Tôi mong
tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi
đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi
sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp
không?
Làm sao
chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem
luốc,
phải trong
sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT
Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Phước Tuệ Song Tu
TK THÍCH CHÂN TUỆ
Trong đời sống này, chúng ta thường nghe, nói đến chữ "TU". Chẳng hạn như là: tu bổ tu sửa, tu chính tu chỉnh, tu tỉnh tu thân, tu nhân tích đức, tu tâm dưỡng tánh. Những từ ngữ đó, có nghĩa chung là: sửa chữa sửa đổi, rèn luyện trau giồi, cho được mới hơn, cho tốt đẹp hơn, cho đúng đắn hơn, cho chính xác hơn, cả hai phương diện, vật chất tinh thần.
Còn như
nói về, phương diện tín ngưỡng, từ ngữ đi tu, thường có nghĩa là: rời bỏ đời
sống, tại nơi thế gian, sống đời tu sĩ, trong các tự viện, hay là tu viện,
thanh tịnh trang nghiêm, hoặc đến những nơi, núi rừng vắng vẻ.
Phạm vi
bài này, chỉ đề cập đến, công phu tu tập, có thể áp dụng, giáo lý đạo Phật, cho
người tại gia, để tạo an lạc, hạnh phúc hiện tiền, ngay trên đời này. Ở
trong đạo Phật, chúng ta thường bàn, đến các vấn đề: "tu phước tu
tuệ".
Tu phước
là gì? Tu tuệ là gì?
Giá trị tu phước, giá trị tu tuệ, khác như thế
nào? Làm sao có thể, áp dụng vào trong, đời sống hằng ngày, của người tại
gia, phát tâm tu tập, tu tâm dưỡng tánh?
* *
*
Trước hết
là việc, chúng ta cần biết, đạo Phật xưa nay, có những nghi lễ, hình thức cúng
kiến, của một tôn giáo, dành cho đại chúng, đa số tín đồ, những người chưa
thấu, giáo lý thâm sâu, của Đức Thế Tôn.
Chẳng hạn như là: cúng kiến lễ lạy, chuông trống khánh mõ, cầu an cầu siêu, cầu phước lộc thọ, cầu nguyện hòa bình, cầu cho chúng sanh, vạn dân bá tánh, an lạc hạnh phúc. Những hình thức này, rất là cần thiết, có thể giúp cho, những người sơ cơ, tin theo đạo Phật, bởi do ông bà, cha mẹ tin Phật, thỉnh thoảng đến chùa, vào các dịp lễ, lớn nhỏ hằng năm, hái lộc đầu xuân, dịp tết nguyên đán, hoặc vào các dịp, quan hôn tang tế, nhưng không hiểu gì, giáo lý đạo Phật.
Hoặc gặp
những lúc, phong ba bão tố, dồn dập trong đời, tâm thần điên đảo, đời sống chao
động, con người cần có, cảnh chùa thanh tịnh, để được tĩnh tâm, cần có buổi lễ,
cầu an cầu phước, để tạm an tâm, cần có những người, thiện hữu tri thức, hết
lòng an ủi, giảng giải nghĩa lý, đem lại chánh kiến, giúp đỡ người đó, thoát
khỏi những cảnh, khổ đau như vậy.
Từ các
dịp đó, con người đến chùa, sinh hoạt thường xuyên, và hiểu được rằng: bởi vì
kém phước, thiếu phước ít phước, hết phước không phước, thường gọi "vô
phước", cho nên cuộc đời, chịu nhiều thăng trầm, cuộc sống gặp nhiều, khó
khăn bất trắc, khốn khổ đau thương, hoạn nạn điêu đứng, người thương không có,
kẻ ghét thì đông. Do đó con người, phát tâm "tu phước", tạo
thêm phước báu, để cho cuộc đời, vơi bớt phiền não, giảm thiểu khổ đau.
Phước báu
là do, chính chúng ta tạo, chứ không phải do, thượng đế ban cho, hay do cầu
nguyện. Người nào tích phước, từ trước đến nay, không cần cầu nguyện, cuộc đời
cũng an, ít gặp sóng gió, ít có trắc trở, đở bớt phiền muộn, tai qua nạn khỏi,
chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hóa dễ.
Trong
Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy, thí dụ như sau:
Nếu người phải bị, nuốt một nắm
muối, thì sẽ đau khổ, biết là dường nào. Nhưng nếu đem bỏ, nắm muối đó
vào, một tô nước nhỏ, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, hơn một chút xíu. Nếu
bỏ nắm muối, vào một lu nước, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, nhiều hơn chút
nữa. Nếu bỏ nắm muối, vào hồ nước lớn, rồi mới uống vào, thì chuyện sẽ
không, thành vấn đề nữa.
Nắm muối
tượng trưng, cho các nghiệp nhân, bất thiện chẳng lành, con người đã tạo, từ
trước đến nay, bây giờ phải lãnh, nghiệp quả nghiệp báo, nói chung đó là: quả
báo khổ đau, không sao tránh khỏi. Chỉ có phước báo, ít hay là nhiều,
tượng trưng tô nước, lu nước hồ nước, có thể giúp đỡ, con người vượt qua, khổ
đau mà thôi.
Đó mới
thực là: chí công vô tư.
Mình làm
mình hưởng. Mình làm mình chịu.
Cầu
nguyện van xin, dù tin hay không, thực sự chẳng giúp, chẳng ích gì đâu.
Tại sao như vậy? Bởi vì thực ra, chính vị giáo chủ, giáo phẩm chức sắc,
giáo quyền cao cấp, cũng phải trả nghiệp, đã tạo trước kia, nhiều đời nhiều
kiếp, ngay trong kiếp này, cũng bị nguyền rủa, vu khống cáo gian, xử án khổ
nạn, ám sát giết hại, một cách thê thảm, không ai thay được!
Trong khi
xảy ra, tai nạn xe hơi, xe lửa tàu thủy, hay là phi cơ, có người nằm mơ, cầu nguyện
đức Mẹ, hằng đi cứu giúp, có người cầu nguyện, đức Quán Thế Âm, cứu khổ cứu
nạn. Nếu như hai người, cùng thoát tai nạn, thực sự vị nào, đã cứu giúp
họ? Còn nếu hai người, cùng bị thảm tử, thì cả hai vị, đều bỏ rơi
họ? Có phải vậy chăng?
Thực
ra không phải! Không có vị nào, cứu họ giúp họ, theo lời cầu
nguyện.
Chỉ
có phước báo, của chính cá nhân, đã cứu chính họ!
Người có
phước báo, nhiều hơn một chút, thì được thoát nạn, một cách an ổn. Người
có phước báo, ít hơn một chút, thì được thoát nạn, một chút xây xát.
Những người vô phước, không còn phước báo, thường gọi tới số, thì đã mạng vong.
Chí
công vô tư, là luật nhân quả.
Trong
Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Chỉ
có phước báo, mới có thể làm, giảm thiểu nghiệp báo.
Nếu như
chúng ta, phát tâm tu phước, tạo thêm phước báu, chúng ta thường làm, tất cả
việc thiện, cứu người giúp đời, thường được gọi là: những việc "phước
thiện". Chẳng hạn như là: bố thí cúng dường, hùn phước cất chùa, tạo
tượng đúc chuông, ấn tống kinh sách, đi chùa lễ Phật, vào chùa công quả, tham
gia hoạt động, từ thiện xã hội, cứu trợ nạn nhân, thiên tai bão lụt, giúp đỡ
người nghèo, bần cùng khốn khổ.
Tuy nhiên
cũng có, những người tu phước, thường hay mong cầu, phước báu trở lại, với bản
thân mình, với gia đình mình, qua các dạng như: thới hên may mắn, tai qua nạn
khỏi, giàu sang hạnh phúc, ăn nên làm ra, cửa nhà êm ấm, con cái thành tài,
buôn may bán đắt. Như vậy nghĩa là: mặc dù tu phước, người rất hiền
lương, ăn hiền ở lành, việc ác không làm, chỉ làm việc thiện, nhưng mà tâm
niệm, của người tu phước, chưa được quảng đại, còn hay vị kỷ, hơn là vị tha,
chưa được thanh tịnh.
Do đó cho
nên, phước báu có được, rất là hạn chế, theo như tâm lượng, hạn hẹp của
mình. Khi không như ý, những người tu phước, thường hay nổi giận, bực bội
bất an, tâm trạng hoang mang, làm cho nhiều người, mất dần tín tâm, bỏ theo
ngoại đạo.
* * *
Trong
Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Nhược
Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí. Sở vị bất trụ sắc bố thí,
bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí. Bồ Tát ưng như thị bố thí,
bất trụ ư tướng. Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả
tư lượng" .
Nghĩa là:
nếu như chúng ta, không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và
không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố
thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được.
Nếu người
tu phước, làm việc phước thiện, mà không vụ lợi, không tâm phân biệt, kỳ thị
thân sơ, xuất xứ sang hèn, nam nữ sắc tộc, không mong cầu lộc, hay được báo
đáp, không hề trông chờ, đền ơn đáp nghĩa, không hề thấy mình, là người làm
phước, không thấy người khác, thọ nhận ơn phước, nếu làm như vậy, tạo được
phước báu, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Tại sao
như vậy? Bởi vì tâm lượng, của người tu phước, ngay lúc bấy giờ, trở nên
quảng đại, vô cùng vô tận, cho nên phước báu, trở nên to lớn, vô lượng vô biên,
tương ứng rõ ràng. Trong lúc thực hiện, hành động tạo phước, lời nói tạo
phước, ý nghĩ tạo phước, không hề nghĩ rằng: mình đang làm phước.
Giúp đỡ
người khác, chỉ vì tình thương, từ bi bác ái, lòng tốt tự nhiên, tâm bất vụ
lợi, vì người quên mình, đó chính thực là: hành động tạo phước, cao thượng hạng
nhứt, đem lại "phước báu", vô lượng vô biên, không thể nghĩ
bàn.
Chúng ta
nên biết: chúng ta có phước, nếu như chúng ta, đầy đủ sức khỏe, lục căn hoàn
bị, tay chân lành lặn, đi đứng tự nhiên, mắt mũi tinh tường, trí óc minh mẫn,
sống trong hạnh phúc, gia đạo bình an, trên thuận dưới hòa, thuận vợ thuận
chồng, con cháu ngoan ngoãn, hiền lành dễ dạy, cuộc sống bình yên, ít gặp sóng
gió, ít có trắc trở, tai qua nạn khỏi, mọi việc suôn sẻ, mọi sự hanh thông, gặp
được thầy lành, gặp được bạn tốt.
Phước báu
hơn nữa, nếu như chúng ta, gặp được chánh pháp, ngộ được chánh đạo, giác ngộ
giải thoát, không còn trầm luân, sanh tử luân hồi.
Người trí
thực hành, hạnh nguyện bố thí, chẳng cầu báo ân, chẳng cầu lợi mình, chẳng vì
giúp đỡ, cho kẻ bỏn sẻn, chẳng vì quả báo, sanh cõi nhơn thiên, giàu sang sung
sướng, hưởng thụ dục lạc, chẳng vì danh tiếng, đồn đãi khắp nơi, chẳng vì có
của, dư dùng không xài, chẳng vì bắt chước, làm theo người khác.
Người trí
thực hành, hạnh nguyện bố thí, chỉ vì từ tâm, giúp người cần đến, khiến người
an vui, qua cơn khốn khó, bớt cơn phiền não, khiến cho người khác, sanh tâm bố
thí, nhứt tâm hồi hướng, công đức phước đức, cho khắp muôn loài, pháp giới
chúng sanh. Làm được như vậy, trí tuệ khai mở, tâm niệm hòa bình, chúng
sanh an lạc, mọi người hạnh phúc.
Người
thích bố thí, chẳng thích tu tuệ, sanh ra giàu có, nhưng tâm trí kém.
Người thích tu tuệ, chẳng thích bố thí, sanh ra thông thái, nhưng nghèo xác
xơ. Tuy nhiên rõ ràng, trong khi tu phước, nếu chúng ta làm, với tâm
chính trực, bất tùy phân biệt, kết quả đồng thời, cũng có nghĩa là: chúng ta tu
tuệ.
Chẳng hạn
như là: chúng ta thực hành, hạnh nguyện bố thí, với tâm đại từ, tâm bất vụ lợi,
chúng ta được phước, đồng thời kết quả, tâm tham bỏn sẻn, dần dần giảm bớt,
thiểu dục tri túc, biết đủ bớt tham, không còn phạm giới, không còn tạo nghiệp,
tâm trí ổn định, dần dần thanh tịnh, trí tuệ phát sanh.
Như vậy
nghĩa là: thực tâm tu tập, tu phước tu tuệ, đồng thời kết quả. Nếu như chúng
ta, tu tập tinh tấn, sẽ nhận thấy rằng: trong phước có tuệ, trong tuệ có
phước. Phước báu giúp ta, bớt gặp chướng ngại, trên đường tu tập.
Trí tuệ giúp ta, tu tiến nhanh thêm, chóng đến bến bờ, giác ngộ giải thoát, lai
đáo bỉ ngạn.
Tu tập
nghĩa là: áp dụng giáo lý, ngay trong cuộc sống, luôn luôn nhớ nghĩ, sửa đổi
tâm tánh, của chính bản thân, ngày một an hơn, ngày một vui hơn, cho đến một
ngày, giác ngộ giải thoát.
Trong
Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
Hãy tự
thắp đuốc, tự mình bước đi.
Thắp sáng
trí tuệ, ngọn đuốc chánh pháp.
Trí tuệ
bát nhã, giúp đỡ chúng ta, thoát khỏi phiền não, giảm thiểu khổ đau, không
ngoài giáo pháp, của Đức Thế Tôn. Do đó chúng ta, phát tâm tu tập, nên
học giáo lý, mở mang trí tuệ, mới tỏ chánh đạo, mới có chánh kiến, mới đặng
chánh tín, tâm được thanh tịnh, tránh được tà đạo, tránh cảnh tu mù, lọt hầm
sụp hố, từ bỏ tâm ma, đạt được giác ngộ, thấu rõ chân lý, giải thoát khổ đau,
sống trong cảnh giới, niết bàn hiện tại, ngay trong cuộc sống, hằng ngày của
mình. Đó mới chính là: tu tuệ thực sự.
* *
Ở trong
cuộc sống, thế gian hằng ngày, có nhiều cơ hội, có rất nhiều cách, có nhiều
phương pháp, để cho con người, làm phước tạo phước, kiếm phước tích phước. Dù
đó là phước: hữu lậu vô lậu, đều có công năng, giúp cho con người, có được cuộc
sống, bình yên an ổn, ít đau khổ hơn, bớt đi phiền não, để tiến tới chỗ, giải
thoát khỏi vòng, sanh tử luân hồi. Phước báu
hữu lậu, do những việc làm, tạo sự an vui, thoải mái yên bình, ích lợi cho
người, gặp lúc khó khăn, về mặt vật chất, hay về tinh thần. Phước báu hữu
lậu, còn có công năng, đem lại may mắn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ,
chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hóa dễ, hễ chịu làm phước, oan trái bớt đi,
nghiệp báo giảm thiểu. Người nào làm phước, với lòng ước mong, hưởng
phước về sau, đó được gọi là: phước báu hữu lậu, vẫn còn trong vòng, sanh tử
luân hồi.
Cha mẹ em bé qua đời hiến tạng của em cứu người
Phước báu
vô lậu, do những việc làm, lời nói ý nghĩ, ích lợi cho người, nhưng đồng thời
cũng, giúp chuyển hóa được, con người chính mình, thí dụ như là: bố thí cúng
dường, tụng kinh niệm Phật, tư duy thiền quán, nghiên tầm kinh điển, tu tâm
dưỡng tánh. Người nào làm phước, với bốn tâm lớn: từ bi hỷ xả, tứ vô
lượng tâm, lòng không cầu mong, hưởng phước về sau, chỉ chuyên cố gắng, tu tập
tinh tấn, tiến dần đến chỗ: giác ngộ giải thoát, là phước vô lậu, vượt thoát
khỏi vòng, sanh tử luân hồi.
Phước báu
hữu lậu, như tiền tiết kiệm, có khả năng giúp, con người giàu sang, sung sướng
tấm thân, bình yên may mắn. Hưởng phước báo này, có ngày cũng cạn, cũng
dứt cũng hết. Khi đó là lúc, con người sẽ phải, đền trả nghiệp báo, đã
tạo trước kia, trong lúc giàu sang, quyền uy thế lực, tạo nhiều nghiệp ác, quên
mất việc thiện, tu nhơn tích đức.
Chúng ta
từng thấy, các vị quyền uy, ông vua bà chúa, hoàng hậu thái phi, hoàng tử công
nương, tổng thống thủ tướng, bộ trưởng toàn quyền, các nhà giàu có, trưởng giả
cao sang, danh vang tột đỉnh, thế lực quyền quí, lãnh tụ chính trị, lãnh tụ tôn
giáo, khi hưởng hết phần, phước báo hữu lậu, họ phải chịu nhiều, tai nạn khổ
ách, tán gia bại sản, thân bại danh liệt, thậm chí có thể, mất mạng thê thảm,
không ai thay được, ở nơi hoàng cung, hay trên xa lộ, hoặc dưới biển sâu, hay
trên núi tuyết!
Trong
Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
"Con
người khi nào, đang hưởng phước báo, cũng như mũi tên, bắn lên không
trung. Mũi tên bay lên, rất nhanh rất mạnh, cũng như con người, gặp được
mọi sự, may mắn tốt đẹp.
Đến
khi phước hết, con người bắt đầu, đền trả nghiệp báo, ví cũng như là, mũi tên
hết trớn, thì rơi xuống đất, cũng nhanh như vậy".
Đó chính
là nghĩa: phước báu hữu lậu.
Bởi vậy
cho nên, ở trong kinh sách, Đức Phật có dạy: chúng ta làm phước, đừng có mong
cầu, hưởng phước về sau, mà nên phát nguyện: đời đời kiếp kiếp, đầy đủ phước
duyên, gặp được chánh pháp, gặp được thầy lành, gặp được bạn tốt, giúp đỡ trợ
duyên, tu tâm dưỡng tánh, cho đến cái ngày: giác ngộ giải thoát.
Đó chính
là nghĩa: phước báu vô lậu.
* *
*
Tóm lại
nên biết, trong khi tu phước, đồng thời tu tuệ, mỗi ngày một tiến, nhứt định
không lùi, con người cảm nhận, an lạc hạnh phúc, ở trong tầm tay, ngay trong
hiện đời, đi đứng nằm ngồi, sinh hoạt hằng ngày, không tìm đâu xa, không đợi
kiếp sau, vãng sanh cực lạc, hoặc lên thiên đàng.
Tu tập
nghĩa là: áp dụng giáo lý, vào trong cuộc sống, hằng ngày của mình, giữ thân
khẩu ý, luôn luôn thanh tịnh. Ngay trong cuộc sống, nếu như chúng ta,
sinh hoạt bình thường, đi đứng nằm ngồi, tất cả hành động, lời nói ý nghĩ, đều
thể hiện được, tứ vô lượng tâm: từ bi hỷ xả, tâm không phiền não, an nhiên tự
tại, an vui tu tập, sống trong chánh niệm: niệm Phật niệm Pháp, niệm Tăng chi
tâm, tức là chúng ta, đạt được phước báu, trí tuệ viên mãn. Tu đúng
như vậy, chúng ta đạt tới, niết bàn giải thoát, không còn trầm luân, sanh tử
luân hồi. Tam bảo thường trụ, phước tuệ lưỡng toàn. Kinh sách có
câu:
"Phước
Tuệ lưỡng toàn, thì phương tác Phật".
Nghĩa là
chúng ta, muốn được làm Phật, an nhiên tự tại, thì phải tu phước, tu tuệ song
song, đều đặn như nhau. Ví như con chim, phải đủ hai cánh, mới có thể
bay. Chư Phật là bậc "PHƯỚC TRÍ NHỊ NGHIÊM", phước báu trí tuệ,
thảy đều trang nghiêm, chính nghĩa như vậy. Chư Tăng
thường được, mọi người xưng tán, là bậc "TÔN TÚC", nghĩa là các ngài,
là bậc tu hành, đáng tôn đáng kính, bởi vì đầy đủ: phước báu trí tuệ,Tu Phước và Tu Tuệ.
THƯA HỎI PHẬT PHÁP PHTQ
From: nha khanh
Kính thưa Thầy,
Con cám ơn lời chỉ bảo của
Thầy rất nhiều. Ngày nay người Phật tử thật
khốn khổ,
nhất là những người mới tìm
hiểu và tin Phật, không phân biệt được thực
hư, giả thiệt trong các hoạt
động của các chùa.Thời đại internet có tiện
ích nhiều, nhưng cũng có tác hại không
lường trong việc truyền Pháp.
Đôi khi có người chuyển tải
hình ảnh cúng kiếng nhẩy múa làm con hoang mang.
Thông tin truyền bá đã dùng những danh từ có tính cách không thanh thoát, để công kích nhau, con đọc rất là khó chịu. Con muốn tìm những huớng dẫn để mình có thể công phu hàng ngày nhưng đạt 2 điểm:
Thông tin truyền bá đã dùng những danh từ có tính cách không thanh thoát, để công kích nhau, con đọc rất là khó chịu. Con muốn tìm những huớng dẫn để mình có thể công phu hàng ngày nhưng đạt 2 điểm:
1. Lời kinh bằng tiếng quốc ngữ hiện nay,
để dễ hiểu và dễ áp dụng
vào đời sống của người tu tại gia.
2. Vì đời sống của người cư
sĩ tại gia
còn bề bộn nhiều trách
nhiệm đối với gia đình và xã hội,
nên không có đủ thời gian
để hành trì các thời khóa như các tu sĩ.
nhã khanh
Kính quí ĐH Nhã Khanh,
Bàn tay, đồng tiền hay tờ
giấy luôn luôn có 2 mặt, không thể tách rời được.
Cũng vậy, chuyện đời cũng
như chuyện đạo, luôn luôn có 2 mặt.
Có người thiện, cũng
có người bất thiện.
Trong tâm của một con
người, có lúc nghĩ thiện (lợi mình
lợi người),
cũng có lúc nghĩ bất
thiện (lợi mình hại người).
Khi tâm chưa bình an, dù ở
nơi chốn nào cũng có điều bất như ý.
Trong các sinh hoạt nhà
chùa, dĩ nhiên có nhiều điều hay tốt,
cũng có lắm
điều gạt gẫm, không tốt.
- Tại sao?
- Bởi vì tăng chúng đâu
phải ai cũng tốt, cũng chân tu thực học tất cả đâu.
- Phải nói, một số không ít
tăng ni phát tâm cạo tóc,
nói là muốn tu,
nhưng không học hiểu giáo
lý và thực hành lời Phật dạy
ngay trong đời sống hàng
ngày.
Do đó, đa số tăng ni chỉ
biết tụng lóc cóc leng cheng kiếm sống,
nói chuyện trên trời, dưới
biển,
thần thánh hóa bản thân,
chuyện tu hành chẳng biết
lẽ đúng sai, không phân biệt chánh pháp và tà pháp.
Người Phật tử, do đó, phải biết tự tìm học, đi
chùa đúng chánh pháp,
tìm hiểu sự việc trước khi
thực hành việc tu tập.
Chớ vội nghe
theo, hay thần tượng bất cứ nhà sư nào,
giữ tâm không thành kiến, y
pháp bất y nhân.
Phải dùng trí tuệ xem xét
lời giảng có đúng chánh pháp chăng?
- Thế nào là
đúng chánh pháp?
- Phải tự thắp đuốc mà đi
- nghĩa là tự lực từ bỏ
tham sân si, mới thực là tu.
- Phải hiểu rõ mọi việc
trên đời không ngoài nhân quả, không tồn tại vĩnh viễn.
- Không ai có thể cứu được
mình
- kể cả đức Phật khi còn
tại thế cũng không cứu được các đại đệ tử
khi nghiệp báo xảy đến.
Huống là ngày
nay, chúng ta van xin cầu khẩn với tượng Phật,
có được gì
đâu,
có gì là linh
thiêng đâu?
- Nhà sư chết còn chưa biết
đi về đâu - siêu hay không siêu -
làm sao cầu cho người khác
siêu được?
- Đừng đợi khi chết rồi,
thỉnh sư, mời cha, đến cho đông, cầu cho nhiều,
chỉ có tiền
mất - tật vẫn mang!
- Chỉ có chính mình cứu
được mình thoát khỏi sanh tử luân hồi mà thôi.
- Bằng cách nào?
- Học hiểu và
Thực hành lời dạy của đức Phật
ngay trong đời sống hàng
ngày,
luôn luôn quán sát xem tâm
niệm của bản thân
có sáng suốt chăng,
có chân chánh chăng,
có thanh tịnh chăng.
Sáng Suốt
Chân Chánh
Thanh Tịnh
chính là
TỰ TÂM TAM BẢO,
chẳng phải đi tìm bên ngoài
hay ở đâu xa.
Tìm bên ngoài, thường gặp
Phật giả
Pháp giả
Tăng giả.
Vài hàng đơn giản kính mong
quí Đạo Hữu luôn tinh tấn,
mong rằng hôm nay mình tiến
bộ hơn hôm qua.
Kính thư,
Chuyện Trong Đời
- Thưa Thầy, xin Thầy
từ bi chỉ dạy làm sao để con người cảm nhận được hạnh phúc trên đời này, dù cuộc đời
quá nổi trôi, đầy sự bất như ý.
- Con người thường có
đủ 3 tâm: tham, sân và si.
Khi tâm tham nổi lên,
con người cảm thấy thiếu thốn, chưa đủ, muốn thêm, dù cho nhiều người đã có
tiền rừng bạc biển trong tay. Có nhiều người mãi mê chạy theo lợi và danh cho
đến ngày nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thấy đủ.
Cho nên, con người
muốn cảm nhận được hạnh phúc trong cuộc sống cần phải biết đủ (tri túc).
Sách có câu:
Tri túc tiện túc
đãi túc hà thời túc.
Tạm hiểu:
Biết đủ thời đủ
đợi đủ khi nào đủ.
Nghĩa là: Khi nào đủ
ăn, đủ mặc, không đói rách, con người thấy biết là đủ thì ngay khi đó có hạnh
phúc. Với tâm tham, đợi
kiếm thêm nhiều nữa mới cho là đủ thì khó hưởng hạnh phúc vì sẽ không bao giờ
cho là đủ.
Có lời khuyên: Trong
đời con người nên nhìn xuống sẽ cảm nhận hạnh phúc, vì có biết bao nhiêu người
khác không bằng mình. Lúc đó con người sẽ phát tâm cứu người giúp đời, tạo
phước báu. Nếu con người nhìn lên sẽ thấy có biết bao nhiêu người hơn mình, cho
nên không cảm nhận được hạnh phúc.
Tóm lại, khi tâm cảm thấy biết đủ, con người
sẽ cảm nhận được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Khi tâm sân hận nổi
lên, con người cảm thấy bị xúc phạm bị khinh khi, bèn khởi tâm trả đủa trả thù,
cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Muốn dẹp bỏ tự ái hay giảm bớt tâm sân
hận, con người cần quán chiếu đó chính là bản ngã. Bản ngã chính là nguồn gốc
của phiền não khổ đau trên đời, sao có thể cảm nhận được hạnh phúc?
Tóm lại,
muốn cảm nhận được hạnh phúc, con người cần nên quán chiếu biết đủ và tập sống
theo vô ngã (dẹp bỏ tự ái xằng). Dĩ nhiên như vậy là sống ngược không theo dòng
đời thường.[]
Tuy nhiên có nhiều vị thực ra bị quăng vô chùa từ thuở nhỏ vì không biết cha mẹ là ai, con vô thừa nhận, con mồ côi, con nhà nghèo nuôi không nổi, con chạy loạn lạc chiến nạn. Các vị này lớn lên có muốn ra đời cũng không kiếm sống được, cho nên ở lì trong chùa cả 100 năm, sống lâu lên lão làng, hận người thù đời. Các vị này tâm địa vô cùng tàn nhẫn, độc ác đối với mọi người, ngay cả với đệ tử. Bề ngoài các vị này rất nghiêm trang, đạo mạo, cho nên gạt gẫm vô số người, khó nhận ra.
Đối với các vị bán thế xuất gia, tự quyết định việc tu hành khi tuổi trưởng thành. Nhiều vị trở thành rường cột của thiền lâm, lịch sử ghi chép đầy đủ công hạnh của các vị đại sư, tổ sư này. Tuy nhiên, cũng có nhiều vị thất bại công danh, gãy đổ tình duyên, tìm nương náu cảnh chùa. Có vị cũng thành những vị sư hiền đức. Cũng có nhiều vị ghét người hận đời, vô chùa trả thù.
Chuyện Trong Chùa
-
Thưa Thầy, có vị sư tu hành từ nhỏ, khoảng 7 tuổi, hay 7 tháng tuổi,
gọi là đồng chơn xuất gia. Có vị sư xuất gia tu hành khi đã trưởng
thành, khôn lớn, có trí tuệ, có học thức, có địa vị, có gia đình gọi là
bán thế xuất gia. Vị sư nào đáng kính hơn, có ích lợi lớn cho việc hoằng
dương chánh pháp hơn?
- Chuyện trong đời cũng như chuyện trong đạo, luôn luôn có 2 mặt và tùy theo nhiều yếu tố, chứ không thể kết luận vội vàng được. Vị
sư đáng kính là một vị sư chân tu thực học, có đức độ, làm nhiều lợi
ích lớn nhỏ cho việc hoằng dương chánh pháp và phổ độ được nhiều bá tánh
giác ngộ chân lý, không phân biệt vị đó xuất gia ở độ tuổi nào và lý do
gì đi xuất gia.
Đối
với các vị xuất gia từ thuở ấu thơ, chưa nhuốm bụi trần, đó là cái
phước lớn, nhân duyên thiện lành. Vị sư đó có thuận điểm là tu hành được
lâu năm, nhiều năm hơn so với các vị sư khác cùng tuổi tác. Do đó theo
tâm lý chung, người đời kính trọng các vị sư này hơn.
Tuy nhiên có nhiều vị thực ra bị quăng vô chùa từ thuở nhỏ vì không biết cha mẹ là ai, con vô thừa nhận, con mồ côi, con nhà nghèo nuôi không nổi, con chạy loạn lạc chiến nạn. Các vị này lớn lên có muốn ra đời cũng không kiếm sống được, cho nên ở lì trong chùa cả 100 năm, sống lâu lên lão làng, hận người thù đời. Các vị này tâm địa vô cùng tàn nhẫn, độc ác đối với mọi người, ngay cả với đệ tử. Bề ngoài các vị này rất nghiêm trang, đạo mạo, cho nên gạt gẫm vô số người, khó nhận ra.
Đối với các vị bán thế xuất gia, tự quyết định việc tu hành khi tuổi trưởng thành. Nhiều vị trở thành rường cột của thiền lâm, lịch sử ghi chép đầy đủ công hạnh của các vị đại sư, tổ sư này. Tuy nhiên, cũng có nhiều vị thất bại công danh, gãy đổ tình duyên, tìm nương náu cảnh chùa. Có vị cũng thành những vị sư hiền đức. Cũng có nhiều vị ghét người hận đời, vô chùa trả thù.
Tóm lại, khó nói trọn vẹn tất cả các trường hợp. Ai ăn nấy no ai tu nấy chứng.[]
Tập san PHTQ số 28 Phật Đản 2015 phát hành 1.6.2015
THÔNG BÁO
PHẬT HỌC TỊNH QUANG
KÊU GỌI ẤN TỐNG KINH SÁCH
Văn Phòng Phật Học Tịnh Quang trân trọng kêu gọi quí vị thân hữu, đạo
hữu hảo tâm gần xa hùn phước và giúp đỡ việc ấn tống kinh sách hữu ích cho quí
Phật tử tại gia tu học trong năm 2015.
Tập san PHTQ 28 (Đại Lễ Phật Đản) đang được in và sẽ phát
hành miễn phí vào tháng 6-2015.
Văn-Phòng Phật-Học Tịnh-Quang Canada ấn tống và
phát hành miễn phí
Tập san Từ Bi & Trí Tuệ, 3 số mỗi năm, vào các dịp sau:
Tết Nguyên Đán,
Đại Lễ Phật Đản,
Đại Lễ Vu Lan.
Quí vị có thể nhận miễn phí nơi các chùa, các tòa
soạn báo, các Bác sĩ, Nha sĩ, Dược sĩ hay các cơ sở thương mại tại Toronto,
Brampton, Hamilton, Montréal. Phố Tàu Toronto số lượng nhiều nhất tại tiệm Tạp
Phong 360 Spadina Ave.
Quí vị muốn nhận tập san qua bưu điện xin ủng hộ cước phí,
gửi về địa chỉ sau đây:
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ-Nhiệm PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 Railroad St.,
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016
Brampton, ON, L6X-1G9, Canada.
Tel: 647-828-1016
Kính thư,
Email: cutranlacdao@yahoo.com
LỜI HAY Ý ĐẸP
Đừng tìm kiếm nơi vẻ đẹp bề ngoài; chúng có thể
đánh lừa bạn.
Cũng đừng tìm kiếm nơi của cải vật chất; vì ngay cả
những thứ đó rồi cũng sẽ ra đi.
Hãy tìm kiếm người có thể khiến bạn mỉm cười,
Vì chỉ cần có nụ cười thì ngày ảm đạm cũng trở
nên tươi sáng.
Hãy tìm người có thể khiến trái tim bạn mỉm cười
LIFE
The photos are great, but the philosophy is even
better!
CUỘC SỐNG
Các bức ảnh thật tuyệt vời, nhưng những bài học từ
cuộc sống còn tuyệt vời hơn nữa!
TK Thích Chân Tuệ
Trong khi bàn về vấn đề giá trị của con người, thông thường người ta có thể xem xét về hai phương diện: vật chất và tinh thần.
Về phương diện vật chất, người đời thường đánh giá cao những con người ăn mặc lịch sự, sang trọng, đúng thời trang, những con người sống trong những ngôi nhà cao, cửa rộng, những tòa biệt thự đồ sộ, nguy nga, tráng lệ, những con người đi trên những chiếc xe hơi lộng lẫy, đắt tiền, đầy đủ tiện nghi, những con người rộng rãi, hào phóng, xài tiền như nước.
Bên cạnh đó, người đời cũng thường đánh giá cao những con người có sắc đẹp quyến rủ, những con người dung mạo tuyệt trần, những con người có thân hình lực lưỡng, cân đối, những con người khỏe mạnh, tráng kiện, những con người có uy quyền, có thế lực, có danh vọng, những con người có địa vị trong xã hội, những con người có tài sản kếch sù, những con người có nhiều cơ sở làm ăn, buôn bán, kinh doanh khắp nơi, những con người hét ra lửa mửa ra khói, những con người tiền hô hậu ủng, những con người có kẻ ăn người ở, có kẻ hầu người hạ, phục dịch trong ngoài, những con người có sức mạnh vô địch, những con người có võ công tuyệt luân.
********************************
Những con người như vậy sở dĩ được đánh giá cao,
bởi vì đó là mục tiêu nhắm đến, là niềm mơ ước đạt được của hầu hết mọi người
nam nữ, già trẻ, lớn bé, trên thế gian này. Bằng đủ mọi cách, mọi thứ, mọi
phương pháp, mọi phương tiện, mọi mưu mô, mọi kế sách, mọi thủ đoạn, mọi chiến
thuật, mọi chiến lược, mọi sách lược, con người trên thế gian này đều chỉ mong
đạt được, đoạt được những điều mơ ước đó, dù có phải chà đạp lên sanh mạng hay
nhân phẩm của người khác hay nhiều người khác. Lắm khi con người bất chấp sanh
mạng và tiền đồ của cả một dân tộc, hay của cả nhân loại trên quả địa cầu này, chỉ vì những tiêu chuẩn giá trị trên đây. Thật thảm thương thay!
Con Chim Trong Bàn Tay
Người Ba Tư có kể
câu chuyện ngụ ngôn như sau:
Ngày xưa, tại quảng
trường của một thành phố nọ, có một nhà hiền triết xuất hiện
và tuyên bố giải
đáp được tất cả mọi thắc mắc của bất cứ ai đến vấn kế.
Một hôm, giữa đám
người đang say mê lắng nghe nhà hiền triết, có một mục tử
từ trên núi cao
đến. Nghe tiếng đồn về sự thông thái và khôn ngoan của nhà hiền triết, anh muốn
chứng kiến tận mắt, nghe tận tai và nhất là để hạ nhục nhà hiền triết giữa đám
đông.
Anh tiến đến gần
nhà hiền triết, trong tay bóp chặt một con chim nhỏ. Anh đặt câu hỏi như sau:
"Thưa ngài, trong tay tôi có cầm một con chim. Ngài là bậc thông thái biết
được mọi sự. Xin ngài nói cho tôi biết con chim tôi đang cầm trong tay sống hay
chết?".
Nhà hiền triết biết
đây là một cái bẫy mà người mục tử tinh ranh đang giăng ra.
Nếu ông bảo rằng
con chim đang còn sống, thì tức khắc người mục tử sẽ bóp cho nó chết trước khi
mở bàn tay ra. Còn nếu ông bảo rằng con chim đã chết thì lập tức con người khôn
manh ấy sẽ mở bàn tay ra và con chim sẽ bay đi.
Sau một hồi thinh
lặng, trước sự chờ đợi hồi hộp của đám đông, nhà hiền triết mới trả lời như
sau: "Con chim mà ngươi đang cầm trong tay ấy sống hay chết là tùy ở
ngươi. Nếu ngươi muốn cho nó sống thì nó sống, nếu ngươi muốn cho nó chết thì
nó chết".
Suy Ngẫm
Trên đời này, chuyện gì cũng có hai mặt. Bàn tay
cũng có hai mặt. Đồng tiền, tờ giấy cũng có hai mặt. Tâm con người cũng có hai
mặt: chân tâm và vọng tâm. Hành động lời nói ý nghĩ của con người cũng có hai
mặt: thiện và bất thiện (ác). Cuộc đời cũng có hai mặt: hạnh phúc và khổ đau.
Ai trong chúng ta cũng khao khát hạnh phúc. Ai
trong chúng ta cũng mong ước được cuộc sống an bình, vui tươi. Nhưng lắm khi
chúng ta chạy theo chiếc bóng mờ ảo của hạnh phúc hơn là hưởng nếm hương vị
chính hạnh phúc đang trong tầm tay của chúng ta.
Hạnh phúc ấy còn hay mất tùy ở mỗi người chúng ta,
tùy sự hiểu biết và cách cư xử trong cuộc sống hàng ngày với tất cả mọi người
chung quanh.
Chúng ta được hạnh phúc, chúng ta được an bình hay
không là do chính chúng ta quyết định, không do bất cứ ai, bất cứ thánh thần
thiên địa nào ban cho.
- Tại sao vậy?
- Bởi vì, nếu thực có đấng nào đó có quyền năng ban
phước cho - tại sao không ban cho ai khác, lại ban cho mình. Mình có xứng đáng
được hưởng hơn người khác chăng? Suy nghĩ ban phước cho chính mình như vậy, chỉ
vì cái bản ngã, ích kỷ, không vị tha, làm sao có được hạnh phúc?
Hạnh phúc đích thực của chúng ta, niềm vui đích
thực của chúng ta chính là chúng ta quên mình vì người, cứu đời giúp người, dù
cho hoàn cảnh thế nào vẫn cảm thấy an bình, hạnh phúc.
Ý thức được sự xả kỷ vị tha, quên mình vì người
trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta sẽ có được niềm vui hạnh phúc đích thực do
chính mình quyết định, chính mình làm chủ, không làm nô lệ.
BBT.PHTQ.CANADA
Sent: Wednesday, June 27, 2012 11:41:18 AM
Subject: Re: [DiendanDanToc] HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY - HẠNH PHÚC DO CHÍNH CON NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH
Subject: Re: [DiendanDanToc] HẠNH PHÚC TRONG TẦM TAY - HẠNH PHÚC DO CHÍNH CON NGƯỜI QUYẾT ĐỊNH
Kính Tỳ Kheo Thích Chân Tuệ,
Trên những Diễn Đàn này, Tỳ Kheo luôn cho
những bài học quí giá.
Nhân bài học này, tôi xin kính gửi Tỳ Kheo và quí
bạn đọc
một bài đọc ngắn và bài Thơ có ý nghĩa
tương tự sau đây để quí vị nhàn lãm.
Kính chúc Tỳ Kheo và quí vị thân tâm an lạc.
BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN PHẬT ĐẢN
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Ban ngày trời chiếu sáng
Ban đêm trăng chiếu sáng
Như hào quang Đức Phật
Chói sáng cả ngày đêm.
**
Đèn hoa sen chiếu sáng
Người trí tuệ sâu xa
Như trăng khỏi mây mù
Soi sáng khắp nhân gian.
Hằng
năm, mùa Phật Đản đèn hoa sen được thắp sáng khắp nơi trên đường phố toàn thế
giới. Trong đó gồm có Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản, Indonesia, Nepal, Trung Quốc,
Thái Lan cùng các quốc gia đông Nam Á khác. Lễ hội với những lồng đèn rực rỡ,
ngoài việc thể hiện nét văn hóa truyền thống đặc sắc của Phật giáo và niềm hân
hoan hạnh phúc mừng Đấng giác ngộ ra đời. Những người con Phật còn phải tự nhắc
nhở tri ân và luôn củng cố niềm tin sáng suốt đầy trí tuệ vào giáo Pháp từ bi
bình đẳng của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Đó chính là ý nghĩa toàn mỹ trong dịp kỷ
niệm ngày đản sanh của Đức Từ Phụ, vị Phật giác ngộ và giải thoát chúng sanh ra
khỏi biển khổ sông mê.
BẰNG
CON TIM VÀ MỘT TẤM LÒNG
Sống
trong nhân gian xuất gia hay tại gia và còn có rất nhiều hình tướng, giai cấp,
trình độ, tùy hoàn cảnh, tùy phước duyên tu học, tùy căn cơ mà xiển dương chánh
pháp. Bằng con tim chân thành và một tấm lòng bao dung con người có thể giải
quyết được vấn đề nan giải trong gia đình, bức xúc trong tình cảm, nỗi tuyệt vọng
áp bức, bất công, xung đột, tranh chấp trong cuộc sống. Thiền môn cũng là nơi
người Phật tử trở về nương tựa, tịnh tu, gởi gấm niềm tin hy vọng và tìm được
những phương pháp xoa dịu nổi đau tâm linh, giải quyết đau khổ mà họ đang gánh
chịu.
Trong
một mùa Phật đản, Chư Tăng Ni đưa Phật tử đi thăm một cảnh Đức Phật thành đạo
trong khu vườn xung quanh chùa. Cảnh được diễn tả là một tượng Phật Thích Ca Mâu
Ni ngồi ở gốc cây bồ đề đang tọa thiền, cùng trong cảnh có ba tượng người nữ rất
đẹp đang múa. Hai người Phật tử nhìn tượng ba cô gái, người thứ nhất buộc miệng
khen:
-
Ồ ba cô tiên đẹp thật !
-
Tiên gì mà đẹp chứ? Không biết đừng có nói bậy!
Là ba con ma nữ phá Phật đó! Đọc thêm giáo lý đi bà ơi!
-
Đẹp thì tôi nói đẹp có sao đâu? Bà giỏi dữ
hén?
Qua lời đối đáp của câu chuyện trên chúng ta
thử suy ngẫm. Trong khi Đức Phật chứng Niết Bàn, quả Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác từ lâu xa rồi, tại sao vẫn còn quá nhiều chúng sanh chìm đắm trong luân hồi,
vậy Ngài đã dạy những gì? Chúng ta thực hành được nhiều hay ít trong tu tập? Hay
chỉ là dùng Phật Pháp để hơn thua, được mất, danh và lợi?
Đúng sai
không chấp thủ
Thương
ghét khéo lìa xa
Thấu suốt
từ vô ngại
Thân nầy
là thân chót
Bậc đại
trí đại nhân
Không nhiễm
lụy pháp nào
Ái diệt tự
giải thoát
Nhờ vậy chứng
Niết bàn.
(Kinh Pháp Cú)
Thuốc
không có hay dở mà chữa được bịnh là thuốc tốt. Pháp không có cao hay thấp mà
Pháp nào đem lại an lạc hạnh phúc và chữa được tâm bịnh là Chánh pháp. Không có
gì là khó để tìm được ánh sáng Phật pháp, nếu thấy rằng đời người rất ngắn, tự mình
cố gắng xua tan bóng đêm trong tận cùng thâm tâm. Bóng đêm càng lớn, con người
càng nhỏ bé và một ngày nào đó sẽ bị nhấn chìm vào địa ngục đau khổ.
THÚC LIỄM
THÂN TÂM
- Khi đang tu tập,
con người còn sống trong cảnh giới tương đối nên tâm còn động. Từ lời nói, suy
nghĩ, hành động chỉ theo bản tánh vui buồn, hờn giận, khi thương khi ghét. Như
vậy, rõ ràng là tâm động. Tâm động thì còn trong cảnh giới luân hồi. Vẫn biết
giữa đời thường có tốt có xấu, tâm thường bị lòng đố kỵ chi phối, thấy cái xấu
của người thì dễ, ít thấy được cái tốt, như lòng bàn chân úp xuống mặt đất khó
nhìn thấy được. Khi hành động, lời nói có sự suy nghĩ và trí hiểu biết, chứ
không vì bị ép buộc hay thành kiến, nguy hiễm nhất là tâm sân hận đưa tới sự
hối hận muộn màng.
Tùy trình độ giác ngộ tu tập chuyển nghiệp, do đó
nhiệm vụ nặng nề của người Thầy là dẫn dắt chúng Phật tử, thức tỉnh họ trong
khi còn sống là còn cơ hội, khi bỏ thân xác này thì đã trể rồi. Mọi người đều
phải đối diện với nghiệp tốt xấu đã tạo trong suốt cuộc đời, mà thọ lãnh quả
báo (gieo giống nào thì gặt quả đó).
Đạo Phật là đạo từ bi và trí tuệ, người tu vào được
cảnh giới tự tại sáng suốt, cũng có nghĩa là lúc bấy giờ tâm giống như Chư
Phật, luôn luôn sống trong chánh định chánh giác, lời nói suy nghĩ hành động
đều thanh tịnh. Không có tham vọng hay mong cầu ích kỷ riêng tư, không còn
phiền não, dứt trừ được tam độc tham lam, sân hận, si mê. Từ giác ngộ đi đến
mục tiêu giải thoát sanh tử đau khổ là cứu cánh chân thật của đạo từ bi trí
tuệ.
- Khi giác ngộ, Đức
Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới cội cây
bồ đề, trên thế gian này và theo lịch sử ghi chép
lúc đó Ngài 35 tuổi. Vị sa môn Cồ Đàm sau khi chứng đạo thấy được tam thiên đại
thiên vô số thế giới trong sáu cõi (thiên, nhân, atula, địa ngục, ngạ quỉ, súc
sanh) và hiểu rõ vô thường, nhân quả, sanh lão bịnh tử chi phối sáu cõi đau khổ
trong sanh tử luân hồi. Danh từ Niết bàn là trạng thái của tâm Phật ở hiện tại
lúc còn sống, không phải sau khi chết mới thấy được. Tự tại hoàn toàn - Tâm tỉnh lặng - Chính là niết bàn.
Mong muốn được trạng thái tâm sáng suốt trí tuệ như Chư Phật,
ngoài việc làm phước để trưởng dưỡng lòng từ bi, chúng ta còn phải cố gắng học hiểu
giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận, rồi áp dụng vào đời sống hằng ngày.
Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc Chánh Pháp, để được Niết
bàn an lạc giải thoát và được hạnh phúc ngay hiện đời.
Nhất
thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh.
(Tất cả chúng sanh đều có Phật tánh).
Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong cảnh giới an lạc và hạnh
phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp những sóng gió khó khăn,
nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền não và khổ đau như tất cả chúng sanh khác.
Giáo pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được các bậc truyền nhân chân tu thật học,
chân chính rao giảng khắp nơi trên thế giới. Tấm lòng vị tha vô ngã, vô chấp,
vô phân biệt của những bậc xuất gia trưởng tử Như Lai, là cố gắng đem chánh
pháp thức tỉnh chúng sanh giác ngộ, mong họ sớm xa rời tà kiến, mê tín, xem nhẹ
danh lợi và buông bỏ được lòng tham lam ích kỷ từ nhiều đời nhiều kiếp.
"Trên
đời này, không có sự ghen tị tranh đấu chính là từ bi, không phân biệt cao
thấp, hay dở chính là trí khôn, không nghe thấy đàm tiếu chính là sự thanh
tịnh, không nhìn thấy hơn thua là tự tại, không tham vọng chính là bố thí, từ
bỏ ác là hành thiện, sửa đổi chính là sám hối, nhún nhường là lễ Phật, tha thứ
là sự giải thoát".
BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN
Tâm là vô thường, thay đổi khi tối khi sáng. Đạo Phật
là đạo từ bi và trí tuệ. Người tu không có ích kỷ, không cố chấp, không cầu
danh lợi, sống trong bao dung và tha thứ đó là hương thơm của hoa sen biểu tượng
của từ bi. Ngọn đèn trí tuệ thắp sáng trong hoa sen là người tu biết thiện ác,
chánh tà, đúng sai, nhưng không có sự phân biệt. Tâm trong sáng như gương, khéo
léo hành sử, tán dương thiện xa lìa ác chứ không khinh chê, cũng không phân
biệt đối xử yêu hận trói buộc.
Trí tuệ và lòng từ bi giúp cho hành giả trên đường
tu giữ được tâm chân chánh, thanh tịnh và sáng suốt. Tự giác ngộ rồi thì ly
tham, ly sân và si mê, chấm dứt được giải thoát. Sự hạnh phúc an lạc không do
ai ban tặng hay do cầu xin mà được, mà do ở bản thân của mỗi người tự tu, tự
chuyển đổi, luôn luôn chánh niệm thanh lọc tâm thật trong sạch và chánh định (thanh
tịnh). Biểu tượng hoa sen là hương thơm đức hạnh người tu có niềm tin đúng
chánh pháp, trên đường hành đạo có lòng từ bi cao thượng và tuệ giác sáng suốt
như Chư Phật. Ngọn đèn chiếu sáng bên trong tượng trưng người tu thoát ra khỏi
bóng đen tâm tối của vô minh trong sanh tử và đạt được giác ngộ và giải thoát.
Câu
chuyện giáo lý cần suy ngẫm như sau:
Có một
anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối mới ra về. Người bạn đưa cho cây
đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với anh, trời sáng cũng như tối, ban
ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không phân biệt được gì cả. Người bạn
khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận
cây đèn và ra về, trên đường về, anh đụng phải một người đi đường. Anh mù bèn
la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay sao? Người kia đáp: Cây
đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!
Thế mới biết chúng ta cần cây đèn của chính chúng
ta, để giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, để giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát
khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn do người khác trao cho, có khi
không được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng đó phải là cây đèn của chính
chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của tất cả mọi người tu cần phải
có.
ĐÈN HOA SEN biểu tượng niềm tin
Hạnh
phúc thay, Đức Phật Đản Sanh
Hạnh
phúc thay, Chánh Pháp trường tồn
Hạnh
phúc thay, Tứ chúng đồng tu
Hạnh
phúc thay, thiên hạ thái bình.
Kính chúc
quí vị an lạc và hạnh phúc trong giới pháp của Chư Phật. Mùa Phật Đản hãy cùng nhau sám hối, cùng nhau
thứ tha, giải bớt nỗi oan khiên nghiệp báo, xoa dịu thống khổ của kiếp người,
cho nhau niềm yêu thương, xóa tan thù hận, có được sự cảm thông và hiểu biết, sớm
thoát ly biển sanh tử luân hồi. Nguyện cùng tất cả chúng sanh trong pháp giới đều
trọn thành Phật đạo. []
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni
Phật
TKN Thích Nữ Chân Liễu
NHƯ
Như một chiếc lá thu
Như một cơn gió thoảng
Như một giọt sương mai
Như một giấc mơ qua
Như một làn mây mỏng
Như một đóm lửa tàn
Như một thoáng ảo giác
Như một vì sao băng.
Đời vô thường tựa bọt nước mong manh,
Được mất thành bại hóa hư không.
(Thơ
Viên Phụng) 30.12.2010
Ý NGHĨA CÚNG HOA, HƯƠNG, ĐÈN
HẠNH PHÚC CỦA CON NGƯỜI
MUỐN TU THÌ PHẢI HỌC
TỘI VÀ NGHIỆP
BAT CHÁNH ĐẠO
PHẬT DẠY CÁCH TRỊ M Ê TÍN
CHÁNH NGỮ - TU THEO ĐẠO PHẬT
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH