Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Kính mời viếng thăm
DÂNG SỚ CẦU AN - TIỀN MẤT TẬT MANG
CÚNG SAO GIẢI HẠN - TAI NẠN VẪN TỚI
llllllllllllllllllllllllllllll llllllllllllllllllllllllllllll llllllllllllllllllllllllllllll llllllllllllllllllllllllllllll lllllllllllllllllllllllllllll
TỘI VÀ NGHIỆP
Tỳ khưu Thích Chân Tuệ
Trên
thế gian này, chúng ta từng chứng kiến các cảnh phiền não khổ đau,
nhiều hơn là bình yên vui sướng. Ngay trong cuộc đời của chúng ta, những
sự bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện, cũng nhiều hơn những việc vui
vẻ, vừa ý, toại nguyện.
Cho nên, nhận định cuộc đời "khổ nhiều
vui ít", đó là sự thực rõ ràng, nhưng trong chúng ta ít người dám mạnh
dạn nhìn nhận. Con người vì mãi mê đấu tranh, vật lộn với cuộc sống hằng
ngày, nên không có thời giờ để suy tư, tìm hiểu. Có người không muốn
nhìn nhận sự thực đó, tự kỷ ám thị, tự lừa dối mình, cho rằng cuộc đời
là vui đẹp, là đáng hưởng thụ, với mục đích tạm quên đi những đau khổ,
bất hạnh trong cuộc sống, không biết ngày mai mình sẽ ra sao, không
biết làm sao cho đời bớt khổ, cho đời hết khổ.
Khi gặp hoàn cảnh khổ đau, khi có điều bất trắc, bất như ý, bất toại
nguyện, con người chỉ biết than trời trách đất, hoặc trách cứ tổ tiên,
trách cứ ông bà cha mẹ, ăn ở bất nhơn thất đức, cho nên cháu con mới ra
nông nổi này!
Đôi khi, có người chỉ biết đặt niềm tin nơi đấng thiêng liêng nào đó, để
cầu nguyện, van xin, khấn vái cho được tai qua nạn khỏi, cho được bình
an, mà không chịu tìm hiểu hư thực, không chịu tìm hiểu Chân Lý, không
chịu học hỏi Chánh Pháp, cho nên những người biết lợi dụng lòng mê tín
dị đoan dễ gạt gẫm, dễ lợi dụng, dễ sai khiến, hậu quả khó mà lường
trước được. Thường
thường khi thấy người nào gặp hoàn cảnh không may, gặp điều bất hạnh,
bất như ý, đau khổ hoặc ngộ nạn, có người xúc động, tỏ lòng thương xót,
thốt lên: "Tội nghiệp quá!". Điều này có nghĩa là khi ở trong trạng thái
"tâm bình thường", con người ai cũng có sẵn "tâm từ bi bác ái", thấy
người đau khổ thì động lòng trắc ẩn, xót thương.
Cũng trong trường hợp đó, người khác lại nói: Đáng đời chưa! Gieo gió
thì gặt bảo! Làm tội thì phải đền tội! Cũng có người nói: Nghiệp của họ
nặng quá, nên họ mới khổ nạn như vậy! Hoặc có người khác nói: Trời phạt
họ đó! Những sự suy nghĩ như vậy do tập quán, thói quen mà thốt nên lời.
Vậy chúng ta hãy thử tìm hiểu: Tội là gì? Nghiệp là gì? Tội báo là gì?
Nghiệp báo là gì? Làm gì mà phải "tội nghiệp"? Làm sao cho hết "tội
nghiệp"? Làm sao "dừng nghiệp và chuyển nghiệp"?
* * *
Theo
luật nhân quả, chúng ta biết rằng: "gieo nhân nào thì gặt quả nấy". Thí
dụ như gieo nhân là hạt cam, chúng ta sẽ được cây cam và gặt quả cam.
Khoa học đã thí nghiệm và chứng minh điều này rõ ràng, không có gì
đáng nghi ngờ cả. Nghĩa là làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác, ở hiền
gặp lành, gieo gió gặt bão, có lửa có khói, sinh sự sự sinh.
Tuy nhiên, cũng có thắc mắc: Tại
sao có người gieo thật nhiều gió mà chẳng thấy họ gặt bão, hay nói cách
khác, những người đó làm nhiều điều bất thiện, gây nhiều tội ác, mà tại
sao họ vẫn bình yên, an ổn, ăn nên làm ra, sống trong cảnh giàu có sung
sướng? Trái lại, có người làm thật nhiều việc phước thiện phước đức, như
bố thí cúng dường, hùn công góp của ấn tống kinh sách, quyên góp cho
các hội từ thiện, xây cất chùa chiền, lập nhà thương trường học, đắp
đường xây cầu, mà tại sao chẳng thấy phước báo đâu, chỉ thấy quả báo
xấu, gặp nhiều nạn tai, gặp nhiều điều bất trắc, bất như ý, bất toại
nguyện?Chúng ta biết rằng: có những hạt giống gieo trồng, thì gặt được
quả sớm, nhưng cũng có những hạt giống gieo trồng xong, phải đợi một
thời gian sau, hay một thời gian
lâu sau, mới gặt được quả.
Cũng vậy, có những việc chúng ta làm đời
trước, đời này mới nhận kết quả hay hậu quả. Có những việc chúng ta làm
đời này, đời sau mới có kết quả hay hậu quả. Do làm ác đời trước, nên
con người gặp khổ đau đời này, chớ có oán hận, than trời trách đất, bởi
lẽ "mình làm mình chịu", không có ông trời nào, thượng đế nào trừng phạt
mình, một cách tùy tiện, một cách vô căn cứ cả. Chúng ta thường có tánh đổ thừa kẻ khác, kể cả ông bà cha mẹ, đã tạo
nghiệp, rồi cháu con phải lãnh hậu quả, chứ không bao giờ chịu nhìn nhận
"chính mình đã làm", đã gây ra những lỗi lầm trong kiếp trước, cho nên
kiếp này "chính mình gánh chịu".
Còn những việc phước thiện, phước đức mình làm trong đời này, vì quá ít
quá nhỏ, chưa kịp có kết quả. Hoặc đôi khi việc phước thiện, phước đức
đã có kết quả, đã làm cho
nhẹ bớt đi những nạn tai, mà mình phải gánh chịu, chỉ tại mình không
biết đó thôi. Nếu không biết làm những việc thiện tạo phước báu như thế,
để bù đắp những tội lỗi đã gây ra trước kia, con người có thể đã gặp
nhiều phiền não khổ đau hơn, nhiều tai nạn nặng nề hơn. Nếu việc phước
thiện đã làm nhiều hơn tội lỗi đã tạo, chắc chắn con người được hưởng sự
sung sướng, sự may mắn. Nghĩa là sự sung sướng, sự may mắn do phước báo
chính mình đã tạo ra, từ nhiều kiếp trước hay kiếp này, chứ không do
ông trời, hay thượng đế nào thương mình, mà ban cho cả.
Như vậy, chúng ta phải hiểu luật
nhân quả được áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị lai. Cũng
có những quả báo nhãn tiền, tức là kết quả hay hậu quả có ngay trước
mắt, gieo nhân đời này, gặt quả cũng trong đời này. Thí dụ như ăn trộm
thì bị bắt, ở dơ thì sanh bệnh, làm biếng thì nghèo khó, đánh người thì
người đánh, hại người thì người hại, kiện thưa thì tốn tiền, tiết kiệm
thì có dư, chăm học thì đỗ đạt, siêng năng, chăm chỉ, cần cù, nhẫn nại,
nếu không thành công thì cũng thành nhân.
* * *
Chúng ta thữ nghĩ xem: Tội là gì? Tội
lỗi là những điều bất thiện, những việc ác do chính mình nói, chính mình
làm, chính mình suy nghĩ, chính mình gây ra, chính mình tạo tác, do
thân khẩu ý của chính mình. Tội lỗi cũng do sự sai khiến, xúi giục, chỉ
dẫn, bày cách cho người khác làm, thi hành, thực hiện những điều bất
thiện, những việc ác. Tội lỗi cũng do sự vui mừng, tán đồng, khen ngợi,
khi thấy kẻ khác làm những điều bất thiện, những việc ác. Nghĩa
là: "Nhược tự tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ", đều tội lỗi như
nhau. Tại sao vậy? Bởi vì chính mình làm, chỉ bảo người khác làm, hay
thấy người khác làm mà vui theo, những điều bất thiện, những việc ác,
thì tâm của chúng ta đều bị náo động, đều bị hoen ố, đều ghi nhận chủng
tử sanh tử luân hồi như nhau.
Đạo Phật luôn luôn chú trọng đến
"tâm", chính là cái "thực tướng" bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh,
bất tăng, bất giảm của con người, chứ không quan trọng đến cái giả tướng
khác biệt bên ngoài của mỗi người. Cái giả tướng khác biệt đó chỉ
là cái thân tứ đại sanh diệt, nay còn mai mất, chúng ta đang mượn tạm,
trong kiếp sống này mà thôi. Bởi vậy cho nên, đọc kinh điển của đạo
Phật, muốn hiểu được pháp vô lượng nghĩa, pháp vô thượng thậm thâm vi
diệu, chúng ta hãy tìm hiểu qua lăng kính của một chữ, đó là chữ: "TÂM".
Chư Tổ có dạy:"Tâm tức Phật, Phật tức Tâm", chính là nghĩa đó vậy. Đức
Phật là bậc vô thượng y vương, vô thượng dược vương chuyên trị "tâm
bệnh" của tất cả chúng sanh, chứ không phải "thân bệnh". Đức Phật hiểu
rõ tâm bệnh của tất cả chúng sanh, vì sao con người trôi lăn trong sanh
tử luân hồi, cho nên Đức Phật chỉ dẫn con đường thoát ly sanh tử luân
hồi. Đó mới chính là trọng tâm cốt yếu của đạo Phật.
Sách có câu:"Tướng tự tâm sanh, tướng tùng tâm diệt". Bất
cứ ai giải quyết được tâm bệnh, thì thân bệnh có còn gì đáng nói nữa
đâu. Cái thân tứ đại giả tạm này chỉ có tuổi thọ một trăm năm hay hơn
chút đỉnh là nhiều. Còn cái tâm bất sanh diệt của tất cả mỗi chúng ta có
tuổi thọ vô lượng mà Đức Phật đã chỉ bày trong các kinh điển thì ít
người hiểu thấu! Người nào chỉ hiểu kinh điển nhà Phật qua nghĩa đen:
cầu bình an, cầu siêu sanh, là những người chỉ đứng bên ngoài cổng rào,
chứ chưa vào được đến trong sân
chùa, nói chi đến ngưỡng cửa nhà Phật. Người nào chỉ hiểu đạo Phật qua
các hình thức cúng kiến, lễ nghi thường thấy, là người chưa hiểu đạo
Phật là gì cả!
Thậm chí, có người đến với đạo Phật, vì muốn cầu gì được nấy, muốn vạn
sự như ý, muốn tùy tâm mãn nguyện, muốn buôn may bán đắt, muốn nhất bổn
vạn lợi, muốn thi đâu đậu đó, muốn sở cầu như nguyện, muốn tình duyên
may mắn, muốn đủ thứ chuyện trên trần đời, thì than ôi, đạo Phật còn gì
là Phật đạo nữa! Thật đáng thương xót! Thật đáng "tội nghiệp" lắm
thay!Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy:"Nhất thiết duy tâm tạo".
Nghĩa là chúng ta nên biết tội lỗi nặng hay nhẹ tùy theo tâm trạng, tâm
tánh của con người khi tạo tác. Thí dụ như một người nghèo khó đi câu
con cá, để ăn qua ngày, tội nhẹ hơn người no đủ, đi câu con cá vì thú
vui. Con người vì si mê nên cảm thấy vui thích trên sinh mạng của chúng
sanh! Khi xưa, những người có quyền thế, xem việc giết người, giết dân
chúng hay giết tù nhân, như thú vui tiêu khiển. Ngày nay, ở các nước gọi
là văn minh, con người xem
việc săn bắn thú vật như là môn thể thao, coi cảnh đấu bò giết bò như là
trò giải trí!
Thật đáng "tội nghiệp" lắm thay! Con người đang hưởng phước ở các xứ văn
minh, lại tìm cách tạo tội tạo nghiệp vì vô minh. Một người giết một
con thú dữ để tự vệ trong
hoàn cảnh sợ hãi, tội nhẹ hơn một đứa bé tay cầm cây cầm roi, thi đua
với các đứa bé khác, đánh đập một con gà, rụng lông tơi tả, máu đổ dầm
dề, cho đến chết, một cách nhanh nhứt, để được khen thưởng, để được lãnh
giải, trong cuộc thi do người lớn tổ chức!
Dĩ nhiên, kẻ chủ tâm cố ý giết người vì tư thù, vì quyền lợi, tội nặng
hơn kẻ sát nhân trong cơn điên loạn, hãi hùng hay vô ý thức. Kẻ giết con
vật lớn như trâu bò, tội nặng
hơn kẻ giết côn trùng, con gián, con kiến. Giết người, giết con vật lớn,
con vật có nhiều linh tánh hơn, tức nhiên, kẻ giết phải có chủ ý, dụng
tâm, dụng công, dụng sức nhiều hơn, nên tội nặng hơn. Giết côn trùng,
con gián, con kiến không do cố ý, không do thích thú, bởi vì con người
không thể sống chung với những sinh vật này được, theo phép vệ sinh
chung của xã hội, nên nhẹ tội hơn. Tuy nhiên, tìm giết vô cớ con gián,
con kiến ngoài đồng, ngoài đường lại là chuyện khác.
Việc trộm cắp cũng vậy. Người trộm cắp vì nghèo túng, phải giúp gia đình
qua cơn đói khổ, vì tạm thời,
không còn phương cách nào khác, tội nhẹ hơn một kẻ cố ý chủ tâm dùng thủ
đoạn, dùng luật pháp, để chiếm đoạt tài sản, sang đoạt bản quyền của
người khác, thưa kiện người khác với mục đích kiếm tiền, muốn mình sung
sướng, làm giàu nhanh chóng, người khác thì đau khổ vì sạt nghiệp! Việc
nói dối để an ủi, giúp đỡ tinh thần người đang bị bệnh, người đang khổ
đau, khủng hoảng, sợ hãi, không thể đem so sánh với việc nói dối để gạt
gẫm người khác vì ích kỷ, vì tư lợi, vì thù oán hại người, vì muốn kết
bè kết đảng.
Càng tệ hại hơn nữa vì tự ái, vì
tự lợi, vì danh dự hão, vì chính nghĩa cuội, vì công lý một chiều, vì lẽ
phải phiến diện, vì mê tín dị đoan, vì quá khích, có người đặt điều vu
cáo vu khống, phỉ báng mạ lỵ người khác, lộng giả thành chơn, nước lã
khuấy nên hồ, để ám hại người khác, viết bài đả kích, khen mình khinh
người, lôi kéo phe phái, thì những người đó làm sao tránh khỏi luật nhân
quả, làm sao thoát khỏi "lưới trời" lồng lộng, tuy thưa mà không lọt,
tuy không thấy mà chẳng sai chạy! Trong nhà Phật, "lưới trời" đó chính
là "quả báo" con người phải lãnh, vì các việc đã làm, đã nói, đã nghĩ,
trước đây.
* * *
Chúng
ta thường nghe nói đến chữ "nghiệp" trong cuộc sống hằng ngày,
cũng như
trong đạo Phật, như là: nghề nghiệp, tội nghiệp, nghiệp báo, nghiệp
chướng, nghiệp nhân, nghiệp quả. Vậy chúng ta thử tìm hiểu: "Nghiệp" là
gì? Nghiệp
là thói quen hành động, nói năng hay suy nghĩ hằng ngày của chúng ta
trong cuộc sống, trong khi làm việc, trong khi giao tiếp, ở tại nhà, ở
tại sở làm hay bất cứ nơi đâu. Nghĩa
là: nghiệp do thân hành động, khẩu nói năng và ý suy nghĩ, nên thường
được gọi là tam nghiệp: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Theo
nguyên tắc, có hai loại nghiệp: thiện và bất thiện. Tuy nhiên, khi nói
đến chữ "nghiệp", người ta thường nghĩ đến những nghiệp ác hay nghiệp
bất thiện.
1) "Thân nghiệp"
là những thói quen hành động, do thân tạo tác hằng ngày. Có người luôn
luôn thích giúp đỡ kẻ khác, làm việc phước thiện, làm việc xã hội. Có
người luôn luôn thích đi chùa, lễ Phật, tụng kinh, đi nhà thờ xem lễ,
cầu nguyện. Cũng có người luôn luôn thích đánh nhau, đánh đập súc vật,
giết hại sinh mạng chúng sanh, chơi đấu bò, đi câu cá, đi săn bắn, như
thú vui tiêu khiển. Có người luôn luôn thích hút thuốc, uống rượu, bài
bạc. Có người luôn luôn thích việc trộm vặt dù họ không túng thiếu. Có
người luôn luôn thích kiện tụng, thích xúi người khác thưa kiện để thủ
lợi. Có người luôn luôn thích hăm dọa người khác, theo thói chưa đậu ông
nghè đã đe làng tổng, họ gửi bài đăng báo, tòa báo không đăng nguyên
văn, sửa bản thảo, họ bảo xin lỗi, viết thư dọa làm con kiến đi kiện củ
khoai!
2) "Khẩu nghiệp"
là những điều mình thường nói ra hằng ngày, có khi ngọt ngào dễ nghe, có
khi chanh chua chát khế, kinh khủng khiếp luôn! Cổ nhơn có dạy: Lời nói chẳng mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau. Có người luôn luôn thích nói chuyện đạo lý, chuyện ích lợi cho người. Có
người luôn luôn thích thuyết
pháp, tụng kinh, niệm Phật. Có người luôn luôn thích an ủi, khuyên lơn,
đem sự an ổn tâm thần đến cho người khác. Có người luôn luôn nói lời hòa
nhã, êm ái, dịu dàng, ai ai cũng thích nghe, thích gặp mặt, thích trò
chuyện.
Đó là những người lựa lời mà nói
cho người an vui, và đang tu theo hạnh Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, hay tu
theo hạnh Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát. Cũng có người luôn luôn
thích nói suốt ngày, không biết mệt, không ngừng nghỉ. Có người luôn
luôn thích nói chuyện thị phi, chuyện thiên hạ, chuyện phải quấy, chuyện
hơn thua, chuyện tranh chấp, chuyện kiện tụng, chuyện thưa gửi, chuyện
phiền não, chuyện khổ đau. Có người luôn luôn thích văng tục, chửi thề,
bới móc người khác, kê tủ đứng vào miệng người khác, móc họng cho người
ói ra, mỗi khi khai khẩu, mỗi khi mở miệng. Có người thốt xong một lời,
người nghe phải đi xức dầu cù là, hoặc uống thuốc nhức đầu, thậm chí
ngất xỉu, hay giã từ luôn cõi đời. Có người thốt xong một lời, người
khác phải đi tù, gia đình xào xáo, vợ chồng chia ly, lục đục, cãi vã,
nghi ngờ lẫn nhau, tiêu tan hạnh phúc.
Bởi vậy, chúng ta mới biết khẩu nghiệp nặng nề biết bao, lời nói độc hại
đến chừng nào, lời nói có khả năng hại người còn hơn vũ khí. Đó là lời
nói của những kẻ "lựa lời mà nói cho người giết nhau", hoặc là những kẻ
"lựa lời mà nói cho người tiêu luôn"!Những người biết tu tâm dưỡng tánh
rất dè dặt với khẩu nghiệp, không dám phát ngôn bừa bãi, luôn luôn nhớ
lời cổ nhơn dạy: "Lời nói là bạc, im lặng là vàng". Có người bèn áp dụng
tu pháp môn "tịnh khẩu", suốt ngày không muốn nói bất cứ chuyện gì, với
bất cứ ai. Tuy nhiên, bên ngoài phẳng lặng, mà trong lòng dậy sóng, thì
cũng như không! Có khi nói năng để truyền bá Chánh Pháp, lời nói đầy
pháp vị, nói lời chuyên chở đạo lý. Có khi sự im lặng
cũng đúng Chánh Pháp, cũng đượm nhuần đạo lý.
Cổ nhơn có dạy: "Ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa
là còn phải dùng lời nói, thì không thể diễn tả được đạo lý một cách tột
cùng, khi lên tiếng thì đạo mất rồi. Người hiểu đạo là người có tâm cảm
thông sâu sắc, không cần dùng lời nói, có thể thấu hiểu mọi sự mọi việc
một cách dễ dàng, không có gì ngăn ngại. Trong kinh sách có câu: "Đạo
cảm ứng giao nan tư nghì" chính là nghĩa đó vậy. Cũng có câu: "Đạo bổn
vô ngôn". Nghĩa
là gốc của đạo không thể dùng lời lẽ của thế gian mà diễn tả được. Đạo
là chỗ cứu kính tuyệt đối bất khả tư nghì, đạo cảm thông không thể nghĩ
bàn được. Đó chính là chỗ im lặng của Cư sĩ Duy Ma Cật thời Đức Phật còn
tại thế, đó chính là sự lặng thinh của Nhị Tổ Huệ Khả, khi trình kiến
giải lên Sơ Tổ Bồ Đề Đạt Ma vậy.
3) "Ý nghiệp"
là quan trọng hơn cả. Chính ý nghiệp chủ động điều khiển thân nghiệp và
khẩu nghiệp. Tại sao vậy? Bởi vì nếu như tư tưởng luôn luôn có ý nghĩ
thế nào thì hành động và lời nói sẽ y theo đó mà ra, không sai khác chút
nào. Chính tư tưởng phát xuất ra hành động và lời nói. Thí dụ nếu trong
tâm ý chúng ta nghi ngờ người nào ăn cắp đồ, thì từ hành động cho đến
lời nói của người đó đều có vẻ khả nghi, đáng ngờ, và hành động cũng
như lời nói của chúng ta đều không bình thường đối với người đó.
Thí dụ nếu chúng ta luôn luôn có
tư tưởng, có ý nghĩ là kẻ nào ác thì phải bị tiêu diệt, phải bị đọa địa
ngục, phải bị trừng phạt nặng nề, cho nên khi có cơ hội, có phương tiện,
có quyền hành, có thế lực, chúng ta sẽ dễ dàng mắng chửi, mạt sát,
giết hại, trừ khử, thanh toán kẻ đó không chút xót thương, không chút
bận tâm! Nghĩ như vậy, nói như vậy, làm như vậy, tâm của chúng ta không
từ bi, không bác ái chút nào, và như vậy chúng ta có khác gì kẻ ác kia
đâu? Giết người phải đền mạng, có luôn luôn hẳn là lẽ công bằng tuyệt
đối chăng, có giúp nạn nhân sống lại chăng, có giúp xã hội an ninh, trật
tự chăng, có giúp tình người thêm tốt đẹp chăng? Con người thường nhân
danh cái thiện, nhân danh thế thiên hành đạo, để thi hành, thực hiện
việc ác, việc trả thù ngay sau đó. Chính vì vậy mà oan oan tương tục
không biết đến bao giờ mới dứt được. Thiệt là "tội nghiệp" thay!
Trên thế gian này, sân hận không
bao giờ dập tắt sân hận. Duy có tình thương, tâm từ bi mới diệt được tâm
sân hận. Đó là định luật trường cửu. Cho nên, trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy:
Lấy oán báo oán, oán nghiệp chập chùng. Lấy ân báo oán, oán nghiệp tiêu tan.
Đây là cách dừng nghiệp và chuyển nghiệp hữu hiệu nhất. Thí dụ vì nghiệp
duyên đời trước, có người nào đó khi gặp chúng ta, liền không có cảm
tình, không ưa thích, có thái
độ thù nghịch, chống đối. Nếu như chúng ta không hiểu luật nhân quả, bèn
có thái độ tương ứng đáp lại, thì càng ngày quan hệ giữa chúng ta và
người đó càng tệ hại thêm mà thôi. Còn nếu như khi họ gặp hoàn cảnh
không may nào đó mà mình có thể giúp được và thực tâm giúp đỡ họ, thì có
phải "oán nghiệp" trước đây tiêu tan hay không?
Thí dụ trong gia đình, nếu người
cha hay người mẹ, vì tức giận người con đối xử tệ bạc với mình, không
như mình mong ước, nên cũng đối xử lạnh lùng, hằn học, bực dọc đáp lại,
thì thử hỏi câu chuyện sẽ đi đến đâu, sẽ kết thúc ra sao? Nếu cha mẹ có
lòng từ bi, không chấp chặt những điều đó, vẫn thương yêu, chăm sóc
người con, như lúc con còn nhỏ dại, thì ít ra còn hy vọng người con
chuyển đổi tâm ý, gia đình hòa vui trở lại. Chuyện này "nói ra thì dễ,
làm được mới khó". Nhưng thử hỏi chuyện gì trên đời này mới là chuyện dễ
làm đây ?
* * *
Bây
giờ, nói về vấn đề: "dừng nghiệp và chuyển nghiệp". Chúng ta đã biết
rằng chính ba nghiệp thân khẩu ý là động cơ dẫn dắt chúng sanh vào vòng
trầm luân sanh tử luân hồi nhiều đời nhiều kiếp. Cho nên, muốn thoát ly
sanh tử luân hồi, con người phải biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Nghĩa là chúng ta phải dừng tất cả những nghiệp ác, nghiệp bất thiện, từ
thân khẩu ý của mình, chuyển ba nghiệp thân khẩu ý bất thiện, thành ba
nghiệp thiện lành. Đó chính là trọng tâm tu hành của đạo Phật, chứ không
phải những hình tướng bên ngoài, những nghi lễ rườm rà, những van xin
cầu khẩn.
Người có nghiệp cờ bạc thì luôn luôn tìm tới các sòng bài bạc để vui
chơi trong chốc lát, rồi sau đó đau
khổ dài dài. Người có nghiệp hút thuốc thì đi đâu cũng luôn luôn để ý
đến chỗ nào bán thuốc lá và giá cả ra sao. Người mang nghiệp nào thì sẽ
bị dẫn theo con đường ấy, cũng như kim loại bị nam châm hút vậy. Con
người khi chết đi, thân xác, danh vọng, của cải, thân bằng quyến thuộc,
tất cả mọi thứ đều phải bỏ lại thế gian, chỉ mang theo cái "nghiệp báo"
tái sanh kiếp sau. Chính cái nghiệp báo này là nguyên nhân làm cho chúng
ta sung sướng hay đau khổ vậy. Khi biết được điều đó, liễu tri được điều
đó, giác ngộ được điều đó, chúng ta cần phải tìm cách dừng nghiệp, tìm
cách chuyển ba nghiệp bất thiện thành ba nghiệp thiện.
Trong kinh sách, Đức Phật dạy pháp môn để dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Đó chính là "Pháp Sám Hối". Người biết ăn năn sám hối mới thực là người
biết tu chân chính, không cần phải có hình tướng như thế nào, chỉ cần
chúng ta kiên trì, cố gắng tu tâm dưỡng tánh, đúng theo Chánh Pháp, thì
đạt được kết quả mỹ mãn. Kết quả đó là cảnh giới an lạc và hạnh phúc
hiện đời, kết quả đó là cảnh giới tây phương cực lạc hay thiên đàng sau
này. Chánh Pháp không
dành riêng cho những người theo đạo Phật hay bất cứ ai. Chánh Pháp là
chân lý cứu kính mà bất cứ ai có "tâm bình thường" cũng có thể tìm hiểu
được và thực hành được, một cách bất tùy phân biệt.
Nếu không có "pháp sám hối chơn thực" thì không có thánh nhơn trên đời,
không có thiên đàng, hay cảnh giới tây phương cực lạc. Biết bao nhiêu
bậc thánh hiền xưa nay có quá khứ bất thiện, xấu ác, gian tà, nhưng nhờ
các ngài giựt mình tỉnh thức, qua được cơn mê, quày đầu hướng thiện, cho
nên trở thành đại đức thánh nhơn. Bởi vậy, chúng ta noi gương các ngài,
chỉ nên quán xét chính mình, không cần thiết phải bận tâm biết quá khứ
của người khác ra sao. Người ta trước đây tạo nghiệp xấu thiệt, nhưng
nay đã biết sám hối, đã biết dừng nghiệp và chuyển nghiệp, còn mình thì
sao, vẫn đi soi mói việc
riêng của người khác để làm gì?
Trong kinh sách, Đức Phật có dạy:
Tội tùng tâm khởi tương tâm sám.
Tâm nhược diệt thời tội diệc vong.
Tội vong tâm diệt lưỡng câu không.
Thị tắc danh vi chơn sám hối.
Nghĩa là muốn tội lỗi thực sự không còn nữa, thì chúng ta phải tiêu diệt
cái nguyên nhân chính gây ra tội lỗi, xúi giục mình làm bậy nói bậy
nghĩ bậy, đó là vọng tâm lăng xăng, lộn xộn, loạn động, suy nghĩ, tính
toán, suy lường, hằng ngày của chúng ta. Một khi đã thực tâm sám hối thì
không còn tâm muốn làm, muốn nói, muốn nghĩ những chuyện bậy đó nữa.
Mỗi khi vọng tâm khởi lên, xui khiến mình làm chuyện bậy, bất cứ chuyện
gì lợi mình hại người, bảo mình
nói lời bậy, bất cứ lời nào gây phiền não cho người khác, giục mình nghĩ
ý bậy, bất cứ ý nghĩ nào khen mình khinh người, thì chúng ta phải nhận
biết ngay, dừng lại, không theo.
Lâu dần, vọng tâm đó lặng đi rồi, thì tội lỗi cũng không còn gây ra nữa.
Cũng giống như mỗi lần trong
đầu nhớ tới bản nhạc nào quen thuộc, nếu chúng ta ư ử hát theo thì sẽ
nhớ hoài nhớ lâu, còn nếu chúng ta không hát theo, thì ít lâu sau, sẽ
quên bẳng đi, không còn nhớ nữa. Đó mới thực là "chơn sám hối", tức là
sám hối chơn chính, chơn thực, thực lòng vậy.
* * *
Pháp sám hối chơn chính có hai phần: Lý Sám Hối và Sự Sám Hối.
1"Sự Sám Hối". Khi
tâm của chúng ta còn mê mờ, chưa được giác ngộ Chân Lý, chưa hiểu biết
Chánh Pháp, chúng ta phải hành theo sự sám hối. Nghĩa là đối trước tôn
tượng chư Phật, chư Bồ Tát, chúng ta phải hành lễ bái, tỏ bày sám hối,
mong diệt nghiệp chướng, tội chướng, siêng năng tinh tấn, mỗi tháng hai
lần. Mỗi lần như vậy, chúng ta đọc bài kệ như sau:
Ngã tích sở tạo chư ác nghiệp.
Giai do vô thủy tham sân si.
Tùng thân khẩu ý chi sở sanh.
Nhứt thiết ngã kim giai sám hối.
Nghĩa là chúng ta đã tạo không biết bao nhiêu ác nghiệp từ xưa đến giờ,
đều do ba điều độc hại: tham lam, sân hận và si mê, thể hiện qua ba hình
thức: thân hành động, khẩu nói năng, ý suy nghĩ. Tất cả những tội lỗi
đó, những nghiệp bất thiện, những nghiệp ác đó, chúng ta đều thành tâm
thực lòng, ăn năn sám hối, quyết tâm chừa bỏ, không dám tái phạm, cố
gắng gìn giữ tam nghiệp thân khẩu ý cho được thanh tịnh.Trong kinh sách
có câu:Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền", tức là:
"Trước bảo tọa thân con ảnh hiện".
Nghĩa là đối trước tôn tượng chư
Phật, chúng ta hiện nguyên hình con người thực của mình, phản ảnh đúng
nội tâm của mình, để thành tâm phát lồ sám hối, không che giấu bất cứ
điều gì cả. Chúng ta có thể che giấu tội lỗi, che giấu tật xấu, đối với
người đời, chứ đối với chư Phật, đúng ra đối với Phật Tâm của chúng ta,
chúng ta chẳng thể giấu giếm bất cứ điều gì. Ngày xưa, để cho mọi người
dễ hiểu, cổ nhơn giải thích đó chính là lúc chúng ta đứng trước gương
chiếu yêu, trước diêm vương cảnh đài, bất cứ việc gì chúng ta đã làm, đã
nói, đã nghĩ, trong suốt cuộc đời đều hiện ra hết tất cả.
2"Lý Sám Hối".
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Nhất thiết duy tâm tạo".
Nghĩa
là muôn việc trên thế gian này đều do tâm của chúng ta tạo ra tất cả.
Tâm của chúng ta tạo ra thiên đàng. Tâm của chúng ta tạo ra địa ngục.
Thí dụ chúng ta phát triển các tâm lượng rộng lớn, tốt đẹp như từ bi hỷ
xả, tức là chúng ta phát triển cảnh giới thiên đàng, cực lạc và sống an
lạc trong cảnh giới đó.
Nếu chúng ta chấp chặt những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên
kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, phát triển những tâm
lượng hẹp hòi, ích kỷ, đố kỵ, ganh
tị, tham lam, sân hận, si mê, khen mình khinh người, lợi mình hại người,
tức là chúng ta phát triển cảnh giới địa ngục và sống bất an trong cảnh
giới đó vậy.
Sự sám hối ví như chiếc xe đạp. Nghĩa là người chỉ biết sự sám hối thôi,
không hiểu rõ lý lẽ, thì đường
tu tiến chậm. Đi chùa lạy Phật, tụng kinh bái sám, từ lâu lắm rồi, mà
sao vẫn còn bực mình nhiều chuyện quá, phiền não vẫn còn y nguyên, có
khi còn nhiều hơn lúc trước nữa.Lý
sám hối ví như động cơ. Nghĩa là người chỉ biết lý sám hối thôi, không
chịu hành sự, thì đường tu cũng không tiến. Hiểu rõ lý sám hối và năng
hành sự sám hối, nghĩa là "lý sự viên dung", lý sự đầy đủ vẹn toàn, thì
đường tu tiến được rất nhanh, cũng như đi xe có gắn máy thì chạy nhanh
hơn xe đạp vậy. Tu tiến có nghĩa là: giảm bớt phiền não và khổ đau, sống
được cảnh giới an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.
Dù theo bất cứ tôn giáo nào chăng nữa, thực ra vị giáo chủ cũng không
thể ban phước cho chúng ta được bình an, sung sướng hay an lạc và hạnh
phúc. Các ngài chỉ cho chúng
ta bản đồ, chỉ cho chúng ta phương pháp, để chúng ta tự thực hành, tự đi
đến cảnh giới an lạc và hạnh phúc mà thôi. Như vậy mới thực là chí công
vô tư vậy.
Vì thế cho nên, những người có trí tuệ bát nhã, luôn luôn giữ gìn tam
nghiệp cho thanh tịnh, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh, phát tâm bồ đề, tiến
tu đạo nghiệp, chứ không phải chỉ biết cầu nguyện, van xin, cầu khẩn,
khấn vái. Tại sao vậy? Bởi lẽ chẳng được lợi ích gì, chỉ thêm phiền não,
vì cầu nguyện hoài mà không được đáp ứng gì cả!
Cầu không được, khổ là cái chắc. Cầu bất đắc, tức khổ không sai.
Có nhiều cách tu, nhiều phương pháp, nhiều pháp môn để giúp chúng ta
dừng nghiệp và chuyển nghiệp, cho nên Phật giáo có nhiều tông phái. Tịnh
độ tông dùng câu niệm Phật, dùng
cách quán tưởng, dùng thời khóa tụng kinh, để dừng tất cả các nghiệp.
Mật tông dùng câu thần chú đà-la-ni để dừng tất cả các nghiệp. Thiền
tông dùng pháp khán thoại đầu, dùng công án nhà thiền, hay dùng "pháp
đối cảnh vô tâm", hay "pháp tri vọng", để dừng tất cả các nghiệp.
Dừng được một phần của "ba nghiệp", chúng ta bớt được một phần "chướng
nạn" của cuộc đời. Dẹp được
một phần "nghiệp chướng" của bản thân, chúng ta hưởng được một phần cuộc
sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Thí
dụ như bớt được chút lòng tham lam, chúng ta bớt được chút khổ nạn, bởi
vì tham thì thâm. Thí dụ như bớt chút lòng sân hận, chúng ta bớt được
chút phiền não nhức đầu, bởi vì sân thì sinh sự. Thí dụ như bớt chút
lòng si mê, chúng ta bớt được chút khổ đau, bởi vì mê thì mất tiền, mất
của, mất tất cả!Đến đây, chúng ta cần hiểu rõ, phân biệt rõ: thế nào là
"tội và nghiệp", và thế nào là "tội báo và nghiệp báo".
Sau một thời
gian tu hành nào đó, khi tâm được
thanh tịnh, ba nghiệp không còn, thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh, "tội
và nghiệp" không còn nữa, bởi vì chúng ta không còn tạo nghiệp, không
còn tạo tội. Do thành tâm sám hối, "tội và nghiệp mới" không còn tạo ra
nữa, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói chung là quả báo, từ "tội và
nghiệp cũ" vẫn còn. Chúng ta đã tạo "nghiệp nhân" thì nhứt định phải
nhận "nghiệp quả", không thể chạy đâu cho khỏi. Người đời thường gọi đó
là "số trời đã định", hay "định mệnh đã an bài", hoặc "chạy trời không
khỏi nắng", chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
Dù trốn lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,không ai tránh được.
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,không ai tránh được.
Các bậc thánh thiện là những người đã thanh tịnh được tam nghiệp nên có
cuộc sống an nhàn, tự tại trong nội tâm, trong tâm thức. Tuy nhiên, trên
hình thức bên ngoài, chúng ta thấy cuộc sống của các vị giáo chủ, của
các bậc thánh nhơn không phải là không có sóng gió, không phải là không
có chuyện bất trắc xảy ra. Có khi các ngài vẫn bị vu cáo, nhục mạ, phỉ
báng, xét xử, kết án và thậm chí, bị hành hình như những tội phạm hình
sự. Tại sao vậy?
Bởi vì, các ngài tuy đã dứt hết các "tội và nghiệp" đời này, nhưng tội
báo và nghiệp báo, nói chung là "quả báo", từ nhiều đời và nhiều kiếp
trước vẫn còn, các ngài vẫn phải trả. Các ngài, cũng như bất cứ ai,
không thể đứng ngoài luật nhân quả được. Chẳng hạn như: Vào cuối thế kỷ
thứ ba, vị tổ thứ hai mươi bốn là Aryasimha tuy đã đắc đạo, nhưng vẫn bị
vua Kế Tân chém đầu. Vào đầu thế
kỷ thứ bảy, vị tổ thứ hai mươi chín, là Tổ Sư Huệ Khả, bị vu cáo và bị
giam đến chết trong ngục, thọ 107 tuổi! Tổ Bá Trượng Hoài Hải trong một
buổi thuyết giảng, có gặp một ông lão, nguyên là một vị Hòa Thượng, vì
hiểu sai và giảng sai luật nhân quả, cho là một khi con người đắc đạo
rồi, thì không phải trả quả báo, thoát ngoài luật nhân quả, cho nên phải
bị đọa 500 kiếp chồn.
Chúng ta cũng thường hay nghĩ như vậy, cho là sám hối xong thì sạch tội
và sẽ được bình an, không tai nạn gì nữa cả, không phải trả quả báo!
Hiểu như vậy là sai! Chúng ta thường lầm lẫn "tội nghiệp mới" với "quả
báo cũ". Chúng ta cần nên biết
rằng chúng ta không thể nhờ bất cứ ai tha tội, xóa tội, miễn tội, gánh
tội thay thế cho chúng ta được. Tại sao vậy? Bởi vì như vậy trái với
luật nhân quả, lẽ công bằng và không hợp tình, hợp lý chút nào. Trong
tam tạng kinh điển, Đức Phật chỉ dạy rất rõ ràng vấn đề "tội và báo"
này. Khi nào chúng ta không còn tâm si mê muốn quịt nợ, chúng ta sẽ nhận
biết được dễ dàng hơn, thấu đáo hơn, không còn bị dối gạt, không còn
lầm lẫn nữa.
Chúng ta thử xét thí dụ sau đây,
để hiểu biết thêm về "tội báo, nghiệp báo, quả báo, và phước báo". Theo
luật nhân quả, do hậu quả của tội lỗi đã làm, gọi là "nghiệp nhân",
con người gặp những bệnh tật, những tai nạn, những bất trắc ở đời, gọi
là "nghiệp quả hay nghiệp báo". Con người phải gánh chịu "quả báo hay
tội báo" như vậy, ví như phải ăn một nắm muối. Phải ăn một nắm muối thì
khổ biết là bao nhiêu. Nếu như con người có thể bỏ nắm muối vào tô nước
rồi uống thì có lẽ dễ chịu hơn chút đỉnh. Nếu như con người có thể
bỏ nắm muối vào lu nước rồi uống thì dễ chịu hơn chút nữa. Nếu như con
người có thể bỏ nắm muối đó vào hồ nước lớn rồi uống thì chắc là câu
chuyện không thành vấn đề nữa rồi.
Nắm muối bị bắt buộc phải ăn tượng trưng cho "tội báo, nghiệp báo, hay
quả báo", do những tội lỗi chúng ta đã làm từ nhiều đời trước hay đời
này. Nước trong tô, trong lu,
trong hồ tượng trưng cho "phước báo" ít hay nhiều, chúng ta đã tạo được
từ những việc làm phước thiện, phước đức, trong các đời trước hay đời
này. Như vậy, nếu con người phải đền trả hoàn toàn đầy đủ những tội lỗi
do chính mình gây ra, đời trước hay đời này, thì có khi phải tán gia bại
sản, bệnh tật ngặt nghèo, nguy hại tánh mạng. Nhưng nhờ đã làm các việc
phước thiện, nên có "phước báo" để bù đắp, cho nên hoàn cảnh khổ đau,
tai nạn có thể được giảm bớt hay hóa giải đi. Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện
nhỏ hóa không. Ví như con người có tiền tiết kiệm để dành, có thể
đem trả, trừ bớt nợ hay trừ dứt nợ xưa vậy.
Bởi vậy, làm việc phước thiện, tạo phước đức, có phước báo, để tiêu trừ
tội nghiệp là thái độ tích cực và hợp đạo lý, đối với bất cứ ai trên thế
gian này, hơn là việc cầu nguyện thượng đế để xin xá tội, để chạy tội,
hoặc đổ hết tội lỗi của mình cho thượng đế gánh giùm! Thật là thảm
thương thay cho thượng đế do
con người đặt ra, tưởng tượng ra, để gánh vác hết tội lỗi của nhân loại
trên thế gian này!
Con người vốn hay muốn quịt nợ, muốn trốn tránh trách nhiệm, không sợ
nhân chỉ sợ quả, không bao giờ nhìn nhận những việc sơ sót, sai trái,
tội lỗi, lỗi lầm, chính mình đã làm, chỉ biết trách cứ người khác, đổ
thừa tại người này, đổ thừa tại việc kia, không bao giờ dám nhận là "tại
mình", không bao giờ chịu nhận là "lỗi tại tôi mọi đàng". Tại sao vậy?
Bởi vì con người không hiểu thấu đáo, không biết tin sâu luật nhân quả
vậy.
Tóm lại, trong kinh sách, Đức Phật có dạy:
Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Đồng Phật vãng tây phương.
Đồng Phật vãng tây phương.
Nghĩa
là
nếu như lúc nào ba nghiệp của chúng ta đều thanh tịnh, lặng yên, trong
sáng, thân không sát sanh, trộm cắp, tà dâm, khẩu không nói dối, không
nói lời thị phi, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không xuyên tạc phỉ
báng, không vu khống cáo gian, ý không còn tham lam, sân hận, si mê,
thì chắc chắn chúng ta sẽ được an lạc và hạnh phúc hiện đời, sẽ cùng chư
Phật về cõi tây phương cực lạc sau này.
Những người không thấu hiểu lẽ này, nên nghĩ là có thể "đới nghiệp vãng sanh", tức là còn mang nghiệp mà vẫn có thể vãng sanh tây phương, nhờ vào câu niệm Phật A Di Đà. Đó là một sự suy nghĩ sai lầm lớn lao của người tu đạo, không đúng Chánh Pháp.
Những người không thấu hiểu lẽ này, nên nghĩ là có thể "đới nghiệp vãng sanh", tức là còn mang nghiệp mà vẫn có thể vãng sanh tây phương, nhờ vào câu niệm Phật A Di Đà. Đó là một sự suy nghĩ sai lầm lớn lao của người tu đạo, không đúng Chánh Pháp.
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Đức Phật có dạy: Tất cả nghiệp chướng đều do
vọng tưởng, nếu muốn sám hối, hãy ngồi tĩnh tâm quán sát thực tướng.
Nghĩa là khi quán sát thực tướng, nếu người nào biết được tánh chúng
sanh là tánh niết bàn
thì người ấy cùng cực giải thoát.
Trong kinh sách có câu:"Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng",
hay: "Năng lễ sở lễ tánh không tịch",
chính là nghĩa này vậy.
Xét cho đến ngọn nguồn, tội nghiệp đều do vọng tưởng điên đảo mà
sinh ra. Nhưng tâm vọng tưởng điên đảo ấy cũng như luồng gió giữa chốn
hư không, chẳng có chỗ nào trụ, chẳng có chỗ nào dính mắc.Khi chưa thấu
hiểu chân lý, mang mang mờ mờ mịt mịt, cho nên chúng ta mới gây tội
nghiệp, nhưng lại chỉ thấy tội nghiệp của người khác. Đến khi rõ lý lẽ,
tất cả tội lỗi trước đây thảy đều tiêu diệt, bởi chúng ta đã thấy tội
nghiệp của chính mình. Lúc ấy mới biết một cách rốt ráo, tất cả đều là
không: không có tội lỗi gì để mà tiêu diệt, không có tội nghiệp gì để mà
tạo tác, không thấy có nghiệp báo gì để mà gánh chịu, cũng không còn
sanh tử luân hồi nữa vậy. []
THƯ NGỎ
Ban Biên-Tập Phật-Học Tịnh-Quang Canada
Kính thưa Quí
vị độc giả,
Chư Tôn Đức Ban Biên Tập PHTQ trân
trọng cảm niệm công đức và phước đức của Quí vị phát tâm bảo
trợ và giới thiệu tập san.
Xưa nay, trong dân gian có rất nhiều tín ngưỡng
khác nhau. Các tín ngưỡng dân gian nào, không đúng chánh pháp, xâm nhập vào các
sinh hoạt chùa chiền, được gọi là mê tín. Mê tín là sự tin tưởng không căn cứ,
không đúng chánh pháp.
Chẳng hạn như dâng sớ cầu an, tiền mất tật mang,
cúng sao giải hạn tai nạn vẫn tới.
Muốn đời sống được bình an, con người phải ăn hiền
ở lành, giữ gìn thân khẩu ý thanh tịnh, chứ không phải vào chùa nhờ sư dâng sớ
cầu an thì được bình an, hay được khỏi bệnh. Nên nhớ nhà sư bị bệnh tật phải
nhờ bác sĩ hay bệnh viện cứu chữa, đâu cần dâng sớ cầu an.
Muốn đời sống được bình an, con người phải tu nhân
tích phước, cứu người giúp đời, giữ tâm thanh tịnh để có công đức và phước đức,
tiêu trừ nghiệp báo và quả báo, chứ không phải cúng sao vào đầu năm thì được
bình yên suốt năm. Nên nhớ nhà chùa hay nhà sư làm việc phi chánh pháp vẫn lãnh
đủ quả báo, có cúng ngàn sao cũng vô dụng, tiền mất tật mang, tai nạn vẫn tới.
Tóm lại, bước đầu con người đến với chùa chiền
do các nhân duyên cầu an hay cầu siêu, khi bản thân hay gia đình có
việc không may hay bất trắc xảy ra. Nhưng tất cả đó đều không thật, phi chánh
pháp. Con người phải tìm học lời Phật dạy để nắm vững chánh pháp và sống đời
đúng theo chánh pháp.[]
MỤC
LỤC
1. Bộ Sách Cư Trần Lạc Đạo
2. Trang Mục Lục
3. Thư Ngỏ của Ban Biên Tập PHTQ
5. Tu theo Phật
6. Thích Thanh Từ Cúng Dường Tam Bảo
11. Thích Chân Tuệ Không Có Có Không
16. Tà giáo và Chánh giáo
18. Trai Đàn Bạt Độ Pháp Hội Địa Tạng
20. Thích Chân Tuệ Thưa Hỏi Phật Pháp
24. Vài hiểu biết về chiếc áo cà sa
35. Thích Chân Tuệ 5 Điểm Quan Trọng
38. Thích Nữ Chân Liễu Sanh tử luân hồi là
do dính mắc
40. Cái Thiện và Cái Ác
43. Chuyện Trong Chùa Trong Đời
44. It’s OK to yield
48. Thói Đời Là Như Thế
50. Thích Thanh Từ Người Khôn Kẻ Dại
60. Cúng Kiến Không Đúng Chánh Pháp
61. Lễ Hội Trai Đàn Pháp Hội Dược Sư
62. Thích Nữ Chân Liễu Xuân Bình Yên
66. Thị Phi Trong Cuộc Sống
68. Thi ân bất cầu báo đáp
69. Chết sẽ đi về đâu
73. Hạnh Phúc Đích Thực
77. Thích Thanh Từ Luân Hồi
90. Nếu có kiếp sau
92. Thích Chân Tuệ Dọn Kho Ăn Tết
105. Khiêm tốn
107. Chùa Việt Nam Texas USA
109. Thích Chân Tuệ Cầu Trời có được gì
đâu
118. Trang Tri Ân Ban Bảo Trợ PHTQ.27
VP PHAT-HOCTINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm
Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí
Mỗi
năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc.
Mùa xuân trở về mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó có
những người con Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa,
mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như
nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái
dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương
xuân cúng dường mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức
Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc
dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết đang rơi lạnh buốt người.
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp
Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc
tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành trọn vẹn và được
nhiều hạnh phúc trong năm mới.
Trong phẩm Phổ Môn,
có đoạn:
“Bồ Tát Quán Thế Âm
nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót
hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na
la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia
Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một
phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.
Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ thế gian phiền
não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên
cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ
Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không
rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người
phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật,
và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá
chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên mãn.
* Lục độ ba la mật
gồm có:
-
Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và
an ủi người.
-
Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ
lời nói và hành động .
-
Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh
khi hoặc gặp khó khăn.
-
Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm
chí vững bền.
-
Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não
loạn trong mọi hoàn cảnh.
-
Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ,
không còn si mê.
*Bát chánh đạo gồm
có:
- Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu
rõ vô thường, nhân quả.
- Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không
trái với chân lý và lẽ phải.
- Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói
những lời thô ác, dối gạt.
- Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm
những việc ác nghiệp.
- Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm
những nghề bất thiện.
- Chánh
tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
- Chánh
niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
- Chánh
định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.
Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của
Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức
Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng; và cúng
dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.
Cúng
dường Ðức Phật Thích Ca:
Ðức Phật Thích Ca là một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong
sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh
Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô
vàn pháp môn tự giải thoát sự trói buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt
trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham
sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo
lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói, sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử
biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác,
việc tội lỗi gì cũng dám làm. Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não
trong cuộc đời, nên phát tâm hành trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy,
sống trong bát chánh đạo, trí tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con
người sẽ hưởng được pháp vị an lạc vô biên.
Tham
ái sanh ưu tư
Tham
ái sanh sợ hãi
Ai
giải thoát tham ái
Không
ưu, không sợ hãi.
(Kinh
Pháp Cú)
Tâm
từ thắng nóng giận
Tâm
thiện thắng ác hung
Tâm
thí thắng tham lam
Tâm
chơn thắng dối trá.
(Kinh
Pháp Cú)
Hành
Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật, với
lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân,
còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví
như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường Đức
Phật Thích Ca thù thắng nhất.
Cúng dường Đức Phật
Ða Bảo:
Ðức
Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu
cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự
thân, không dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não
khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm.
Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và
phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát
không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ Tát
có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã
vị tha” tuyệt đối.
Ðức
Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng
dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người
tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình
đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo,
họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho
nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm,
quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân
cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách
nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp
cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn
lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng.
Bồ
Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về mặt
tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát
đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể ban
phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ của
thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là
sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả năng đoạn
tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí tuệ, phát tâm
từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ
cứu nạn cho đời.
Hiểu rõ chân lý nhân
quả, con
người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và hành động; sống không
ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ đợi sự huyền bí linh
thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự chuyển hóa nội tâm, chuyển
hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Cầu xin nhiều thất
vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng tham lam và ích kỷ. Còn
nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến đau khổ triền miên không
lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như không được những gì mong
muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu
dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an ổn tự tại.
Ða dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.
(Kinh
Bát Ðại Nhân Giác)
Như
lòng cha mẹ thương con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ
không tùy theo ý muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại
chứ không phải thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân
nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai,
nhưng chân lý thuộc về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ
chúng sanh là dạy làm lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ
bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.
Trì
niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về
trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương
Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam
sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm
ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ
triền miên từ trước đến giờ.
. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân
hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ
lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng
si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích: Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích
không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ
lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.
Có
câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:
Theo
thông lệ các chùa mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một
đêm, giới tử về tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ
phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của
các người đã mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường
trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi
những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát
quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù
ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng:
“Công
đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm
nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại
chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”.
Khi khởi tâm từ
bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm,
giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ
giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong
bất cứ cảnh ngộ nào.
Tóm
lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo
phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu
tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ
xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức
Phật an nhiên tự tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương
xót hóa độ, thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức
Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật,
Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm
từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ
bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”,
“quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một
cách cao quí tối thượng nhất. []
CÚNG
SAO GIẢI HẠN
Ý NGHĨA CÔNG ĐỨC VÀ PHƯỚC ĐỨC
XUÂN DI LẶC
LUÂN HỒI SANH TỬ TRONG ĐẠO PHẬT
37 PHẨM TRỢ ĐẠO TRONG CHÁNH PHÁP
ĐỨC
PHẬT LÀ VÔ THƯỢNG Y VƯƠNG
LÒNG
BIẾT ƠN MANG LẠI HẠNH PHÚC