TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Thursday 8 August 2024

CÚNG DƯỜNG TAM BẢO

https://phtq-canada.blogspot.com/2024/08/cung-duong-tam-bao.html

https://phtq-canada.blogspot.com/2014/09/khong-co-co-khong.html

CÚNG DƯỜNG TAM BẢO

HT. Thích Thanh Từ

Có giác ngộ là không có mê tín, có mê tín thì không có giác ngộ. Nếu chứa chấp mê tín là chúng ta đã phản bội với đạo giác ngộ. Trong đạo giác ngộ quả thật không có mê tín.

 
I.- MỞ ÐỀ
Thấy người làm việc lành việc phải, mình tán thán bằng lời, hoặc góp một phần công, giúp một phần của để thành tựu công việc lành ấy. Quả là người này đã có lòng lành đáng quí đáng mến. Huống nữa, Tam Bảo là cây cầu đưa chúng sanh từ bến mê qua bờ giác, Tam Bảo là con thuyền cứu vớt chúng sanh đang chìm trong bể khổ đưa đến bờ Niết-bàn, Tam Bảo là ngọn đèn sáng soi đường cho chúng sanh khỏi lạc trong rừng tối vô minh. Người phát tâm tán trợ bồi bổ tô đắp cho Tam Bảo thường còn ở thế gian thì công đức biết bao kể xiết. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian, chúng ta phát tâm cúng dường, quả là việc làm tự lợi lợi tha đầy đủ.

II.- ÐỊNH NGHĨA
Cúng dường là nuôi dưỡng khiến Tam Bảo hằng còn ở đời. Tất cả những sự bảo bọc giúp đỡ gìn giữ để Tam Bảo thường còn đều gọi là cúng dường. Tam Bảo là Phật, Pháp và Tăng. Phật đã quá khứ, chỉ còn lại hình tượng. Pháp bắt nguồn từ chữ Phạn đến chữ Hán còn nằm sẵn trong kho tàng nhà chùa. Tăng là những tu sĩ tu theo Phật học chánh pháp. 
Chính những vị này có bổn phận gìn giữ hình tượng Phật còn, phiên dịch giảng giải chánh pháp. Tam Bảo đều quí kính, song hệ trọng nhất là Tăng. Nếu không có Tăng ai gìn giữ chùa chiền, ai giảng dạy chánh pháp? Thế nên, cúng dường Tam Bảo là nói chung, mà hệ trọng là Tăng. Tăng chúng còn là Tam Bảo còn, Tăng chúng mất thì Tam Bảo cũng vắng bóng. Vì thế mọi sự cúng dường đều đặt nặng vào Tăng, với mục đích Tam Bảo tồn tại ở nhân gian.

III.- CÚNG DƯỜNG SAI LẠC
Thế mà có những người cúng dường một cách lệch lạc mất hết ý nghĩa cúng dường. Như có một Phật tử đi chùa đến thầy Trụ trì xin cúng năm đồng, liền đó được nghe hỏi "cầu cái gì", Phật tử ngơ ngác. Thầy Trụ trì hỏi thêm "cầu an hay cầu siêu", Phật tử bóp đầu suy nghĩ đáp "cầu siêu", rồi biên một dọc tên vào sổ cầu siêu. Phật tử này như thế, Phật tử khác cũng thế. Ðã thành thông lệ, cúng chùa là phải cầu siêu hay cầu an. Cầu an cầu siêu cho bản thân mình, cho gia đình mình, cho thân thuộc mình, sự cúng ấy quả là vì mình. Vì mình mà đi chùa, vì mình mà cúng chùa đích thực là tham lam ích kỷ. Nếu mang một tâm niệm tham lam ích kỷ đến với đạo, chưa xứng đáng một Phật tử. Cái hư dở này tại ai? Chính tại người hướng dẫn đã chỉ lối sai lạc.

Ðến phần ông thầy, do Phật tử cầu siêu cầu an nên có tiền. Ðồng tiền này sau một thời kinh cầu nguyện xong, ông tự coi như trọn quyền sử dụng không có tánh cách e dè sợ sệt gì cả. Nếu một buổi lễ cầu nguyện được Phật tử cúng nhiều tiền, thế là ông mặc tình phung phí, vì tự cho do công tụng cúng của mình mà được. Thế thì đời tu hành cốt vì giác ngộ giải thoát, vô tình trở thành người tụng kinh mướn. Người tu cốt xả phú cầu bần, xả thân cầu đạo, biến thành kẻ thụ hưởng.

 Trái với mục đích xuất gia, trở thành kẻ hư hèn, chính vì nhận đồng tiền phi pháp. Cầu nguyện là một điều phụ thuộc nhỏ nhít trong Phật pháp, vì nó không phải là chân lý. Thế mà, người ta thổi phồng nó lên, để rồi cả đời người tu gần như hết tám mươi phần trăm (80%) Phật sự đều nằm trong những lễ cầu nguyện. Truyền bá một điều không phải chân lý, ắt hẳn chánh pháp phải chịu suy đồi. Người có trách nhiệm hướng dẫn Phật tử mà một bề cổ xúy cho sự cầu cúng, là đưa họ vào rừng sâu mê tín, gây thêm lòng tham lam ích kỷ cho họ. Quả là kẻ tạo thêm tội lỗi, chớ không phải người tu hành.

IV.- CÚNG DƯỜNG ÐÚNG PHÁP
Người Phật tử chân chánh khi phát tâm cúng dường Tam Bảo, chỉ vì mong cho Tam Bảo thường còn ở thế gian để đưa chúng sanh ra khỏi đau khổ mê lầm. Nếu đến chùa, Phật tử cúng năm mười đồng, Tăng, Ni có hỏi cầu điều gì, Phật tử nên thưa: "Chúng tôi chỉ cầu mong chư Tăng, chư Ni nhận món tịnh tài này để có phương tiện an ổn tu hành, hầu truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sanh." Chỉ vì Tam Bảo vì chúng sanh mà cúng dường, đây là tâm hồn cao thượng quảng đại vị tha. Làm việc bố thí cúng dường cao đẹp như vậy công đức làm sao giới hạn đuợc. Vì Tam Bảo thường còn ở thế gian để làm lợi ích cho chúng sanh, trong chúng sanh đã có bản thân mình và thân quyến mình rồi. Quên mình chỉ nghĩ đến toàn thể chúng sanh, không phải lòng lợi tha vô bờ bến là gì? Với một lòng vị tha rộng lớn như vậy, dù một số tiền nhỏ, một vật dụng mọn đem cúng dường cũng là phước đức vô biên. Cho nên nói 
"Phật dụng tâm".

Tăng, Ni nhận sự cúng dường chân chánh của Phật tử, tự nhiên thấy mình có một trọng trách lớn lao vô cùng. Làm sao tu hành tinh tiến? Làm sao truyền bá chánh pháp lợi ích chúng sanh? Ðể xứng đáng thọ nhận những thứ cúng dường của Phật tử, chỉ cần nỗ lực tu hành, cố gắng học tập để hiện tại và vị lai làm lợi ích chúng sanh. Nếu hiện đời, Tăng, Ni, không làm tròn hai việc này, có thể mai kia phải mang lông đội sừng để trả nợ tín thí. Biết như thế, hiểu như thế, Tăng, Ni làm sao dám lơi lỏng lơ là trong việc tu hành học tập. Thế là, nhờ sự cúng dường chân chánh của Phật tử thúc đẩy Tăng, Ni đã cố gắng càng cố gắng hơn trong nhiệm vụ thiêng liêng cao cả của chính mình. 

Thấy mình thiếu nợ, mới cố gắng lo đền trả bằng cách nỗ lực tu hành và độ sanh, đây là mục tiêu đức Phật bắt Tăng, Ni thọ nhận đồ cúng dường của Phật tử. Tăng, Ni là người có bổn phận hướng dẫn tín đồ cúng dường chân chánh đúng pháp thì, cả thầy trò đều cao thượng và lợi ích lớn. Chúng ta phải gan dạ đập tan những tập tục sai lầm, đừng vì quyền lợi, đừng vì cảm tình, khiến cho chánh pháp đi lần vào chỗ mờ tối suy tàn. Chúng ta là người lãnh đạo, không phải là kẻ theo đuôi tín đồ để cầu được nhiều lợi dưỡng. Ðã dám bỏ nhà đi tu, tức là dám nhận chịu mọi sự đói rách nghèo nàn, mọi sự gian truân khó khổ, vô lý vì sự ăn mặc mà đi ngược lại sơ tâm siêu thoát của mình.

Tuy nhiên, nói thế không có nghĩa chúng tôi hoàn toàn phủ nhận sự cầu nguyện. Chúng ta thấy rõ cầu nguyện chỉ là trợ duyên nhỏ xíu, kẻ đối tượng cầu nguyện chỉ được lợi ích một hai phần mười, như trong kinh nói. Chúng ta đã thừa nhận "nhân quả nghiệp báo" là chân lý thì sự cầu nguyện là ngoại lệ, có kết quả cũng tí xíu thôi. Cổ vũ cho điều phi chân lý, để cho người xao lãng chân lý, là việc làm trái với chánh pháp. Vì lòng hiếu thảo của Phật tử, buộc lòng chúng ta phải cầu nguyện, khi cầu nguyện chúng ta phải cảnh cáo rằng: "Việc làm này là phụ thuộc không đáng kể, kết quả ít lắm." Có thế mới khỏi lệch lạc trên con đường hoằng hóa lợi ích chúng sanh. Ðã thấy cầu nguyện là việc phụ, chúng ta đừng vì nó làm mất thì giờ tu học của Tăng, Ni, làm mất thì giờ truyền bá chánh pháp.

V.- LỢI ÍCH CÚNG DƯỜNG
Cúng dường Tam Bảo được lợi ích tùy tâm niệm người Phật tử. Nếu vì mình và thân thuộc mình mà cúng dường, phước đức cũng theo tâm lượng hẹp hòi ấy. Nếu vì Tam Bảo thường còn và lợi ích chúng sanh, phước đức sẽ theo tâm lượng rộng rãi thênh thang này. Người Phật tử chân thật thì, bao giờ hay bất cứ việc gì cũng vì lợi ích chúng sanh. Ðừng khi nào để lệch lạc mục tiêu tối thượng ấy. Chư Phật ra đời cũng vì chúng sanh, truyền bá chánh pháp cũng vì chúng sanh, chúng ta đền ơn chư Phật cũng vì cứu độ chúng sanh. Ðó là tâm niệm rộng lớn cao cả của người tu theo đạo Phật. Vì chúng sanh mà cúng dường Tam Bảo, quả thật người Phật tử sống đúng chánh pháp, hành đúng chánh pháp. 
Hành động đúng chánh pháp thì công đức lượng đồng với chánh pháp, nghĩa là kiếp kiếp đời đời không mấtNếu dạy Phật tử làm phước tạo công đức, Tăng, Ni nên dạy đúng tinh thần này.

VI.- KẾT LUẬN
Chúng ta tu theo đạo Phật là đi trên con đường sáng, ánh sáng giác ngộ đến đâu thì bóng đêm mê lầm tan đến đấy. Mê tín là một bóng đêm, giác ngộ là ngọn đèn sáng. Bóng đêm và ánh sáng hai cái không thể có đồng thời. Nếu sáng thì không tối, hoặc tối thì không sáng. Có giác ngộ là không có mê tín, có mê tín thì không có giác ngộ. Nếu chứa chấp mê tín là chúng ta đã phản bội với đạo giác ngộ. 

Trong đạo giác ngộ quả thật không có mê tín. Học đạo và truyền đạo giác ngộ, chúng ta cương quyết dẹp hết bóng đêm mê tín. Có được như vậy mới gọi là người trung thực với chánh pháp. Bằng ấp ủ nuôi dưỡng chứa chấp mê tín, dù kẻ ấy mỗi ngày cúng Phật trăm lần vẫn là kẻ phá hoại chánh pháp. Thà là chúng ta cam chịu chết đói, quyết không vì lợi dưỡng mà làm những điều mê tín, dẫn dắt người đi trên đường mê tín. Ðã thừa nhận mình là Phật tử, quyết định không vì lòng tham để bị một số người lợi dụng dẫn đi con đường mê tín.

HT THÍCH THANH TỪ

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Vì sao làm việc tốt vẫn không được phúc báo

Bởi
 An Nhiên
 -
26/12/2021

Từ xưa đến nay, trong thế gian con người luôn có rất nhiều oán thán. Trong đó, có lẽ oán thán nhiều nhất là: “Mình là người tốt, vì sao lại không được phúc báo?” Vì sao thiên lý bất công!

Nhưng khi phàn nàn, oán thán những lời như thế, người ta lại thường không thử ngẫm nghĩ và tìm hiểu ba câu hỏi: Như thế nào mới đúng là người tốt? Như thế nào mới thực sự là làm việc thiện? Như thế nào mới có được phúc báo?

Học cách thuận theo tự nhiên

Hãy làm những việc nên làm, không làm việc không nên làm. Việc nên làm thì chúng ta làm, đây chính là một cách sống tự nhiên nhất. Giống như, khi chúng ta đi trên đường, gặp một đứa trẻ đi bên kia đường trượt chân ngã, lúc này chúng ta đến bên đưa tay ra cho đứa trẻ vịn mà đứng lên, đây chính là việc tự nhiên nhất. Không phải bỏ qua, coi như không nhìn thấy mới là buông bỏ, mà không làm mới là mất tự nhiên. Cha mẹ ốm nặng, nếu như nói là buông bỏ không quan tâm thì đó không phải là buông bỏ mà là trốn tránh trách nhiệm.

Điều mà người ta gọi là buông bỏ chấp nhất không phải là buông bỏ cuộc sống, cơm cũng không ăn, ngủ cũng không ngủ. Đây không được gọi là buông bỏ. Thậm chí có người quan niệm rằng buông bỏ là việc gì cũng không làm, phó mặc cho cuộc sống trôi qua… Đây thực sự không phải buông bỏ mà là một kiểu vô trách nhiệm. Kỳ thực, người sống trên đời, hãy làm việc mình nên làm, đừng làm việc không nên làm. Hãy học cách thuận theo tự nhiên, buông bỏ chấp nhất (dính mắc, vướng bận, bận tâm…).

Như vậy, việc gì là việc không nên làm? Trước tiên chúng ta phải căn cứ vào quy chuẩn đạo đức làm người. Nếu như việc chúng ta không nên làm, nhưng chúng ta lại làm thì chúng ta sẽ vô cùng bất an. Có một số việc là đã được an bài rằng chúng ta không nên làm, nhưng chúng ta lại gắng sức làm thì sẽ phí hoài rất nhiều sức lực mà vẫn không thành công. Đây cũng là việc không nên làm.

Phải tĩnh tâm xuống suy nghĩ một chút, cả đời mình có bao nhiêu việc nên làm, là những việc có ý nghĩa, có bao nhiêu việc không nên làm, là những việc không có chút ý nghĩa nào. Chỉ khi chúng ta nhận rõ, việc nào là việc nên làm, phải làm, việc nào là việc không nên làm, không có giá trị. Chúng ta mới thực sự làm được vô vi, tức là để mọi việc thuận theo tự nhiên. Trong cuộc sống có những người miễn cưỡng làm những việc không nên làm, không thể làm, kết quả làm không thành, trái lại còn bị thương tổn.

Làm việc tốt phải đạt được cảnh giới tự nhiên nhất

Bất luận sự việc gì phát sinh và phát triển đều có một quá trình. Cho dù là chuyện tốt cũng phải cho mọi người một quá trình để nhận biết. Bởi vì có người không hiểu, bởi vì sự nghiệp không thuận lợi, chúng ta vô cùng tức giận. Kỳ thực, tức giận là không cần thiết.

Giống như ban đầu chúng ta muốn làm việc tốt nhưng vì nguyên nhân khách quan nào đó khiến cho việc tốt không thể làm thành, vì thế chúng ta vô cùng mất hứng, chán nản và tức giận. Đây là điều không tốt. Bởi vì khi chúng ta làm việc tốt ấy là bởi vì chúng ta truy cầu làm việc tốt, làm việc tốt là mưu cầu vì mục đích cá nhân, cho nên khi làm không thành thì lại sinh ra lo lắng tức giận, tâm tình tiêu tán. Đây không gọi là làm việc tốt một cách tự nhiên.

Chúng ta thường nói phải tu đức. Lúc đánh giá một người thường dùng hai từ “đức hạnh” để đánh giá. Nói người này tốt là vì có tính tình tốt, nói người kia không tốt là vì tính tình không tốt. Làm việc tốt là tích đức, làm việc xấu là thất đức, điểm này ai cũng có thể hiểu được. Nhưng, nếu khi chúng ta chấp nhất vào làm một việc, dù là việc tốt, làm không thành thì sinh ra bực bội, nhấc lên được mà không bỏ xuống được. Đây vẫn là không thể tích đức.

Làm thế nào để đánh giá được hành vi của mình có phải là làm một cách vô vi hay không? Trước tiên chúng ta phải thường xuyên nhìn lại mình, xem xét lại mình, xem xem có phải chúng ta đang ở cảnh giới tốt hay không? Xem xem có phải chúng ta có tư tâm hay không? Có phải là có thành kiến hay không? Có phải lúc nào cũng băn khoăn sự được và mất, danh vọng của mình hay không? Nếu như những tâm này đều là không có thì chính là tĩnh.

Lúc này, chúng ta lặng lẽ dựa theo ý nguyện của mình mà làm việc thiện thì chính là có đức. Công đức là làm mà không thể tính toán. Làm một việc sau khi đã trải qua sự tính toán rồi thì đó là vô công đức.

Làm việc tốt, hy vọng người khác cảm ơn, báo đáp thì công đức vơi đi một nửa. Làm việc tốt mà dương dương tự đắc, khoe khoang đắc chí thì công đức cũng chưa có. Mọi sự muốn làm đều phải để thuận theo tự nhiên. Tự nhiên mới là cảnh giới cao nhất.

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll