30.4.1975 CHIẾN TRANH KẾT THÚC
TRI ÂN CHIẾN SĨ QUÂN LỰC VIỆT NAM CỘNG HÒA
BẢO VỆ AN NINH LÃNH THỔ 20 NĂM
1955-1975
Những gì tôi nhìn thấy khi Mỹ thua cuộc
Tâm
trạng chán nản, thất vọng không thể giấu diếm hiện rõ trên nét mặt
những nhân vật quyền lực của chính quyền Mỹ thời bấy giờ, được ghi lại
qua những bức ảnh tư liệu quý giá vào đúng lúc kết thúc cuộc chiến tranh
Việt Nam.
LTS: Cuốn
sách “Những biên bản cuối cùng tại Nhà Trắng: Phút sụp đổ của Việt Nam
Cộng hoà” do Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật phối hợp với Viện
Nghiên cứu Phát triển Phương Đông xuất bản nhân dịp kỷ niệm 44 năm Ngày
giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30/4/1975 – 30/4/2019) vừa ra
mắt, được bạn đọc chào đón. Được sự đồng ý của Viện Nghiên cứu Phát
triển Phương Đông, phóng sự “Từ Sài Gòn tới Nhà Trắng – Những gì tôi
nhìn thấy khi Mỹ thua cuộc” của David Hume Kennerly, nhiếp ảnh gia của
Tổng thống Mỹ Gerald Ford in trong cuốn sách đặc biệt này.
Nhiếp ảnh gia David Hume Kennerly
David
Hume Kennerly là một nhiếp ảnh gia, một nhà báo Mỹ, từng giành giải
Pulitzer năm 1972 cho những bức ảnh chụp về chiến tranh Việt Nam,
Campuchia, về người tị nạn Đông Pakistan… Là nhiếp ảnh gia riêng của
Tổng thống Mỹ Gerald Ford, Kennerly đã có cơ hội chứng kiến và ghi lại
những khoảnh khắc lịch sử trong chuỗi ngày cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam.
Tâm
trạng chán nản, thất vọng, lo âu là điểm chung không thể giấu diếm hiện
rõ trên nét mặt những nhân vật quyền lực của chính quyền Mỹ thời bấy
giờ, đã được ghi lại qua những bức ảnh tư liệu quý giá vào đúng lúc kết
thúc cuộc chiến tranh dai dẳng, đẫm máu ở Việt Nam.
Lời tự sự của nhiếp ảnh gia David Hume Kennerly:
“Tôi
đã có một chỗ ngồi hàng đầu cho hồi kết cuộc của cuộc chiến tranh Việt
Nam – một cuộc chiến mà tôi đã trải qua hơn hai năm trong đời mình để
tường thuật tại chỗ cuộc giao tranh.
Câu
chuyện Việt Nam của tôi bắt đầu hồi đầu năm 1971, khi hãng thông tấn
United Press International chỉ định tôi sang văn phòng tại Sài Gòn để
thay thế nhiếp ảnh gia Kent Potter, người sắp được luân chuyển. Anh ta
không hề có được cơ may đó. Vào tháng 2-1971, Potter và ba nhiếp ảnh gia
khác đã gặp nạn khi máy bay trực thăng của họ bị bắn rơi tại Lào trong
cuộc hành quân Lam Sơn 719. Larry Burrows của tờ Life, Henri Huet của
hãng AP, và Keisaburo Shimamoto của tờ Newsweek nằm trong số những người
tử nạn. Tôi không quen biết bất kỳ ai trong số các nhiếp ảnh gia hàng
đầu đó, nhưng Burrows từng là một anh hùng, và các bức ảnh của ông đã
truyền cảm hứng khiến tôi ước muốn được tường thuật về cuộc chiến. Một
ít tuần sau đó, tôi đã ở trên một phi cơ bay đến Sài Gòn.
Tôi
đã trải qua hơn hai năm để chụp ảnh cuộc giao chiến tại Đông Dương, và
vào năm 1972, tôi đã được trao giải thưởng Pulitzer cho công việc của
mình tại Việt Nam, Campuchia và Ấn Độ, nơi tôi đã chụp ảnh dân tỵ nạn
chạy trốn qua biên giới từ Đông Pakistan.
Việt
Nam đã trở thành một phần trong ADN của tôi; mọi điều xảy ra cho tôi kể
từ khi đó đã được định hình. Tôi ở tuổi 24, và năm đầu tiên với tư cách
một nhiếp ảnh gia mặt trận, có quá nhiều lần suýt chết, tôi thực sự
không hề nghĩ rằng mình còn sống được tới tuổi 25. Khi kỷ niệm kỳ sinh
nhật đó tại Sài Gòn, tôi cảm thấy mỗi năm sau đó là một bổng lộc trời
cho. Cho đến nay, phần lộc trời đó đã được cộng thêm tới 43 năm! Tôi đã
cố gắng tận dụng các năm tháng đó cho thật xứng đáng.
Tôi
đã quay trở lại nước Mỹ hồi giữa 1973 để làm việc cho tờ tạp chí TIME.
Một trong những nhiệm vụ ngay từ đầu của tôi là vụ xì-căng-đan
Watergate, và tôi cũng được chỉ định chụp ảnh vị lãnh đạo khối thiểu số
tại Hạ Viện Gerald R. Ford sau khi Phó Tổng Thống Spiro Agnew từ chức
vào mùa thu năm đó. Một bức ảnh mà tôi đã chụp ông Ford được in trên
trang bìa của tờ TIME khi Tổng Thống Nixon loan báo rằng ông Ford sẽ
thay thế Agnew làm tân Phó Tổng thống. Tờ TIME sau đó cử tôi phụ trách
đưa tin toàn thời gian về ông Ford. Khi Tổng Thống Nixon từ chức, và ông
Ford lên thay thế, ông đã yêu cầu tôi trở thành nhiếp ảnh gia chính của
ông.
Đi
cùng với công việc đó là sự tiếp cận hoàn toàn, không chỉ với Tổng
thống và gia đình, mà còn với mọi sự việc diễn ra trong hậu trường. Sự
kiện này quả là một niềm vinh dự, tạo sự phấn khích cuồng nhiệt và là
một trong những sự tưởng thưởng lớn nhất về mặt cá nhân và nghề nghiệp
trong cuộc đời tôi.
Vào
ngày 3-3-1975, sáu tháng sau khi khởi đầu nhiệm kỳ Tổng thống của ông
Ford, Nam Việt Nam đã bắt đầu tan rã khi Quân Đội miền Bắc tấn công vào
thành phố cao nguyên miền trung Buôn Mê Thuột. Sau vài ngày giao tranh
dữ dội gây ra hàng nghìn tổn thất nhân mạng, thành phố then chốt đó rơi
vào tay quân đội miền Bắc Việt Nam. Đây là bước khởi đầu cho sự kết liễu
của chính quyền Nam Việt Nam.
Cuộc
sống trước đây của tôi như một kẻ chụp ảnh chiến tranh đối nghịch với
công việc mới nhất của tôi với tư cách nhiếp ảnh gia của Tổng thống. Tôi
lặn sâu vào bên trong Nhà Trắng với tư cách nhiếp ảnh gia của Tổng
thống, và được trao cho một cơ hội độc đáo vô song để nhìn thấy một cuộc
chiến tranh nổ tung từ các sảnh đường của quyền lực. Sự tiếp cận đặc
biệt này cũng đã dẫn đến một cuộc du hành bí mật đến Việt Nam với một sứ
mệnh đặc biệt cho Tổng thổng Ford – và sau đó trở lại Nhà Trắng chứng
kiến hồi kết cuộc của vở kịch Việt Nam.
Những
ngày cuối cùng của tháng 4-1975 là những ngày khốn khổ cá nhân khi màn
cuối cùng của bi kịch Việt Nam mở ra. Tôi đã không ngủ, và đã tận lực để
bảo đảm rằng tôi đã chụp ảnh mọi khoảnh khắc mà tôi có thể chụp được
của chuỗi ngày chung cuộc căng thẳng này. Cùng lúc với việc có được điều
kiện độc đáo khi ghi nhận các biến cố được khai mở ra, tôi cùng bị vắt
cạn về mặt xúc cảm bởi các tình huống. Trong suốt bản thân cuộc chiến,
tôi đã lướt qua sự đau đớn của mình để thu thập chứng liệu của câu
chuyện, và tôi đã làm y như thế trong suốt những ngày cuối cùng đó. Tôi
cũng hiểu biết rằng chỉ một nhóm nhỏ những người với quyền hành khổng
lồ đã đưa ra các quyết định đình hình đời sống của chúng ta. Họ là những
người đã khởi sự và kết thúc các cuộc chiến tranh. Từng là một người
chỉ luôn đứng bên ngoài, thật sững sờ khi nhìn thấy tiến trình đó chuyển
động ra sao.
Mới
chỉ vài năm trước đây, tôi đã tận lực với một động lực muốn thu thập
chứng liệu các biến cố từ đầu mút phía bên kia – và sẽ ở hàng đầu khi
hành động diễn ra. Hay tôi đã nghĩ như thế. Không lâu sau đó, tôi nhận
thấy mình đang ở tâm điểm của một hoạt động kiểu khác – quan sát và ghi
nhận sự đau đớn của những quyết định về việc sống, chết và tương lai của
các dân tộc lần lượt được một vị Tổng thống đưa ra cho đến khi không
còn quyết định nào nữa để đưa ra. Và khi đó, cuộc chiến tranh Việt Nam
đã trôi qua.
Đây
là sự tường thuật và các hình ảnh của tôi về những ngày cuối cùng của
Mỹ ở Việt Nam và sự sụp đổ của Sài Gòn. Lời trích dẫn trực tiếp từ những
người tham dự được rút ra từ các biên bản được giải mật các phiên họp
của Hội đồng An ninh Quốc Gia, Bản ghi nhớ các cuộc đàm thoại, các phiên
họp của Nội Các Chính Phủ, các buổi họp báo của Tòa Bạch Ốc, quyển sách
của Tổng Thống Ford, nhan đề A Time To Heal, quyển sách của Donald
Rumfeld, Known and Unknown, và quyển tự thuật của chính tôi, Shooter.”
Ngày
16-3-1975: Quân đội miền Bắc Việt Nam đang ở Huế, và di chuyển xuống Đà
Nẵng. Nguy cơ tất cả các tỉnh phía bắc của Nam Việt Nam sẽ lọt vào tay
các lực lượng cộng sản đang tiến tới. Vào ngày 25-3, Tổng thống Ford họp
trong Phòng Bầu Dục với Tham mưu trưởng Lục Quân Hoa Kỳ, Đại Tướng
Frederick Weyand và Đại Sứ Hoa Kỳ tại Nam Việt Nam, Graham Martin.
Tổng
thống thảo luận việc phái Đại tướng sang Sài Gòn thực hiện sứ mệnh tìm
hiểu sự việc để xem xét bất kỳ điều gì có thể làm được hầu ngăn chặn làn
sóng tiến quân của Bắc Việt. Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Cố vấn An ninh
quốc gia Henry Kissinger, và trợ lý của ông, Tướng Brent Scowcroft, cũng
tham dự phiên họp. Bức ảnh tôi chụp Tướng Scowcroft tại văn phòng trong
Nhà Trắng khi ông nói chuyện qua điện thoại với một đồng sự phản ảnh
mức độ trầm trọng của tình hình.
Ngày
25-3-1975: Tổng Thống Ford nói với Tướng Weyand, “Ông Fred, ông sẽ đi
cùng với ông Đại sứ. Đây là một trong những công tác có tầm quan trọng
nhất mà ông từng được giao phó. Ông không đi đến đó để thất trận – mà để
cứng rắn và xem xét những gì chúng ta có thể làm được". Tổng Thống nói
tiếp, “Chúng tôi muốn có các khuyến cáo của ông về những điều có thể
mạnh bạo và gây chấn động cho miền Bắc. Tôi tiếc rằng tôi không có thẩm
quyền để làm một số việc mà Tổng thống Nixon có thể làm”. Ông Kissinger
có hỏi, “Đâu là tình hình thực sự và tại sao? Những gì có thể được làm?”
Tướng Weyand trả lời, “Chúng tôi sẽ mang về một đánh giá tổng quát và
mang lại cho họ (Nam Việt Nam, chú thích của người dịch) một mũi tiêm
hồi sức".
Ngày
25-3-1975: Sau khi họ rời khỏi phòng họp, tôi đã chụp bức ảnh một mình
Tổng thống trong văn phòng, thể hiện rõ sự thất vọng. Chúng tôi đã nói
về chuyến đi, và tôi đã nói với ông rằng, bởi kinh nghiệm sâu rộng của
tôi tại Việt Nam, tôi muốn đi cùng với Đại tướng Weyand. Tổng thống đồng
ý và nói rằng ông sẽ trông chờ tôi mang về cho ông một quan điểm thẳng
thắn và vô tư như thường lệ khi tôi trở về. Văn phòng của tôi ở tầng hầm
dưới đất của Tòa Bạch Ốc, và tôi đã ghé ngang để nói với nhân viên của
tôi rằng tôi sẽ sớm ra đi cho một chuyến du hành vào ngày hôm sau. Tôi
đã treo một tấm bảng trên cửa ra vào, ghi rằng: “Đi Việt Nam.
Sẽ
quay về trong vòng hai tuần lễ". Các nhân viên nghĩ tôi đùa giỡn cho
tới khi tôi không có mặt tại văn phòng ngày sau đó, hay trong gần hai
tuần lễ. Vào lúc muộn hơn buổi tối hôm đó, tôi đến chào tạm biệt ông bà
Ford và hỏi mượn Tổng thống một khoản tiền. Đây là những ngày chưa có
máy rút tiền tự động ATM. “Các ngân hàng đã đóng cửa, và tôi sẽ ra đi
trước khi chúng mở cửa” tôi nói. Ông Ford rút tất cả những tờ giấy bạc
mà ông có trong ví. “Đây này, 47 đô la, ông nói, “Đừng tiêu hết một lúc
nhé!”. Sau đó ông trở nên nghiêm trọng, đặt cánh tay lên vai tôi, và
nói, “Nhớ cẩn thận".
Ngày
26-3-1975: Máy bay của Đại tướng Weyand, một chiếc C-141 của Không Lực,
dừng lại để đổ thêm nhiên liệu tại Anchorage [bang Alaska. nd] và Tokyo
trước khi đến Sài Gòn 24 giờ sau đó. Trên máy bay, tôi làm quen với Ken
Quinn, một nhân viên trẻ của Hội đồng An ninh quốc gia chuyên về Đông
Nam Á. Tôi đã dùng thời giờ trong chuyến đi, và đã có dư thời giờ, nói
chuyện với George Carver and Ted Shackley, hai viên chức cao cấp của Cơ
quan CIA.
Họ
là những người làm việc núp sâu trong bóng tối và là các tham dự viên
quan trọng trong thiên hùng ca Việt Nam. Sau khi tới Việt Nam, Ken và
tôi được chỉ định làm bạn cùng phòng tại khu nhà của Đại sứ Martin ở Sài
Gòn. Vào lúc đó, cuộc di tản chính thức của người Việt Nam chưa diễn
ra. Tuy nhiên, Ken và các đồng sự của anh ta đã biết rằng sắp có sự kết
thúc.
Tôi
khám phá ra rằng Ken và một số nhân viên đồng sự tại Hội đồng An ninh
quốc gia đang điều hành một mạng lưới hữu hiệu, rộng lớn và rất không
chính thức để âm thầm giúp cho hàng nghìn người Việt đồng minh thoát ra
ngoài đất nước và đến nơi an toàn. Các cơ quan thông tấn Mỹ cũng lo lắng
nhiều về sự an toàn của các nhân viên Việt Nam và thân nhân của họ.
Tôi
đã thu xếp một cuộc gặp mặt không chính thức với Đại sứ và Art Lord,
đại diện cho giới truyền thông, dẫn tới một tiến trình không chính thức
để bắt đầu đưa một số trong những người đó ra khỏi xứ sở. Ông Đại sứ
nghĩ rằng một số người của các cơ quan thông tấn này giả dối bởi trong
khi họ yêu cầu sự trợ giúp để đưa người của họ đến nơi an toàn, họ lại
đang tường thuật rằng sẽ không có sự trả thù đối với người dân Nam Việt
Nam nếu Miền Bắc nắm chính quyền.
Ngày
29-3-1975: Tôi không phải là thành phần của các buổi thuyết trình chính
thức của Đại tướng Weyand, nhưng cùng lúc tôi đã có một chỉ thị rất cá
nhân từ Tổng thống Ford, muốn tôi cung cấp cho ông quan điểm trực tiếp
của chính tôi về tình hình. Tôi quyết định đi lên hướng Bắc. Đà Nẵng đã
nằm ngoài tầm tay, bởi trong thực tế đã nằm dưới sự kiểm soát của quân
đội Bắc Việt, vì thế tôi tìm cách ra Nha Trang, một thành phố nhỏ cách
Đà Nẵng 300 dặm về phía Nam, đã sẵn bị tràn ngập bởi dân tỵ nạn. Khi đến
nơi, tôi nhận thấy Montcrieff Spear, Tổng Lãnh sự Mỹ tại Nha Trang,
đang chuẩn bị rời đi. Vợ ông ta thực ra đang đóng gói hành lý khi tôi
đến thăm. Tuy nhiên, trước khi có thể rời đi, ông cần đi tìm người đồng
nghiệp là Tổng Lãnh sự Al Francis, người đã chạy khỏi Đã Nẵng.
Ngày
30-3-1975: Spear và tôi đã lấy một máy bay trực thăng của Không quân Mỹ
ra Vịnh Cam Ranh để đi tìm Francis, người đã tìm cách thoát ra khỏi Đà
Nẵng trên một chiếc tàu bị bắt cóc bởi các binh lính Nam Việt Nam trốn
chạy. Tôi đã nhìn thấy một chiếc tàu lớn chen chúc bởi hàng nghìn binh
sĩ, và ít nhất một kẻ trong họ, trong nỗi thất vọng về tình hình, tôi
đoán, đã khai hỏa vào chiếc trực thăng sơn cờ Hoa Kỳ. Họ bắn hụt nhưng
khiến cho viên phi công phải đánh một vòng quay ngược lại thật kinh
hoàng. Biến cố đã tạo ra một tin tức dội ngược về Hoa Kỳ, và bố mẹ tôi –
không hay biết rằng tôi đang có một sứ mệnh bí mật tại Việt Nam – đã
điện thoại đến Tòa Bạch Ốc. Họ ngạc nhiên khi được nối dây nói chuyện
với chính Tổng thống Ford – các nhân viên tổng đài điện thoại tại Nhà
Trắng biết quá rõ về tôi!! Tổng thống vừa được thuyết trình về biến cố,
và ông nói với bố mẹ tôi rằng tôi an toàn, song quá mạo hiểm.
Tác giả: David Hume Kennerly, nhiếp ảnh gia của Tổng thống Mỹ Gerald Ford
Ngô Bắc (biên dịch)
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Lễ Tưởng Niệm
Ngày Quốc Hận 30-4-2019 Trước Trụ Sở Quốc Hội Canada Tại Ottawa !
Lễ Tưởng
Niệm Quốc Hận 30-4-2019 Trước Tiền Đình QH Canada (Clip 2)
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Lễ Tưởng niệm Quốc Hận 30/4 lần thứ 44 tại
London, Anh quốc (1/2)
Lễ Tưởng Niệm Quốc Hận 30/4 lần thứ 44 tại
London, Anh quốc (2/2)
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Tháng tư đen 30/4/19 tại Paris.
De : "bichxuan Olier"
<bichxuanparis5@gmail.com>
Quốc Hận 30419 Tại Paris.mp4
Khi đoàn quân giải phóng tiến vào tiếp quản Saigon, chàng trai Nguyễn Đạt khi ấy 19 tuổi đã vác máy ảnh ghi lại nhiều khoảnh khắc quý giá ở thời điểm lịch sử 30/4/1975.
41 năm trước, chàng thanh niên Nguyễn Đạt sống cùng gia đình ở đường Trương Minh Giảng (nay là đường Lê Văn Sỹ, quận 3, TP HCM). Sáng 30/4/1975, thấy cảnh lộn xộn gần nhà, ông cảm nhận biến cố đã xảy ra nên lập tức cầm hai chiếc máy ảnh xuống đường ghi lại những khoảnh khắc lịch sử trên đường phố Sài Gòn.
Bức ảnh ông chụp vào khoảng 10h sáng 30/4/1975 khi quân giải phóng hướng từ Hóc Môn tiến vào trung tâm Saigon qua đường Trương Minh Giảng.
Khoảng 11h ngày 30/4/1975 trên đường Trương Minh Giảng, những chiếc xe chở quân giải phóng hướng từ Củ Chi tiến vào trung tâm thành phố.
Quân giải phóng ngồi trên xe cam nhông vẫy tay chào người dân Saigon.
Cùng thời điểm, biệt động thành xuất hiện đồng loạt, quần áo như người dân Saigon nhưng trang bị súng AK và P64
Chiếc xe quân sự người miền Nam hay gọi là “Motolova” xuất hiện tại cổng dinh Độc Lập 12h trưa 30/4/1975.
Sau khi tác nghiệp tại góc đường Trương Minh Giảng, ông Đạt lái xe đi khắp thành phố để ghi lại những khoảnh khắc Saigon ngày đầu tiên thống nhất. Ảnh chụp trên đường Võ Di Nguy (nay là đường Phan Đình Phùng, quận Phú Nhuận) lúc 12h ngày 30/4/1975.
Ông gặp chiếc xe Jeep chở các phóng viên nước ngoài vào khoảng 12h trưa trên đường Hai Bà Trưng.
Khoảng 13h ngày 30/4/1975 xe bọc thép M113 rời đi trên đường Chi Lăng, cửa hông Bệnh viện Nguyễn Thái Học, nay là đường Phan Đăng Lưu gần Bệnh viện Ung Bướu.
Ảnh chụp khoảng 14h chiều 30/4/1975 tại ngã tư Phú Nhuận. Theo mô tả của tác giả bức ảnh, chiếc xe tăng M48 bị bỏ lại trên đường còn đầy đủ súng đạn trên xe, một số thanh niên và trẻ em tò mò leo lên nghịch phá. Trên đường xuất hiện lá cờ giải phóng xanh đỏ ngôi sao vàng gắn trên xe máy của hai người đàn ông đang di chuyển.
Khoảng 14h chiều 30/4/1975 trước dinh Độc Lập.
15h ngày 30/4/1975 tại khu vực nhà máy xi măng Hà Tiên (quận Thủ Đức), ngay trạm thu phí xa lộ Hà Nội hiện nay.
Hình ảnh người lính giải phóng quân với chiếc xe máy cùng người dân Saigon chiều ngày 30/4/1975 tại ngã tư Phan Thanh Giản (nay là Điện Biên Phủ) và Trần Quốc Thảo.
Lính giải phóng quân di chuyển bằng xe tải trên xa lộ Biên Hòa, đoạn gần ngã tư Thủ Đức vào khoảng 15h ngày 30/4/1975.
Chiếc nón của lính giải phóng quân ngày 30/4/1975 được chụp tại cầu Thị Nghè.
Ảnh chụp vào khoảng 12h ngày 30/4/1975 ở đoạn đường giao nhau giữa Yên Đỗ (nay là Lý Chí Thắng, quận 3) và Hai Bà Trưng.
Người lính trong ngày 1/5/1975, ảnh chụp tại khu vực cầu Thị Nghè. Tác giả hy vọng những nhân vật xuất hiện trong bộ ảnh nhận được hình ảnh của mình 41 năm trước.
Nhiếp ảnh gia 60 tuổi cho biết thêm, hôm ấy ông chụp hết hai cuộn phim đen trắng còn lại. Có 72 kiểu nhưng phần lớn ảnh bị hỏng.
Theo TRI THỨC TRỰC TUYẾN
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll