Bí ẩn ngôi chùa không có hòm công đức và nhục thân Thiền sư 300 năm không phân hủy ở Bắc Ninh.
Những ngày đầu xuân, người dân tới viếng thăm Chùa Tiêu (Tương Giang, Từ Sơn, Bắc Ninh) đều rất ấn tượng với khung cảnh tĩnh tại nơi đây với những quy định không phải ngôi chùa nào cũng có. Chùa Tiêu có tên chữ là Thiên Tâm Tự, xưa còn có tên là chùa Lục Tổ, nằm ở sườn núi Tiêu, dưới chân núi là dấu tích dòng sông Tiêu Tương cổ.
Tại
ngôi chùa này, Thiền sư Lý Vạn Hạnh có công nuôi dạy Lý Công Uẩn, sau
này khai lập vương triều nhà Lý. Chùa Tiêu Sơn có quy mô to lớn. Trong
nhiều thế kỷ, chùa là nơi khắc ván in các bộ kinh lớn của nhà Phật. Vào
năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, ngôi cổ tự bỗng chốc đã biến
thành đống tro tàn. May thay ở sườn núi còn khá nguyên vẹn 14 ngọn tháp,
là nơi yên nghỉ của các vị sư tổ.
Bước
lên sau những bậc đá đầu tiên sau cửa chùa chính là nơi đặt 14 bảo tháp
thờ các vị thiền sư đã từng trụ trì và viên tịch tại chùa.
Khung
cảnh "non xanh nước biếc như tranh họa đồ" cùng những hệ thống tượng
Phật, điện thờ tiếp nối nhau thành một khối càng tô thêm vẻ linh thiêng
cho ngôi chùa.
Điều
đặc biệt, ở ngôi chùa này, theo sư trụ trì Thích Đàm Chính, từ ngày cụ
về chùa đã không thấy bất cứ hòm công đức nào. Mấy chục năm nay, theo
nếp cũ, sư trụ trì cũng không đặt hòm công đức. Nếu nhà chùa muốn tu sửa
gì, kêu gọi phật tử phát tâm, đủ tiền xây dựng là nhà chùa dừng luôn,
ai có muốn công đức nhà chùa cũng nhất định không nhận.
Trong
chánh điện không có bất cứ một hòm công đức nào, chùa cũng nghiêm cấm
Phật tử đốt vàng mã, dâng hương trong tam bảo, cúng rượu thịt...
Ngôi nhà Tổ của chùa - nơi đang đặt nhục thân của nhà sư Thích Như Trí có tuổi đời gần 300 năm nay.
Tượng
nhục thân thiền sư Thích Như Trí (khám thờ bên trái, mặc áo vàng) được
thờ phụng trong nhà Tổ của chùa từ năm 2004 đến nay. Theo sử liệu liên
quan, thiền sư Thích Như Trí viên tịch vào năm Quý Mão 1723 thời vua Lê
Dụ Tông. Khoảng 50 năm trước, một trong số các ngôi tháp trong vườn tháp
chùa Tiêu Sơn có tượng Thiền sư Thích Như Trí. Sau khi mãn duyên độ
sinh, ngài nhập thất kiết già và để lại nhục thân bất hoại hay còn gọi
là toàn thân xá lợi cho đời sau. Đây được xem là 1 trong 4 pho tượng độc
đáo nhất Việt Nam được làm theo hình thức thiền táng hay còn gọi là
tượng táng.
Trong
sân chùa có treo những bộ tranh nhân quả với mong muốn con người hướng
đến cái thiện, bỏ đi những cái xấu, gieo nhân gì thì gặt quả đấy.
Trên
đỉnh núi Tiêu có đặt tôn tượng của nhà sư Vạn Hạnh từ năm 2016, hướng
về kinh thành Thăng Long - Hà Nội. Ngài ngồi tọa trên lưng hổ và có linh
hầu đứng chầu bên cạnh.
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Mầu Áo Cà Sa
CÔ HỒN VÔ THƯỢNG
SƯ FASHION SHOW
Kính mời
xem tiếp:
http://phtq-canada.blogspot. ca/2011/12/thuong-toa-hay-chu- tieu-phtq-so-19-se.html
http://phtq-canada.blogspot.
Mầu Áo
Cà Sa
Cách đây hơn 2600 năm, Thái Tử Tất
Đạt Đa nửa đêm lặng lẽ giã từ cha già, mẹ yếu, vợ đẹp, con xinh,
kinh thành Ca Tỳ La Vệ và thần dân trăm họ để xuất gia tầm
Đạo. Sau khi vượt khỏi dòng sông Anoma rì rào sóng vỗ, Thái tử gò mạnh dây cương nhảy xuống
ngựa: con đường mòn tới đây là dứt nẻo. Ngài trao cương ngựa cho Xa-nặc,
từ biệt. Sau đó, Thái Tử tự cắt bỏ râu
tóc và mặc y phục sa môn. Đó là chiếc cà sa đầu tiên
trong Phật Giáo. Bồ Tát Tất Đạt Đa trong giai đoạn xuất
gia tu tập đã lượm vải bô chằm vá để tạo thành áo cà sa mặc che
nắng che mưa. Chiếc cà sa đó đánh dấu một
sự thoát ly vĩ đại: một Thái Tử tột bực cao sang có
tất cả lại giã từ tất cả để xuất gia tìm chơn lý.
Gốc tiếng Phạn của chữ cà sa là
kasaya, có nghĩa là bạc màu hay hoại sắc, không phải năm mầu chính.
Chiếc áo cà sa không bao giờ mang màu sắc sặc sỡ, kết ren hay thêu thùa.
Chiếc áo cà sa của người xuất gia tu Phật tượng trưng của
những gì khiêm tốn, đơn sơ và tầm thường nhất.
Áo cà sa gồm nhiều mảnh, có thể
mỗi mảnh một màu, vì đó là những mảnh vải nhặt được và khâu lại với nhau. Ngày
nay tùy theo học phái, địa phương, phong tục, khí hậu, chiếc áo cà sa
cũng biến dạng đi, từ cách may cho đến màu sắc: màu vàng ở Ấn
độ và các nước theo truyền thống Nam tông; các màu vàng, màu
lam, nâu, nâu đỏ như ở Việt Nam và Trung quốc; màu lam ở Hàn
quốc; màu đen hay nâu đen (màu trà) ở Nhật; màu vàng nghệ hay nâu đỏ ở Tây tạng.
Nói chung có ba màu chính theo phép quy định: tức màu gần như đen (màu
thâm, màu bùn dất), màu xanh (màu rỉ đồng), màu gần như đỏ (màu hoa quả).
Trên thực tế thì ngày nay chiếc áo cà sa đã biến đổi nhiều tùy theo phong thổ, tập quán, chủng tộc, học phái. Nhưng dù cho có biến đổi thế nào đi nữa thì chiếc áo cà sa phải giữ được ý nghĩa nguyên thủycủa nó: sự đơn sơ, khiêm nhường, trân quý và cao cả. []
Trên thực tế thì ngày nay chiếc áo cà sa đã biến đổi nhiều tùy theo phong thổ, tập quán, chủng tộc, học phái. Nhưng dù cho có biến đổi thế nào đi nữa thì chiếc áo cà sa phải giữ được ý nghĩa nguyên thủycủa nó: sự đơn sơ, khiêm nhường, trân quý và cao cả. []
Rõ ràng, người xuất gia mà y phục gấm
lụa xênh xang thì Phật rầy: Chẳng hành đúng luật, do lòng tin kiên cố, xuất gia học
đạo, vì sao lại mặc áo cực đẹp, tô sửa hình vóc, cùng bọn bạch y kia
đâu có khác gì. Lời Phật quở trách thật nặng mà cũng
thật từ bi, và rất đáng để chúng ta suy ngẫm trong bối cảnh áo
mão lên ngôi khá phổ biến hiện nay. Vẫn
biết tất cả đều là phương tiện, cần thiết cho một số lễ nghi nhưng không
nên sa đà, không quá lạm dụng áo mão để đánh mất đi hình ảnh đặc
trưng “đầu tròn, áo vuông” vốn dĩ thanh bần của người xuất gia thoát
tục.
Ma Tăng Bắc Tông trong các Lễ Trai Đàn Chẩn Tế (tà pháp) tại Việt Nam - Hải Ngoại (Canada - Usa - Europe - Australia)