, cứu người thoát khổ, độ người thoát khỏi trầm luân, đưa đến bờ giác!
Người tu - tại gia hay xuất gia - cần nắm
vững chánh pháp, để tự độ thân và độ tha nhân, không lầm tà pháp, không chọn tà sư và không
lạc vào tà đạo.
Tu sĩ thời nay vẫn còn trầm luân trong biển
danh lợi, đem đời vào đạo, đem văn nghệ vào sân chùa,
đem hình ảnh lố lăng y áo sặc sở, ghế ngự như
ngai vàng vào ngay chánh điện.
Tu sĩ thời nay không lo nghiên tầm học hiểu
chánh pháp, để giảng giải thuyết pháp,
hay viết bài để truyền bá những lời dạy thực
tế của chư Phật, chư Tổ.
Họ chỉ trau chuốt giọng đọc, giọng tán tụng,
cho du dương, trầm bổng,
ê ê a a, lóc cóc leng cheng, tùng tùng xèng
xèng,
để hát hò như ca sĩ, ngay nơi chánh điện. Một lời giảng dạy chánh pháp không nói nổi,
nhưng tu sĩ thời nay thao thao bất tuyệt khi
cầm micro quảng bá quyên tiền xây thêm chùa lớn, xây phòng ở nguy nga cho vị trụ trì.
Tệ hơn nữa các tu sĩ thời nay còn dám gạt gẫm
bá tánh qua các tà pháp mê tín dị đoan
như: chai nước trì chú trị bá bệnh, lạy tượng
Phật ngọc cầu gì được nấy,
tổ chức trai đàn bạt độ cứu hộ thai nhi, vãng
sanh đủ loại cô hồn, vớt vong trên sông trên biển như vớt bèo.
Tu sĩ thời nay còn dám mang các bộ mặt ma,
các mặt nạ, các nick name,
xuất hiện trên các diễn đàn xỉa xói, dè bĩu,
mạ lỵ, phỉ báng người khác,
dù người đó đang cố gắng truyền bá những điều
hay, lẽ phải, những danh ngôn tư tưởng đẹp, những lời dạy tu hành trong nhà Phật.
Nếu một tu sĩ không lo tu tập mà chỉ đem lòng nghĩ đến chùa to, mơ tưởng tượng lớn, chê bai chùa nhỏ,
Nếu một tu sĩ không lo tu tập mà chỉ đem lòng nghĩ đến chùa to, mơ tưởng tượng lớn, chê bai chùa nhỏ,
xa rời tâm bồ đề ban đầu, chìm đắm trong dục
lạc, tham vọng.
Tu sĩ thời nay giảng dạy điều này, nhưng thực
hành một điều khác, thân giáo không đi đôi với khẩu giáo.
Tu sĩ thời nay thích tranh danh đoạt lợi,
thích ngồi ghế lãnh đạo, ăn trên ngồi trước, mâm cao cổ đầy, kẻ hầu người hạ.
Như thế chẳng hóa ra lãng phí cả cuộc đời
xuất gia tu hành hay sao?
Tu hành đâu tính tuổi già tuổi trẻ, đâu đếm
mấy hủ tương chao để tranh hơn thua, tranh địa vị, chức vụ, ghế ngồi cao thấp.
Tu hành cốt tủy nơi tuệ giác. Đức Phật ngày
xưa giác ngộ ngay cội bồ đề năm 35 tuổi.
Các vị tu sĩ khác dù già nua cũng chẳng giác
ngộ, bỏ mạng nơi khổ hạnh lâm.
Tu sĩ thời nay đua nhau lập tu viện to lớn,
nguy nga như cung điện, tổ chức các loại lễ hội hàng năm, bày trò mê tín, để phô trương và thu tiền bá
tánh.
Dù 100 tuổi các lão tăng đó có ích lợi chi
cho bá tánh, cho thiền môn, cho đạo pháp?
Các tu sĩ thời nay hành xử giống như ngụ ý
của câu châm biếm Pháp «Fais ce que je dis, pas ce que je fais» (Hãy làm những gì tôi nói, không phải những
gì tôi làm).
Trong đạo mà lời nói không đi đôi với việc làm cũng gây rất nhiều thất vọng, hoang mang
Trong đạo mà lời nói không đi đôi với việc làm cũng gây rất nhiều thất vọng, hoang mang
cho những người có niềm tin nơi tôn giáo của
mình!
Tuy nhiên, con đường người tu đi mà thấy
đúng, việc người tu làm mà mang lại an vui, hạnh phúc
cho bản thân và cho người khác, được khen cũng tốt, bị chê không phiền.
Người đời thường nói chó sủa mặc chó, đoàn lữ
hành cứ đi (Le chien aboie, la caravane passe).
Nhưng người biết tu tâm dưỡng tánh nên xem
những người tạo thiện duyên (giúp đỡ phương tiện vật chất hay tinh thần) và những người tạo nghịch duyên (phê phán phỉ
báng ngăn đường cản bước)
đều là các bậc thiện hữu tri thức, tất cả đều
giúp mình rèn luyện chữ nhẫn và thử thách tâm kiên cố.
Được như vậy, con người sống hạnh phúc, chết bình an, không cần theo tôn giáo nào, cũng chẳng cần
cầu nguyện thánh thần thiên địa chi cả.
Con người biết tự làm chủ bản thân trước sóng gió cuộc đời ví như hòn
đảo tự đứng vững trước phong ba bão táp vậy. []
Chuyện gì rồi cũng
qua
Hơn thua phiền não mà
Biết tu tâm dưỡng tánh
Không còn người với ta
Chuyện gì rồi cũng xong
Phê phán thêm phiền lòng
Biết tu tâm dưỡng tánh
Muôn sự thảy đều không
***
Nên học hạnh của đất
Nhận chịu của thế gian
Thơm tho và hôi thúi
Hóa thành đóa hoa tươi
Người đời tặng tên đạn
Phê phán và phỉ báng
Biết tu tâm dưỡng tánh
Hóa thành đóa hoa tươi
***
Niệm Phật hay tọa thiền
Nên nhớ lời Tổ dạy
Nhứt định không tranh cãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh
Ngày mai ai cũng chết
Ngày nay không tranh cãi
Muôn sự không còn mãi
Gắng giữ tâm thanh tịnh
TIỂU SỬ VÀ TÁC PHẨM HT THÍCH TÂM CHÂU
NHỨT THIẾT DUY TÂM TẠO
TIỂU SỬ TK THÍCH CHÂN TUỆ
VÔ THƯỢNG SƯ
TU MÀ KHÔNG HỌC LÀ TU MÙ
TẬP SAN TỪ BI TRÍ TUỆ SỐ 30