Phàm
ở trên đời này, con người theo bất cứ tôn giáo hay tín ngưỡng nào cũng thường
cầu nguyện.
Cầu
không được, khổ là cái chắc.
Cầu bất đắc, tức khổ không sai.
https://lotus-lantern-canada.blogspot.com/2021/08/normal-0-false-false-false-en-us-x-none.html
https://phtq-canada.blogspot.com/2022/09/toi-va-nghiep.html
https://phtq-canada.blogspot.com/2019/02/nen-tao-phuoc-tranh-tao-nghiep.html
Việc
may mắn đến, mình biết ngay rằng:
đó
là phước báo,
do
việc thiện lành chính mình đã làm.
Việc
không may xảy đến, mình biết ngay rằng:
đó
là quả báo,
do
việc bất thiện chính mình đã làm.
Theo
chánh pháp,
nên
biết rằng:
chỉ có phước báo mới làm giảm bớt
hay tiêu trừ quả báo mà thôi!
Cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, mà không tu nhân tích phước, không tu tâm dưỡng tánh, không dừng các nghiệp bất thiện, phỏng có được gì ?
https://phtq-canada.blogspot.com/2015/03/toi-va-nghiep.html
https://phtq-canada.blogspot.com/2011/05/toi-nghiep-phat-hoc-tinh-quang-so-7.html
(Tập San Phật
Học Tịnh Quang Số 7)
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Trên thế gian này, chúng
ta từng chứng kiến các cảnh phiền não khổ đau, nhiều hơn là bình yên vui sướng.
Ngay trong cuộc đời của chúng ta, những sự bất trắc, bất như ý, bất toại
nguyện, cũng nhiều hơn những việc vui vẻ, vừa ý, toại nguyện.
Cho nên, nhận định cuộc
đời "khổ nhiều vui ít", đó là sự thực rõ ràng, nhưng trong chúng ta
ít người dám mạnh dạn nhìn nhận. Con người vì mãi mê đấu tranh, vật lộn
với cuộc sống hằng ngày, nên không có thời giờ để suy tư, tìm hiểu. Có
người không muốn nhìn nhận sự thực đó, tự kỷ ám thị, tự lừa dối mình, cho rằng
cuộc đời là vui đẹp, là đáng hưởng thụ, với mục đích tạm quên đi những đau khổ,
bất hạnh trong cuộc sống, không biết ngày mai mình sẽ ra sao, không biết làm
sao cho đời bớt khổ, cho đời hết khổ.
Khi gặp hoàn cảnh khổ đau, khi có điều bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện, con người chỉ biết than trời trách đất, hoặc trách cứ tổ tiên, trách cứ ông bà cha mẹ, ăn ở bất nhơn thất đức, cho nên cháu con mới ra nông nổi này!
Ðôi khi, có người chỉ
biết đặt niềm tin nơi đấng thiêng liêng nào đó, để cầu nguyện, van xin, khấn
vái cho được tai qua nạn khỏi, cho được bình an, mà không chịu tìm hiểu hư
thực, không chịu tìm hiểu Chân Lý, không chịu học hỏi Chánh Pháp, cho nên những
người biết lợi dụng lòng mê tín dị đoan dễ gạt gẫm, dễ lợi dụng, dễ sai khiến,
hậu quả khó mà lường trước được. Thường thường khi thấy người nào gặp hoàn
cảnh không may, gặp điều bất hạnh, bất như ý, đau khổ hoặc ngộ nạn, có người
xúc động, tỏ lòng thương xót, thốt lên: "Tội nghiệp quá!". Ðiều
này có nghĩa là khi ở trong trạng thái "tâm bình thường", con người
ai cũng có sẵn "tâm từ bi bác ái", thấy người đau khổ thì động lòng
trắc ẩn, xót thương.
Cũng trong trường hợp
đó, người khác lại nói: Ðáng đời chưa! Gieo gió thì gặt bảo! Làm tội thì phải
đền tội! Cũng có người nói: Nghiệp của họ nặng quá, nên họ mới khổ nạn
như vậy! Hoặc có người khác nói: Trời phạt họ đó! Những sự suy nghĩ
như vậy do tập quán, thói quen mà thốt nên lời.
Vậy chúng ta hãy thử tìm
hiểu: Tội là gì? Nghiệp là gì? Tội báo là gì? Nghiệp báo là
gì?
Làm gì mà phải "tội
nghiệp"? Làm sao cho hết "tội nghiệp"? Làm sao
"dừng nghiệp và chuyển nghiệp"?
* * *
Theo luật nhân quả,
chúng ta biết rằng: "gieo nhân nào thì gặt quả nấy". Thí dụ như
gieo nhân là hạt cam, chúng ta sẽ được cây cam và gặt quả cam. Khoa học
đã thí nghiệm và chứng minh điều này rõ ràng, không có gì đáng nghi ngờ
cả. Nghĩa là làm thiện gặp thiện, làm ác gặp ác, ở hiền gặp lành, gieo
gió gặt bão, có lửa có khói, sinh sự sự sinh.
Tuy nhiên, cũng có thắc
mắc: Tại sao có người gieo thật nhiều gió mà chẳng thấy họ gặt bão, hay nói
cách khác, những người đó làm nhiều điều bất thiện, gây nhiều tội ác, mà tại
sao họ vẫn bình yên, an ổn, ăn nên làm ra, sống trong cảnh giàu có sung
sướng? Trái lại, có người làm thật nhiều việc phước thiện phước đức, như
bố thí cúng dường, hùn công góp của ấn tống kinh sách, quyên góp cho các hội từ
thiện, xây cất chùa chiền, lập nhà thương trường học, đắp đường xây cầu, mà tại
sao chẳng thấy phước báo đâu, chỉ thấy quả báo xấu, gặp nhiều nạn tai, gặp
nhiều điều bất trắc, bất như ý, bất toại nguyện?
Chúng ta biết rằng: có
những hạt giống gieo trồng, thì gặt được quả sớm, nhưng cũng có những hạt giống
gieo trồng xong, phải đợi một thời gian sau, hay một thời gian lâu sau, mới gặt
được quả. Cũng vậy, có những việc chúng ta làm đời trước, đời này mới nhận kết
quả hay hậu quả. Có những việc chúng ta làm đời này, đời sau mới có kết
quả hay hậu quả. Do làm ác đời trước, nên con người gặp khổ đau đời này,
chớ có oán hận, than trời trách đất, bởi lẽ "mình làm mình chịu",
không có ông trời nào, thượng đế nào trừng phạt mình, một cách tùy tiện, một
cách vô căn cứ cả.
Chúng ta thường có tánh
đổ thừa kẻ khác, kể cả ông bà cha mẹ, đã tạo nghiệp, rồi cháu con phải lãnh hậu
quả, chứ không bao giờ chịu nhìn nhận "chính mình đã làm", đã gây ra
những lỗi lầm trong kiếp trước, cho nên kiếp này "chính mình gánh chịu".
Còn những việc phước
thiện, phước đức mình làm trong đời này, vì quá ít quá nhỏ, chưa kịp có kết
quả. Hoặc đôi khi việc phước thiện, phước đức đã có kết quả, đã làm cho
nhẹ bớt đi những nạn tai, mà mình phải gánh chịu, chỉ tại mình không biết đó
thôi. Nếu không biết làm những việc thiện tạo phước báu như thế, để bù
đắp những tội lỗi đã gây ra trước kia, con người có thể đã gặp nhiều phiền não
khổ đau hơn, nhiều tai nạn nặng nề hơn. Nếu việc phước thiện đã làm nhiều
hơn tội lỗi đã tạo, chắc chắn con người được hưởng sự sung sướng, sự may
mắn. Nghĩa là sự sung sướng, sự may mắn do phước báo chính mình đã tạo
ra, từ nhiều kiếp trước hay kiếp này, chứ không do ông trời, hay thượng đế nào
thương mình, mà ban cho cả.
Như vậy, chúng ta phải
hiểu luật nhân quả được áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại và vị
lai. Cũng có những quả báo nhãn tiền, tức là kết quả hay hậu quả có ngay
trước mắt, gieo nhân đời này, gặt quả cũng trong đời này. Thí dụ như ăn
trộm thì bị bắt, ở dơ thì sanh bệnh, làm biếng thì nghèo khó, đánh người thì
người đánh, hại người thì người hại, kiện thưa thì tốn tiền, tiết kiệm thì có
dư, chăm học thì đỗ đạt, siêng năng, chăm chỉ, cần cù, nhẫn nại, nếu không
thành công thì cũng thành nhân.
* * *
Chúng ta thữ nghĩ xem:
Tội là gì?
Tội lỗi là những điều
bất thiện, những việc ác do chính mình nói, chính mình làm, chính mình suy
nghĩ, chính mình gây ra, chính mình tạo tác, do thân khẩu ý của chính
mình. Tội lỗi cũng do sự sai khiến, xúi giục, chỉ dẫn, bày cách cho người
khác làm, thi hành, thực hiện những điều bất thiện, những việc ác. Tội
lỗi cũng do sự vui mừng, tán đồng, khen ngợi, khi thấy kẻ khác làm những điều
bất thiện, những việc ác.
Nghĩa là: "Nhược tự
tác, nhược giáo tha tác, kiến tác tùy hỷ", đều tội lỗi như nhau. Tại
sao vậy? Bởi vì chính mình làm, chỉ bảo người khác làm, hay thấy người
khác làm mà vui theo, những điều bất thiện, những việc ác, thì tâm của chúng ta
đều bị náo động, đều bị hoen ố, đều ghi nhận chủng tử sanh tử luân hồi như
nhau.
Ðạo Phật luôn luôn chú
trọng đến "tâm", chính là cái "thực tướng" bất sanh, bất
diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm của con người, chứ không quan trọng
đến cái giả tướng khác biệt bên ngoài của mỗi người. Cái giả tướng khác
biệt đó chỉ là cái thân tứ đại sanh diệt, nay còn mai mất, chúng ta đang mượn
tạm, trong kiếp sống này mà thôi. Bởi vậy cho nên, đọc kinh điển của đạo
Phật, muốn hiểu được pháp vô lượng nghĩa, pháp vô thượng thậm thâm vi diệu,
chúng ta hãy tìm hiểu qua lăng kính của một chữ, đó là chữ: "TÂM".
Chư Tổ có dạy:
"Tâm tức Phật, Phật
tức Tâm", chính là nghĩa đó vậy.
Ðức Phật là bậc vô
thượng y vương, vô thượng dược vương chuyên trị "tâm bệnh" của tất cả
chúng sanh, chứ không phải "thân bệnh". Ðức Phật hiểu rõ tâm
bệnh của tất cả chúng sanh, vì sao con người trôi lăn trong sanh tử luân hồi,
cho nên Ðức Phật chỉ dẫn con đường thoát ly sanh tử luân hồi. Ðó mới
chính là trọng tâm cốt yếu của đạo Phật.
Sách có câu:
"Tướng tự tâm sanh,
tướng tùng tâm diệt".
Bất cứ ai giải quyết
được tâm bệnh, thì thân bệnh có còn gì đáng nói nữa đâu. Cái thân tứ đại
giả tạm này chỉ có tuổi thọ một trăm năm hay hơn chút đỉnh là nhiều. Còn
cái tâm bất sanh diệt của tất cả mỗi chúng ta có tuổi thọ vô lượng mà Ðức Phật
đã chỉ bày trong các kinh điển thì ít người hiểu thấu!
Người nào chỉ hiểu kinh
điển nhà Phật qua nghĩa đen: cầu bình an, cầu siêu sanh, là những người chỉ
đứng bên ngoài cổng rào, chứ chưa vào được đến trong sân chùa, nói chi đến
ngưỡng cửa nhà Phật. Người nào chỉ hiểu đạo Phật qua các hình thức cúng kiến, lễ
nghi thường thấy, là người chưa hiểu đạo Phật là gì cả!
Thậm chí, có người đến
với đạo Phật, vì muốn cầu gì được nấy, muốn vạn sự như ý, muốn tùy tâm mãn
nguyện, muốn buôn may bán đắt, muốn nhất bổn vạn lợi, muốn thi đâu đậu đó, muốn
sở cầu như nguyện, muốn tình duyên may mắn, muốn đủ thứ chuyện trên trần đời,
thì than ôi, đạo Phật còn gì là Phật đạo nữa! Thật đáng thương xót!
Thật đáng "tội nghiệp" lắm thay!
Trong Kinh Hoa Nghiêm,
Ðức Phật có dạy:
"Nhất thiết duy tâm
tạo".
Nghĩa là chúng ta nên
biết tội lỗi nặng hay nhẹ tùy theo tâm trạng, tâm tánh của con người khi tạo
tác. Thí dụ như một người nghèo khó đi câu con cá, để ăn qua ngày, tội
nhẹ hơn người no đủ, đi câu con cá vì thú vui. Con người vì si mê nên cảm
thấy vui thích trên sinh mạng của chúng sanh! Khi xưa, những người có
quyền thế, xem việc giết người, giết dân chúng hay giết tù nhân, như thú vui
tiêu khiển. Ngày nay, ở các nước gọi là văn minh, con người xem việc săn
bắn thú vật như là môn thể thao, coi cảnh đấu bò giết bò như là trò giải
trí!
Thật đáng "tội
nghiệp" lắm thay! Con người đang hưởng phước ở các xứ văn minh, lại
tìm cách tạo tội tạo nghiệp vì vô minh. Một người giết một con thú dữ để
tự vệ trong hoàn cảnh sợ hãi, tội nhẹ hơn một đứa bé tay cầm cây cầm roi, thi
đua với các đứa bé khác, đánh đập một con gà, rụng lông tơi tả, máu đổ dầm dề,
cho đến chết, một cách nhanh nhứt, để được khen thưởng, để được lãnh giải,
trong cuộc thi do người lớn tổ chức!
Dĩ nhiên, kẻ chủ tâm cố
ý giết người vì tư thù, vì quyền lợi, tội nặng hơn kẻ sát nhân trong cơn điên
loạn, hãi hùng hay vô ý thức. Kẻ giết con vật lớn như trâu bò, tội nặng
hơn kẻ giết côn trùng, con gián, con kiến. Giết người, giết con vật lớn,
con vật có nhiều linh tánh hơn, tức nhiên, kẻ giết phải có chủ ý, dụng tâm,
dụng công, dụng sức nhiều hơn, nên tội nặng hơn. Giết côn trùng, con
gián, con kiến không do cố ý, không do thích thú, bởi vì con người không thể
sống chung với những sinh vật này được, theo phép vệ sinh chung của xã hội, nên
nhẹ tội hơn. Tuy nhiên, tìm giết vô cớ con gián, con kiến ngoài đồng,
ngoài đường lại là chuyện khác.
Việc trộm cắp cũng
vậy. Người trộm cắp vì nghèo túng, phải giúp gia đình qua cơn đói khổ, vì
tạm thời, không còn phương cách nào khác, tội nhẹ hơn một kẻ cố ý chủ tâm dùng
thủ đoạn, dùng luật pháp, để chiếm đoạt tài sản, sang đoạt bản quyền của người
khác, thưa kiện người khác với mục đích kiếm tiền, muốn mình sung sướng, làm
giàu nhanh chóng, người khác thì đau khổ vì sạt nghiệp!
Việc nói dối để an ủi,
giúp đỡ tinh thần người đang bị bệnh, người đang khổ đau, khủng hoảng, sợ hãi,
không thể đem so sánh với việc nói dối để gạt gẫm người khác vì ích kỷ, vì tư
lợi, vì thù oán hại người, vì muốn kết bè kết đảng.
Càng tệ hại hơn nữa vì
tự ái, vì tự lợi, vì danh dự hão, vì chính nghĩa cuội, vì công lý một chiều, vì
lẽ phải phiến diện, vì mê tín dị đoan, vì quá khích, có người đặt điều vu cáo
vu khống, phỉ báng mạ lỵ người khác, lộng giả thành chơn, nước lã khuấy nên hồ,
để ám hại người khác, viết bài đả kích, khen mình khinh người, lôi kéo phe
phái, thì những người đó làm sao tránh khỏi luật nhân quả, làm sao thoát khỏi
"lưới trời" lồng lộng, tuy thưa mà không lọt, tuy không thấy mà chẳng
sai chạy! Trong nhà Phật, "lưới trời" đó chính là
"quả báo" con người phải lãnh, vì các việc đã làm, đã nói, đã nghĩ,
trước đây.
* * *
Chúng ta thường nghe nói
đến chữ "nghiệp" trong cuộc sống hằng ngày, cũng như trong đạo Phật,
như là: nghề nghiệp, tội nghiệp, nghiệp báo, nghiệp chướng, nghiệp nhân, nghiệp
quả.
Vậy chúng ta thử tìm
hiểu: "Nghiệp" là gì?
Nghiệp là thói quen hành
động, nói năng hay suy nghĩ hằng ngày của chúng ta trong cuộc sống, trong khi
làm việc, trong khi giao tiếp, ở tại nhà, ở tại sở làm hay bất cứ nơi
đâu.
Nghĩa là: nghiệp do thân
hành động, khẩu nói năng và ý suy nghĩ, nên thường được gọi là tam nghiệp: thân
nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp.
Theo nguyên tắc, có hai
loại nghiệp: thiện và bất thiện. Tuy nhiên, khi nói đến chữ
"nghiệp", người ta thường nghĩ đến những nghiệp ác hay nghiệp bất
thiện.
1) "Thân
nghiệp" là những thói quen
hành động, do thân tạo tác hằng ngày. Có người luôn luôn thích giúp đỡ kẻ
khác, làm việc phước thiện, làm việc xã hội. Có người luôn luôn thích đi
chùa, lễ Phật, tụng kinh, đi nhà thờ xem lễ, cầu nguyện. Cũng có người
luôn luôn thích đánh nhau, đánh đập súc vật, giết hại sinh mạng chúng sanh,
chơi đấu bò, đi câu cá, đi săn bắn, như thú vui tiêu khiển. Có người luôn
luôn thích hút thuốc, uống rượu, bài bạc. Có người luôn luôn thích việc
trộm vặt dù họ không túng thiếu. Có người luôn luôn thích kiện tụng,
thích xúi người khác thưa kiện để thủ lợi. Có người luôn luôn thích hăm
dọa người khác, theo thói chưa đậu ông nghè đã đe làng tổng, họ gửi bài đăng
báo, tòa báo không đăng nguyên văn, sửa bản thảo, họ bảo xin lỗi, viết thư dọa
làm con kiến đi kiện củ khoai!
2) "Khẩu
nghiệp" là những điều mình
thường nói ra hằng ngày, có khi ngọt ngào dễ nghe, có khi chanh chua chát khế,
kinh khủng khiếp luôn! Cổ nhơn có dạy:
Lời
nói chẳng mất tiền mua.
Lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Có người luôn luôn thích
nói chuyện đạo lý, chuyện ích lợi cho người. Có người luôn luôn thích thuyết
pháp, tụng kinh, niệm Phật. Có người luôn luôn thích an ủi, khuyên lơn, đem sự
an ổn tâm thần đến cho người khác. Có người luôn luôn nói lời hòa nhã, êm ái,
dịu dàng, ai ai cũng thích nghe, thích gặp mặt, thích trò chuyện.
Ðó là những người lựa
lời mà nói cho người an vui, và đang tu theo hạnh Ðức Quán Thế Âm Bồ Tát, hay
tu theo hạnh Nhứt Thiết Chúng Sanh Hỷ Kiến Bồ Tát. Cũng có người luôn luôn
thích nói suốt ngày, không biết mệt, không ngừng nghỉ. Có người luôn luôn
thích nói chuyện thị phi, chuyện thiên hạ, chuyện phải quấy, chuyện hơn thua,
chuyện tranh chấp, chuyện kiện tụng, chuyện thưa gửi, chuyện phiền não, chuyện
khổ đau. Có người luôn luôn thích văng tục, chửi thề, bới móc người khác,
kê tủ đứng vào miệng người khác, móc họng cho người ói ra, mỗi khi khai khẩu,
mỗi khi mở miệng. Có người thốt xong một lời, người nghe phải đi xức dầu
cù là, hoặc uống thuốc nhức đầu, thậm chí ngất xỉu, hay giã từ luôn cõi
đời. Có người thốt xong một lời, người khác phải đi tù, gia đình xào xáo,
vợ chồng chia ly, lục đục, cãi vã, nghi ngờ lẫn nhau, tiêu tan hạnh
phúc.
Bởi vậy, chúng ta mới
biết khẩu nghiệp nặng nề biết bao, lời nói độc hại đến chừng nào, lời nói có khả
năng hại người còn hơn vũ khí. Ðó là lời nói của những kẻ "lựa lời mà nói
cho người giết nhau", hoặc là những kẻ "lựa lời mà nói cho người tiêu
luôn"!
Những người biết tu tâm
dưỡng tánh rất dè dặt với khẩu nghiệp, không dám phát ngôn bừa bãi, luôn luôn nhớ
lời cổ nhơn dạy: "Lời nói là bạc, im lặng là vàng". Có người
bèn áp dụng tu pháp môn "tịnh khẩu", suốt ngày không muốn nói bất cứ
chuyện gì, với bất cứ ai. Tuy nhiên, bên ngoài phẳng lặng, mà trong lòng
dậy sóng, thì cũng như không! Có khi nói năng để truyền bá Chánh Pháp,
lời nói đầy pháp vị, nói lời chuyên chở đạo lý. Có khi sự im lặng cũng
đúng Chánh Pháp, cũng đượm nhuần đạo lý.
Cổ nhơn có dạy:
"Ngữ ngôn đạo đoạn".
Nghĩa là còn phải dùng
lời nói, thì không thể diễn tả được đạo lý một cách tột cùng, khi lên tiếng thì
đạo mất rồi. Người hiểu đạo là người có tâm cảm thông sâu sắc, không cần dùng
lời nói, có thể thấu hiểu mọi sự mọi việc một cách dễ dàng, không có gì ngăn
ngại.
Trong kinh sách có câu:
"Ðạo cảm ứng giao nan tư nghì" chính là nghĩa đó vậy.
Cũng có câu: "Ðạo
bổn vô ngôn".
Nghĩa là gốc của đạo
không thể dùng lời lẽ của thế gian mà diễn tả được. Ðạo là chỗ cứu kính
tuyệt đối bất khả tư nghì, đạo cảm thông không thể nghĩ bàn được. Ðó
chính là chỗ im lặng của Cư sĩ Duy Ma Cật thời Ðức Phật còn tại thế, đó chính
là sự lặng thinh của Nhị Tổ Huệ Khả, khi trình kiến giải lên Sơ Tổ Bồ Ðề Ðạt Ma
vậy.
3) "Ý
nghiệp" là quan trọng hơn
cả. Chính ý nghiệp chủ động điều khiển thân nghiệp và khẩu nghiệp. Tại
sao vậy? Bởi vì nếu như tư tưởng luôn luôn có ý nghĩ thế nào thì hành
động và lời nói sẽ y theo đó mà ra, không sai khác chút nào. Chính tư tưởng
phát xuất ra hành động và lời nói. Thí dụ nếu trong tâm ý chúng ta nghi ngờ
người nào ăn cắp đồ, thì từ hành động cho đến lời nói của người đó đều có vẻ
khả nghi, đáng ngờ, và hành động cũng như lời nói của chúng ta đều không bình
thường đối với người đó.
Thí dụ nếu chúng ta luôn
luôn có tư tưởng, có ý nghĩ là kẻ nào ác thì phải bị tiêu diệt, phải bị đọa địa
ngục, phải bị trừng phạt nặng nề, cho nên khi có cơ hội, có phương tiện, có
quyền hành, có thế lực, chúng ta sẽ dễ dàng mắng chửi, mạt sát, giết hại, trừ
khử, thanh toán kẻ đó không chút xót thương, không chút bận tâm! Nghĩ như
vậy, nói như vậy, làm như vậy, tâm của chúng ta không từ bi, không bác ái chút
nào, và như vậy chúng ta có khác gì kẻ ác kia đâu? Giết người phải đền
mạng, có luôn luôn hẳn là lẽ công bằng tuyệt đối chăng, có giúp nạn nhân sống
lại chăng, có giúp xã hội an ninh, trật tự chăng, có giúp tình người thêm tốt
đẹp chăng? Con người thường nhân danh cái thiện, nhân danh thế thiên hành
đạo, để thi hành, thực hiện việc ác, việc trả thù ngay sau đó. Chính vì vậy mà
oan oan tương tục không biết đến bao giờ mới dứt được. Thiệt là "tội
nghiệp" thay!
Trên thế gian này, sân
hận không bao giờ dập tắt sân hận. Duy có tình thương, tâm từ bi mới diệt được
tâm sân hận. Ðó là định luật trường cửu.
Cho nên, trong Kinh Pháp
Cú, Ðức Phật có dạy:
Lấy oán báo oán, oán
nghiệp chập chùng.
Lấy ân báo oán, oán nghiệp
tiêu tan.
Ðây là cách dừng nghiệp
và chuyển nghiệp hữu hiệu nhất. Thí dụ vì nghiệp duyên đời trước, có người nào
đó khi gặp chúng ta, liền không có cảm tình, không ưa thích, có thái độ thù
nghịch, chống đối. Nếu như chúng ta không hiểu luật nhân quả, bèn có thái độ
tương ứng đáp lại, thì càng ngày quan hệ giữa chúng ta và người đó càng tệ hại
thêm mà thôi. Còn nếu như khi họ gặp hoàn cảnh không may nào đó mà mình có thể
giúp được và thực tâm giúp đỡ họ, thì có phải "oán nghiệp" trước đây
tiêu tan hay không?
Thí dụ trong gia đình,
nếu người cha hay người mẹ, vì tức giận người con đối xử tệ bạc với mình, không
như mình mong ước, nên cũng đối xử lạnh lùng, hằn học, bực dọc đáp lại, thì thử
hỏi câu chuyện sẽ đi đến đâu, sẽ kết thúc ra sao? Nếu cha mẹ có lòng từ
bi, không chấp chặt những điều đó, vẫn thương yêu, chăm sóc người con, như lúc
con còn nhỏ dại, thì ít ra còn hy vọng người con chuyển đổi tâm ý, gia đình hòa
vui trở lại.
Chuyện này "nói ra
thì dễ, làm được mới khó". Nhưng thử hỏi chuyện gì trên đời này mới
là chuyện dễ làm đây ?
* * *
Bây giờ, nói về vấn đề: "dừng
nghiệp và chuyển nghiệp". Chúng ta đã biết rằng chính ba nghiệp thân khẩu
ý là động cơ dẫn dắt chúng sanh vào vòng trầm luân sanh tử luân hồi nhiều đời
nhiều kiếp. Cho nên, muốn thoát ly sanh tử luân hồi, con người phải biết dừng
nghiệp và chuyển nghiệp. Nghĩa là chúng ta phải dừng tất cả những nghiệp
ác, nghiệp bất thiện, từ thân khẩu ý của mình, chuyển ba nghiệp thân khẩu ý bất
thiện, thành ba nghiệp thiện lành. Ðó chính là trọng tâm tu hành của đạo Phật,
chứ không phải những hình tướng bên ngoài, những nghi lễ rườm rà, những van xin
cầu khẩn.
Người có nghiệp cờ bạc
thì luôn luôn tìm tới các sòng bài bạc để vui chơi trong chốc lát, rồi sau đó
đau khổ dài dài. Người có nghiệp hút thuốc thì đi đâu cũng luôn luôn để ý
đến chỗ nào bán thuốc lá và giá cả ra sao. Người mang nghiệp nào thì sẽ
bị dẫn theo con đường ấy, cũng như kim loại bị nam châm hút vậy. Con người
khi chết đi, thân xác, danh vọng, của cải, thân bằng quyến thuộc, tất cả mọi
thứ đều phải bỏ lại thế gian, chỉ mang theo cái "nghiệp báo" tái sanh
kiếp sau. Chính cái nghiệp báo này là nguyên nhân làm cho chúng ta sung sướng
hay đau khổ vậy. Khi biết được điều đó, liễu tri được điều đó, giác ngộ
được điều đó, chúng ta cần phải tìm cách dừng nghiệp, tìm cách chuyển ba nghiệp
bất thiện thành ba nghiệp thiện.
Trong kinh sách, Ðức
Phật dạy pháp môn để dừng nghiệp và chuyển nghiệp. Ðó chính là "Pháp
Sám Hối". Người biết ăn năn sám hối mới thực là người biết tu
chân chính, không cần phải có hình tướng như thế nào, chỉ cần chúng ta kiên
trì, cố gắng tu tâm dưỡng tánh, đúng theo Chánh Pháp, thì đạt được kết quả mỹ
mãn. Kết quả đó là cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời, kết quả đó là
cảnh giới tây phương cực lạc hay thiên đàng sau này. Chánh Pháp không dành
riêng cho những người theo đạo Phật hay bất cứ ai. Chánh Pháp là chân lý
cứu kính mà bất cứ ai có "tâm bình thường" cũng có thể tìm hiểu
được và thực hành được, một cách bất tùy phân biệt.
Nếu không có "pháp
sám hối chơn thực" thì không có thánh nhơn trên đời, không có thiên
đàng, hay cảnh giới tây phương cực lạc. Biết bao nhiêu bậc thánh hiền xưa
nay có quá khứ bất thiện, xấu ác, gian tà, nhưng nhờ các ngài giựt mình tỉnh
thức, qua được cơn mê, quày đầu hướng thiện, cho nên trở thành đại đức thánh
nhơn. Bởi vậy, chúng ta noi gương các ngài, chỉ nên quán xét chính mình,
không cần thiết phải bận tâm biết quá khứ của người khác ra sao. Người ta
trước đây tạo nghiệp xấu thiệt, nhưng nay đã biết sám hối, đã biết dừng nghiệp
và chuyển nghiệp, còn mình thì sao, vẫn đi soi mói việc riêng của người khác để
làm gì?
Trong kinh sách, Ðức
Phật có dạy:
Tội tùng tâm khởi
tương tâm sám.
Tâm nhược diệt thời
tội diệc vong.
Tội vong tâm diệt
lưỡng câu không.
Thị tắc danh vi chơn
sám hối.
Nghĩa là muốn tội lỗi
thực sự không còn nữa, thì chúng ta phải tiêu diệt cái nguyên nhân chính gây ra
tội lỗi, xúi giục mình làm bậy nói bậy nghĩ bậy, đó là vọng tâm lăng xăng, lộn
xộn, loạn động, suy nghĩ, tính toán, suy lường, hằng ngày của chúng
ta. Một khi đã thực tâm sám hối thì không còn tâm muốn làm, muốn nói, muốn
nghĩ những chuyện bậy đó nữa. Mỗi khi vọng tâm khởi lên, xui khiến mình
làm chuyện bậy, bất cứ chuyện gì lợi mình hại người, bảo mình nói lời bậy, bất
cứ lời nào gây phiền não cho người khác, giục mình nghĩ ý bậy, bất cứ ý nghĩ
nào khen mình khinh người, thì chúng ta phải nhận biết ngay, dừng lại, không
theo.
Lâu dần, vọng tâm đó
lặng đi rồi, thì tội lỗi cũng không còn gây ra nữa. Cũng giống như mỗi lần
trong đầu nhớ tới bản nhạc nào quen thuộc, nếu chúng ta ư ử hát theo thì sẽ nhớ
hoài nhớ lâu, còn nếu chúng ta không hát theo, thì ít lâu sau, sẽ quên bẳng đi,
không còn nhớ nữa. Ðó mới thực là "chơn sám hối", tức là sám
hối chơn chính, chơn thực, thực lòng vậy.
* * *
Pháp sám hối chơn chính
có hai phần: Lý Sám Hối và Sự Sám Hối.
1. "Sự Sám
Hối".
Khi tâm của chúng ta còn
mê mờ, chưa được giác ngộ Chân Lý, chưa hiểu biết Chánh Pháp, chúng ta phải
hành theo sự sám hối. Nghĩa là đối trước tôn tượng chư Phật, chư Bồ Tát,
chúng ta phải hành lễ bái, tỏ bày sám hối, mong diệt nghiệp chướng, tội chướng,
siêng năng tinh tấn, mỗi tháng hai lần.
Mỗi lần như vậy, chúng
ta đọc bài kệ như sau:
Ngã tích sở tạo chư ác
nghiệp.
Giai do vô thủy tham
sân si.
Tùng thân khẩu ý chi
sở sanh.
Nhứt thiết ngã kim
giai sám hối.
Nghĩa là chúng ta đã tạo
không biết bao nhiêu ác nghiệp từ xưa đến giờ, đều do ba điều độc hại: tham
lam, sân hận và si mê, thể hiện qua ba hình thức: thân hành động, khẩu nói
năng, ý suy nghĩ. Tất cả những tội lỗi đó, những nghiệp bất thiện, những nghiệp
ác đó, chúng ta đều thành tâm thực lòng, ăn năn sám hối, quyết tâm chừa bỏ,
không dám tái phạm, cố gắng gìn giữ tam nghiệp thân khẩu ý cho được thanh tịnh.
Trong kinh sách có
câu: Ngã thân ảnh hiện chư Phật tiền, tức là: Trước bảo tọa thân con
ảnh hiện.
Nghĩa là đối trước tôn
tượng chư Phật, chúng ta hiện nguyên hình con người thực của mình, phản ảnh
đúng nội tâm của mình, để thành tâm phát lồ sám hối, không che giấu bất cứ điều
gì cả. Chúng ta có thể che giấu tội lỗi, che giấu tật xấu, đối với người
đời, chứ đối với chư Phật, đúng ra đối với Phật Tâm của chúng ta, chúng ta
chẳng thể giấu giếm bất cứ điều gì. Ngày xưa, để cho mọi người dễ hiểu,
cổ nhơn giải thích đó chính là lúc chúng ta đứng trước gương chiếu yêu, trước
diêm vương cảnh đài, bất cứ việc gì chúng ta đã làm, đã nói, đã nghĩ, trong
suốt cuộc đời đều hiện ra hết tất cả.
2. "Lý Sám Hối".
Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhất thiết duy tâm
tạo".
Nghĩa là muôn việc trên
thế gian này đều do tâm của chúng ta tạo ra tất cả. Tâm của chúng ta tạo
ra thiên đàng. Tâm của chúng ta tạo ra địa ngục. Thí dụ chúng ta
phát triển các tâm lượng rộng lớn, tốt đẹp như từ bi hỷ xả, tức là chúng ta
phát triển cảnh giới thiên đàng, cực lạc và sống an lạc trong cảnh giới
đó.
Nếu chúng ta chấp chặt
những thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường
kiến, đoạn kiến, phát triển những tâm lượng hẹp hòi, ích kỷ, đố kỵ, ganh tị,
tham lam, sân hận, si mê, khen mình khinh người, lợi mình hại người, tức là
chúng ta phát triển cảnh giới địa ngục và sống bất an trong cảnh giới đó
vậy.
Sự sám hối ví như chiếc
xe đạp. Nghĩa là người chỉ biết sự sám hối thôi, không hiểu rõ lý lẽ, thì
đường tu tiến chậm. Ði chùa lạy Phật, tụng kinh bái sám, từ lâu lắm rồi,
mà sao vẫn còn bực mình nhiều chuyện quá, phiền não vẫn còn y nguyên, có khi
còn nhiều hơn lúc trước nữa.
Lý sám hối ví như động
cơ. Nghĩa là người chỉ biết lý sám hối thôi, không chịu hành sự, thì đường tu
cũng không tiến. Hiểu rõ lý sám hối và năng hành sự sám hối, nghĩa là
"lý sự viên dung", lý sự đầy đủ vẹn toàn, thì đường tu tiến được rất
nhanh, cũng như đi xe có gắn máy thì chạy nhanh hơn xe đạp vậy. Tu tiến có
nghĩa là: giảm bớt phiền não và khổ đau, sống được cảnh giới an lạc và
hạnh phúc ngay hiện đời.
Dù theo bất cứ tôn giáo
nào chăng nữa, thực ra vị giáo chủ cũng không thể ban phước cho chúng ta được
bình an, sung sướng hay an lạc và hạnh phúc. Các ngài chỉ cho chúng ta bản đồ,
chỉ cho chúng ta phương pháp, để chúng ta tự thực hành, tự đi đến cảnh giới an
lạc và hạnh phúc mà thôi. Như vậy mới thực là chí công vô tư vậy.
Vì thế cho nên, những
người có trí tuệ bát nhã, luôn luôn giữ gìn tam nghiệp cho thanh tịnh, tinh tấn
tu tâm dưỡng tánh, phát tâm bồ đề, tiến tu đạo nghiệp, chứ không phải chỉ biết
cầu nguyện, van xin, cầu khẩn, khấn vái. Tại sao vậy? Bởi lẽ chẳng
được lợi ích gì, chỉ thêm phiền não, vì cầu nguyện hoài mà không được đáp ứng
gì cả!
Cầu
không được, khổ là cái chắc.
Cầu
bất đắc, tức khổ không sai.
Có nhiều cách tu, nhiều
phương pháp, nhiều pháp môn để giúp chúng ta dừng nghiệp và chuyển nghiệp, cho
nên Phật giáo có nhiều tông phái. Tịnh độ tông dùng câu niệm Phật, dùng
cách quán tưởng, dùng thời khóa tụng kinh, để dừng tất cả các nghiệp. Mật
tông dùng câu thần chú đà-la-ni để dừng tất cả các nghiệp. Thiền tông
dùng pháp khán thoại đầu, dùng công án nhà thiền, hay dùng "pháp đối cảnh
vô tâm", hay "pháp tri vọng", để dừng tất cả các
nghiệp.
Dừng được một phần của
"ba nghiệp", chúng ta bớt được một phần "chướng nạn" của
cuộc đời. Dẹp được một phần "nghiệp chướng" của bản thân, chúng
ta hưởng được một phần cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời.
Thí dụ như bớt được chút
lòng tham lam, chúng ta bớt được chút khổ nạn, bởi vì tham thì thâm. Thí
dụ như bớt chút lòng sân hận, chúng ta bớt được chút phiền não nhức đầu, bởi vì
sân thì sinh sự. Thí dụ như bớt chút lòng si mê, chúng ta bớt được chút
khổ đau, bởi vì mê thì mất tiền, mất của, mất tất cả!
Ðến đây, chúng ta cần
hiểu rõ, phân biệt rõ: thế nào là "tội và nghiệp", và thế nào là
"tội báo và nghiệp báo". Sau một thời gian tu hành nào đó, khi
tâm được thanh tịnh, ba nghiệp không còn, thân khẩu ý hoàn toàn thanh tịnh,
"tội và nghiệp" không còn nữa, bởi vì chúng ta không còn tạo nghiệp,
không còn tạo tội. Do thành tâm sám hối, "tội và nghiệp mới"
không còn tạo ra nữa, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói chung là quả báo, từ
"tội và nghiệp cũ" vẫn còn. Chúng ta đã tạo "nghiệp
nhân" thì nhứt định phải nhận "nghiệp quả", không thể chạy đâu
cho khỏi. Người đời thường gọi đó là "số trời đã định", hay
"định mệnh đã an bài", hoặc "chạy trời không khỏi nắng",
chính là nghĩa đó vậy.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:
Dù trốn lên non,
xuống biển vào hang,
nghiệp báo đã mang,
không ai tránh được.
Các bậc thánh thiện là
những người đã thanh tịnh được tam nghiệp nên có cuộc sống an nhàn, tự tại
trong nội tâm, trong tâm thức. Tuy nhiên, trên hình thức bên ngoài, chúng ta
thấy cuộc sống của các vị giáo chủ, của các bậc thánh nhơn không phải là không
có sóng gió, không phải là không có chuyện bất trắc xảy ra. Có khi các
ngài vẫn bị vu cáo, nhục mạ, phỉ báng, xét xử, kết án và thậm chí, bị hành hình
như những tội phạm hình sự. Tại sao vậy?
Bởi vì, các ngài tuy đã
dứt hết các "tội và nghiệp" đời này, nhưng tội báo và nghiệp báo, nói
chung là "quả báo", từ nhiều đời và nhiều kiếp trước vẫn còn, các
ngài vẫn phải trả. Các ngài, cũng như bất cứ ai, không thể đứng ngoài
luật nhân quả được. Chẳng hạn như: Vào cuối thế kỷ thứ ba, vị tổ thứ
hai mươi bốn là Aryasimha tuy đã đắc đạo, nhưng vẫn bị vua Kế Tân chém
đầu. Vào đầu thế kỷ thứ bảy, vị tổ thứ hai mươi chín, là Tổ Sư Huệ Khả,
bị vu cáo và bị giam đến chết trong ngục, thọ 107 tuổi! Tổ Bá Trượng Hoài
Hải trong một buổi thuyết giảng, có gặp một ông lão, nguyên là một vị Hòa
Thượng, vì hiểu sai và giảng sai luật nhân quả, cho là một khi con người đắc
đạo rồi, thì không phải trả quả báo, thoát ngoài luật nhân quả, cho nên phải bị
đọa 500 kiếp chồn.
Chúng ta cũng thường hay
nghĩ như vậy, cho là sám hối xong thì sạch tội và sẽ được bình an, không tai
nạn gì nữa cả, không phải trả quả báo! Hiểu như vậy là sai! Chúng
ta thường lầm lẫn "tội nghiệp mới" với "quả báo cũ".
Chúng ta cần nên biết rằng chúng ta không thể nhờ bất cứ ai tha tội, xóa tội,
miễn tội, gánh tội thay thế cho chúng ta được. Tại sao vậy? Bởi vì
như vậy trái với luật nhân quả, lẽ công bằng và không hợp tình, hợp lý chút
nào. Trong tam tạng kinh điển, Ðức Phật chỉ dạy rất rõ ràng vấn đề
"tội và báo" này. Khi nào chúng ta không còn tâm si mê muốn
quịt nợ, chúng ta sẽ nhận biết được dễ dàng hơn, thấu đáo hơn, không còn bị dối
gạt, không còn lầm lẫn nữa.
Chúng ta thử xét thí dụ
sau đây, để hiểu biết thêm về "tội báo, nghiệp báo, quả báo, và phước
báo". Theo luật nhân quả, do hậu quả của tội lỗi đã làm, gọi là
"nghiệp nhân", con người gặp những bệnh tật, những tai nạn, những bất
trắc ở đời, gọi là "nghiệp quả hay nghiệp báo". Con người phải
gánh chịu "quả báo hay tội báo" như vậy, ví như phải ăn một nắm
muối. Phải ăn một nắm muối thì khổ biết là bao nhiêu. Nếu như
con người có thể bỏ nắm muối vào tô nước rồi uống thì có lẽ dễ chịu hơn chút
đỉnh. Nếu như con người có thể bỏ nắm muối vào lu nước rồi uống thì dễ chịu
hơn chút nữa. Nếu như con người có thể bỏ nắm muối đó vào hồ nước lớn rồi
uống thì chắc là câu chuyện không thành vấn đề nữa rồi.
Nắm muối bị bắt buộc
phải ăn tượng trưng cho "tội báo, nghiệp báo, hay quả báo", do những
tội lỗi chúng ta đã làm từ nhiều đời trước hay đời này. Nước trong tô, trong
lu, trong hồ tượng trưng cho "phước báo" ít hay nhiều, chúng ta đã
tạo được từ những việc làm phước thiện, phước đức, trong các đời trước hay đời
này. Như vậy, nếu con người phải đền trả hoàn toàn đầy đủ những tội lỗi do
chính mình gây ra, đời trước hay đời này, thì có khi phải tán gia bại sản, bệnh
tật ngặt nghèo, nguy hại tánh mạng. Nhưng nhờ đã làm các việc phước
thiện, nên có "phước báo" để bù đắp, cho nên hoàn cảnh khổ đau,
tai nạn có thể được giảm bớt hay hóa giải đi. Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ
hóa không. Ví như con người có tiền tiết kiệm để dành, có thể đem trả, trừ bớt
nợ hay trừ dứt nợ xưa vậy.
Bởi vậy, làm việc phước
thiện, tạo phước đức, có phước báo, để tiêu trừ tội nghiệp là thái độ tích cực
và hợp đạo lý, đối với bất cứ ai trên thế gian này, hơn là việc cầu nguyện
thượng đế để xin xá tội, để chạy tội, hoặc đổ hết tội lỗi của mình cho thượng
đế gánh giùm! Thật là thảm thương thay cho thượng đế do con người đặt ra,
tưởng tượng ra, để gánh vác hết tội lỗi của nhân loại trên thế gian
này!
Con người vốn hay muốn
quịt nợ, muốn trốn tránh trách nhiệm, không sợ nhân chỉ sợ quả, không bao giờ
nhìn nhận những việc sơ sót, sai trái, tội lỗi, lỗi lầm, chính mình đã làm, chỉ
biết trách cứ người khác, đổ thừa tại người này, đổ thừa tại việc kia, không
bao giờ dám nhận là "tại mình", không bao giờ chịu nhận là "lỗi
tại tôi mọi đàng". Tại sao vậy? Bởi vì con người không hiểu
thấu đáo, không biết tin sâu luật nhân quả vậy.
Tóm lại, trong kinh
sách, Ðức Phật có dạy:
Tam nghiệp hằng thanh
tịnh.
Ðồng Phật vãng tây
phương.
Nghĩa là nếu như lúc nào
ba nghiệp của chúng ta đều thanh tịnh, lặng yên, trong sáng, thân không sát
sanh, trộm cắp, tà dâm, khẩu không nói dối, không nói lời thị phi, không đâm bị
thóc thọc bị gạo, không xuyên tạc phỉ báng, không vu khống cáo gian, ý không
còn tham lam, sân hận, si mê, thì chắc chắn chúng ta sẽ được an lạc và hạnh
phúc hiện đời, sẽ cùng chư Phật về cõi tây phương cực lạc sau này.
Những người không thấu
hiểu lẽ này, nên nghĩ là có thể "đới nghiệp vãng sanh", tức là còn
mang nghiệp mà vẫn có thể vãng sanh tây phương, nhờ vào câu niệm Phật A Di
Ðà. Ðó là một sự suy nghĩ sai lầm lớn lao của người tu đạo, không đúng
Chánh Pháp.
Trong Kinh Hoa Nghiêm,
Ðức Phật có dạy: Tất cả nghiệp chướng đều do vọng tưởng, nếu muốn sám
hối, hãy ngồi tĩnh tâm quán sát thực tướng. Nghĩa là khi quán sát
thực tướng, nếu người nào biết được tánh chúng sanh là tánh niết bàn thì người
ấy cùng cực giải thoát.
Trong kinh sách có câu:
"Phật và chúng sanh
tánh thường rỗng lặng",
hay:
"Năng lễ sở lễ tánh không tịch",
chính là nghĩa này vậy.
Xét cho đến ngọn nguồn,
tội nghiệp đều do vọng tưởng điên đảo mà sinh ra. Nhưng tâm vọng tưởng điên đảo
ấy cũng như luồng gió giữa chốn hư không, chẳng có chỗ nào trụ, chẳng có chỗ
nào dính mắc.
Khi chưa thấu hiểu chân
lý, mang mang mờ mờ mịt mịt, cho nên chúng ta mới gây tội nghiệp, nhưng lại chỉ
thấy tội nghiệp của người khác. Ðến khi rõ lý lẽ, tất cả tội lỗi trước
đây thảy đều tiêu diệt, bởi chúng ta đã thấy tội nghiệp của chính mình.
Lúc ấy mới biết một cách rốt ráo, tất cả đều là không: không có tội lỗi gì để
mà tiêu diệt, không có tội nghiệp gì để mà tạo tác, không thấy có nghiệp báo gì
để mà gánh chịu, cũng không còn sanh tử luân hồi nữa vậy. []
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll