Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
TK THÍCH CHÂN TUỆ
Trong một bài hát quen thuộc với mọi người chúng ta, có câu:
"Ai bảo chăn trâu là khổ? Chăn trâu sướng lắm chứ!". Ðó là lời mở đầu
của một ca khúc nói về sinh hoạt của các mục đồng chăn trâu ở thôn quê. Trong
Phật giáo, đặc biệt là thiền tông, chư vị Tổ Sư chỉ dạy một phương pháp tu hành
gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu".
Pháp môn này áp dụng triệt để lời dạy của Ðức Phật, trong cuộc
sống hằng ngày của người Phật Tử, tại gia hay xuất gia. Khi hiểu được và hành
được pháp môn này, người Phật Tử sẽ thấy được con đường vào đạo, tâm sẽ được
nhập lưu, tức là nhập vào dòng thánh, khác với dòng đời, tuy thân vẫn sống ở
đời, như bao nhiêu người khác, mà tâm không hề khổ đau lụy phiền. Dòng thánh
gồm có bốn quả vị, gọi là Tứ Thánh Quả, bắt đầu gồm có Tu Ðà Hoàn, đến Tư Ðà
Hàm, A Na Hàm và A La Hán.
Khi hiểu được và hành được pháp môn này, trí tuệ sáng ra, cuộc đời
thay đổi kể từ ngày này, người Phật Tử đối với Chánh Pháp, sẽ không còn thoái
chuyển, phát tâm tu dưỡng, phát nguyện chăn trâu, việc ác ngưng làm, quyết làm
việc thiện, không còn mặc cảm, tự tôn tự ti, chân trời an lạc và hạnh phúc bắt
đầu ló dạng. Khi hiểu được và hành được pháp môn này, người Phật Tử không còn
đi vòng vòng bên ngoài, vừa vui chơi thích thú, cười nói hả hê, cũng vừa kêu khổ,
kêu khổ chưa xong, cầu nguyện van xin, khấn vái khẩn cầu, vừa mê tín dị đoan,
vừa tiền mất tật mang, chẳng lợi ích gì, hết cầu an cầu siêu, đến cầu đoàn tụ,
cầu buôn may bán đắt, cầu trúng số độc đắc, thực sự có được gì đâu?
Khi hiểu
được và hành được pháp môn này, người Phật Tử tại gia không còn thấy chuyện tu
tâm dưỡng tánh là chuyện của những người xuất gia vào ở trong chùa, mà tu tâm
dưỡng tánh chính là chuyện của mọi người, chuyện của chính mình, chuyện của bất
cứ ai muốn giảm bớt khổ đau, muốn xuất phiền não gia, muốn ra khỏi căn nhà lửa,
muốn được an lạc và hạnh phúc ngay hiện tại, trên thế gian này, trong mọi hoàn
cảnh, trong cuộc sống hằng ngày.
Trên thế gian này, hầu như mọi người, thảy đều nghĩ rằng, ai cũng
cho rằng, mình là người thiện, không ai chịu nhận, mình là người xấu, mình là
kẻ ác. Nếu không phải là người lương thiện nhứt trên đời, thời "mình cũng
là người không làm gì nên tội", chắc là sau khi từ giã cõi đời này, sẽ
được lên thiên đàng hay cực lạc, không việc gì phải lo cả. Muốn chắc ăn hơn,
nhớ dặn thân nhơn, sau khi mình chết, thỉnh thiệt nhiều sư, rước thiệt nhiều
cha, mời nhiều ông bà, về nhà cầu nguyện, đăng báo phân ưu, tụng kinh cầu siêu,
cầu chúc tiêu diêu, nơi miền cực lạc, hoặc thăng nơi cõi, thiên đàng vĩnh viễn!
Nếu có ai đó khuyên mình tu tâm dưỡng tánh, thì liền nghĩ rằng: người đó chắc
khùng. Không khùng sao được, bởi chuyện tu hành là chuyện của quý sư trong
chùa, chuyện của quý cha trong tu viện, không phải là chuyện của người đời đang
sống ngoài thế gian, bận rộn với đủ thứ chuyện trần thế, còn thì giờ đâu mà nói
chuyện tu với hành? Có người nghĩ rằng: tu học làm chi, biết nhiều thêm khổ,
không biết khỏi tội, khỏi lội qua sông, tốn công học hỏi, như vậy khỏe re!
Thực ra, chuyện đời cũng như chuyện đạo, đâu ai có thể lý luận một
cách quá đơn giản như vậy! Con người vì vô minh che lấp chơn tánh, từ nhiều đời
nhiều kiếp, cho nên lăn lộn trong sanh tử luân hồi, sống trong cơn mê, sống
trong mộng tưởng, sống trong điên đảo, mà không hề hay biết. Tại sao vậy? Bởi
vì sống trong cơn mê, cho nên con người, vô tình hoặc cố ý, gây tạo quá nhiều
tội nghiệp, từ trước đến nay. Chẳng hạn như khi lái xe phạm luật, rồi cho là
không biết luật giao thông, thì được miễn tội chăng? Chẳng hạn như mình khai
gian trong giấy tờ, rồi cho là không biết ngoại ngữ, thì xong chuyện chăng?
Chẳng hạn như mình gây tù tội, tạo phiền não, đem khổ đau, đến cho người khác,
và gia đình của họ, dù cho là họ đáng tội, đáng bị trừng phạt, thì mình yên tâm
được chăng, tâm như vậy là tâm gì?
Bởi vì sống trong mộng tưởng, cho nên con người luôn luôn mơ ước
cảnh giới thiên đàng cực lạc, mà không biết mình đang sống trong hiện tại,
không biết mình đang sống một cuộc đời hết sức vô nghĩa, chẳng làm gì ích lợi
cho ai, chỉ biết ăn ngủ hưởng thụ, đấu tranh giành giựt, hơn thua phải quấy,
rồi chờ ngày chết! Bởi vì sống trong điên đảo, cho nên con người nhận lầm cái
giả tưởng là thực, cái khổ lại cho là vui. Chẳng hạn như ai cũng biết chuyện cờ
bạc thua lỗ là khổ, vẫn có nhiều người tham gia. Mình thắng người khổ, mình thua
mình lỗ, tự mình chuốc khổ, chớ có than van! Chẳng hạn như nhiều người cứ tưởng
cái xác thân này là "mình" và sẽ mang cái xác đó lên thiên đàng hưởng
phước, hoặc đem cái xác đó lên cực lạc cho sướng tấm thân! Ðâu chẳng biết rằng,
sau khi hết thở, chính cái xác này, gọi là thây ma, ai dám đến gần? Cát bụi sẽ
trở về cát bụi! Chỉ có nghiệp báo thiện ác theo "mình", như hình với
bóng, không bao giờ rời, qua bao nhiêu kiếp sau nữa.
Còn "mình" thực ra là ai, thì lại chẳng biết! "Con
Người Chân Thật" đã bị vô minh che lấp tự lâu lắm rồi, mà chúng ta vẫn
không chịu tỉnh thức để nhận ra! Con người thức tỉnh biết "dừng nghiệp và
chuyển nghiệp" thì trí tuệ bừng sáng.
Khi đó, con người sẽ tự tại bước ra khỏi màn vô minh, thoát ra
khỏi sanh tử luân hồi, không còn phiền não và khổ đau, sống trong an lạc và
hạnh phúc. Ví như khi nào mây đen tan hết, bầu trời lại trong sáng, mọi cảnh
vật hiện rõ ràng trước mắt, nhìn thấy muôn sự mọi việc "đúng như
thực", không còn mơ hồ, không còn điên đảo, mình sẽ nhận biết rõ ràng
"mình là ai", không còn nghi ngờ gì nữa cả. Nhưng làm sao để thức
tỉnh, làm sao để trí tuệ bừng sáng? Ðó chính là mục đích, cũng là kết quả của
"Pháp Môn Chăn Trâu".
Từ lúc còn nhỏ, con người đã tạo nghiệp lành, đồng thời, tạo
nghiệp chẳng lành. Có người từ nhỏ đã biết làm việc tốt, giúp đỡ những người
chung quanh, từ trong gia đình, ra đến học đường, và ngoài xã hội. Ðồng thời,
cũng có những đứa trẻ nghịch nghịch ngợm ngợm, nghinh nghinh ngang ngang, phá
phách xóm làng, văng tục chửi thề, hỗn hào xấc xược, gạt gẫm người già, trộm gà
bắt vịt, nghịch phá nhà người, chặt cây trộm trái, hái hoa bứt lá, chọc chó đá
mèo, leo trèo khắp chốn. Lúc còn trẻ tạo tội nghiệp như vậy, nhưng nếu biết
dừng nghiệp và chuyển nghiệp kịp thời, thì có thể trở nên người tốt, có ích lợi
bản thân, cho gia đình và cho xã hội. Ðời nay, ở các xứ tây phương, văn minh
tiên tiến, vật chất dư thừa, có những đứa trẻ biết kêu cảnh sát đến bắt giam
cha mẹ, chỉ vì răn dạy chúng bằng roi vọt, còn có những đứa trẻ dùng dao đâm
chết người, mang súng vào trường, giết người hàng loạt! Thực là khủng khiếp!
Ðến khi lớn lên, bước chân ra đời, cuộc sống khó khăn, con người
bon chen, tranh đấu sống còn, cho nên bất chấp, mọi thứ thủ đoạn, miễn sao có
lợi, cho mình thì thôi, người khác ra sao, đau khổ thế nào, sống chết mặc kệ!
Con người sẵn sàng, thượng đội hạ đạp, để được tiến thân, để giành quyền lợi,
để đợi thời cơ, để mơ địa vị. Con người sẵn sàng, đá giò lái bạn, đâm lưng
chiến sĩ, thưa gửi kiện tụng, đụng độ đồng nghiệp, hạ nhục đồng môn, đem chôn
đồng bào, cào nhà đồng đội, dội nước đồng hương, chẳng thương đồng đạo, giả tạo
đồng minh, tất cả cũng vì, đồng tiền mà thôi! Con người sẵn sàng, phao truyền
tin đồn, mặc kệ đúng sai, phổ biến thư rơi, bôi lọ kẻ thù, nói xấu sau lưng,
đặt điều thêm bớt, vu oan giá họa, chỉ vì ganh tị, đố kỵ mà thôi. Người khác
thua mình, khinh khi biếm nhẽ, nhìn nửa con mắt. Người khác hơn mình, tức giận
gièm pha, phá cho tan nhà, nát cửa chửa thôi.
Tất cả những việc làm, những lời nói trên đây, đều được chỉ huy
bởi tư tưởng, ý nghĩ của con người. Nói một cách khác: "Tư tưởng làm chủ,
chỉ huy, phát xuất ra hành động và lời nói". Con người có tư tưởng hay tâm
ý thiện, thì hành động và lời nói thiện. Con người có tư tưởng hay tâm ý ác,
thì hành động và lời nói ác. Như vậy tâm ý của con người, có lúc thiện, có lúc
ác, cho nên hành động và lời nói, lẫn lộn thiện và ác. Tâm ý của con người luôn
luôn lăng xăng lộn xộn hằng ngày như vậy. Trong kinh sách, tâm ý của con người
thường được ví như con vượn chuyền cây, như con ngựa chạy rong, nên gọi là
"tâm viên ý mã". Con ngựa chạy rong, tung tăng khắp chốn, khó mà điều
khiển, thuần phục dễ dàng. Con vượn chuyền từ nhánh cây này sang nhánh khác,
cũng như tâm ý của con người nghĩ ngợi lung tung linh tinh lang tang, hết chuyện
đông đến chuyện tây, hết chuyện ta đến chuyện tàu, hết chuyện người này đến
chuyện người khác, hết chuyện gia đình đến chuyện làng xóm, hết chuyện năm châu
thế giới đến chuyện hang cùng ngõ hẻm, hết chuyện khoa học kỹ thuật đến chuyện
chính trị tôn giáo, hết chuyện quốc gia đại sự đến chuyện phụ nữ nhi đồng.
Trong thiền tông, tâm ý của con người thường được ví như con trâu.
Con trâu không được chăn giữ thường hay xâm phạm, giẫm đạp lúa mạ của người
khác, gây nhiều tổn thất hoa màu, mùa màng của những người láng giềng lân cận
chung quanh. Con trâu được chăn dắt cẩn thận, chăm nom kỹ lưỡng, canh chừng
thường xuyên, đem lại ích lợi lớn lao cho nông gia và cho xã hội.
* Ðiều quan trọng là: "Con người hãy chăn dắt con trâu, chớ
để con trâu dẫn dắt con người! Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con người sẽ
đi về đâu?". Cho nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu",
chính là nghĩa đó vậy.
Bây giờ chúng ta thử bắt đầu tìm hiểu pháp môn này. Pháp môn chăn
trâu trình bày phương pháp tu tâm dưỡng tánh qua mười giai đoạn như sau:
1) Thoạt đầu không ai biết con trâu của mình đang ở đâu, đang làm
gì? Tức là con người thường không nhận ra tâm ý của mình đang ở ngõ ngách nào?
Chẳng hạn như mình đang nghĩ gì, muốn gì, âm mưu gì, tính toán gì, thiện hay
ác, tốt hay xấu, lành hay dữ, hiền lương hay bất lương? Con người sống theo
dòng đời, thường bị cuốn trôi theo ngũ dục, thường bị "con trâu tâm
ý" của mình dẫn dắt, thường làm những chuyện bất nhân thất đức, thường nói
những lời độc ác, lợi mình hại người. Hành động và lời nói thường bị tâm tham
lôi cuốn, tâm sân thúc đẩy, tâm si điều khiển, con người tạo không biết bao
nhiêu tội nghiệp, mà không hề hay biết đó thôi, hoặc biết mà vẫn cố phạm!
Thí
dụ như là, tâm tham lôi cuốn, thấy lợi thì ham, chẳng muốn đi làm, chỉ muốn
hưởng nhàn, lại có tiền xài, tức ham phát tài, theo cách bất lương, nên không
ngần ngại, kiếm chuyện vu oan, giá họa người khác, nộp đơn kiện tụng, bày
chuyện thiệt hơn, đòi phải bồi thường, ba bốn triệu bạc! Thí dụ có người, đã
từng giúp mình, được rất nhiều chuyện, nhưng khi chỉ có, một chuyện không được,
hài lòng vừa ý, tâm sân thúc đẩy, mình liền cảm thấy, tức giận khó nguôi. Ơn
nghĩa trước đây, sâu dầy thế mấy, cũng đều phủi sạch, không thèm nhớ tới, nhắc
tới làm chi. Thậm chí người đó, là cha mẹ ruột, sanh thành nuôi dưỡng, từ nhỏ
đến nay, bây giờ khôn lớn, có vợ có chồng, nếu như cha mẹ, lôi thôi khó chịu,
do tâm si khiến, mình liền từ ngay! Bạn bè thân thiết, trải qua tháng năm, quen
biết rất nhiều, hy sinh giúp đỡ, thế nào chăng nữa, thì cũng mặc kệ, vì tham
danh lợi, nhứt là vì tiền, mình vẫn trở mặt, bán đứng như thường! Con trâu lúc
này thực là đen, mà lại lẫn trong bóng đêm mờ tối của chuyện thị phi thế gian,
cho nên con người không nhận ra nó đang ở đâu và đang làm gì.
Người phát tâm muốn tu tập, nhờ học hỏi và thâm nhập giáo lý, mới
tin nơi mình có tâm thể chân thật, bất sanh bất diệt, ngoài cái xác thân tứ đại
giả tạm này ra, nhưng chưa hề sống được với chân tâm đó, bởi vì chưa biết cách
chăn trâu. Học hỏi kinh sách, như Kinh Hoa Nghiêm, chúng ta được biết, Ðức Phật
dạy rằng: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh", tức là:
"Tất cả mọi người đều có Tánh Giác".
Cho nên chúng ta muốn tìm, muốn hiểu muốn biết, nhưng không biết
tìm kiếm "Tánh Giác" ở đâu? Người phát tâm cầu học Chánh Pháp, tìm
đến các chùa, các đạo tràng, các pháp hội, để học hỏi, để tìm tòi. Càng đi tìm,
càng cầu học, càng phí sức nhọc công, càng xa lìa tánh giác. Chẳng gặp Chánh
Pháp, lại gặp quá nhiều những hình thức mê tín dị đoan lẫn lộn trong Phật giáo,
những hình thức cúng kiến nghi lễ bày vẽ quá rườm rà, không có ghi trong kinh
sách nào cả. Hoặc khi gặp phải những người không chân tu thực học, trốn tránh
trần thế, mượn áo tu sĩ, nói quàng nói xiên, đem đời vào đạo, cơm gạo qua ngày,
bày thi văn học, văn nghệ văn gừng, tưng bừng ca hát, náo động thiền môn, đại
ngôn thi sĩ, văn sĩ kiêm luôn, thầy bà địa lý, thầy tụng đám tang, thầy bùa
thầy bói, coi ngày tốt xấu, cưới gả ma chay, thật thảm thương thay, những người
như vậy! Nhìn lại chỉ thấy, sinh hoạt thường nhựt, của ngày tháng qua, chẳng gì
mới lạ! Tại sao như vậy?
Bởi vì trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta quen chạy theo trần cảnh bên ngoài, khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm liên miên, khiến cho tánh giác bị che khuất. Tánh giác chính ở ngay nơi mình. Khởi công tìm kiếm, là khởi vọng niệm, xa lìa tánh giác. Cũng như nhiều mây đen che khuất ánh sáng mặt trời, hay mặt trăng. Chẳng hạn như khi, mắt thấy hình sắc, xinh tươi tốt đẹp, hạp nhãn vừa lòng, khởi tâm ham muốn, mua sắm về nhà, chiếm đoạt sở hữu. Chẳng hạn như khi, tai nghe âm thanh, ca tụng tán dương, vừa tai hạp ý, say mê thích thú, khởi tâm đắm nhiểm, muốn được nghe tiếp. Chẳng hạn như khi, tiếp xúc với ai, ngọt ngào tử tế, có lợi cho mình, liền khởi tâm thương, cho là người tốt, không vừa ý ai, thì khởi tâm bực, cho là người xấu.
Ðây là giai đoạn, của một người tu, tại gia xuất gia, chưa biết
chăn trâu, tức là chưa biết, giữ gìn kềm chế, tâm niệm của mình, để tâm buông
lung, nghĩ ngợi lung tung, linh tinh lang tang, chạy theo cảnh đời, tạo tội tạo
nghiệp, rồi bị nghiệp dắt, vào trong lục đạo, sanh tử luân hồi, xa lìa tánh
giác.
* Thương ghét, phải quấy, đẹp xấu, đúng sai, hơn thua, chính là
vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính thực là con trâu, mà người
tu theo Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải điều phải khiển, phải
thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn trâu thành công thì tánh giác hiển
lộ.
* * *
2) Ðến khi nghe bạn đạo bàn chuyện "chăn trâu", mình mới
bắt đầu thấy dấu chân con trâu của mình, nhưng vẫn chưa thấy được nguyên hình
con trâu. Tức là con người thỉnh thoảng có cảm giác mình làm việc thiện, thỉnh
thoảng có cảm giác mình làm việc bất thiện, nhưng vẫn chưa phân biệt được việc
nào thiện, việc nào bất thiện, vì chưa hiểu biết Chánh Pháp. Trong giai đoạn
này, mình nhận biết được tâm ý của mình thay đổi liên miên, lăng xăng lộn xộn,
lúc thích thế này, lúc thích thế kia. Lúc muốn giúp đỡ, người này người kia,
khi muốn hãm hại, người này người khác. Lúc phát từ tâm, làm việc phước thiện,
bố thí cúng dường, muốn làm người tốt, tạo được phước báu. Khi muốn sang đoạt,
của cải tiền bạc, vốn liếng phần hùn, tác quyền tác phẩm, công ăn việc làm, trở
thành kẻ xấu, tạo tội tạo nghiệp! Lúc muốn hùn phước, ấn tống kinh sách, đi
chùa lạy Phật, góp quỹ từ thiện, cứu trợ nạn nhân, thiên tai bão lụt, muốn làm
người tốt, tạo được phước báu. Khi tính mưu kế, vu khống kiện người, đòi hỏi
bồi thường, hơn ba bốn triệu, trở thành kẻ xấu, tạo tội tạo nghiệp! Lắm lúc
nhiều khi, làm ăn bất chánh, gặp thời trúng mánh, giựt hụi quịt nợ, lường gạt sang
đoạt, giả tạo thương tích, tròng tréo giấy tờ, khai gian hoàn cảnh, cờ gian bạc
lận, dụ dỗ kẻ khờ, làm việc bất lương, vồ được một vố, tiền của khá lớn. Con
người sợ sệt, mang tội một mình, chắc đọa địa ngục, chịu nhiều khổ đau, bèn đem
chút ít, tiền lẽ cúng chùa, trút hết tội lỗi, cho các nhà sư, gánh vác thay
mình, hoa quả nhang đèn, hối lộ tượng Phật, để được tạm thời, an tâm chút chút!
Người phát tâm tu theo Phật, nương theo Chánh Pháp, hiểu biết mình
có tánh giác, nhưng chỉ biết suông, chưa biết rõ ràng, một cách tường tận.
Chẳng hạn như là, mới chỉ biết được, các đồ trang sức, dù là vòng xuyến, hoa
tai dây chuyền, nhẫn trơn nhẫn cưới, tuy có khác nhau, về mặt hình thức, nhưng
mà tất cả, đều cùng bản chất, đó là chất vàng. Cũng ý như vậy, tất cả mọi
người, tuy không giống nhau, về các màu da, cũng không đồng nhau, về mặt kiến
thức, cũng không hợp nhau, về các sở thích, cũng không cùng nhau, về các hình
tướng, nam phụ lão ấu, nhưng mà tất cả, đều cùng bản chất, điều đó chính là:
"Bản Tâm Thanh Tịnh", người nào cũng có. Chẳng hạn như, nếu không có
thù oán trước đây, không có cạnh tranh nghề nghiệp, không có ganh tị đố kỵ,
không có đụng chạm tự ái, không có va chạm quyền lợi, chắc chắn con người đem
bản tâm thanh tịnh của mình đối xử với nhau, rất là cởi mở, rất là tốt đẹp, rất
là nhân đạo.
Hay nói cách khác: Bản tâm thanh tịnh của tất cả mọi người đều
giống nhau, không khác, đều đồng nhứt thể. Chỉ vì con người tạo nghiệp khác
nhau, cho nên hình tướng khác nhau. Có nhiều người trong chúng ta thường phát
biểu: "Không ai chọc ghẹo, tôi hiền lắm đó!". Ðiều này chứng tỏ, mọi
người đều thực sự hiền lành, đều sống với bản tâm thanh tịnh, với điều kiện:
đừng có gặp nghịch duyên, đừng có gặp việc gì trái ý.
* "Bản Tâm Thanh Tịnh" đó, không có hình tướng, không
phải là một vật, trong kinh sách, thường được gọi là Tánh Giác, là Chơn Như, là
Chơn Tâm, là Phật Tánh, là Pháp Vô Sanh, là Pháp Bất Diệt, là Pháp Bất Tử, là
Pháp Tối Thượng, là Viên Giác Tánh, là Pháp Thân Huệ Mạng, là Trí Tuệ Bát Nhã,
là Bản Lai Diện Mục, là Bản Tánh Sáng Suốt, là Bản Thể Chân Thật, là Bản Nguyên
Chân Thật, là Con Người Chân Thật, là Con Người Bất Tử, là Kim Cang Bất Hoại,
là Tịch Diệt Hiện Tiền, là Vô Sanh Pháp Nhẫn. Tùy theo kinh sách, tên gọi có
khác nhau, nhưng đều chỉ cùng không phải là một vật, từ xưa đến giờ, từ trước
đến nay. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Bản Lai Vô Nhất
Vật", chính là nghĩa đó vậy.
3) Sau một thời gian học hiểu Chánh Pháp nhiều hơn, đem những lời
dạy của Ðức Phật quán chiếu, soi xét những hành động, những lời nói, những ý
nghĩ của mình, lúc đó mới hay, mình đã tạo quá nhiều nghiệp xấu ác, còn nghiệp
thiện lành, hình như chẳng có chút nào đáng kể! Trong bóng tối của cuộc đời,
nơi cuối con đường hầm, có dạng chút ánh sáng le lói, đủ soi thấy bóng dáng của
con trâu.
* Con trâu tâm ý của mình lúc đó mới hiện nguyên hình: Ðó là con
trâu, đen thủi đen thui, từ đầu tới đuôi. Con trâu đen thui, tượng trưng cho
những, ý nghĩ tư tưởng, ác nhơn thất đức, xấu xa độc địa, cúp điện tối đen, hắc
ám mịt mờ, ti tiện nhỏ nhen, giả nhơn giả nghĩa, gian xảo điêu ngoa, đầy trong
tâm địa, tất cả mọi người, ngày cũng như đêm, quanh năm suốt tháng.
Con người nhận thấy, con trâu của mình, đen thủi đen thui, quá sức
to lớn, cảm thấy sợ hãi, bắt đầu vùng vẫy, cố gắng giẫy giụa, nói một cách
khác, tức là ra sức, biện bạch bào chữa, cho những lỗi lầm, trong lúc hành
động, cũng như lời nói. Ðôi khi lắm lúc, con người tỏ ra, ăn năn hối cải. Ví
như sau khi, đọc Kinh Thủy Sám, Ðức Phật chỉ dạy, một cách rành rẽ, những việc
làm nào, những lời nói nào, những ý nghĩ nào, tạo tội tạo nghiệp, chúng ta mới
biết, giựt mình tỉnh thức, cảm thấy tội lỗi, chất cao như núi. Cũng giống như
là, "tấm gương chiếu yêu", soi thấy tâm địa, yêu ma quỉ quái, ẩn tàng
bên trong, hình dáng con người, nhờ "gương chiếu trâu", chúng ta nhận
thấy, một cách rõ ràng, từ trước đến giờ, mình luôn luôn nghĩ, tự kỷ ám thị,
thấy chuyện mình tốt, che dấu tội lỗi, đã và đang làm, bằng các chiêu bài, bằng
các danh nghĩa, bằng các bình phong, bằng các mỹ từ, đao to búa lớn.
Chẳng hạn như muốn, hãm hại người nào, chỉ vì ganh tị, bèn khoác
bên ngoài, các thứ chiêu bài: trừ gian diệt bạo, thế thiên hành đạo. Chẳng hạn
như muốn, tiêu diệt đối thủ, triệt hạ đối phương, cạnh tranh nghề nghiệp, bèn
khoác bình phong: bảo vệ công lý, nêu cao chính nghĩa, tranh đấu tự do, bênh
vực lẽ phải. Chẳng hạn như vì, tham tiền tham vàng, tham lợi tham danh, sẵn
sàng đấu tranh, hơn thua giành giựt, ngay cả với anh, với chị em ruột, ở trong
gia đình, bất kể mẹ cha, mình cũng chẳng tha, biện bạch lý do: vì vợ vì chồng,
vì con vì cháu, vì chuyện nhân nghĩa, mới làm như vậy! Ðâu chẳng biết rằng: vợ
chồng con cháu, sung sướng thụ hưởng, của cải giàu sang, do mình tranh giành,
đoạt được đem về, còn mình thì sao, lãnh đủ nghiệp báo, đời này kiếp khác.
Chúng ta nên biết: "có vay phải trả", "mình làm mình chịu",
không ai thay được, dù là cha mẹ, dù là vợ chồng, hay là con cháu, không ai cứu
được, dù có van xin, Phật Trời cứu giúp, cũng chỉ vậy thôi. Ðó mới thực là:
công bằng tuyệt đối!
* Ðiều quan trọng hơn hết trong việc tu tâm dưỡng tánh, chính là
chúng ta phải biết cách chăn trâu. Nghĩa là chúng ta phải biết cách dừng các
vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính là công phu tu tập theo
đạo Phật, để cải thiện cuộc đời mình, để chuyển hóa những ưu tư phiền muộn, trở
thành vô tư tự tại. Chẳng hạn như khi, tâm tham nổi lên, lợi mình hại người,
muốn được bạc triệu, xài chơi cho sướng, nghĩ cách hại người, bất chấp thủ
đoạn, chúng ta liền biết, lập tức dừng ngay, không nên tiếp tục, theo đuổi vọng
tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm đó vậy, tức là chúng ta, đã dừng được
nghiệp, và chuyển được nghiệp.
Chẳng hạn như khi, tâm sân khởi lên, muốn hại người khác, cho đã
cơn tức, cho được thỏa lòng, tự ái cao độ, muốn cho kẻ thù, chết phứt cho rồi,
hoặc ít ra cũng, khốn khổ khốn kiếp, tù tội te tua, tả tơi xơ xác, tan tành hoa
lá, hết đường sinh sống, bức bách khổ não, thân tàn ma dại, sự nghiệp tiêu tan,
tán gia bại sản, mất hết việc làm, đói rách nghèo nàn, mới thiệt hả giận, chúng
ta liền biết, lập tức dừng ngay, không nên tiếp tục, theo đuổi vọng tâm, vọng
tưởng vọng thức, vọng niệm đó vậy, tức là chúng ta, đã dừng được nghiệp, và
chuyển được nghiệp.
Trong giai đoạn này, người nào phát tâm chuyển hóa cuộc đời mình,
muốn biến phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc, nhứt định phải biết cách
chăn trâu. Người không biết cách chăn trâu sẽ đuổi theo vọng tâm, vọng tưởng,
vọng thức, vọng niệm đó, đem ra thực hiện, tức là tiếp tục, tạo thêm nghiệp
mới!
Người tu tâm dưỡng tánh, biết cách chăn trâu, sẽ lập tức tự quở trách
chính mình: "Lại tạo tội tạo nghiệp nữa rồi! Muốn đọa địa ngục hay sao?
Hãy dừng ngay lập tức!". Chuyện này khó khăn, không phải dễ dàng, cần
nhiều thời gian, mới thực hành được. Khi mình cưỡng lại, sức kéo con trâu, thực
là điêu đứng, vất vả nhọc nhằn. Lắm lúc gặp phải, hoàn cảnh trái ngang, kẻ chửi
người mắng, hoặc khi gặp chuyện, bất bình trái ý, hãy tự nhủ thầm: Một nhịn
chín lành, cho nên phải nhịn, nhịn nhịn và nhịn, mới là phải đạo, mới là người
hiền, mới là người tu. Lập tức vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm của
mình, nổi lên chống lại, xui khiến xúi giục: Tại sao phải nhịn? Nhịn thì nhục,
cự thì đục, nhịn ở đàng chân, chúng lân đàng dầu, nhịn hoài thì chúng, được
nước làm tới, nhịn hoài chúng khinh, chúng khi khờ dại, chúng mắng ngu ngơ, nếu
như làm tới, không nhịn không ngưng, chúng biết tay ông, chúng ngán tay bà, cả
nhà chúng sợ!
Ôi thôi! Tâm niệm như vậy, thực là con trâu, ngang tàng hoang dã,
thực đã lâu đời, ngông cuồng ngược xuôi, rất khó chăn giữ. Ngọn hỏa diệm sơn,
tức là tâm sân, trong lòng mỗi người, thực là dễ sợ! Cần phải tìm được, cây
quạt ba tiêu, mới mong dập tắt, được lửa sân hận. Cây quạt "ba tiêu",
trong Tây Du Ký, là cái gì vậy? Ðó chính thực là, ba điều cần tiêu, cần phải
diệt trừ. Như trong kinh sách, có lời phát nguyện:
Nguyện tiêu tam chướng trừ phiền não.
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu.
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành bồ tát đạo.
Nguyện đắc trí tuệ chơn minh liễu.
Phổ nguyện tội chướng tất tiêu trừ.
Thế thế thường hành bồ tát đạo.
Nghĩa là muốn dứt hết khổ đau phiền não, muốn đạt được trí tuệ
sáng suốt, để đời đời tu theo hạnh của chư vị bồ tát, đem lại ích lợi cho chúng
sanh, chúng ta phải tiêu trừ tam chướng, tức là tiêu trừ ba chướng nạn lớn của
cuộc đời, gồm có: tội chướng, nghiệp chướng và sở tri chướng. Do tâm tham lam
sân hận si mê, chúng ta tạo không biết bao nhiêu tội lỗi, mà không hề hay biết,
hoặc biết mà vẫn cố phạm. Do thói quen hằng ngày, trong mọi hành động, lời nói
hay tư tưởng, chúng ta tạo nghiệp không biết bao nhiêu, mà không hề hay biết,
hoặc biết mà vẫn cố phạm. Do sự hiểu biết, kiến thức ngoài đời, từ những bằng
cấp địa vị, hay những hiểu biết trong đạo, người đời gặp không biết bao nhiêu
là chướng ngại, khó có thể thấy được đạo, càng ngày càng bị con trâu của mình
dẫn dắt đi quá xa quê hương, muốn trở về cũng không còn biết lối nào nữa cả!
Người nào hữu duyên, được gặp Chánh Pháp, có nhiều thiện căn, nên
khi thấy được, nguyên hình con trâu, liền nhận biết ngay, mình đã tạo tội,
nhiều tội tày trời, từ trước đến giờ, chắc chắn sẽ phải, đền trả nay mai, không
thể chạy đâu, cho thoát nghiệp báo, giựt mình tỉnh thức, lập tức ngưng ngay,
hành động bất thiện, liền chừa bỏ ngay, lời nói độc ác, liền dẹp bỏ ngay, tư
tưởng lợi mình, ý nghĩ hại người!
* Ðó là giai đoạn, chăn giữ con trâu. Chăn trâu nghĩa là: Áp dụng
Chánh Pháp, vào trong cuộc sống, của mình hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng
tưởng vọng thức, vọng niệm liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân khẩu ý mình,
bất lương bất thiện, thành ra ba nghiệp, hoàn toàn thanh tịnh.
* Kinh sách có câu: "Tam nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật
vãng tây phương". Nghĩa là khi nào ba nghiệp thân khẩu ý thường thanh
tịnh, tức là con trâu đã được chăn thuần thục, đã biến mất tiêu, chúng ta sẽ
sống được trong cảnh giới tịnh độ như chư Phật mười phương.
4) Khi con trâu đã hiện nguyên hình, nếu không hạ quyết tâm chăn
trâu, không chịu ra công thuần phục con trâu tâm ý của mình, người đời sẽ dễ
dàng bị cám dỗ, dễ bị sa ngã, dễ bị lôi kéo đi vào con đường gian tà, ác đạo.
Chuyện gì cũng dám làm, lời nói nào cũng phun ra được, ý nghĩ nào cũng dẫn tới
chỗ lợi mình hại người, chẳng chút vị tha, bất chấp thủ đoạn. Cuộc đời đau khổ,
vẫn hoàn khổ đau, không sao tránh được. Trong giai đoạn này, người chăn còn
yếu, con trâu còn mạnh, phải rất nhọc nhằn, lôi cổ nó lại, nhưng nó chống cự,
trì chân ghì kéo, trở lại đường củ. Tức là vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng
niệm, vẫn theo duyên trần, dấy khởi đều đều. Con người thường sống, theo thói
quen cũ, hằng ngày như vậy, rất khó điều phục, cho nên phải biết, thực sự quyết
tâm, kiên gan trì chí, không được lơi lỏng, dù trong giây phút.
Chúng ta hãy chiêm nghiệm câu chuyện sau đây: Trên một chuyến xe lửa, người lái ngủ say sưa, hầu hết các hành khách, đều vui chơi ca hát, nhảy nhót múa may, quay cuồng thỏa thích, cười nói huyên thiên, khoe của khoe tài, khoe giàu khoe sang, khoe nhà khoe xe, khoe con khoe cháu, nói xấu xóm làng, châm chích chọc chọt, khoái tỉ tì ti, lo ăn ngủ khì, nhìn trời ngắm mây, chẳng hay biết gì. Không ai biết rằng: chẳng bao lâu nữa, vì không người lái, chuyến xe lửa đó, tốc độ sẵn có, sẽ trật đường rầy, lao xuống hố sâu, không còn dừng được, tất cả hành khách, mạng vong thảm tử, không sót một ai! Trong lúc hưởng thụ, mọi người sẵn sàng, tranh chấp cãi vã, tranh giành phần phải, phần hơn phần tốt, phần lợi phần thắng, về phía của mình, bà con phe nhóm, ngày này ngày khác! Ðợi cho đến lúc, toa đầu xe lửa, lao xuống vực sâu, mọi người giựt mình, hoảng hồn la hét, mặt mày tái mét, lăng xăng lộn xộn, chộn rộn ngược xuôi, cầu kinh lần chuỗi, cầu cứu thánh thần, niệm Phật huyên thiên, kêu trời kêu đất, nhưng mà tất cả, đều quá muộn màng!
Cũng vậy, tất cả mọi người chúng ta đều ở trên chuyến xe lửa định
mạng của cuộc đời. Trạm cuối cùng của chuyến xe lửa định mạng, ai ai cũng biết:
đó là nghĩa địa, hay là lò thiêu! Thế là xong một đời! Vậy mà khi còn hít thở
không khí, còn khả năng làm việc, còn nói năng và suy nghĩ, người đời không
ngừng tạo tội tạo nghiệp, vì miếng cơm manh áo, vì tự ái hơn thua, vì ganh tị
đố kỵ, vì tức giận người khác, vì tâm tánh luôn luôn thích thú nhìn thấy người
khác phiền não khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì con người thường nghĩ: Ðời của mình
còn dài lắm mà!
Ðó là những lúc, mình làm mọi việc, thiện ác lẫn lộn, chuyện gì
cũng dám, tạo phước cũng làm, tạo nghiệp chẳng từ! Thực ra, cuộc đời là vô
thường, danh lợi là vô thường, tâm ý cũng vô thường. Vô thường nghĩa là: nay
còn mai mất, chứ không tồn tại, vĩnh viễn muôn năm. Tâm tạo tội tạo nghiệp sẽ
dẫn dắt con người vào vòng sanh tử luân hồi. Tuy nhiên, tội nghiệp cũng vô thường.
Nếu có ý chí mạnh mẽ, con người có thể dừng nghiệp và chuyển nghiệp! Biết dừng
nghiệp và chuyển nghiệp, chúng ta sẽ tránh được bao nhiêu hậu quả khó lường, sẽ
khỏi được bao nhiêu khổ đau phiền não!
Khi thấy được con trâu, tức là chúng ta đã thấy được bao nhiêu
ngày tháng trôi qua của cuộc đời mình, thực là phí phạm, tạo tội tạo nghiệp, đã
quá nhiều rồi. Có rất nhiều người, bề ngoài chơn chất, có vẻ hiền lành, nhu mì
nhỏ nhẹ, nói năng từ tốn, chưa hề hại ai, nhưng mà bên trong, tư tưởng nảy
sanh, bao nhiêu ý nghĩ, đen tối bậy bạ, đó chính thực là: con trâu cần phải
chăn giữ. Người tu tâm dưỡng tánh thực sự phải biết cách chăn trâu. Có người
rất ân hận, ăn năn sám hối về những đau khổ, do vô tình hoặc cố ý, mình đã gây
tạo cho người khác, chỉ vì tâm tham lam, sân hận và si mê. Có người quá quẩn
trí với mặc cảm tội lỗi, muốn kết thúc cuộc đời mình, để đền trả quả, vẫn cảm
thấy cũng còn chưa đủ. Tuy nhiên, những người có chút ánh sáng trí tuệ từ Chánh
Pháp, bắt đầu dành nhiều thời gian, để lo tu tâm dưỡng tánh, tìm gặp thiện hữu
tri thức, thầy lành bạn tốt trong đạo, cố gắng học hỏi cách nào, để làm lợi
mình lợi người, hầu trả bớt nghiệp báo đã vay, đã tạo đã gây, từ bao lâu nay.
Người tu tâm dưỡng tánh bắt đầu tìm cho mình một nơi nương tựa, để mong rằng: những bước trên quãng đường đời sau này, không còn tai nạn rủi ro, không còn hố sâu vực thẳm, hiểm trở chông gai, để chuộc lại những lỗi lầm đã tạo tác. Tâm sám hối mạnh mẽ thúc đẩy nhiều người phát tâm hành thiện, cứu người giúp đời.
Người tu tâm dưỡng tánh bắt đầu tìm cho mình một nơi nương tựa, để mong rằng: những bước trên quãng đường đời sau này, không còn tai nạn rủi ro, không còn hố sâu vực thẳm, hiểm trở chông gai, để chuộc lại những lỗi lầm đã tạo tác. Tâm sám hối mạnh mẽ thúc đẩy nhiều người phát tâm hành thiện, cứu người giúp đời.
Ngày xưa có người, vô minh lâu đời, che lấp chơn tánh, không được
sáng suốt, cho nên lúc nào, cũng tìm mọi cách, phỉ báng đạo Phật, chê bai Chánh
Pháp. Cho đến một ngày, hoát nhiên tỉnh ngộ, vì quá ân hận, bèn định cắt lưỡi,
từ lâu đã nói, những lời xằng bậy, gây nên không biết, bao nhiêu tội nghiệp.
May nhờ gặp lại, một vị thiền sư, vốn là anh em, tu hành lâu năm, hết lời
khuyên bảo: Nên dùng cái lưỡi, xưa nay phạm tội, để mà tuyên xưng, giảng giải
Chánh Pháp, giúp cho nhiều người, liễu ngộ chánh đạo, hiểu biết rõ ràng, pháp môn
rõ ràng, tu tâm dưỡng tánh. Như vậy mới là, phương cách tốt nhứt, thực tâm sám
hối, để tạo phước báu, để trả nghiệp báo, đền ơn chư Phật, ích lợi cho mình,
cho muôn người khác. Thời gian về sau, người đó trở thành, một vị thiền sư,
chơn tu đắc đạo, nổi tiếng khắp nơi.
Trong Kinh Vị Tằng Hữu, Ðức Phật có dạy:
"Tâm trước nghĩ ác, như đám mây đen che khuất mặt trời.
Tâm sau ăn năn nghĩ thiện, như ngọn đuốc sáng tiêu trừ hắc ám".
Tâm sau ăn năn nghĩ thiện, như ngọn đuốc sáng tiêu trừ hắc ám".
Tuy đã nhận được, mình thực sự có, bản tâm thanh tịnh, nhưng mà
những khi, nghe nói trái tai, thấy điều gai mắt, gặp chuyện bất trắc, trong tâm
liền khởi, bực tức giận hờn. Ðó chính là lúc, con trâu của mình, lên cơn hung
hăng. Chúng ta luôn luôn, muốn làm người tốt, trở nên người thiện. Nhưng nếu có
người, bày mưu mách nước, chỉ chước kiếm tiền, dễ làm giàu nhanh, kiếm được vài
triệu, bất chấp thủ đoạn, lợi mình hại người, do dự giây lâu, mình liền nghe
theo. Tức là chúng ta, bị con trâu lôi, tạo tội nghiệp mới, chứ còn gì nữa!
* Chăn trâu nghĩa là: Không theo sức mạnh, sức kéo sức lôi, của
tánh tham lam, sân hận si mê. Chăn trâu nghĩa là: Phải biết kềm giữ, xỏ mũi kéo
lại, đừng để con trâu, dẫn mình đi đâu, tạo tội tạo nghiệp.
* * *
5) Trong giai đoạn này, con người đã biết cách chăn trâu, nhưng
nhiều khi vẫn bị sức mạnh của con trâu kéo lôi ngược lại, có khi té lăn cù bò
càng, u đầu xước trán. Sau một thời gian, cố gắng nỗ lực, tu tập tinh tấn, tâm
không còn điên đảo mộng tưởng nữa. Vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm,
khởi lên liền biết, nên tự lắng xuống, thường xuyên tỉnh giác, không bị nghiệp
lôi. Song vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, cứ dấy lên đều đều. Nghĩa
là con người vì lăn lộn trong cuộc đời, bị vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức,
vọng niệm lôi cuốn, che lấp bản tâm thanh tịnh, quanh năm suốt tháng cả ngày,
quên mất con người chân thật của chính mình, trong kinh sách gọi là
"nghiệp thức che đậy", lúc làm người tốt, khi làm kẻ xấu, sanh tử tử
sanh mãi mãi, không biết đến bao giờ mới chịu dừng nghiệp và chuyển nghiệp.
Lúc nào mình làm chủ được con trâu của mình, tức là làm chủ được
thân và tâm mình. Còn khi nào công phu chưa được thuần thục lắm, chúng ta nên
tránh bớt các cơ hội tiếp xúc với trần đời, gan dạ cắt đứt các duyên liên hệ
bên ngoài, để tâm ý bớt giao động, để con trâu của mình không có cơ duyên nổi
cơn hung hăng dữ tợn. Trong lúc tu tập, chúng ta thường thấy, hành giả chiêm
ngưỡng, ba bức tượng gổ, hình ba con khỉ: một con bịt mắt, một con bịt tai, một
con bịt miệng, chính là nghĩa đó vậy.
* Thấy cũng như không thấy, nghe cũng như không nghe, nói cũng như
không nói. Khi tiếp xúc với cảnh trần, nhưng không ý kiến, không lập tri, không
khởi tâm phân biệt, tức là không dấy khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng
niệm, cũng như lúc không tiếp xúc với trần duyên vậy.
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy:
"Tri kiến lập tri tức vô minh bổn.
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn".
Tri kiến vô kiến tư tức Niết bàn".
Nghĩa là khi sống ở đời, chúng ta hiểu biết tất cả mọi việc, nếu
dấy khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm thì gặp phiền não khổ đau,
đó là gốc của vô minh. Nhưng nếu không dấy khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng
thức, vọng niệm, thì chúng ta sống được trong cảnh giới niết bàn. Nói cách khác
đơn giản hơn, sống ở đời tuy hiểu biết mọi việc, người nào nhiều chuyện, người
đó tự chuốc khổ, khổ thân và khổ tâm đó vậy. Cái hạnh phúc ở chung quanh, nằm
trong tầm tay, có sẵn từ lâu, nhưng mình quên lững, không nhận thức được, chỉ
vì không sống trong chánh niệm, đến nay hạnh phúc đó hiện hữu trở lại trong
vòng tay, mình phải ý thức, biết trân quý và giữ gìn, làm con thuyền đưa ta
thoát khỏi biển sanh tử luân hồi.
Thời Ðức Phật còn tại thế, có một người theo ngoại đạo, mê tín dị
đoan, tìm giết cho đủ một trăm người, dâng cúng thần linh, để được thần thông,
được lên thiên đàng. Anh ta đã giết chín mươi chín người, cho nên mọi người sợ
hãi chạy trốn hết trơn. Túng cùng, trên đường về nhà, định giết mẹ già, cho đủ
số qui định, anh ta gặp Ðức Phật đang đi, bèn chạy theo định giết. Anh ta hô to
lên: Này sa môn kia, hãy dừng lại đi! Ðức Phật vẫn thản nhiên bước đi. Anh ta đuổi
theo và hô to lên thêm hai lần nữa.
Ðức Phật từ tốn nói:
* Như Lai đã dừng từ lâu, chỉ có ông chưa chịu dừng mà thôi. Như
Lai đã dừng tạo nghiệp từ lâu, cho nên được tự tại an lạc. Nếu chịu dừng lại
như vậy, ông cũng sẽ được cảnh giới niết bàn không khác.
Do tấm lòng đại từ đại bi, đại hỷ đại xả, Ðức Phật đã cảm hóa được
người ngoại đạo mê tín kia, quay về chánh đạo, tu tập tinh tấn, đắc đạo giải
thoát. Ðó là đại đức Angulimala.
Có người suy nghĩ, mình đã "lỡ" tạo, quá nhiều tội
nghiệp, ăn năn sám hối, cũng chỉ bằng thừa, cũng chỉ vậy thôi, chi bằng tiếp
tục, làm ác như vậy, đến ngày tàn đời. Có người thường nghĩ: Chiếc áo trắng
tinh, dính một vết dơ, ai ai cũng thấy. Chiếc áo quá dơ, dính thêm một vết,
cũng chẳng khác gì! Họ thường nghĩ rằng: "Chết đi là hết", không ai
biết được, mình đã làm gì, tại sao không chịu, hưởng thụ cho sướng, cả cuộc đời
này? Họ không biết rằng, sau khi chết đi, họ chỉ bỏ lại, cái thân tứ đại, còn
các nghiệp báo, lành dữ đã tạo, không thể bỏ lại, sẽ đi theo họ, như hình với
bóng. Dù muôn kiếp sau, họ vẫn phải trả, nặng nề hơn nhiều.
Thí dụ như những, người mãn tù ra, vẫn còn tiếp tục, gây tội tạo
nghiệp, bằng cách trả thù, người đã hại mình, thưa gửi kiện tụng. Thí dụ như
những, người có thân nhân, tới lúc phải trả, nghiệp báo đã vay, từ nhiều kiếp
trước, hưởng hết phước báo, mạng vong thảm tử, trong các tai nạn, người đời
chẳng biết, thức tỉnh ăn năn, sám hối nghiệp chướng, làm thiện tạo phước, để
ngừa nạn sau, lại đi dựng chuyện, lòng tham sai khiến, kiện người đòi tiền, gây
thêm tội nghiệp, làm khổ chúng sanh! Như vậy tức là, người đời đang mê, chưa
chịu thức tỉnh, chưa chịu chăn trâu, chưa chịu kềm chế, vọng tâm vọng tưởng,
vọng thức vọng niệm.
Nói một cách khác: người đời đang bị, con trâu lôi kéo, đi trên
con đường, u mê tà vạy, xa lìa chánh đạo, đem lại khổ đau, nhiều đời nhiều
kiếp. Nếu người đời có, gặp tai gặp nạn, thân nhân thảm tử, theo Kinh Ðịa Tạng,
và Kinh Dược Sư, chúng ta nên vì họ, làm nhiều điều phước thiện, cứu người và
giúp đời, đem tài sản của họ, bố thí và cúng dường, để hồi hướng cho họ, chứ
tuyệt đối không nên, tạo tội tạo nghiệp thêm, cho họ và cho mình.
* * *
6) Bắt đầu giai đoạn này, chúng ta cảm thấy được phần nào kết quả
của việc chăn trâu. Con trâu được trắng trẻo đôi phần. Tức là con người đã biết
hướng về việc thiện nhiều hơn, biết quên mình vì người nhiều hơn, tâm tham lam
ích kỷ, tật đố sân hận, si mê mờ tối, giảm bớt đi nhiều. Con người làm chủ được
hành động, làm chủ được lời nói, làm chủ được ý nghĩ, tức là con người làm chủ
được con trâu của mình, đã chăn dắt con trâu theo đúng con đường mình mong
muốn. Trong kinh sách, con đường đó được gọi là "Bát Chánh Ðạo",
người đó được gọi là "Hành Giả", tức là người đang đi trên đường tu
tập hành trì. Ðó là người thực sự biết tu tâm dưỡng tánh.
Trên bước đường tu tâm dưỡng tánh, việc trước hết là xả bỏ tâm
tham danh tham lợi, tránh làm các việc ác, các điều bất lương bất thiện. Những
sự tướng bên ngoài như đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, bố thí, cúng dường, ấn
tống kinh sách, trích huyết tả kinh, giúp đỡ người già, kiếm nhà cho trẻ, giới
thiệu việc làm, là những điều hết sức cần thiết, trên bước đường tu tập, để tạo
phước báu, nhưng như vậy thôi, thì cũng chưa đủ. Tại sao như vậy? Bởi vì người
đời, thường làm việc thiện, với cùng tâm niệm: muốn được phước báu, muốn được
khen thưởng, muốn người biết đến, muốn được trả ơn, muốn lên thiên đàng, muốn
về cực lạc. Những tâm niệm như vậy chính là vọng tâm tạp niệm, chính là con
trâu đen thủi đen thui vậy.
Tu theo đạo Phật là phải giác ngộ và giải thoát, tức là chuyển hóa
con trâu đen thành con trâu trắng. Trong tâm còn có chữ "muốn" là còn
bị trói buộc, dù là muốn về cực lạc, muốn lên thiên đàng! Khi còn muốn như vậy,
chúng ta dễ bị dụ dỗ, dễ bị gạt gẫm, dễ bị mù quáng, dễ đi sai đường, lầm đường
lạc nẻo, lạc vào ngoại đạo, rơi vào tà giáo, lúc nào không hay.
Hành giả tu tập, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, mới mong nhận
được, bản tâm thanh tịnh. Tuy nhận ra rồi, nhưng mà vẫn còn, chợt hiện chợt ẩn.
Hành giả quyết tâm, ngưng việc tạo tội, chỉ làm việc thiện, tạo phước mà thôi.
Cho nên lúc này, con trâu của mình, chỗ đen chỗ trắng. Mặt trời trí tuệ, lúc
sáng lúc mờ, vì vẫn còn bị, mây đen che khuất. Con thuyền bát nhã, còn phải
vượt qua, nhiều cơn sóng gió, bát phong của đời, chưa đến bến bờ, một cách bình
yên.
Tâm của chúng ta, cũng vậy chẳng khác, vừa mới an ổn, vui tươi
thoải mái, bổng dưng có người, đến nói khó nghe, hoặc cũng như là, con cái cãi
lộn, không biết nghe lời, chỉ dạy của mình, hay là vợ chồng, bất đồng ý kiến,
về một vấn đề, vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm, liền dấy khởi lên. Con
trâu của mình, lại nổi cơn lên, phải thực khéo lắm, mới điều phục được. Kéo dài
lâu lắm, tâm của chúng ta, mới dịu trở lại. Nhưng chẳng bao lâu, chuyện khác
xảy đến, con trâu của mình, lại lồng lộn lên.
Bởi vậy cho nên, chúng ta mới thấy: "Ai bảo chăn trâu không
khổ? Chăn trâu chẳng sướng lắm đâu!" . Trong giai đoạn này, theo trâu thì
dễ, chăn trâu khó lắm, khó lắm khó lắm, thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, chúng ta
nên biết, trong sách có câu:
Vô ma khảo bất thành đại đạo
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Nhân bất phong sương vị lão tài.
Người không sương gió khó thành công
Người không khổ đau sao ngộ đạo.
Người không khổ đau sao ngộ đạo.
Nghĩa là trên bước đường tu tập, hành giả nếu gặp những ma chướng,
những bước thăng trầm, những nghịch duyên, những thử thách, những bát phong,
những sương gió, mới chứng tỏ ý chí mạnh mẽ, kiên tâm trì chí, bồ đề tâm kiên
cố, mới trở thành người tài ba lão luyện, mới đạt được đạo cả chí thượng.
Bàn về chuyện dễ hay khó, Thiền sư Linh Chiếu, con gái của Ngài Cư
Sĩ Bàng Long Uẩn, có dạy: "Dã bất nan, dã bất dị, cơ lai khiết phạn, khốn
lai thùy".
Nghĩa là: "Chẳng có khó, cũng chẳng dễ, đói đến ăn cơm, mệt
ngủ khò".
Thực là đơn giản! Vậy mà ít người chú tâm chú ý thực hành! Tu tập
tinh tấn đạt được kết quả hay không, đa phần do mình có quyết tâm mạnh mẽ hay
không, một phần cũng do có phước duyên, gặp được minh sư chỉ dạy, gặp thiện hữu
tri thức hướng dẫn.
* * *
7) Chúng ta còn sống trên đời, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần,
vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm, vẫn còn khởi lên. Ý nghĩ này vừa dấy
lên, tạp niệm khác liền tiếp theo. Tuy nhiên, chúng ta đã biết cách chăn trâu,
nghĩa là luôn luôn sống trong tỉnh giác tỉnh thức, sống trong chánh niệm. Nhờ
công phu tu tập lâu ngày, con trâu tạm thuần, mỗi khi niệm khởi lên, chúng ta
liền nhận biết ngay, không theo.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Ðừng sợ
niệm khởi. Chỉ sợ giác chậm", chính là nghĩa đó vậy.
Vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, do đó sẽ lặng đi. Ðó
là công phu tu tập đã sâu, sức mạnh của con trâu đã giảm, tức là sức cuồng loạn
của tâm ý không còn.
* Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh
theo đạo Phật: "Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không
theo, đó là chơn tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp
thời, liền theo niệm đó, trở thành vọng tâm".
* Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển
động. Khi có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản
tâm thanh tịnh. Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có, cúng kiến lễ lạy, van xin
cầu nguyện, không còn gì khác.
Sau khi hành giả chăn dắt một thời gian, con trâu thuần phục được
tới đâu, hành giả khỏe tới đó. Tu tập dụng công tới đây đã được nhẹ nhàng, đã
bớt phần nhọc nhằn. Con trâu không còn đi húc càn, dẫm đạp lúa mạ của người.
Con trâu của mình đã khá ngoan ngoãn. Ðến đây, hành giả không còn bị con trâu
dẫn dắt, lôi kéo, nên đã dừng nghiệp và chuyển nghiệp, không còn tạo nghiệp mới
nữa. Thí dụ như trong gia đình, có chuyện bất bình, tâm ý không còn khởi niệm,
bực tức giận hờn, một cách dễ dàng như trước. Thí dụ như khi đang làm việc,
hoặc khi đang chạy xe trên đường phố, gặp chuyện bất như ý, gặp cảnh bực bội,
tâm ý vẫn không khởi niệm nào, dù là khởi ý niệm tốt, như là tự nhủ rằng, thi
ân bất cầu báo, chẳng hạn.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
"Không khởi niệm nghĩ thiện
Không khởi niệm nghĩ ác
Bản lai diện mục hiện tiền".
Không khởi niệm nghĩ ác
Bản lai diện mục hiện tiền".
Nghĩa là: Dù khởi niệm thiện hay khởi niệm bất thiện, tâm thức của
con người cũng giao động. Khi trong tâm thức, không có niệm khởi, con người
sống với cảnh giới niết bàn hiện tiền. Ðó chính là lời dạy, đã giúp Thượng Tọa
Huệ Minh khai ngộ, nhận được "Bản lai diện mục", còn gọi là Chơn Tâm
Phật Tánh.
Lợi ích thiết thực trước mắt của pháp môn chăn trâu là chúng ta
ngày ăn được ngon, tối ngủ được yên, đêm không ác mộng. Tại sao vậy? Bởi vì con
trâu đã ngoan ngoãn, theo sự chăn dắt của mình, nên cũng ngủ yên rồi! Ban ngày
tâm trí loạn động, ban đêm nhứt định có ác mộng. Ban ngày tâm trí bình tĩnh
thản nhiên tự tại, ban đêm nhứt định có giấc ngủ an lành. Những người nào đã,
chăn được con trâu, tánh tình trở nên, vui vẻ cởi mở, hiền hòa tươi tắn, dễ
thương dễ chịu, hòa hợp với mọi người, thích ứng với mọi cảnh, nhẫn chịu với
mọi thời, hài lòng với mọi việc, không hay khiếu nại, không thích nhiều chuyện,
không muốn tranh đua, không chịu hơn thua, không tranh cãi vã. Do đó cuộc sống
đương nhiên an lạc và hạnh phúc.
Chư Tổ có dạy:
"Nội cần khắc niệm chi công.
Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Ngoại hoằng bất tranh chi đức".
Nghĩa là: Bên trong khắc chế được tâm niệm lăng xăng lộn xộn, tức
là luôn luôn chăn trâu, được gọi là công phu tu tập. Bên ngoài hành trì đức độ
của người không tranh cãi. Ðó là những việc phải làm của người chân tu thực
học.
Những chuyện cũ từ năm xửa năm xưa, nếu có hiện trở lại trong tâm
trí, mà chúng ta không theo, dừng lại kịp thời, không tiếp tục nhớ nghĩ đến
nữa, thì nó sẽ lặng đi, lâu ngày cũng sẽ quên luôn! Kho tàng tâm thức sẽ dần
dần vơi đi, cho đến khi hoàn toàn trống trơn. Tâm trí sẽ dần dần nhẹ nhàng,
khinh an. Cái gì mình còn nhớ, lập đi lập lại nhiều lần, thì sẽ nhớ dai, nhớ kỹ
nhớ rõ, nhớ từng chi tiết. Thí dụ như một bản nhạc quen thuộc hiện lên trong
tâm trí, nếu mình ư ử ca theo, mình sẽ nhớ dai lâu dài, có thể nhớ suốt đời.
Thí dụ như có người bụng bảo dạ rằng: "Thù người truyền kiếp, năm mười năm
sau, trả thù không muộn. Sống để dạ chết mang theo". Thực là dễ sợ! Con
người như vậy sẽ bị con trâu của mình lôi kéo tạo tội tạo nghiệp, từ chết tới
bị thương mà thôi.
Ðến giai đoạn này, do công phu tu tập đem lại nhiều ích lợi cho
thế gian, hành giả được xưng tụng tán thán, có thể khởi tâm ngã mạn, liền gặp
ngay chướng ngại trên đường tu. Hành giả tự cảm thấy công phu tu tập của mình
khá quá, ít người đạt được như mình, khởi tâm thích làm thầy thiên hạ, tự xưng
sơn tăng, tự xưng trang chủ, tự lập thiền trang, tự làm thiền sư, tự tung tự
tác, bắt đầu kẹt danh lợi ngay trên đường tu. Trường hợp của ngài Ngộ Ðạt Quốc
Sư ngày trước là một thí dụ điển hình.
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy:
"Chủng chủng hý luận kỳ tâm tắc loạn.
Nhược đắc định giả tâm tắc bất tán".
Nhược đắc định giả tâm tắc bất tán".
Nghĩa là người nào chứa chấp quá nhiều chuyện thị phi, đúng sai
phải quấy, tranh đua hơn thua, tâm ý của người đó tức nhiên loạn động. Còn
người nào chăn dắt được con trâu của mình, tức là khắc chế được tâm niệm của
mình, người đó đạt được cảnh giới thiền định, dù là sơ thiền, nhị thiền tam
thiền, hay được tứ thiền, tâm ý không còn tán loạn nữa.
* * *
8) Sau một thời gian lâu hay mau, dài hay ngắn, tùy theo căn cơ,
trình độ, hoàn cảnh, khả năng của mỗi người, hành giả quyết tâm chăn trâu,
quyết chí tu dưỡng, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, chuyển hóa tâm tánh,
nhứt định thuần phục được con trâu tâm ý của mình. Lúc đó hành giả, hoàn toàn
tự tại, giải thoát phiền não, khổ đau cuộc đời, không còn hay bị, cảnh trần
kích động, lôi cuốn quyến rủ, chi phối tác động.
Hành giả luôn luôn, hướng về những việc, ích lợi mọi người, lời
nói đạo đức, êm dịu hòa nhã, ý nghĩ hiền hậu, tư tưởng hòa vui, từ bi hỷ xả,
thêm bạn bớt thù, có đủ khả năng, đem đạo vào đời, làm sáng thêm đạo, tạo đời
an vui, xoa dịu nỗi khổ, làm cho mát lòng, của nhiều người khác, ví như cam lồ,
của Ðức Quán Âm, rưới khắp thế gian, tắm mát tâm hồn, đang bị nhiệt não. Ðó là
những bực, chân tu thực học, thiện hữu tri thức, có thể giúp đỡ, những người
hữu duyên, trên đường tu tập, hoặc chuyển hóa được, tâm niệm những người, sống
ở chung quanh, bất luận người thân, hay là kẻ thù.
Tu tập đến đây, lúc nào cần suy nghĩ thì suy nghĩ, lúc nào cần làm
việc thì làm việc, mọi lúc khác thì trống không lặng lẽ, vô tâm vô niệm. Tu tập
càng tiến, tâm trí càng thảnh thơi nhẹ nhàng, thấy người nào cũng có điểm tốt
để mình noi theo, thấy cảnh vật nào chung quanh cũng vui tươi đẹp đẽ hơn. Người
chưa tu hay mới bắt đầu phát tâm tu, tâm trí còn cuồng loạn, vì chứa chấp quá
nhiều chuyện tranh chấp, cố chấp chấp chặt, chấp nê phiền não, cho nên cảm thấy
cảnh vật nào chung quanh cũng buồn bã chán chường, cảm thấy người nào cũng xấu
xa đê tiện, phiền toái bực mình, đâm ra cau có, quạu quọ nhăn nhó. Nhưng khéo
biết điều phục, biết cách chăn trâu, một thời gian sau, tâm trí an lạc, cảm
nhận hạnh phúc, cảm thấy mọi người, dễ mến dễ thương, cảnh vật tươi sáng, không
gian đẹp đẽ. Do đó, chúng ta nên biết: tu tâm dưỡng tánh chính là chuyển đổi
tâm tánh trở nên thanh tịnh tốt đẹp, chứ không phải chuyển đổi cảnh vật bên
ngoài. Bởi vậy cho nên, trong sách có câu:
"Tâm buồn cảnh được vui sao
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an".
Tâm an dù cảnh ngộ nào cũng an".
Giai đoạn này là lúc hành giả đã biết dừng nghiệp và chuyển
nghiệp. Mắt trông thấy sắc rồi thôi, không còn lưu giữ bất cứ hình sắc nào
trong kho tàng tâm thức, dù đẹp dù xấu, dù dễ thương dù thấy ghét. Tai nghe
thấy tiếng, nghe rồi thì không, không giận không hờn, không yêu không hận.
Trong lòng, trong tâm thức, không khởi lên bất cứ một niệm nào, khởi lên là
liền biết, không theo, niệm đó sẽ lặng đi. Không theo có nghĩa là: không để cho
con trâu dẫn dắt mình đi tạo nghiệp! Ðến đây, hành giả nhận ra rằng, hạnh phúc
của mọi người trên thế gian cũng là hạnh phúc của mình. Tâm địa bồ tát, tấm lòng
vị tha, vì người quên mình, của hành giả tăng trưởng. Hành giả mang đạo vào
đời, làm sáng đẹp cho đời, mà không bị đời làm ô nhiểm. Hành giả thanh thản,
thảnh thơi, thơi thới, nhẹ nhàng bước ra khỏi cảnh trầm luân, sanh tử luân hồi.
Trong kinh sách, có bài kệ như sau:
"Mắt trông thấy sắc rồi thôi
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không
Trơ trơ lẵng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân".
Tai nghe thấy tiếng nghe rồi thì không
Trơ trơ lẵng lặng cõi lòng
Nhẹ nhàng ta bước khỏi vòng trầm luân".
Tánh giác của con người hiển lộ nơi sáu căn, đó là: mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân và ý. Khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần: sắc, thanh, hương, vị, xúc
và pháp, mà không sanh khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm gì cả,
là lúc con người sống được với bản tâm thanh tịnh của mình. Chẳng hạn như có
người đến chửi mắng nhục mạ, tức là lỗ tai tiếp xúc với tiếng chửi mắng, mà
mình vẫn bình tĩnh thản nhiên, tức là âm thanh khó nghe đó không làm cho mình
nổi sân, không làm cho mình phát khởi vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng
niệm gì cả. Nói một cách khác: Dù gặp bát phong, dù gió thổi đến, mặt biển bản tâm
thanh tịnh không hề gợn sóng, dù nhỏ dù lớn. Lúc đó công phu tu tập thuần thục
lắm rồi.
* * *
9) Khi tâm địa, hay tâm thức của hành giả, hoàn toàn không tịch,
trống rỗng lặng lẽ, lẵng lặng thanh tịnh, không còn chứa chấp những vọng tâm,
vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm nào cả, thì trí tuệ bát nhã tự bừng sáng. Tâm
được thanh tịnh thì cảnh vật cũng thanh tịnh, chúng sanh chung quanh cũng được
bình yên.
Trong kinh Tịnh Danh và kinh Tâm Ðịa Quán, Ðức Phật có dạy:
"Tâm tịnh thì độ tịnh".
"Tâm địa bình thì thế giới bình".
"Tâm địa bình thì thế giới bình".
Những vọng tâm vọng tưởng, vọng thức vọng niệm, đều đã dứt sạch.
Không còn tham, không còn sân, không còn si. Tu tập đến đây, hành giả đạt được
"cảnh giới bất nhị", tức là không còn kẹt hai bên, không còn thị phi,
không còn phải quấy, không còn tranh chấp, không còn hơn thua, không còn tạo
tội, không còn tạo nghiệp, không còn cố chấp. Trong kinh sách còn gọi đó là
cảnh giới "vô tâm vô niệm", như Ðức Phật đã dạy trong Bát Nhã Tâm
Kinh: Lúc đó hành giả sống được an lạc tự tại, vô quái ngại, vô hữu khủng bố,
viễn ly điên đảo mộng tưởng, đạt được cứu kính niết bàn.
Tổ Sư Thiền Phái Trúc Lâm, ngài Ðiều Ngự Giác Hoàng, tức là Hoàng
Ðế Trần Nhân Tôn, có dạy: "Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".
Nghĩa là: Ðối trước mọi cảnh trần, không khởi bất cứ tâm niệm gì,
gọi là vô tâm, tức là hành giả đang sống trong cảnh giới thiền định, không cần
hỏi, khỏi cần nghi.
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy: Tâm địa nhược không, tuệ nhựt
tự chiếu.
Một căn phòng tăm tối ngàn đời, nhưng chỉ cần bật điện một cái,
hay đem vào một ngọn đèn, thì liền sáng tỏ ngay, đâu cần đợi ngàn năm sau nữa,
mới chịu sáng lại. Cũng vậy, khi hành giả chịu mồi ngọn đuốc trí tuệ của mình
với ngọn đuốc Chánh Pháp của chư Phật, thì ngọn đuốc trí tuệ của mình cũng bừng
sáng lên ngay. Giây phút bừng sáng đó, trong thiền tông, gọi là ngộ đạo. Cũng
như mây đen tan biến hết, tức là phiền não tan biến hết, tâm thức trống rỗng
lặng lẽ, thì mặt trời trí tuệ bát nhã tự chiếu sáng.
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy: Chế tâm nhứt xứ, vô sự bất
biện.
Nghĩa là khi cột giữ được con trâu ở một chỗ, bằng cách tụng kinh,
niệm Phật, thiền quán, qua sự hiểu biết Chánh Pháp, tâm trí hành giả bình tĩnh
thản nhiên, không còn chuyện gì để cãi vã nữa, để tranh chấp nữa, cho nên không
có sự việc gì hành giả không biện luận, không hiểu biết một cách thông suốt,
sáng tỏ, rõ ràng. Ðiều này giải thích cho chúng ta biết rằng, không có vị Phật
nào không biết thuyết pháp độ sanh.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tâm thông
thì thuyết thông", chính là nghĩa đó vậy.
Hành giả nào thực tâm tu học, không phân biệt tại gia cư sĩ, hay
xuất gia tu sĩ, tâm trí thông suốt, đạt được đến đâu, thuyết giảng đến đó, làm
lợi chúng sanh. Ví như trước có học hành, sau đó mới có thể làm thầy chỉ dạy
người khác.
Hành giả đạt đến giai đoạn này, tâm địa mở rộng, đồng nhứt bản thể
với vạn pháp, thấy mình và mọi loài chúng sanh không khác, trí tuệ bát nhã càng
phát triển, thế giới Phật càng mở rộng, đó là thế giới của yêu thương, hòa hợp,
cảm thông, an vui, lợi lạc, giác ngộ và giải thoát. Hành giả cảm thông được nỗi
khổ của chúng sanh. Hành giả cảm thông được tâm bệnh của chúng sanh.
Cho nên lúc nào tâm từ tâm bi của hành giả cũng hướng về khắp
chúng sanh mọi loài sống chung quanh. Tu tập đến đây, bất cứ hành động nào, bất
cứ lời nói nào, bất cứ ý nghĩ nào của hành giả, cũng phát xuất từ bản tâm thanh
tịnh, bản tánh sáng suốt, cho nên đem lại thực nhiều ích lợi cho thế gian, được
mọi người chung quanh ngưỡng mộ, kính phục, qui y, nương tựa, bởi vì cảm thấy
mát dịu khi gần gũi, cảm thấy yên tâm khi quan hệ, cảm thấy ích lợi khi cầu
học.
10) Khi đạt được cảnh giới trên, hành giả đã thực sự bước đến gần
quả vị Phật, nghĩa là tâm của hành giả cũng gần như là tâm Phật. Hành giả đã
thảnh thơi lắm rồi, nhưng còn một cổng rào cuối cùng mới xong việc. Có sách
thiền gọi đó là "mạt hạ lao quan". Tại sao vậy? Bởi vì tới đây, hành
giả chưa quên được công phu tu tập của mình. Nghĩa là con trâu đã biến mất,
nhưng người chăn vẫn còn. Hành giả đã mặc được áo nhẫn nhục của Như Lai, hành
giả đã vào được nhà từ bi của Như Lai, nhưng chưa hoàn toàn an vị trên tòa pháp
không của Như Lai, như Ðức Phật đã dạy trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Trong truyện Tây Du Ký, tác giả diễn tả giai đoạn này bằng hình
ảnh của Ngài Pháp Sư Tam Tạng có thể bỏ hết của cải vật chất, địa vị trên thế
gian, cái gì cũng bỏ hết, để ra đi tìm đạo. Nhưng khi đến được đất Phật rồi,
Ngài vẫn không chịu đưa cho vị giữ tàng kinh các, cái áo cà sa và bình bát bằng
vàng, do nhà vua ban thưởng, tượng trưng cho công phu tu tập từ trước đến nay,
cho nên cũng chẳng thỉnh được kinh sách giá trị, chưa đọc được kinh vô tự, ví
như vẫn chưa được quả vị Phật.
Trong thiền tông, giai đoạn này được ví như con trâu trắng đã chui
lọt qua lỗ kim, nhưng vẫn còn kẹt lại sợi lông đuôi, chính là nghĩa đó vậy.
Hành giả đạt được cảnh giới này, tâm không vướng bụi trần, an nhiên tự tại
trước mọi bát phong, bình tĩnh thản nhiên trước sóng gió của cuộc đời, dửng
dưng trước những thăng trầm của thế sự. Tâm lượng đại từ, đại bi, đại hỷ, đại
xả đã ba-la-mật. Nếu hành giả vượt qua được đầu sào trăm trượng, hay vượt qua
được vũng nước chết, trong sách thiền gọi đó là vùng tử thủy, khi ấy mới được
gọi là VIÊN GIÁC, tức là giác ngộ một cách viên mãn, một cách hoàn toàn, một
cách trọn vẹn đó vậy. Ðến lúc này, trâu đã mất từ lâu và bây giờ người chăn
cũng không còn. Cảnh giới vô ngã này được diễn tả bằng một vòng tròn trống
rỗng, không thêm một chữ, không nói một lời.
Trong kinh sách có câu: "Ðạo bổn vô ngôn thuyết", hoặc
có câu: "Ngữ ngôn đạo đoạn".
Nghĩa là nguồn gốc của đạo vốn không có lời nào có thể diễn đạt
được, tâm được thanh tịnh tức khắc khai ngộ, mở lời nói năng thì không còn thấy
đạo nữa rồi, tất cả chỉ là phương tiện, hoặc là hý luận mà thôi!
Lý đạo đạt được chỗ ngã pháp đều không, hoàn toàn thanh tịnh, hoàn
toàn không tịch, hoàn toàn sáng suốt. Trước kia, khi phát tâm bồ đề, muốn tu
tâm dưỡng tánh, hành giả đọc tụng và phát nguyện: "Chúng sanh vô biên thệ
nguyện độ". Ðến đây, sau một thời gian dài tu tâm dưỡng tánh, hành giả đạt
được cảnh giới: "Chúng sanh vô biên đều độ xong". Nghĩa là trong tâm
thức không còn chứa chấp bất cứ một chúng sanh nào, tức là không còn khởi lên
bất cứ một niệm nào nữa cả, mỗi niệm có bóng dáng của chúng sanh.
Trong lịch sử Ðức Phật Thích Ca, ngay đêm trước khi Ngài chứng
đạo, tất cả những niệm từ kho tàng tâm thức của Ngài hiện lên đầy đủ, từ công
chúa Gia Du Ðà La cho đến thiên ma ba tuần, quỉ vương ba cõi, tất cả đều được
Ngài độ hết, độ xong Ngài thành đạo vô thượng chánh đẳng chánh giác.
* * *
Pháp môn chăn trâu thường được minh họa thành nhiều bộ tranh khác
nhau, tùy theo tông phái, mỗi bộ gồm 10 bức, nên được gọi là "Thập Mục
Ngưu Ðồ", tức là 10 bức tranh chăn trâu. Cũng giống như chuyện, người xưa
khuyên bảo, nên làm mỗi đêm, trước khi đi ngủ: kiểm điểm việc làm, lời nói ý
nghĩ, của mình trong ngày, bằng cách dùng cái hủ, bỏ vào một hột đậu trắng,
tượng trưng cho một hành động tốt, một lời nói khéo, hay một ý nghĩ thiện, và
bỏ vào một hột đậu đen, tượng trưng cho một hành động xấu, một lời nói thô, hay
một ý nghĩ bất thiện.
Thoạt đầu, thường ai cũng thấy trong cái hủ của mình, có nhiều đậu
đen hơn đậu trắng. Nếu chịu khởi công tu sửa, phát nguyện tu tâm dưỡng tánh,
một thời gian sau, trong hủ có nhiều đậu trắng hơn đậu đen. Cho đến lúc không
còn có đậu đen trong hủ, cũng là lúc khỏi cần đậu đen hay đậu trắng nữa.
Chính đó là lúc: "Tâm Cảnh Nhất Như", con người trở nên
toàn chân toàn thiện toàn mỹ, nghĩa là người trâu đều mất, ngã pháp đều không,
cả hai dứt hết. Tu đến chỗ rốt ráo, các bức tranh chăn trâu cũng không cần. Ví
như sau khi đã qua sông, lên được bến bờ bên kia, tức là bờ giác ngộ, trong
kinh sách gọi là: đáo bỉ ngạn, hành giả buông lái bỏ thuyền. Không ai lên bờ
rồi, còn vác theo chiếc thuyền hay chiếc bè trên vai làm chi cho nhọc nhằn. Ví
như hết bệnh thì ngưng thuốc, thuốc chỉ cần khi chữa bệnh mà thôi. Cũng như sau
khi giặt sạch chiếc áo rồi, phải xả bỏ hết xà bông, dính trên chiếc áo đó.
Không ai tiếc rẻ để lại xà bông trên áo, rồi mặc trở vào.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy: "Pháp thượng ưng xả hà
huống phi pháp".
Nghĩa là: "Pháp cao còn buông bỏ huống là các pháp
khác".
Khi đã đạt được bản tâm thanh tịnh, bản tánh sáng suốt, có nghĩa
là hành giả đạt được trạng thái vô ngã, tự tại niết bàn, đâu còn chấp chặt cái
công phu tu tập bản ngã làm chi nữa.
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy:
Sau khi Như Lai nhập diệt, người nào sống chuyên cần, tinh tấn,
tỉnh giác, chánh niệm, từ khước mọi tham ái thế gian, luôn luôn phát triển
thiền định, xem chính mình như hải đảo của mình, là chỗ nương tựa của mình,
không tìm nơi nương tựa ở đâu khác, bên ngoài chính mình, người ấy sẽ bước ra
khỏi con đường phiêu bạt vô định của đời sống và chấm dứt sự phiền não khổ đau.
Nghĩa là con người phải luôn luôn giữ gìn tâm niệm, phát triển
thiền định, tức là phải chăn trâu, không cho xâm phạm lúa mạ của người, phải tự
mình cố gắng thoát ra khỏi sanh tử luân hồi, bằng công phu tu tập của mình, chứ
cầu nguyện van xin, hay lệ thuộc vào người khác tu giùm mình, thì không có hiệu
quả gì cả, làm sao giác ngộ và giải thoát được?
Tụng kinh, niệm Phật, ngồi thiền, chính là những phương tiện giúp
chúng ta chăn trâu tốt nhứt, bởi vì khi đó thân thanh tịnh do ngồi ngay ngắn
yên một chỗ, khẩu thanh tịnh do im lặng hoặc nhờ tụng lời Phật, ý cũng thanh
tịnh do tập trung vào kinh kệ, nhớ nghĩ chư Phật, không khởi tạp niệm.
Tuy nhiên, pháp môn chăn trâu không cần thời khắc biểu, cũng không
cần tràng hạt, không cần chuông mõ, không cần tọa cụ, không cần tại gia hay tại
chùa. Bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào, bất cứ hoàn cảnh nào, chúng ta đều có thể
áp dụng pháp môn chăn trâu, để tự tạo dựng cho mình và cho những người chung
quanh, một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, một cách tích cực, không van xin cầu
khẩn.
Nếu chúng ta không biết cách chăn trâu, cứ để con trâu của mình đi
húc càn, báng bừa bải, từ làng trên đến xóm dưới, sẽ gây tai họa, gây thương
tích cho không biết bao nhiêu người quen biết chung quanh. Chẳng hạn như trong
một buổi họp mặt, người nào không biết cách chăn trâu, sẽ phê phán bình phẩm,
chê trách chỉ trích, phỉ báng chế nhạo, ngạo mạn khinh người, cười chê tất cả,
từ người thân cho đến kẻ thù, từ người quen biết nhiều cho đến kẻ chưa hề quen
biết, từ vị nguyên thủ chí đến thứ dân, từ quan quyền trưởng giả cho đến bàn
dân thiên hạ!
Ôi thôi, một con trâu đen chạy húc lung tung, còn đáng sợ thay,
nếu cả một bầy trâu đen điên cuồng tụ tập, rồi xổng chuồng, thì không biết hậu
quả sẽ như thế nào?
Chẳng hạn như khi rảnh rỗi ngồi không, chẳng có làm việc gì, người
không biết cách chăn trâu, sẽ để tâm trí nghĩ ngợi lung tung linh tinh lang
tang, để cho trâu mặc tình dạo khắp xóm làng, có khi chợt nhớ lại chuyện xưa tự
thuở nào, đâm ra bực tức bất an, thực là tai hại vô cùng. Tai hại hơn nữa nếu
chúng ta cứ tiếp tục theo đuổi dòng tư tưởng đó, tức là con trâu sẽ dẫn dắt
chúng ta đến chỗ tạo tội tạo nghiệp. Thử nghĩ với tâm ý lăng xăng lộn xộn như
vậy, với vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, tạp nham như vậy, chúng ta
có thể sống trong cảnh giới niết bàn, cảnh giới cực lạc, với các bực thượng
thiện nhơn được chăng?
Chúng ta thường có tập khí nghĩ xấu về người khác, chưa bao giờ
biết đến cảnh giới niết bàn, cho nên thường nằm mơ thấy toàn ác mộng. Khi không
có duyên trần, thì tâm trí bình yên. Khi gặp trần duyên, thì tâm trí loạn động.
Việc huân tu như vậy chưa gọi là thuần thục.
Tâm ý con người, ví như tượng Phật, đúc bằng vàng ròng, vô cùng
trong sạch, vô cùng tinh khiết, vô cùng quý báu, nhưng vì chôn dấu, mhiều năm
nhiều tháng, nên bị bao phủ, bởi quá nhiều lớp, cát bụi dơ bẩn, dầu hắc cứng
ngắc. Chúng ta chắc phải, ra công cạo gọt, mài giũa sửa chữa, tu bổ bồi đắp,
tận tâm tận tình, tận sức tận lực. Cạo được phần nào, bụi đất vô lượng, tượng
Phật hiển lộ, ánh sáng tương ứng. Cũng như dẹp được, phần nào phiền não, con
người tìm thấy, an lạc tương ứng, cuộc sống hằng ngày.
Một thời gian sau, cho đến một ngày, tượng Phật vàng ròng, trở lại nguyên trạng, sáng chói rực rỡ, một cách toàn diện. Người nào không chịu, ra công dọn dẹp, phiền não khổ đau, mà nguyện cho mau, về cõi tây phương, cực lạc niết bàn, đó chỉ là việc: không ngủ mà mơ, đem cát đi nấu, mà muốn được cơm!
Một thời gian sau, cho đến một ngày, tượng Phật vàng ròng, trở lại nguyên trạng, sáng chói rực rỡ, một cách toàn diện. Người nào không chịu, ra công dọn dẹp, phiền não khổ đau, mà nguyện cho mau, về cõi tây phương, cực lạc niết bàn, đó chỉ là việc: không ngủ mà mơ, đem cát đi nấu, mà muốn được cơm!
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Sanh diệt ký
diệt, tịch diệt hiện tiền".
Nghĩa là khi phiền não hoàn toàn dứt sạch, các pháp sanh diệt lặng
hết, thì Phật Tánh tịch diệt hiển lộ toàn vẹn. Ðó là lúc con người đạt được mục
đích cứu kính của đạo Phật, sống trong an lạc và hạnh phúc, bởi vì đã giác ngộ
và giải thoát.
Tóm lại, pháp môn chăn trâu giúp người tu tâm dưỡng tánh tiến từ
thấp lên cao, thấy rõ khả năng và bước tiến của mình, không bị lầm lạc. Và biết
rõ ràng rằng: "tu tập là trước khổ sau vui, nếu còn ham vui không chịu tu
tập là trước vui sau khổ", cho nên nỗ lực khắc phục những khó khăn bước
đầu, để tiến đến chỗ thành tựu viên mãn. Chúng ta hãy cùng nhau hát lên:
"Ai bảo chăn trâu là khổ? Chăn trâu sướng lắm chứ! ".
Chúng ta đã hiểu biết pháp môn chăn trâu và quyết tâm chăn dắt con
trâu của mình trong từng giây phút hằng ngày, không lơ là, không giải đãi,
không lười biếng, không tự ti, không tự tôn, không sợ sệt, không ngã mạn.
Trong Kinh Di Giáo, Ðức Phật có dạy:
"Tu hành ví như chăn trâu, cầm roi canh chừng, luôn luôn kiểm
soát, không cho nó xâm phạm lúa mạ của người".
Chúng ta là những người Phật Tử, hay không phải là Phật Tử, đều
muốn có một cuộc sống an lạc và hạnh phúc, ngay trên thế gian này, cho nên phải
biết áp dụng pháp môn chăn trâu. Bất cứ ai cũng có thể áp dụng pháp môn chăn
trâu một cách tích cực, trong mọi hoàn cảnh, trong mọi tình huống, trong cuộc
sống hằng ngày. Chẳng hạn như khi đang làm việc, đang học hành, hay đang ăn
uống, chúng ta chỉ nên biết tập trung tư tưởng vào việc làm, vào việc học, hay
ăn uống, không nghĩ ngợi mông lung, không nhớ nghĩ lung tung, không lăng xăng
lộn xộn.
Ngoài ra, bất cứ khi nào, tư tưởng bắt đầu nghĩ quanh nghĩ quẩn,
chúng ta biết ngay là con trâu đang xổng chạy, bèn chăn giữ ngay, không chạy
theo nó, bị nó lôi kéo, dẫn mình đi rong, có khi đến chỗ, tạo tội tạo nghiệp.
Tức là chúng ta tích cực chăn trâu trong mọi hoàn cảnh, nhứt là trong những lúc
rảnh rỗi nghỉ ngơi, không có lúc nào lơ là, hơ hỏng, lơi lỏng, không có lúc nào
phí phạm thời gian. Do đó cuộc sống có ý nghĩa hơn, tận dụng mọi thì giờ để
chăn trâu, không còn phải tìm cách giết thì giờ trống trải dư thừa, bằng những
cuộc vui giả tạm của thế gian. Tập trung được tư tưởng, không lo ra, không nghĩ
bậy, tức nhiên năng suất làm việc cao hơn, kết quả tốt hơn.
Chẳng hạn như khi đang ngồi nghỉ ngơi, nhưng không nghĩ ngợi, hay
đang nằm an thần dưỡng sức, trước khi làm việc, hãy để tâm trí bình yên, trống
rỗng, lặng lẽ, tịch tịnh, không vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Chỉ
cần thiền định như vậy trong vài mươi phút, chúng ta sẽ thấy thân và tâm đều được
thoải mái, khinh an, nhẹ nhàng, khỏe khoắn, tức nhiên năng suất làm việc chắc
chắn sẽ cao hơn, kết quả sẽ tốt hơn.
Chẳng hạn như khi bị kẹt xe trên đường phố, hay đang ngồi chờ đợi
ai, chờ đợi việc gì, đừng phí thì giờ một cách vô ích, chúng ta cũng có thể áp
dụng pháp môn chăn trâu, để giữ tâm trí được bình tĩnh thản nhiên, an vui tự
tại, không bồn chồn lo lắng, không nóng nảy giận hờn, không thấp thỏm phập
phồng, không lo âu sợ sệt, không ưu tư lo nghĩ, không hơn thua phải quấy, không
nhơn ngã thị phi. Thời gian chờ đợi qua mau, một cách hữu ích.
Lúc đi ngoài đường, trong tâm trí có khởi niệm bất thiện hay niệm
ác nào, lập tức chận ngay, đừng dẫn con trâu điên đó về đến nhà mình. Ðược như
vậy, gia đạo chúng ta bình yên, không ai trong gia đình bị trâu điên, từ bên
ngoài vào, húc càn bừa bãi. Chúng ta nên biết, sở dĩ Ðức Phật luôn luôn giữ
trên khuôn mặt nụ cười siêu thoát, bởi vì thân tâm của Ngài đều thực sự giải
thoát. Do đó, những người dù có tâm địa ác độc, đến với Ðức Phật, cũng trở
thành hiền thiện.
Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật có dạy:
"Người nào lúc sanh thời đạt được nhứt tâm bất loạn, khi lâm
chung tâm không điên đảo, tức thời được chư Phật cùng chư thánh chúng rước về
tây phương cực lạc quốc".
Nhứt tâm bất loạn, hay tâm không điên đảo, có nghĩa là: tâm trí
không còn lăng xăng lộn xộn, bản tánh hoàn toàn không tịch. Vọng tâm, vọng
tưởng, vọng thức, vọng niệm không còn nữa. Lúc ấy tâm thể người đó rỗng lặng
đồng với tâm thể chư Phật mười phương, nên kinh sách gọi là: được vãng sanh tây
phương cực lạc quốc đó vậy. Trong kinh sách có câu: "Năng lễ sở lễ tánh
không tịch", tức là: "Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng".
Chúng ta thử tìm hiểu câu chuyện sau đây: Có người đến hỏi Thiền
sư Tùng Thẩm Triệu Châu: Con chó có Phật Tánh không? Ngài đáp: - Không! Người
đó hỏi lại: Bạch Ngài, Ðức Phật dạy trong kinh sách, mọi chúng sanh đều có Phật
Tánh, tại sao con chó lại không có? Ngài đáp: - Bởi vì "Nghiệp Thức Che
Ðậy!". Tức là: có cũng như không!
Có người khác đến hỏi: Con chó có Phật tánh không? Lần này Ngài
đáp: - Có! Người đó hỏi lại: Bạch Ngài, Phật Tánh là tánh giác sáng suốt, tại
sao không chọn nơi sung sướng tốt đẹp đầu thai, lại chọn cái đãy da lông lá lù
xù, chui vào đó để làm con chó? Ngài đáp: - Bởi vì "Biết Mà Cố
Phạm!".
Trong Kinh Tịnh Danh, Ðức Phật có dạy:
* "Mặt trời mặt trăng vẫn thường sáng tỏ, tại sao người mù
lại chẳng thấy? Cũng vậy, chúng sanh vì nghiệp thức che đậy, chúng sanh thường
biết mà cố phạm, cho nên chẳng thấy thế giới Như Lai thanh tịnh trang nghiêm,
chẳng nhận ra bản tâm thanh tịnh thường hằng!", chính là nghĩa đó vậy.
Vậy từ bây giờ trở đi, chúng ta xin phát nguyện, mỗi khi nhận thấy
con trâu của mình, bắt đầu chạy lung tung, dẫn dắt mình tạo tội tạo nghiệp, hãy
tự nhắc nhở: "Thôi, chăn trâu đi!".
Và nên nhớ đừng bao giờ hỏi người khác: "Chăn trâu đến đâu
rồi?". Tại sao vậy? Bởi vì khi đó, biết đâu con trâu của người đã trắng
trẻo mịn màng, hoặc đã biến mất từ lâu lắm rồi, chỉ còn con trâu của mình sắp
sửa húc người khác rồi đó vậy!"Thôi! Chăn trâu đi! Nhiều chuyện mà
chi!"./.
HÌNH THỨC MÊ TÍN KHÔNG PHẢI LÀ PHẬT GIÁO
CON CHIM TRONG BÀN TAY (ĐỒNG TIỀN HAI MẶT)
CHỈ LÀ MỘT NẮM TRO
XUẤT
GIA HAY TẠI GIA
CÚNG
DƯỜNG TAM BẢO
LƯƠNG TÂM VÀ PHẬT TÂM