Chấp Ngã Và Chấp Pháp Trong Phật Giáo
Hỏi:
1. Thế nào là "chấp
ngã"?
2. Thế nào là "chấp
pháp"?
Chấp Ngã Và Chấp Pháp Trong Phật Giáo
Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:
Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp:
chấp ngã và chấp pháp.
Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời.
Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính
gây ra khổ đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống
hiện tại.
Thế nào là "chấp ngã"?
CHẤP NGÃ
Hầu như
mọi người trên thế gian này đều cho rằng: thân xác này là thực, tâm hồn này là thực. Nhưng thực ra,
thân xác tứ đại này do đất, nước, gió, lửa, tạo thành, không có gì gọi là thực.
Tại sao vậy? Bởi vì nếu ngày nào chúng ta không bồi dưỡng cho tấm thân, những
chất từ đất sinh ra như cơm gạo, những chất như nước sữa, những chất như không
khí, những chất tạo hơi ấm, thì ô hô tử vong. Ðến cuối cuộc đời, thân xác này
cũng phải để lại và tan rã, cát bụi trở về với cát bụi. Có gì là thực đâu? Còn
tâm hồn của chúng ta thay đổi liên miên, từ bé đến lớn, từ hôm qua đến hôm nay,
từ giây phút trước đến giây phút hiện tại.
Tâm hồn của chúng ta, trong kinh sách gọi là "tâm thức", không có gì gọi là thực, đó chỉ là một dòng chuyển biến, trong từng sát na, trong từng giây phút, không bao giờ ngừng nghỉ, khi con người chưa ngộ đạo.
Trong
đạo Phật, chấp thân tứ đại là mình, chấp tâm vô thường là mình, gọi là "chấp
ngã". Vì vậy bản ngã mà người đời coi như là một "linh hồn
vĩnh cữu", đó chỉ là "ảo tưởng" mà thôi. Chính cái ảo
tưởng này là nguyên nhân của phiền não và khổ đau trong cuộc đời.
Thế nào là "chấp pháp"?
CHẤP PHÁP
Con
người thường cho rằng mọi việc trên đời đều tồn tại vĩnh viễn. Chúc tụng nhau
hạnh phúc trăm năm. Tình bạn muôn năm, tình yêu bất diệt. Cầu xin mãi mãi bình
yên, không gặp nạn tai, không chuyện phiền toái. Tất cả chỉ là niềm mơ ước,
mong muốn mà thôi, không phải là sự thực. Con người khi đạt được một địa vị nào
đó trong xã hội, có được một sự nghiệp nào đó trên đời, thường nghĩ rằng, mong
rằng, những thứ đó là miên viễn, là thường còn. Con người vĩnh viễn giữ được
những điều mình đang có.
Bởi vậy cho nên mới có Hoàng Thượng vạn tuế, Tổng Thống muôn năm, Chủ Tịch muôn đời, Hội Trưởng vạn niên!
Sự thực,
muôn pháp trên thế gian, muôn việc trên cõi đời, từ vật chất cho đến tinh thần
đều biến chuyển đổi thay, không bao giờ ngưng. Nhứt là những thứ có hình thức,
tướng mạo, lớn như quả địa cầu, dãy núi, nhỏ như trái cam, hạt cải, đều trải
qua bốn giai đoạn:"sinh, trụ, dị, diệt". Nghĩa là mọi vật được
sinh ra bằng cách nào đó, trụ thế được một thời gian nào đó, rồi cũng đến lúc
biến dị và cuối cùng là hoại diệt. Trong đạo Phật gọi đó là "vô
thường".
Ở thế gian người ta gọi đó là "sự tàn nhẫn vô tình của thời gian". Mọi pháp thế gian đều không tồn tại qua thời gian. Một tòa nhà cao chọc trời kiên cố, một hệ thống xa lộ vĩ đại, tất cả chỉ còn là đống gạch vụn sắt vụn sau một cơn động đất. Một thị trấn sầm uất đông dân, nhà cửa đông đúc, tất cả chỉ còn là một khoảnh đất điêu tàn hổn độn, sau khi một cơn bão tố khủng khiếp đi ngang qua. Con người thấy đó rồi mất đó. Trên đời không có gì đáng để cho "con người tỉnh thức" phải hơn thua tranh chấp cả! Còn theo đuổi việc hơn thua tranh chấp, con người vẫn còn si mê, chưa thức tỉnh, cho nên không thể có cuộc sống ý nghĩa được.
Ở thế gian người ta gọi đó là "sự tàn nhẫn vô tình của thời gian". Mọi pháp thế gian đều không tồn tại qua thời gian. Một tòa nhà cao chọc trời kiên cố, một hệ thống xa lộ vĩ đại, tất cả chỉ còn là đống gạch vụn sắt vụn sau một cơn động đất. Một thị trấn sầm uất đông dân, nhà cửa đông đúc, tất cả chỉ còn là một khoảnh đất điêu tàn hổn độn, sau khi một cơn bão tố khủng khiếp đi ngang qua. Con người thấy đó rồi mất đó. Trên đời không có gì đáng để cho "con người tỉnh thức" phải hơn thua tranh chấp cả! Còn theo đuổi việc hơn thua tranh chấp, con người vẫn còn si mê, chưa thức tỉnh, cho nên không thể có cuộc sống ý nghĩa được.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
"Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng".
Nghĩa là
phàm ở trên đời những gì có hình thức, tướng mạo, có thể nhìn thấy bằng cặp mắt
thường, đều là hư vọng, là giả tạm, không tồn tại vĩnh viễn, kể cả cái thân xác
của chúng ta hiện có.
Các câu
tục ngữ như:
"Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết",
"Thương hải biến vi tang điền",
hay
"Bức tranh vân cẩu, kiếp người tang thương",
chính là nghĩa đó vậy.
"Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết",
"Thương hải biến vi tang điền",
hay
"Bức tranh vân cẩu, kiếp người tang thương",
chính là nghĩa đó vậy.
VP. PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG
CANADA
Giác Ngộ Và Giải Thoát
(Cư Trần Lạc Đạo Tập 2)
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Trên thế gian này, đạo Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử,
khởi thủy từ Á châu truyền sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại
Mỹ châu và Úc châu. Song song với đà phát triển của khoa học hiện nay, dân
chúng ở các xứ văn minh và tiến bộ đang dần dần mất sự tin tưởng nơi các tôn
giáo chủ trương thần quyền, thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi việc
qua đức tin nơi thượng đế mà thôi. Cùng với sự phát triển của khoa học, dân
chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc ngày càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần,
do nhiều áp lực, nhiều khó khăn, dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa
học ngày càng đáp ứng tối đa các nhu cầu, những tiện nghi vật chất của con
người.
Trong khi đó, các tôn giáo hiện diện tại đây từ trước, không đáp ứng
được những nhu cầu tinh thần, những vấn đề tâm linh của con người.
Cho nên, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu
giáo lý của đạo Phật và thực hành những lời dạy của Đức Phật trong đời sống
hằng ngày. Từ đó, họ tìm được sự an lạc và hạnh phúc, ngay trong đời sống đầy
dẫy những bất trắc và phiền não khổ đau. Họ phát tâm tu tập một cách tích cực,
dưới nhiều hình thức, tu sĩ hay cư sĩ tại gia, họ viết sách, dịch kinh Phật
Giáo để phổ biến cho mọi người cùng hiểu biết, để được giác ngộ và giải thoát.
Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng trí tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà
thôi.
* * *
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như
Lai,
tức là phỉ báng Như Lai vậy".
Nghĩa là nếu chúng ta đến với Như Lai, tức là đến với Đức Phật chỉ bằng
niềm tin, chỉ biết tin tưởng Đức Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền năng, có
thể ban phước như lời cầu nguyện của chúng ta, có thể ban cho chúng ta và gia
đình một cuộc sống bình an, như ý, mà không chịu học hiểu giáo lý, tìm hiểu
những lời dạy của Đức Phật, để áp dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta
phỉ báng Đức Phật.
Tại sao vậy?
Bởi vì, nếu cầu nguyện, khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện,
không công hiệu, không hữu hiệu, không hiệu quả, không kết quả như ý hoặc không
có được đáp ứng gì cả, chúng ta sẽ nghĩ là Đức Phật không linh thiêng, niềm tin
không còn, dễ theo ngoại đạo. Chắc chắn ai ai cũng biết: cuộc đời của các vị
giáo chủ của các tôn giáo trên thế gian này đều không có bình an một cách tuyệt
đối, theo cái nhìn tầm thường của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn
bị người khác nhục mạ, vu cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết
chết thê thảm như một tội phạm hình sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được như
ý, như lời cầu nguyện, khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào? Cuộc đời
của Đức Phật cũng gặp những chuyện như vậy, cũng trải qua các giai đoạn của
cuộc sống như mọi người khác trên thế gian: sanh, già, bệnh, chết.
Như vậy, Đức Phật cứu khổ thế gian này bằng cách nào?
Bằng hình thức ban phước theo lời cầu nguyện, van xin chăng?
Bằng cách cứu độ cho những ai thờ phượng chăng?
Bằng cách cứu độ cho những ai tụng vài thời kinh, niệm vài câu A Di Đà
Phật, hay đọc vài bài chú chăng?
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
"Hãy tự thắp đuốc lên mà đi.
Thắp lên với Chánh Pháp".
Nghĩa là tất cả chúng ta hãy tìm hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách
tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của
mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để được an
lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Đức Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm
tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây bồ đề, trên thế gian này. Sau đó, Đức Phật
sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải thoát,
dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn, nhưng Đức Phật không cảm nhận
phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.
Vì tâm đại từ đại bi, thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Đức Phật đem Chánh Pháp, là những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy trong nửa thế kỷ, ví như để lại những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết con đường, biết phương pháp tu tập. Bất cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên trì, đều được giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Toàn bộ Chánh Pháp của Đạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc
đời, nguyên nhân gây ra đau khổ, tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn tịch diệt
và con đường dẫn chúng ta đến cảnh giới an lạc đó.
Trong kinh sách gọi đó là "Tứ Diệu Đế",
gồm có: khổ,
tập, diệt, đạo.
Đó chính là cách Đức Phật cứu độ chúng sanh, ban phước cho chúng sanh
vậy.
Do đó, chúng ta hãy tìm hiểu: Tứ Diệu Đế là gì?
Đức Phật đã giác
ngộ điều gì và giải thoát như thế nào?
* *
1) Điều trước tiên
Đức Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta ai ai cũng đều công nhận
cuộc đời "khổ nhiều vui ít". Những niềm vui trong cuộc sống thực là
hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền não, đau khổ, bất trắc, bất như ý, bất
toại nguyện thì quá nhiều. Ngoài cái khổ vì thiếu ăn, thiếu mặc của những người
nghèo đói do thiếu phước báo, cái khổ đến với mọi người trên khắp thế gian,
không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lão ấu, địa vị, học thức, giàu
nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa hay thường dân, đời này hay đời
trước. Cái khổ chung của tất cả mọi người trên thế gian đó là những gì?
Đó chính là chúng ta khổ vì: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ vì sanh
ra trong cuộc đời dẫy đầy những chuyện bất như ý, khó khăn, đấu tranh, sóng gió
và gian nan, vì tuổi già sức yếu, đi đứng khó khăn, vì bệnh hoạn đau đớn triền
miên, vì cái chết đến bất ngờ, không như ý. Chúng ta muốn được luôn luôn bình
an, trẻ mãi không già, khỏe mãi không đau, sống mãi không chết, nhưng nào có ai
được như vậy đâu? Chẳng những chúng ta khổ vì sanh, già, bệnh, chết, chúng ta
còn khổ vì xa lìa người thân thương, vì gặp những người không ưa, những kẻ oán
thù, vì cầu nguyện, van xin nhiều quá, mà chẳng được gì, vì ngũ ấm xí thạnh,
nghĩa là cái thân xác ngày một to béo nặng nề một cách khổ sở, và quan trọng
hơn, chúng ta khổ vì cái vọng tâm điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng
lộn xộn, thay đổi từng giây từng phút, không lúc nào ngừng nghỉ, ví như con
vượn chuyền cây, như con ngựa chạy rong, như con trâu giẫm đạp lúa mạ của
người.
Cái tâm ý điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội
tạo nghiệp này, là nguyên nhân chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của
đạo Phật.
Trong kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Cuộc đời là biển khổ.
Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển
lớn".
Cuộc đời đầy dẫy những chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển khổ, khiến cho nước mắt trong nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với nước bốn biển lớn. Con người mãi mê đấu tranh, giành giựt, hận thù, bon chen, hơn thua trong cuộc sống, do lòng tham lam, sân hận, si mê, mà quên đi những khổ đau, cho đến khi nhắm mắt lìa đời, cũng chưa giác ngộ được. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
* *
2) Đạo Phật nhận định
cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu cực, bi quan, yếm thế,
chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh, để tìm phương
cách giải thoát, không còn chìm đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi,
những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc
chẩn bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho
nên, ngay sau đó, Đức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau.
Trong Kinh Viên Giác, Đức Phật có dạy:
Con người vì vô minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp.
Đó là hai nguyên nhân chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời.
Khi nào hiểu được một cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính
gây ra khổ đau, chúng ta sẽ tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống
hiện tại.
Thế nào là "chấp ngã"?
Chấp ngã có hai phần: vật chất và tinh thần.
Về vật chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy chục ký lô này là
"mình". Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy
lường là chính "mình". Nếu có người hỏi: chúng ta là ai? Chúng ta
liền chỉ vào thân mình và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác thân tứ đại giả
tạm này đâu phải là "mình". Cái xác thân tứ đại bao gồm những chất:
đất, nước, gió, lửa, tụ hội với nhau trong một thời gian, từ khi cha mẹ sinh
ra, cho đến khi chúng ta thở ra, mà không muốn hít vào nữa, thì ô hô tử vong!
Thời gian đó ít năm, nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp duyên của mỗi người.
Người đời thường gọi đó là: số mạng, định mạng, hay số mệnh, định mệnh.
Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt, xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi. Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình", chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không biết đó thôi.
Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở về với nước, các chất cứng như thịt, xương trở về với đất. Cái gì là "mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không hồn, cái tử thi bất động. Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm na là: cát bụi trở về với cát bụi. Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút, từng giây, thì chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn khỏe thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là "mình", chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc nó, thì quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê, mà không biết đó thôi.
Chúng ta đã hiểu cái thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm đó cũng không phải là "mình". Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta suy nghĩ rất hiền lành, thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí cúng dường, muốn trở thành người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc, chúng ta tính toán, suy lường, muốn hơn người khác cho thỏa lòng ganh tị, đố kyﬠmuốn thấy người khác suy sụp, gặp nạn cho thỏa lòng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử hỏi chúng ta là người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay là hai?
Dù là khởi tâm thiện, hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc tâm thiện khởi lên, muốn làm người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không được, thí dụ chúng ta muốn cứu người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đã bó tay, chúng ta sẽ đau khổ. Lúc tâm bất thiện khởi lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy nan, khốn đốn, mà họ vẫn cứ bình an, chúng ta sẽ đau khổ. Đàng nào chúng ta cũng đau khổ cả! Lòng tự ái cao là một dạng của tâm chấp ngã. Do tâm tham ái, chấp ngã một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Thế nào là "chấp pháp"?
Chấp pháp cũng có hai phần: vật chất và tinh thần.
Về phương diện vật chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng như cái nhà
này, cái xe này là của mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ, mọi việc,
mình làm, mình nói, mình nghĩ, cái gì của mình cũng là đúng, là nhất. Về phương
diện vật chất, chúng ta đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này sẽ vĩnh
viễn trường tồn, cho là những người thân sẽ mãi mãi ở bên mình, cho là những
của cải vật chất như nhà cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp luôn luôn thuộc về
mình. Cho nên, nếu người thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của cải vật
chất có bị mất mát hư hao, thì chúng ta sẽ đau khổ!
Về phương diện tinh thần, chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là
đúng, việc mình làm là đúng, ai có ý kiến khác, ai làm khác là không đúng, là
sai. Chúng ta thường cho là người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ giống như
mình, nên khi có người phát biểu khác đi, chúng ta khó chấp nhận được. Chúng ta không
thấy những lỗi lầm, sai trái của mình, cho nên đau khổ, bực bội, vì chỉ thấy
lỗi lầm của người.
Thí dụ trong gia đình, nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ biết la mắng con cái vì chúng không theo ý muốn của mình, bất chấp ý kiến của chúng, thì người cha đó chắc chắn sẽ phiền não đau khổ và làm cho mọi người trong gia đình cũng phiền não đau khổ theo. Chúng ta nên biết hai thế hệ khác nhau thì ý kiến, sự suy nghĩ, cảm giác đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng chấp chặt các quan niệm xa xưa, cổ lổ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa. Cứ chấp chặt như vậy chỉ đưa đến phiền não và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy. Chuyện quốc gia xã hội, cho đến chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ vậy thôi. Khi bất cứ chuyện gì xảy ra, người nào, bên nào cũng có một phần lỗi, không nhiều thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào toàn vẹn. Hiểu được như vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm.
Trong cuộc sống gia đình cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng ta phải biết quên mình vì người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu tâm ý quá ích kỷ, chỉ biết có mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình, cái gì cũng vì mình hết trơn, thì chỉ có phiền não và khổ đau mà thôi. Muốn có một gia đình hạnh phúc, người cha phải biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho cả gia đình, người mẹ cũng phải biết hy sinh những vui thích cá nhân, hòa hợp với nhịp sống chung của gia đình, con cái phải biết nhớ ơn sinh thành, dưỡng dục của cha mẹ, phải biết nghe lời dạy dỗ, phải biết báo hiếu.
Trong một quốc gia có hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, kình chống
nhau kịch liệt, phe nào cũng muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho mình là
đúng nhứt, là yêu nước nhứt, thì quốc gia đó khó có thể tiến bộ được, dân chúng
không thể sống trong an lạc và hạnh phúc được. Tại sao vậy? Bởi vì phe cầm
quyền làm được bất cứ việc gì, cũng bị phe chống đối phá hoại, ngăn trở, phỉ
báng, xuyên tạc. Chúng ta thường tự kỷ ám thị, không chịu nhìn nhận sự thật, chỉ vì sự
thật không theo như ý của mình, của gia đình mình, của phe nhóm mình, của tôn
giáo mình.
Trên thế gian này, người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng phát lương ít; ngược lại, công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh lương nhiều. Thế là đấu tranh và đau khổ! Trên thế gian này, người ta thường nhớ rất kỹ đã làm ơn, giúp đỡ cho bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại không muốn nhớ bất cứ ai đã làm ơn, giúp đỡ mình. Trên thế gian này, trâu cột ghét trâu ăn, được làm vua thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra to, chuyện có nói không, chuyện không nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát, được chim bẻ ná, được cá quăng nôm, khen mình khinh người, là những "chuyện như thị", tức là những sự thực đương nhiên, không cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được. Hiểu được như thế và đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau khổ nhiều lắm!
Chúng ta thường mơ ước, cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng gió. Nhưng làm sao có thể như vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như mặt biển cả, sóng gió triền miên, khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi sóng lặng gió yên, cơn sóng này qua đi, thì cơn sóng khác lại đến. Việc này chưa xong, thì việc khác lại xảy đến. Điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp dụng Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi việc, với tâm thiền định, bình tĩnh, thản nhiên, chấp nhận, thì chúng ta sẽ giảm bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp pháp một cách mù quáng, chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
3) Sau khi chỉ rõ
nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Đức Phật chỉ bày cảnh giới
niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh tịnh, an lạc và hạnh phúc cho
những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
Chư hành vô thường.
Thị sanh diệt pháp.
Sanh diệt diệt dĩ.
Tịch diệt vi lạc.
Nghĩa là mọi sự mọi việc trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại vĩnh
viễn, gọi là pháp sanh diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ diệt
đi, không có gì là vĩnh cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi, chuyện buồn có đến
rồi cũng qua, thời gian sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi việc. Chuyện vui hay buồn
đều làm tâm của chúng ta loạn động và bất an. Tâm của chúng ta dù khởi niệm từ
bi, hay khởi niệm sân hận, rồi cũng lặng đi, tất cả đều là các tâm niệm sanh
diệt. Chỉ có khi nào các tâm niệm sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng mất rồi,
không còn nữa, chúng ta sẽ được sống trong cảnh giới an lạc hạnh phúc, cảnh
giới tịch diệt vi diệu.
* Trong Kinh A Di Đà, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "nhất tâm bất loạn".
* Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người có
tâm "bất tùy phân biệt", của người không còn tranh chấp thị
phi, phải quấy, hơn thua, đúng sai.
* Trong Kinh Tịnh Danh, hay Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật dạy: đó là cảnh
giới của người đạt được "pháp môn bất nhị", của người không còn kẹt trong vòng
đối đãi nhị biên, không còn thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà
kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
* Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt được "thân kim
cang bất hoại", của người không còn kẹt vì các hình tướng giả tạm bên ngoài, của người
đạt được "thực tướng".
* Trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của người đạt
được "chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất
giảm", hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhã và chiếu kiến
ngũ uẩn giai không".
* Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Sanh diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền". Nghĩa là khi nào
tâm sanh diệt tiêu mất, không còn nữa, thì cảnh giới tịch diệt, tức là cảnh
giới niết bàn hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào mây đen tan mất, thì trăng
sáng hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào phiền não và khổ đau hết, thì an lạc
và hạnh phúc hiện tiền. Nói một cách khác: "vọng tâm tiêu hết, chân tâm
hiện tiền". Thực là đơn giản, dễ hiểu như vậy.
Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không
thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ
thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó
sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.
Cảnh giới này không thể nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để
diễn tả trọn vẹn được, ai thực hiện được, sống được trong cảnh giới đó, thì tự
người đó biết, cũng như người uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh giới này còn
gọi là "đạo".
Sách có câu: "đạo bất khả ngôn thuyết". Nghĩa là không thể
dùng ngôn ngữ của thế gian này để diễn tả, để chỉ bày, để nói về
"đạo". Sách cũng có câu: "ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là khi
nói lên bằng ngôn ngữ thế gian thì đã mất "đạo" rồi.
4) Đến đây, Đức Phật
chỉ dạy những phương pháp, những
pháp môn để đạt được "đạo", tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch
diệt đó. Vấn đề hiện giờ là: làm sao để các tâm niệm sanh diệt đó không còn
khởi lên nữa, hoặc các tâm niệm sanh diệt đó có khởi lên, làm sao cho nó lắng
xuống, tiêu mất? Nói cách khác: Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này
chính là trọng tâm của đạo Phật.
Toàn bộ giáo pháp của đạo Phật,
chia ra 37 phẩm, gồm có:
tứ niệm xứ, tứ như ý túc, tứ chính cần,
ngũ căn, ngũ lực,
thất bồ đề phần
và bát chánh đạo.
Chánh Pháp gồm 37 phẩm này giúp chúng ta đạt được "đạo" bằng trí tuệ, bằng sự quán chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải
chỉ bằng niềm tin đơn giản mà thôi.
* *
* "Tứ Niệm Xứ" là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn.
Quán thân bất tịnh, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn
những thứ nhơ nhớp, những thứ bất tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là
luôn luôn nhớ rằng thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp
chặt, thì tức nhiên là khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng tâm
ý con người đổi thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác, chớ có chấp
chặt làm chi cho khổ! Quán pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự mọi
việc trên thế gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ những quan niệm
chồng chúa vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời đại nào đó mà thôi,
không có thực thể cố định, không đúng với mọi thời gian, không đúng với mọi
không gian.
* "Tứ chính cần" là bốn việc luôn luôn chuyên cần,
chăm chỉ thực hành một cách chân chính. Đối với việc bất thiện đã sinh, phải
trừ dứt hẳn, đối với việc bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc
thiện chưa sinh, làm cho sinh ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho tăng
trưởng.
* "Tứ như ý túc" là bốn pháp thiền định, hay là bốn
phương tiện đưa chúng ta đến chỗ như ý muốn, thành tựu viên mãn. Đó là: dục,
cần, tâm, quán. Nghĩa là: chúng ta phải có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu sự
giải thoát, chúng ta phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo lý, chúng ta phải
khắc chế tâm niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết cách quán chiếu để giác
ngộ chân lý, thấu hiểu lẽ thực.
* "Ngũ căn" là năm pháp căn bản sinh ra các việc
thiện. Đó là: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin
sâu xa, vững chắc nơi Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề
biết mệt mỏi, luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự
bình thản, tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để suy xét
mọi sự mọi việc, không tin tưởng bừa bãi, không mê tín dị đoan.
* "Ngũ lực" là năm sức mạnh do năm pháp căn bản
nói trên thành tựu được. Nghĩa là do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh
mẽ nơi Chánh Pháp, do tấn lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển,
san bằng những trở ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn ghi
nhớ những thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập trung tư tưởng, và do
tuệ lực chúng ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
* "Thất bồ đề phần" còn gọi là "thất giác chi",
là bảy phần hiểu biết, bảy điều dẫn đến chỗ giác ngộ. Đó là: trạch pháp, tinh
tấn, hoan hỷ, khinh an, niệm, định, xã. Trạch pháp là dùng trí tuệ chọn lựa sự
thực hư, chơn giả của tất cả các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ dứt trừ tất cả
các nghiệp bất thiện, thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ là tâm luôn
luôn vui vẻ với mọi người, với mọi việc trên thế gian, không phân biệt gì cả,
để tất cả chúng sanh đều hỷ kiến.
Khinh an là tâm nhẹ nhàng, an lạc khi dứt trừ các phiền não, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài vòng tục lụy của thế gian. Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất cả chúng sanh, vì tâm từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các việc phước thiện. Định là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an nhiên, tự tại. Xã là tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất cả những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, không chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ.
* "Bát chánh đạo" là con đường gồm tám điều chân
chánh, dẫn đến mục
đích cứu kính của đạo Phật: giác
ngộ và giải thoát.
Đó là:
chánh kiến,
chánh tư duy,
chánh ngữ,
chánh nghiệp,
chánh mạng,
chánh tinh tấn,
chánh niệm,
chánh định.
1)
Chánh kiến là sự hiểu biết
chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý nhân duyên, lý duyên
khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị chi phối bởi thành
kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường
kiến. Người có chánh kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như
thực".
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Hãy đến với đạo Phật để thấy đúng như thực, chứ không phải chỉ đến để mà
tin!
Thấy "đúng như thực" nghĩa là sao?
Nghĩa là:
* Mọi sự việc đều có nguyên nhân. Thí dụ khi thấy
một cái cây mọc lên, chúng ta biết ngay là do hạt nhân nẩy mầm, không phải tự
nhiên mà có. Khi được bình an, sung sướng, chúng ta hiểu là đang hưởng phước.
Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là đang đền trả quả báo. Tất cả việc
phước hay họa là quả của nhân, do chúng ta gieo trước đây, đời trước hay đời
này, chứ không do ông trời nào ban phước giáng họa bừa bải cả. Đó là lý nhân
quả.
* Mọi sự việc do nhân duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng bìa mà hình thành. Đến khi do các nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lý nhân duyên.
* Mọi sự mọi việc không phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới có người đáp. Có người ăn quà mới có người bán quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng. Có sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
2) Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Không nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người
có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất cả
những gì có nhiều người tin theo, có ghi trong sách vở.
Chỉ nên tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với
lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi
người.
Bởi vậy, Đức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu". Nghĩa là chúng ta
hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học hỏi, rồi suy nghĩ, tư
duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo, trước khi thực hành, tu tập theo.
3) Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây hiềm khích giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực, không thiên vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa! Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người. Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.
4) Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành động không chân chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.
Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Tam nghiệp hằng thanh tịnh.
Đồng Phật vãng tây phương.
Nghĩa là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng
ta theo chư Phật về cảnh giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
5) Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác, không sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng dường chư Phật.
6) Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
Trong Kinh Đại Bát Niết Bàn, Đức Phật có dạy:
Chư ác mạc tác.
Chúng thiện phụng hành.
Tự tịnh kỳ ý.
Thị chư Phật giáo.
Trong kinh sách, tượng trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng
mãnh, vượt ngoài ý chí tầm thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế Chí.
7) Chánh niệm là luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự đấu tranh, cãi vã.
Chư Tổ có dạy:
Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức.
Nghĩa là con người có công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong
tâm, con người có đức độ bên ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền hòa.
Người có chánh niệm là người luôn luôn biết rõ ràng mình đang làm gì, đang nói
gì, đang nghĩ gì, luôn luôn sống trong tỉnh thức, nhận biết ngay mỗi khi vọng
niệm dấy khởi và không theo, luôn luôn nhớ và sống theo lời Phật dạy, luôn luôn
sống với Chân Tâm Phật Tánh, tức là với Bản Tâm Thanh Tịnh.
8) Chánh định là sự bình tỉnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để dẹp trừ lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn động, tâm lăng xăng lộn xộn.
Người có chánh định do giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã, đưa đến giác ngộ và giải thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ". Ngoài ra, chúng ta cũng đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai thái cực.
Cho nên, Đức Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng
hết những tâm niệm dù thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ đau,
để được an lạc và hạnh phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được giác
ngộ và giải thoát.
Tóm lại, chúng ta biết những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi trong các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời. Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức Phật mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích lợi gì hiện đời cả.
Chư Tổ có dạy:
Tu mà không học là tu mù.
Học mà không tu là đãy sách.
Nghĩa là muốn hưởng an lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải
thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp
cũng ví như người mù lại không có bản đồ, không người hướng dẫn, thì làm sao đi
đến nơi đến chốn một cách an lành được. Bản thân đã tu mù, không nghiên tầm
giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt người khác tu tập, thì quả là đại
họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng thực sư tử nhục. Trái lại, Chánh Pháp
để áp dụng, thực hành chứ không phải để nói suông, để thảo luận, để tranh cãi.
Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn kiến thức, mà không lo tu tập, không áp dụng
vào đời sống hằng ngày, thì cũng chỉ có thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà
thôi, cũng ví như cái đãy, cái túi đựng sách có giới hạn vậy thôi. Những người
đó cũng như những người đếm tiền trong ngân hàng, những người đếm bò cho chủ,
trọn không có tiền và cũng không có bò.
Có câu chuyện giáo lý tối thượng thừa như sau:
Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn
đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng
như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì
cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe
có lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có người đi đụng phải anh. Anh
mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã
tắt từ lâu rồi!
Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta
tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm luân,
sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi không được hữu dụng.
Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính chúng ta. Cây đèn đó
chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người chúng ta vậy. []
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ