TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Monday 9 November 2015

Các Hiểu Lầm Phổ Biến Về Đạo Phật - Hình Ảnh Một Đời Người



lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Thôi, đừng thèm thương ghét ai hết, bỏ hết, quên hết đi thì đời sau không gặp lại. Người đã làm khổ mình, nếu ta cứ giận hoài là nuôi lớn thêm nỗi khổ, chớ có được gì đâu. Như vậy bỏ hết lợi hơn hay ôm ấp lợi hơn? Biết bỏ là lợi, nhưng đa số chịu ôm chớ không chịu bỏ. Giữ hoài không nỡ bỏ, biết nó khổ nhưng vẫn ôm giữ nên Phật nói chúng sanh đáng thương.
HT. Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
TẬP SAN PHTQ.30 TẾT NGUYÊN ĐÁN BÍNH THÂN 2016
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Kính mời tham khảo
CÔ HỒN VÔ THƯỢNG SƯ FASHION SHOW
http://phtq-canada.blogspot.ca/2015/11/ta-phap-trai-bat-o-chan-te-co-hon.html
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
KHÉP BÓNG TRẦN GIAN

Đường về khép bóng trần gian
Lợi danh gói một hành trang vô thường
Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộng
Được mất bại thành bỗng chốc hóa hư không

Phú quý vinh hoa như mộng ảo
Sắc tài danh lợi tựa phù du
Tất bật hơn thua rồi cũng bỏ
Thong dong tự tại vậy mà vui

Đêm qua mộng lại thật gần
Đừng lay tôi nhé hồng trần mong manh
Ta về giữ mộng trinh nguyên
Bờ hun hút lạnh nắng xuyên hình hài

Khi tóc bạc trên đầu trôi dạt mãi
Cội nguồn ơi chiếc lá lại rơi về
Thân như bóng chớp chiều tà
Cỏ cây hoa lá xuân qua rụng rời

Sá chi suy thịnh cuộc đời
Thịnh suy như hạt sương rơi đầu cành
Ta cứ tưởng trần gian là cõi thật
Thế cho nên tất bật đến bây giờ

                                            HÌNH ẢNH MỘT ĐỜI NGƯỜI



Ngày kia, nhà tỷ phú nọ mang cậu con trai duy nhất về nơi thôn dã với ý định để cho con tìm hiểu và so sánh với cuộc sống nghèo nàn của người dân quê. Hai cha con sống hai ngày tại một làng xóm xa xôi nơi mà người ta cho là có đời sống khó khăn. Sau khi trở về nhà, người cha hỏi người con:

- Con thấy cuộc đi chơi ra sao?

- Cuộc đi thích thú lắm. Người con trả lời.

- Con có thấy cuộc sống của người dân quê không?

- Dạ, có.

- Con nhận thấy gì trong cuộc sống của họ?

- Con nhận thấy chúng ta chỉ có mỗi một con chó, mà họ thì có tới bốn con. Chúng ta chỉ có một hồ bơi nhỏ ở giữa vườn, còn họ thì có cả một nhánh sông chảy mút mùa. Chúng ta phải nhập cảng những chiếc đèn để treo trong vườn mà họ thì không cần đến vì họ có đầy sao chiếu sáng lúc ban đêm. Tại chỗ ngồi chơi trước nhà, chúng ta chỉ có thể nhìn tới bức tường ở cổng trước mà thôi, còn họ có thể ngồi nhìn xuốt tới tận chân trời. Chúng ta chỉ có một khoảng đất để sống quanh quẩn ở đó, còn họ có cả một khoảng đồng ruộng thẳng cánh cò bay. Chúng ta phải có người ở để giúp việc chúng ta, còn họ thì không cần, họ tự lo lẫn cho nhau. Chúng ta phải bỏ tiền đi mua đồ ăn, còn họ trồng lấy và tự túc về thực phẩm. Nhà chúng ta phải có tường bao quanh để bảo vệ chúng ta, còn họ thì không cần vì họ có những bạn tốt để đùm bọc lẫn nhau.

Trước những lý luận của người con trai, người cha đã không nói nên lời.

Người con nói tiếp: Con cám ơn cha đã mang con đi du hành để tỏ bầy cho con thấy chúng ta đang có một cuộc sống nghèo nàn như thế nào!

* * *

Ở đời, chúng ta thường quên đi những gì chúng ta đã có và đang có, mà chỉ nghĩ tới những gì chúng ta không có và chưa có.

Những vật không đáng giá của người này chính là những vật mong uớc của người kia. Đời là như vậy!

Hạnh phúc sẽ đến, nếu chúng ta biết ghi nhận những an lạc tràn trề chúng ta đang có, thay vì chỉ nghĩ đến mộng ước muốn có thêm.

Hãy tận hưởng những gì chúng ta đang có, nhất là những đồng bào, bạn bè, thân quyến đang có chung quanh ta.


 CON BƯỚM


Một người nọ tìm thấy một cái kén của con bướm . Anh ta nhận thấy cái kén này bắt đầu được cắn rách, sâu bướm bắt đầu bò ra. Quan sát một hồi lâu, anh thấy con sâu bướm cố hết sức lách thân mình qua lỗ hổng mà không được. Rồi con sâu có vẻ ráng hết sức mà không lọt ra nổi và nằm im như chịu thua. Động lòng thương, người nọ muốn giúp con sâu bướm, anh ta lấy mũi kéo nhỏ cắt vết rách của cái kén để sâu bướm ta vuợt ra ngoài dễ dàng. Sau khi sâu bướm ra khỏi kén, thì thân hình lớn ra nhưng đôi cánh thì lại nhỏ. Người nọ cố chờ xem con bướm có thể phát triển thêm ra không? mong rằng đôi cánh kia có thể nở rộng thêm để đủ sức bay đi?

Than ôi! vô ích! con bướm đã bị trọn đời tàn tật, lê lết với chiếc cánh nhỏ bé không thể bay đi được.

Người nọ vì lòng thương mà hấp tấp làm hỏng cuộc đời con bướm. Anh không biết là luật tạo hóa bắt buộc con sâu bướm phải tự phấn đấu để?vượt ra khỏi lỗ nhỏ của cái kén. Trong lúc phấn đấu đó, huyết mạch sẽ được luân lưu từ thân mình cho đến đôi cánh và sau khi vượt ra khỏi chiếc kén, bướm ta mới có đủ sức vuơn đôi cánh lớn ra mà bay bổng.

* * *

Sức phấn đấu cũng rất cần thiết cho đời sống chúng ta vậy.

Nếu cuộc đời không có những trở ngại thì chúng ta sẽ bị bại liệt như con bướm kia. Chúng ta không có đủ sức để bay bổng. Trước những thăng trầm thế sự, chúng ta phải có đủ trí phấn đấu ngõ hầu vươn lên trong cuộc sống.

Chúng ta sẽ có sức dũng mãnh, vì cuộc đời có những trở ngại khiến chúng ta phải đấu tranh.

Chúng ta sẽ có trí tuệ, vì cuộc đời có những vấn đề nan giải khiến chúng ta phải giải quyết.

Chúng ta sẽ có can đảm, vì cuộc đời có những chông gai nguy hiểm khiến chúng ta phải vượt qua.

Chúng ta sẽ có lòng từ bi, vì cuộc đời có những kẻ bất hạnh để cho chúng ta giúp đỡ.

Chúng ta sẽ có thịnh vượng, vì cuộc đời tạo ra những trí óc và bắp thịt khiến chúng ta phải vận dụng.

Các bạn có thấy đúng không ? 


** Sớm hay muộn gì tất cả chúng ta đều phải dọn đi, kể cả đời này và nhiều đời sau nữa!

**Chuyện này biểu lộ rằng người quyền thế nghĩ là quyền lực của họ thường hằng. Nhưng không có gì trong cuộc đời này là thường hằng. Người như vậy cần được đặt vào vị trí của họ.

**Chúng ta sống và chết và không bao giờ thực sự sở hữu bất cứ thứ gì. Có mấy người nghĩ sâu xa về điều này.

**Vật chất và của cải làm cho bạn nghĩ rằng mọi thứ tồn tại vĩnh viễn. Điều đó ngược lại sự nhận biết rằng mọi thứ trên đời này đều vô thường.



Chuyện Trong Đời
- Thưa Thầy, xin Thầy từ bi chỉ dạy để con người cảm nhận được hạnh phúc trên đời này, dù cuộc đời quá nổi trôi, đầy sự bất như ý.
- Con người thường có đủ 3 tâm: tham, sân và si.
Khi tâm tham nổi lên, con người cảm thấy thiếu thốn, chưa đủ, muốn thêm, dù cho nhiều người đã có tiền rừng bạc biển trong tay. Có nhiều người mãi mê chạy theo lợi và danh cho đến ngày nhắm mắt xuôi tay vẫn chưa thấy đủ.
Cho nên, con người muốn cảm nhận được hạnh phúc trong cuộc sống cần phải biết đủ (tri túc).
Sách có câu:
          Tri túc tiện túc
          đãi túc hà thời túc.
Tạm hiểu:
          Biết đủ thời đủ
          đợi đủ khi nào đủ.
Nghĩa là: Khi nào đủ ăn, đủ mặc, không đói rách, con người thấy biết là đủ thì ngay khi đó có hạnh phúc.
Với tâm tham, đợi kiếm thêm nhiều nữa mới cho là đủ thì khó hưởng hạnh phúc vì sẽ không bao giờ cho là đủ.
Có lời khuyên: trong đời con người nên nhìn xuống sẽ cảm nhận hạnh phúc vì có biết bao nhiêu người khác không bằng mình. Lúc đó con người sẽ phát tâm cứu người giúp đời, tạo phước báu. Nếu con người nhìn lên sẽ thấy có biết bao nhiêu người hơn mình, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Tóm lại, khi tâm cảm thấy biết đủ, con người sẽ cảm nhận được hạnh phúc ngay trong tầm tay.
Khi tâm sân hận nổi lên, con người cảm thấy bị xúc phạm bị khinh khi, bèn khởi tâm trả đủa trả thù, cho nên không cảm nhận được hạnh phúc. Muốn dẹp bỏ tự ái hay giảm bớt tâm sân hận, con người cần quán chiếu đó chính là bản ngã. Bản ngã chính là nguồn gốc của phiền não khổ đau trên đời, sao có thể cảm nhận được hạnh phúc? Tóm lại, muốn cảm nhận được hạnh phúc, con người cần nên quán chiếu biết đủ và tập sống theo vô ngã (dẹp bỏ tự ái xằng). Dĩ nhiên như vậy là sống ngược không theo dòng đời thường.[]
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm 
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Kính mời tham khảo:
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

CHUYỆN TRONG CHÙA
- Thưa Thầy, có vị sư tu hành từ nhỏ, khoảng 7 tuổi, hay 7 tháng tuổi, gọi là đồng chơn xuất gia. Có vị sư xuất gia tu hành khi đã trưởng thành, khôn lớn, có trí tuệ, có học thức, có địa vị, có gia đình gọi là bán thế xuất gia. Vị sư nào đáng kính hơn, có ích lợi lớn cho việc hoằng dương chánh pháp hơn?
- Chuyện trong đời cũng như chuyện trong đạo, luôn luôn có 2 mặt và tùy theo nhiều yếu tố, chứ không thể kết luận vội vàng được.
Vị sư đáng kính là một vị sư chân tu thực học, có đức độ, làm nhiều lợi ích lớn nhỏ cho việc hoằng dương chánh pháp và phổ độ được nhiều bá tánh giác ngộ chân lý, không phân biệt vị đó xuất gia ở độ tuổi nào và lý do gì đi xuất gia.
Đối với các vị xuất gia từ thuở ấu thơ, chưa nhuốm bụi trần, đó là cái phước lớn, nhân duyên thiện lành. Vị sư đó có thuận điểm là tu hành được lâu năm, nhiều năm hơn so với các vị sư khác cùng tuổi tác. Do đó theo tâm lý chung, người đời kính trọng các vị sư này hơn.
Tuy nhiên có nhiều vị thực ra bị quăng vô chùa từ thuở nhỏ vì không biết cha mẹ là ai, con vô thừa nhận, con mồ côi, con nhà nghèo nuôi không nổi, con chạy loạn lạc chiến nạn. Các vị này lớn lên có muốn ra đời cũng không kiếm sống được, cho nên ở lì trong chùa cả 100 năm, sống lâu lên lão làng, hận người thù đời. Các vị này tâm địa vô cùng tàn nhẫn, độc ác đối với mọi người, ngay cả với đệ tử. Bề ngoài các vị này rất nghiêm trang, đạo mạo, cho nên gạt gẫm vô số người, khó nhận ra.
Đối với các vị bán thế xuất gia, tự quyết định việc tu hành khi tuổi trưởng thành. Nhiều vị trở thành rường cột của thiền lâm, lịch sử ghi chép đầy đủ công hạnh của các vị đại sư, tổ sư này.
Tuy nhiên, cũng có nhiều vị thất bại công danh, gãy đổ tình duyên, tìm nương náu cảnh chùa. Có vị cũng thành những vị sư hiền đức. Cũng có nhiều vị ghét người hận đời, vô chùa trả thù.
Tóm lại, khó nói trọn vẹn tất cả các trường hợp. Ai ăn nấy no ai tu nấy chứng.[]
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

ADIDAPHAT,

Trong bài viết dưới đây Tỳ Kheo giải thích việc cầu nguyện theo quan điểm 
Phật Giáo rõ ràng dễ hiểu.

Cầu nguyện là tập trung tâm trí, 
nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trở nên thanh tịnh.

Cầu nguyện là một cách định tâm, 
định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người.

Cầu nguyện vì thế chính là phương pháp quán chiếu,

nhìn lại con người thật của mình, quan sát tâm tình,

trừ khử tà kiến mê tín, khát vọng phàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu đuối.

Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì 

cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp

thiền định, quán chiếu tự tâm.

nhưng sau đó lại viết:

- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, 

đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.

- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, 
tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, 

phi chánh pháp, không từ bi & trí tuệ.

 - Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có.........



người đọc cảm thấy hơi bối rối vì lúc thì bảo là: 

- Cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp

thiền định, quán chiếu tự tâm.

sau thì lại nói:

- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, 

đúng chánh pháp

nếu nói vậy thì lời cầu nguyện này được chấp nhận chứ?  

Xin Tỳ Kheo giải thích thêm dùm điểm này cho người đọc được tỏ tường hơn.



Xin đa tạ

Nam Mô A Di Đà Phật.
Kính
Vovitru
******************
Sunday 11.11.12
Kính thưa quí vị,
VP.PHTQ.CANADA cảm tạ quí vị đã nêu lên thắc mắc về Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN.
Vấn đề cầu nguyện là vấn đề tín ngưỡng trong dân gian khắp mọi nơi, từ nhiều thế kỷ qua.
Vấn đề này có hai mặt:
1. Đối với đại đa số, đó là phương tiện an tâm trong lúc con người gặp khổ nạn, bất trắc.
2. Đối với giáo lý cao siêu vi diệu nhiệm mầu, đó là phương tiện tu tập giải thoát sanh tử luân hồi.
Triết lý hay cốt tủy của đạo Phật chính là:
Tự mình cứu mình - Không ai cứu được mình - kể cả Đức Phật - cho nên cầu nguyện là vô ích.
Đạo Phật quan trọng LÝ NHÂN QUẢ và LÝ VÔ THƯỜNG.
Do nhân quả, sau khi đắc đạo và còn tại thế, ngay Đức Phật vẫn phải đền trả nghiệp quả và Đức Phật không cứu được dòng họ Thích Ca hay các đại đệ tử, khi nghiệp quả đã đến lúc họ phải đền trả.
Chỉ có PHƯỚC BÁO mới cứu được, giảm thiểu được NGHIỆP BÁO mà thôi. (Điểm này xin xem thêm bài giảng về PHƯỚC BÁU).
Tuy nhiên, để phổ biến sâu rộng giáo lý vi diệu nhiệm mầu, đạo Phật cũng phải mang hình thức của một tôn giáo. Nói đến tôn giáo chính là các hình thức cầu nguyện, các nghi lễ cầu nguyện.
Lời cầu nguyện «vô ngã vị tha»
là lời cầu nguyện đúng chánh pháp, chấp nhận được bởi trưởng dưỡng «từ bi & trí tuệ».
Lời cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vô ngã vị tha.
Tuy nhiên, lời cầu nguyện cho cha mẹ hay thân nhân quá vãng được siêu sanh cực lạc quốc, tuy bày tỏ lòng hiếu thảo, nhưng bấy lâu nay bị lợi dụng.
Người còn sống phải lo tu tập để tâm thức được nhẹ nhàng, khinh an, khi ra đi, khỏi cầu cũng siêu.
Các nhà sư sống có an chăng, chết có siêu chăng, làm sao nhà sư cầu siêu cầu an cho người có tiền bỏ ra thuê mướn dịch vụ cầu an, cầu siêu?
Các nghi lễ cầu siêu cầu an cũng chẳng qua là hình thức an ủi, khuyên giải thân nhân và cũng là cơ duyên tốt nhứt, thù thắng nhứt để giảng giải giáo lý, khuyên tang chủ phát tâm tu tập, đừng để đến lúc nằm trong quan tài mới nghĩ đến chuyện thỉnh sư cầu siêu.
Lúc đó các tà sư tha hồ bày trò, đặt chuyện, hăm he hù dọa, gây khó dễ, để tống tiền tang chủ.
Tang chủ cố gắng thỏa mãn nhà chùa, xong việc cúng thất, cả nhà đứng trước cổng chùa chửi thề ỏm tỏi, thề không bước tới cửa mấy thằng đầu trọc nữa.
Như vậy, cả tăng lẫn tục đều phiền não qua việc tang lễ.
Vấn đề tang lễ này cần viết dài hơn mới rõ ràng mọi việc, nay mai VP.PHTQ.CANADA sẽ phổ biến.

 PHẬT HAY MA

Có một họa sĩ rất nổi tiếng, ông ta muốn vẽ tranh Phật và ma quỷ, nhưng mà ông ta không tìm thấy trong thực tế hình mẫu của hai nhân vật này. Trong đầu ông ta nghĩ thế nào cũng không thể tưởng tượng ra hình dạng của Phật và ma quỷ, cho nên rất sốt ruột lo lắng.



Thế rồi có một cơ hội rất vô tình, anh ta đã đi chùa bái lễ, trong lúc đó đã vô tình phát hiện ra một vị thầy, các loại khí chất trên thân thể vị thầy kia đã hấp dẫn vị họa sĩ một cách sâu sắc, thế là anh ta liền đi tìm vị thầy đó, nguyện ý trả cho vị thầy này một số tiền lớn, với điều kiện là vị thầy sẽ dành một ngày làm mẫu để họa sĩ kia vẽ. Sau này, tác phẩm của vị họa sĩ hoàn thành đã gây ra chấn động rất lớn tại địa phương. Họa sĩ nói: “Đó là bức tranh mà tôi hài lòng nhất, bởi vì vị thầy làm mẫu cho tôi vẽ kia khiến tôi nghĩ rằng nhất định ông chính là một vị Phật, những khí chất thanh tịnh và thư thái ông mang trên mình có thể gây cảm động đến mỗi người”.


Vị họa sĩ cuối cùng đã thực hiện lời hứa của mình, trả cho vị thầy kia rất nhiều tiền. Cũng bởi vì bức tranh này, mọi người đã không gọi ông ta là họa sĩ nữa mà gọi là “Họa Thánh”. Một thời gian ngắn sau, họa sĩ chuẩn bị bắt tay vào vẽ ma quỷ, nhưng điều này lại trở thành một vấn đề khó khăn cho ông, đi đâu mà tìm được hình dáng của ma quỷ đây? Ông ta tìm hỏi qua rất nhiều địa phương, tìm rất nhiều người hung ác bên ngoài, nhưng không có ai thỏa mãn cả. Cuối cùng, ông ta tìm đến một nhà tù, vị họa sĩ cực kỳ vui mừng, bởi vì thực sự tìm một người giống ma quỷ quả là quá khó khăn. Thời điểm mà ông họa sĩ đối mặt với tên phạm nhân kia, tên phạm nhân đã ở ngay trước mặt ông ta mà khóc rống lên. Vị họa sĩ thấy vô cùng kỳ lạ, bèn hỏi tên phạm nhân kia có chuyện quan trọng gì vậy? Tên phạm nhân kia nói: “Tại sao ông lần trước vẽ Phật cũng tìm tôi mà lần này vẽ ma quỷ cũng lại tìm tôi?”.

Vị họa sĩ bị chấn động, ông nhìn tên phạm nhân một cách cẩn thận rồi nói: “Tại sao lại có thể thế được?  Lúc tôi vẽ Phật tôi tìm người kia có khí chất phi phàm, còn ngươi thoạt nhìn đã thấy ngay là hình tượng ma quỷ rồi, tại sao lại là cùng một người được? Thật là quá kỳ lạ! Quả thực là khiến cho không ai có thể lý giải nổi”.

Tên phạm nhân kia đau buồn nói: “Chính là ông đã biến tôi từ Phật thành ma quỷ”. Vị họa sĩ nói: “Ngươi tại sao lại nói như thế? Ta không có làm gì ngươi cả”.

Tên phạm nhân nói: “Từ sau khi ông trả cho tôi tiền, tôi đã ăn tiêu đàng điếm, đi tìm mua vui, mặc sức tiêu xài. Sau này khi đã tiêu hết tiền, mà tôi lại quen với cuộc sống như vậy rồi, dục vọng đã khởi lên mà không thể vãn hồi được, thế là tôi đi cướp đoạt tiền của người khác, còn cả giết người nữa, chỉ cần có thể kiếm được tiền, việc xấu thế nào tôi cũng có thể làm, kết quả là trở thành như bộ dạng của ngày hôm nay”.

Vị họa sĩ nghe tên phạm nhân kia nói xong, vô cùng bùi ngùi, ông cảm thấy sợ hãi khi mà nhân tính chỉ vì dục vọng lại có thể chuyển biến nhanh đến như vậy, con người là yếu ớt như thế. Thế là ông đau đớn mà đem bút vẽ quẳng đi, từ đó về sau không bao giờ vẽ tranh nữa.

Vị thiền sư kể xong mấy câu chuyện, liền nhắm mắt lại không nói gì, nhưng người hỏi kia đã từ mấy câu chuyện mà có được giải đáp.  Hóa ra cái đáng sợ nhất trên đời này chính là dục vọng của con người, dục vọng của con người càng nhiều, thì càng thấy chưa đủ, sẽ càng thấy không sung sướng vui vẻ và sẽ càng thấy phiền não. Cho nên vị thiền sư nói cho chúng ta biết:

Tiền như gông xiềng, tham lam là phần mộ, truy danh trục lợi cuối cùng cũng chỉ là công dã tràng, chỉ có tẩy tịnh đi đủ loại dục vọng trong lòng, buông bỏ lòng tham, quay trở về với bản tính thật thà lương thiện, mới có thể khám phá ra rằng:  “Mọi vinh hoa phú quý trong thế gian này chỉ như mây khói thoảng qua, suy cho cùng chúng đều là những thứ vô thường.”   Không tham, không dục, và không tranh mới có thể tận hưởng được sự khoan khoái vui sướng vô tận của cuộc đời.

Một hiền giả sưu tầm.


CÁC HIỂU LẦM PHỔ BIẾN VỀ ĐẠO PHẬT

Việt Nam là một quốc gia có truyền thống Phật giáo lâu đời. Nhiều người Việt Nam, dù theo đạo Phật, cũng không có sự hiểu biết tối thiểu về đạo Phật hoặc biết một cách rất mơ hồ, sai lạc, thậm chí nguy hại. Dưới đây là vài điều hiểu lầm rất phổ biến hiện nay.

1. Đức Phật là đấng thần linh không có thật
Với một tín đồ Phật giáo, điều này nghe có vẻ rất buồn cười, nhưng rất nhiều người hiện nay vẫn không biết Đức Phật là một người có thật. Ngài sinh vào khoảng năm 624 trước công nguyên, tên thật là Tất Đạt Đa, thuộc dòng họ Thích Ca, Thái Tử xứ Ca Tỳ La Vệ, do cha Ngài làm quốc  vương. Lãnh thổ hiện nay thuộc về khu vực giáp ranh Nepal và Ấn Độ.
Đức Phật Thích Ca sống thọ đến 80 tuổi, nơi sinh, nơi mất và nơi ở của Phật Thích Ca hiện nay đều được các nhà khoa học tìm ra với các chứng tích lịch sử.
Đức Phật sinh ra bình thường như một con người, không phải thần thánh. Lớn lên, Ngài rời khỏi hoàng cung, đi tìm con đường giải thoát khỏi khổ đau trên thế gian.
Sau khi đắc đạo, trong 45 năm, Ngài thuyết pháp, truyền dạy, hướng dẫn mọi người hãy đi trên con đường giác ngộ đó để được giải thoát.
Việc thờ phượng Đức Phật dưới hình thức một tôn giáo là do người đời sau bày vẻ ra, thậm chí quên mất việc quan trọng chánh yếu là tự nổ lực tu tập, hành đạo, ứng dụng giáo pháp trong đời sống thực tế để giác ngộ và giải thoát.
Phật là một quả vị, hay có thể nói là một danh hiệu  dành cho các vị giác ngộ tuyệt đối, vì vậy nên có nhiều vị được gọi là Phật. Có vị tồn tại trong lịch sử như Phật Thích Ca, có vị được biết đến chỉ trong kinh điển như Phật A Di Đà, Phật Di Lặc và  chưa ai gặp ngoài đời cả.

2. Mục tiêu của người tu là mong cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc
Mục tiêu của đạo Phật không phải là cõi thiên đường hay Cực Lạc, mà là thoát hết phiền não khổ đau. Tất nhiên đó là một công trình vĩ đại trải qua thời gian vô cùng lâu dài, chứ không thể trong một kiếp người vài chục năm đã đạt được ngay. Đức Phật cũng phải  trải qua nhiều kiếp sống thực hành liên tiếp chứ chưa nói đến  người  bình thường.
Chính vì vậy, trong đạo Phật có một số vị chủ  trương hướng dẫn cho Phật tử thực hành từng bước một. Bước đầu một  người có thể tu tập để được tái sinh vào kiếp sau tại một nơi hạnh  phúc hơn, sau đó tại nơi ấy họ sẽ tiếp  tục tiến bộ để được thoát khổ hoàn toàn.

Tuy nhiên cũng có những vị không cần thông qua con đường ấy mà tập trung thực hành ngay tại đời sống con người cũng đạt được kết quả giác ngộ và giải thoát. 
Trong lịch sử rất nhiều đệ tử của Đức Phật đều là người có thật và các vị xuất gia sau thời Phật đạt được giác ngộ ngay khi  đang sống ở cõi người.
Vì vậy, có thể nói vãng sanh Tây Phương Cực Lạc không phải là mục đích cứu cánh của đạo Phật.

3. Cầu khẩn van xin đức Phật ban phát tài lộc
Ngày nay phần lớn các ngôi chùa đều có sự thờ cúng hương khói. Có những chùa, người tu hành ít, nhưng hoạt động cúng bái, lễ hội cho lữ khách thập phương diễn ra  vô cùng sôi động. Rất nhiều người đến Lễ Phật với tâm mong cầu Đức Phật mang lại nhiều may mắn, tiền tài, nhà cửa hoặc con cái. Thực ra  đây là một quan niệm không đúng với lời dạy của Phật.

Đức Phật chỉ dạy giáo pháp hướng dẫn con người tự nổ lực tu tập thanh lọc tâm thức để giác ngộ giải thoát phiền não khổ đau. Đức Phật không có ban phước giáng họa hay đáp ứng những lời cầu khẩn van xin các điều mà Đức Phật khuyên nên bỏ.
Còn vấn đề cầu xin sức khoẻ, hạnh phúc và bình an thì sao? Sức khoẻ do đời sống điều độ không do đức Phật ban cho. Người thường đi chùa nhưng ăn uống không điều độ, tiêu thụ các món có hại thì làm sao mạnh khoẻ được. Khi có bệnh về thân thì đi khám bệnh uống thuốc, chứ tụng mấy biến chú đại bi, chú dược sư thì làm sao hết bệnh được. Nhà sư trong chùa cũng bệnh, cũng uống thuốc đó.

Hạnh phúc do thực hành bát chánh đạo trong đời sống, cũng không do đức Phật ban cho. Người thường đi chùa, nhưng khinh miệt chồng con không biết tu như mình, mình phải lén chồng con để đi chùa, làm sao có hạnh phúc được.
Còn muốn bình an thì giữ gìn ngũ giới, không sinh sự thì sự không sinh. Ăn ở hiền lành tạo phước thì được bình an. Người thường đi chùa nhưng tánh nóng, hay gây gỗ, đâm bị thóc thọc bị gạo, nhiều chuyện thị phi thì
làm sao bình an.

4. Niệm Phật là đọc danh hiệu  Phật
Tụng kinh, niệm Phật là phương pháp tu hành phổ biến ở các chùa, nhất là ở miền quê. Trong đó mọi người cố gắng để tụng các bài kinh cho thuộc nằm lòng, đọc lên cho hay mà có khi chẳng tìm hiểu nghĩa.
Bên cạnh đó, việc liên tiếp đọc "Nam Mô A Di Đà Phật" cũng được coi là một công đức, điều này khiến giới trẻ cảm thấy hồ nghi và không hứng thú với đạo Phật. Tuy nhiên, tại chùa hay tại gia, khi thực hành niệm liên tục "Nam Mô A Di Đà Phật" cũng là phương pháp thực hành chánh niệm để đạt chánh định, chứ không phải vô ích, tránh sự hồ nghi. Chỉ khi nào người niệm như vậy để tính sổ công đức là mê tín.

Thực ra, chữ  "niệm" ở đây có nghĩa là nhớ, giống như trong chữ tưởng niệm, hoài  niệm. Niệm Phật hay thường xuyên nhớ đến Phật, tránh niệm Ma, tránh nghĩ đến điều sai quấy, để khỏi làm hay nói điều sai quấy cũng là  phương pháp hiệu  quả giúp tâm trí chúng ta bình an và sáng suốt. Như vậy, người tu hành có thể niệm trong tâm, gọi là tâm niệm, chứ không phải niệm to tiếng ồn ào, vang vang chánh điện để được khen tặng là niệm Phật giỏi.

5. Người  tu hành theo Đạo Phật đều phải ăn chay
Ăn chay được khuyến khích do tâm tự nguyện để trưởng dưỡng tâm từ bi chứ không phải là qui định bắt buộc.Trong đạo Phật chỉ cấm người tu hành sát sinh hại vật để thỏa mãn, còn việc ăn chay nếu có điều kiện thuận lợi nên thực hiện.

Thời xa xưa, nhà sư đi khất thức tha phương và người dân chưa quen ăn chay nên có khi cúng cho các vị tăng cả thịt cá, các thầy ăn đồ ấy không coi là phạm giới.
Ngày nay điều kiện kinh tế khá hơn, khắp nơi chùa chiền được lập nên, Phật tử chuẩn bị được đồ chay cho chùa chiền nên các nhà sư mới có thể ăn chay trường được.
Ngoài ra, trong những trường hợp đặc biệt, chẳng hạn như khi ốm bệnh, các nhà sư cũng cần bồi dưỡng để có sức khỏe chóng bình phục, tiếp tục việc tu hành. Và việc ăn chay không phải là điều kiện để vãng sanh hay là kỳ tích để đem khoe khắp xóm làng.

6. Người  tu hành theo Đạo Phật đều phải thuộc lòng các bộ kinh mới gọi là tu
Nhiều người nói đến việc tu hành liền khoe ngay mình đã học thuộc bao nhiêu bộ kinh, đã tu qua những  phẩm nào, đọc mỗi chữ lạy một lạy, đã mấy chục năm qua, nhưng đó không phải điều cốt yếu mà đức Phật chỉ dạy.
Giáo pháp quan trọng nhất, căn bản nhất trong đạo Phật chính là Luật Nhân Quả, Lý Vô Thường, Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo.

Tìm hiểu đạo Phật mà chỉ thích những giáo lý cao siêu, con người càng dễ xa rời  chân lý, lạc vào tà đạo, huyễn hoặc, mơ hồ. Có nhiều kinh điển do ngụy tạo hoặc chỉnh sửa không còn đúng với cốt tủy của đạo Phật nữa.Do đó, để khỏi bị lầm lạc, người tu cần phải nắm vững các giáo pháp căn bản nói trên trước khi tiến xa hơn.

7. Đạo  Phật chỉ dành cho người già
Thường khi người ta thấy chỉ có phụ nữ và người già đến chùa, nam giới số ít hơn liền vội cho rằng đạo Phật chỉ dành cho người già, sắp lià đời, không thích hợp cho giới trẻ. Thật ra, đạo Phật dành cho bất cứ ai muốn chuyển hóa, thăng hoa đời sống để được hạnh phúc hơn, tốt đẹp hơn, đặc biệt rất thích hợp cho giới trẻ.
Tuy nhiên ở nước ta lâu nay lại tồn tại quan niệm “Trẻ vui nhà, già vui  chùa”, coi việc đến chùa, học Phật chỉ dành cho những người cao  tuổi, không còn việc gì khác để làm. Quan niệm như thế thật quá sai lầm. Đừng đợi đến tuổi già, thân thể bệnh tật, tâm trí lu mờ mới tìm đến cảnh chùa. Khi đó quá muộn rồi. Muộn màng hơn nữa có người đợi chui vô hũ tro cốt, hay nằm trong quan tài mới chịu nghe tụng kinh niệm Phật. Đạo Phật rất thích hợp cho bất cứ tuổi tác nào, càng tìm đến với chánh pháp càng sớm, càng có nhiều thời gian tu tập. Tu mau kẽo trể chính là nghĩa này. []

 llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Không nên tin ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người có thế lực đạo cũng như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất cả những gì có nhiều người tin theo, hay có ghi trong sách vở.
Chỉ nên tin những gì có thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với lẽ thực, thông qua trí tuệ sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi người.
Bởi vậy, Đức Phật dạy ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: Văn-Tư-Tu.
Nghĩa là con người hãy Văn: nghe giảng, đọc sách,  nghiên tầm, học hỏi, 
rồi Tư: suy nghĩ, tư duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo, 
trước khi Tu: thực hành, tu tập theo. []
BBT.PHTQ.CANADA
SAIGON CITY 2015

HỎI ĐÁP PHTQ (4.7.2015)



Hỏi:
Kính thưa Quí Thầy VP.PHTQ.CANADA,

Nhờ các bài viết của quí Thầy, Phật tử chúng tôi hiểu biết các lễ hội được tổ chức trong chùa chiền từ xưa nay đều có tính cách phương tiện đưa bá tánh đến cửa chùa để quí chư Tăng Ni giảng dạy chánh pháp. Các hình thức nghi lễ hay lễ hội đều chưa phải là chánh pháp. Vậy chánh pháp là thế nào, làm sao các Phật tử nhận biết được và đâu là nơi tu học chân thật? Kính mong quí Thầy VP.PHTQ.CANADA từ bi hoan hỷ chỉ dạy. Chúng tôi muôn vàn cảm tạ.

Nay kính,
Phật Tử Tâm Chơn (Mississauga)


Đáp:

Kính thưa quí Đạo Hữu,
Đạo Phật cũng như các tôn giáo khác truyền bá rộng rải trong dân gian bắt buộc phải có các hình thức nghi lễ đáp ứng nhu cầu của dân gian.

Chẳng hạn như: khi bá tánh gặp bệnh nan y hay gặp khổ nạn, chùa chiền có lễ cầu an. Khi bá tánh có tang sự, chùa chiền có lễ cầu siêu.

Những khi có thiên tai trên thế giới, chùa chiền có lễ cầu nguyện cho các nạn nhân, cầu nguyện bình an cho thế giới.

Chư vị Tổ sư đặt ra các nghi lễ, thời khóa tu tập, để hướng dẫn Phật tử đến với chùa chiền.
Tiếp đó, bổn phận chư vị Tăng Ni phải truyền trao chánh pháp, giảng giải rõ ràng đâu là huyễn (giả), đâu là chân (thật).

Tiếc rằng từ xưa nay, nhiều người lợi dụng màu áo tu sĩ để kiếm sống.
Họ cạo tóc vô chùa nhưng không phải để tu học, mà chính là để tìm cách kiếm tiền bạc triệu một cách dễ dàng qua hình tướng tu sĩ,
ngồi mát ăn bát vàng, thích ăn trên ngồi trước.
Họ chẳng cần nghiên cứu giáo lý để giảng dạy, chỉ cần kéo bè kết phái để bao che những hoạt động kinh doanh, buôn thần bán thánh trong chốn thiền môn.
Cửa chùa không còn là nơi tu học trang nghiêm thanh tịnh.
Cửa chùa trở thành sân khấu văn nghệ múa lân đốt pháo đinh tai nhức óc, ồn ào tiếng kèn trống ca hát, tiếng MC chuyên nghiệp miệng lưỡi moi tiền trấn lột bá tánh một cách trắng trợn trước tượng Phật.
Còn chư Tăng trở thành các tên phù thủy gạt gẫm bá tánh, y áo sặc sỡ phường tuồng, ợ ợ ngáp ngáp, lóc cóc leng cheng lùng tùng xèng, múa may quay cuồng, úm ba la úm ba la trong các lễ trai đàn bạt mạng, pháp hội dược sư, pháp hội địa tạng.
Chư Tăng biết đó là phi chánh pháp nhưng kiếm ăn quá dễ, kiếm tiền liên tục, biết mà cố phạm, bởi bá tánh u mê quá đông và ham vui qua các lễ hội như vậy.

Còn thế nào là chánh pháp, đâu là nơi tu học chân thật?
Kính mời quí vị tham khảo các bài viết phổ biến giáo lý cốt tủy của đạo Phật.
Bá tánh nắm vững chánh pháp thì không ai dùng tà pháp gạt gẫm được.

 Chùa Vĩnh Nghiêm (Saigon City, Việt Nam)

 LÒNG TIN CỦA NGƯỜI CON PHẬT


HT. Thích Thanh Từ


Vì muốn cho tất cả Tăng Ni Phật tử đều hiểu đạo theo đúng tinh thần của đạo Phật, nên hôm nay chúng tôi giảng dạy đề tài Lòng tin của người con Phật.
Con Phật ở đây là hàng xuất gia cũng như các Phật tử cư sĩ tại gia. Chúng ta nghe nhận giáo pháp của Phật khéo hiểu, đó là con đường tu thực tế của bản thân, cũng như hướng dẫn chỉ dạy cho mọi người đồng chí hướng tu hành.

Vậy lòng tin của người Phật tử là gì? Là tin Tam bảo, tức tin Phật, tin Pháp, tin Tăng. Lòng tin ấy đối với Phật tử dễ tin hay khó tin?

Trước hết nói về tin Phật. Tin Phật là tin như thế nào? Lâu nay chúng ta cứ ngỡ tin vào đức Phật là tin Ngài có đủ tất cả pháp nhiệm mầu, đủ công đức vô lượng vô biên. Chúng ta tin tưởng ở Ngài thì sẽ ban bố phước lành cho mình, sẽ gia hộ cho ta bình an, hạnh phúc. Nhưng sự thật không phải, chúng ta tin Phật vì Ngài là bậc giác ngộ. Chữ Phật nói đủ là Phật đà có nghĩa là bậc giác ngộ viên mãn. Vì giác ngộ viên mãn nên những gì Ngài chỉ dạy cho chúng ta đều là chân lý không xê dịch, không đổi khác theo thời gian không gian.

Vậy chúng ta tin Phật là tin bậc giác ngộ, một bậc sẽ đưa ta đến chỗ sáng suốt, chớ không phải tin bằng ân huệ Ngài ban cho. Trong kinh Phật thường dạy: “Ta không có quyền ban phước xuống họa cho ai”. Ngài đã không có quyền ban phước xuống họa thì ta xin được phước, xin khỏi họa được không? Xin như vậy là trái với chủ trương, trái với lẽ thật đức Phật đã dạy.

Nếu người nghiệp thiện khi nhắm mắt sẽ đi theo ba đường lành. Nếu người nghiệp xấu ác, khi nhắm mắt sẽ đi ba đường dữ, chớ không phải chết là hết. Do thấy như vậy nên đức Phật nói: “Ta thấy chúng sanh đi trong luân hồi lục đạo như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã tư đường thấy kẻ qua, người lại rõ ràng không lầm lẫn”. Đức Phật thấy rõ dòng luân hồi của chúng sanh từ đời này tới đời kia không dừng, không hết nên Ngài mới dạy chúng ta cách tu để thoát khỏi dòng luân hồi ấy.

Đến canh năm khi sao mai vừa mọc, Phật chứng Lậu tận minh. Lậu tận minh là thấu tột được nguyên nhân nào khiến cho chúng sanh trầm luân trong sanh tử và phương pháp nào đưa chúng sanh ra khỏi vòng luân hồi ấy, không còn buộc ràng trong lục đạo nữa. Biết rõ nhân biết quả như vậy nên Ngài dạy chúng ta cách tu hành thoát ly sanh tử.

Phật không bắt chúng ta nhất quyết phải tin, mà mình có quyền kiểm nghiệm lại xem điều nào đáng tin thì tin, điều nào không đáng tin thì thôi. Thứ nhất, đức Phật thấy được con người từ vô số kiếp về trước đã từng sanh nơi này, nơi kia rồi mới đến đây. Chúng ta tự kiểm lại, xem mình có mang tính cách gì của quá khứ dẫn đến hiện tại không? Như trong một gia đình cùng cha cùng mẹ sanh ra, nhưng những người con có đứa sáng suốt thông minh, có đứa lại khù khờ u tối. Hoặc có đứa đẹp, có đứa xấu v.v… không giống nhau. Tại sao lại có sự sai biệt như thế?

Đức Phật thấy biết rõ, nhưng nói ra quá tầm hiểu biết của chúng ta, có khi mình chưa dám tin. Nhưng kiểm nghiệm lại thật kỹ, rõ ràng đó là một lẽ thật, không nghi ngờ. Như tất cả người thế gian lớn lên đều nghĩ tới chuyện đôi bạn hoặc tạo dựng sự nghiệp cho khá giả… Nhưng có người lớn lên đòi đi tu. Điều này ai dạy? Cha mẹ không dạy, thầy cô giáo không dạy. Như vậy chủng tử tu trước đã có nên bây giờ không ai xúi giục, không ai bắt buộc mà tự phát nguyện đi tu. Chúng ta hiểu rồi thì biết những việc này không phải mới có, mà nó đã có từ thuở nào.

Sau khi thấy tột lý đó rồi, Phật mới dạy chúng ta làm sao trong đời này tu tạo những nghiệp lành, để khi nhắm mắt sanh vào cõi lành. Không phải chết rồi hết, đừng nghĩ lầm như vậy. Người thế gian cứ ngỡ chết là hết, nên nhiều vị còn trẻ tuổi khi gặp điều gì bức bách, không chịu nổi đòi tự tử. Vì họ ngỡ rằng tự tử là giải quyết xong việc đời này, không ngờ tự tử rồi lại càng khổ sở dai dẳng hơn đời này nữa.

Quí vị vô chùa thấy tượng Phật, tượng Tổ có hào quang phía sau đỉnh đầu. Hào quang là ánh sáng, đó là biểu hiện cho nghiệp lành tỏa ra. Những người hung ác nghiệp dữ cũng tỏa ra. Nhưng với con mắt chúng ta, khả năng giới hạn quá nên không thể thấy được. Lạ một điều, đôi khi con mèo, con chó lại có thể nhận được năng lượng tỏa ra từ những người hung ác. Chúng ta để ý sẽ thấy mấy người làm hàng thịt, khi vào xóm dù họ  không đem theo dụng cụ bắt heo bắt chó, mà chó thấy là sủa rùm hết. Chúng sủa một cách oán ghét, giận dữ, chớ không phải sủa như sủa khách bình thường. Đó là do ác nghiệp của họ tỏa ra khiến những loài cũng có nghiệp xấu nhìn thấy được.

Lời Phật dạy do Ngài tu mà thấy, đó là một lẽ thật chớ không phải lời huyễn hoặc. Ngày xưa trình độ khoa học còn thấp kém, người ta không hiểu nổi những gì Thế Tôn thấy biết và nói ra. Ngày nay khoa học từ từ có nhiều phát minh, chúng ta mới tin lời Phật nói là có thật. Sở dĩ đức Phật nói ra những điều đó là để cho chúng ta biết mà tu, chớ không phải nói ra để khoe sự thấy biết sâu rộng của Ngài.

Phật thấy chúng sanh theo nghiệp luân hồi chịu quả báo khổ vui, nên nói những bài kinh dạy về nhân quả nghiệp báo luân hồi. Nếu dứt sạch những nghiệp duyên này sẽ thoát khỏi sanh tử. Người tu phải biết không có gì xảy ra ngoài nhân quả hết. Biết được quả khổ thì truy nguyên ra nhân để phá dẹp nó. Phá dẹp được nhân rồi thì quả khổ theo đó hết.

Như vậy chúng ta tin Phật là tin qua những lẽ thật Ngài đã trình bày, tin ở sự tu hành giác ngộ viên mãn của Ngài, nên những gì đức Phật nói ra không sai lệch. Đó là niềm tin thứ nhất, tin Phật.

Thứ hai là tin pháp của Phật. Pháp của Phật dạy chúng ta tu về lý nhân quả, lý luân hồi, lý nhân duyên rất rõ ràng, rất khoa học. Như nói gieo nhân thì gặt quả. Người làm nghề nông lựa giống tốt, sửa soạn đất sạch, nước phân đầy đủ rồi gieo giống xuống. Giống tốt nên cây lúa tốt, bông lúa nặng trĩu, nhiều hạt v.v… Từ hạt giống tốt đem lại quả tốt là điều tất nhiên, không ai chối cãi được. Chúng ta không thể nói rằng, muốn trúng mùa không cần lựa giống tốt, không chăm sóc kỹ, không làm cỏ bón phân, cứ mỗi ngày ra ngoài bờ ruộng chắp tay nguyện Phật trời cho con mùa lúa trúng! Không chịu gieo giống, không chịu tạo nhân mà đòi có quả thì không bao giờ có được. Đó là lẽ thật.

Muốn được quả tốt, chúng ta phải tạo nhân tốt và những duyên phụ thuộc cũng phải tốt mới được. Từ lý nhân quả này, chúng ta xét thấy mọi việc trên thế gian không có gì xảy ra một cách bỗng dưng. Phải đi từ nhân tới quả. Nhân mình làm tốt thì quả tốt, nhân mình làm xấu thì quả xấu. Biết được nhân quả rồi, chúng ta nên ngừa đón từ nhân. Không tạo nhân xấu mà tạo nhân tốt, không tạo nhân dữ mà tạo nhân hiền. Đó là người biết tu.

Người sáng suốt chọn nhân tốt để gầy dựng cho cuộc đời mình được kết quả tốt. Chẳng những tốt trong đời này mà tốt ở đời sau nữa. Ngược lại, người không biết tu, chẳng những không chọn nhân tốt, mà còn tạo nhân xấu ác, thì quả xấu ác sẽ đến không nghi ngờ. Tất cả Phật tử hiểu rồi, y cứ theo lời Phật dạy về nhân quả mà sống cho mình, cho mọi người. Làm việc gì chúng ta cũng lấy nhân quả làm chuẩn thì lợi ích vô cùng.

Thế gian nhiều người gây nhân mà không dám lãnh quả. Ví dụ đứa bé lỡ làm bể cái chén đẹp của cha mẹ. Nó không dám nhận lỗi nên đem giấu, khi cha mẹ hỏi nó không dám chịu, nên đổ thừa người này người kia, làm rối rắm nhiều người. Chúng ta đã lỡ tạo nhân thì phải chịu quả, phải can đảm nhận lỗi của mình: Đây là lỗi của con, con lỡ như vậy, xin cha mẹ thương tha thứ cho. Biết nhận lỗi như vậy, cha mẹ nào chẳng thương yêu tha thứ, khỏi phiền hà anh em, khỏi nghi ngờ người này người nọ, có phải tốt không.

Thế nên người tin được nhân quả là người can đảm, còn người không tin nhân quả là người khiếp nhược, yếu đuối. Người hiểu được lý nhân quả cuộc sống rất an lành, rất tự tại, vì dám làm dám chịu, không bao giờ trốn tránh. Như vậy xã hội tốt đẹp biết mấy. Đó là nói về tin nhân quả.

Kế nữa, nếu tin được lý luân hồi chúng ta lại càng dè dặt hơn. Như muốn đời sau bằng và tốt hơn đời này, chúng ta phải giữ tròn năm giới: không sát sanh, không trộm cướp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu say, không hút á phiện xì ke ma túy. Giữ được năm điều đó bảo đảm đời sau trở lại làm người bằng hoặc tốt hơn đời này. Chúng ta tu là để tròn tư cách một con người tốt trong đời này và cả đời sau. Vì vậy nói tu là nói đến chuyện thực tế, chớ không phải nói chuyện viễn vong, huyền ảo. Nhiều người không hiểu cho rằng tu là tiêu cực, huyền bí. Đó là một sai lầm.

Người không sát sanh đời sau tuổi thọ dài. Không trộm cướp đời sau có của nhiều. Không tà dâm đời sau đẹp đẽ trang nghiêm. Không nói dối đời sau nói năng lưu loát, nói ra mọi người đều tin quí. Không uống rượu say, không hút á phiện xì ke ma túy đời sau sanh ra trí tuệ đầy đủ. Như vậy bảo đảm một tương lai tốt đẹp cho mình quá. Còn những kẻ không biết thì đâu có tu, nên đời sau họ sẽ khổ. Vì vậy tu nhân là điều thiết yếu.

Gia đình nào người chồng hoặc vợ không giữ tròn năm giới, gia đình đó có vui không? Trong nhà có kẻ trộm cướp hoặc say sưa, hút á phiện xì ke ma túy… Đó là họa lớn. Cho nên biết tu là đem lại hạnh phúc cho mình và an ninh trật tự cho xã hội. Nếu xóm làng nào mọi gia đình đều biết giữ năm giới thì xóm làng đó chắc chắn bình yên vô cùng, nhà khỏi đóng cửa cũng không sợ mất đồ. Cho nên tu Phật là vấn đề cần thiết cho con người mà ít ai để ý tới.

Chúng ta nhờ tin được lời Phật dạy, tức tin pháp nên ứng dụng tu, đạt kết quả thiết thực trong cuộc sống. Qua đó ta mới thấy lời Phật dạy là một lẽ thật, ứng dụng tu có kết quả tốt cho bản thân và mọi người, cho đời này và cả đời sau. Đó là nói về tin pháp.

Thứ ba là tin Tăng. Chỗ này chúng ta nên dè dặt một chút. Phật dạy đối với Tam bảo Phật, Pháp, Tăng ta phải tin trọn vẹn. Nhưng với tôi, Tăng bảo chúng ta nên tin một cách có chọn lọc. Tại sao? Bởi vì thời đức Phật còn tại thế, Ngài biết căn cơ, tâm tánh của mọi người, nên khi đi giáo hóa gặp ai có cơ duyên, Ngài dạy xong họ nhận hiểu và ứng dụng rất mau ngộ đạo. Vì vậy thời Phật trực tiếp giáo hóa Tăng Ni cũng như Phật tử được gọi là thời chánh pháp, một trăm người tu thì một trăm người ngộ đạo.

Sau khi Phật nhập Niết-bàn rồi, hàng đệ tử của Ngài, có vị chứng A-la-hán nhưng có vị chưa chứng, nên sự dạy dỗ không đúng như chỗ thấy của Phật. Do các Ngài không biết rõ căn cơ, nên pháp dành cho người này lại dạy lệch qua người khác. Điển hình như lúc Phật còn tại thế, Tôn giả A-nan đi giáo hóa có một người thợ rèn qui y với ngài. Tôn giả dạy ông pháp tu quán bất tịnh. Đến nơi khác lại có một người giữ nghĩa địa qui y với ngài, Tôn giả dạy pháp tu quán hơi thở. Hai ông tu hoài không tiến, mới than: Sao thầy dạy con tu không tiến chút nào hết! Ngài liền kể lại tự sự cho Phật nghe và xin thỉnh giáo.

Phật bảo: Tại ông dạy sai, chớ không phải tại họ tu sai. Ông phải dạy lại. Người thợ rèn nên dạy quán hơi thở, vì họ thổi ống bể phì phịch hoài, quán hơi thở sẽ nhịp nhàng với công việc, tu như thế mau tiến hơn. Người giữ nghĩa địa thường thấy thây chết, nên dạy quán bất tịnh mới có kết quả. Ngài nghe lời dạy của Thế Tôn, đem dạy lại hai vị đệ tử của mình. Quả nhiên, chẳng bao lâu cả hai đều tu có kết quả.

Như vậy mới thấy việc dạy người tu mà ta không nắm vững trình độ, căn cơ, nghề nghiệp của họ, đôi khi dạy không có kết quả. Đã không kết quả tất nhiên người tu khó đạt được đạo quả mà họ mong đợi.

Năm trăm năm sau khi Phật nhập diệt là thời Tượng pháp. Tượng là tương tợ. Hồi Phật tại thế thì trăm người tu trăm người ngộ, đến thời Tượng pháp, trăm người tu chỉ có năm chục người ngộ thôi. Rồi một ngàn năm sau khi Phật nhập Niết bàn là thời Mạt pháp. Thời này người tu chứng đạo quá ít, nên làm sao dạy đệ tử chứng được. Vì vậy một muôn người tu, may ra chỉ có một người ngộ thôi.

Từ chánh pháp một trăm người tu một trăm người ngộ, đến tượng pháp một trăm người tu năm mươi người ngộ, đến mạt pháp một muôn người tu chỉ có một người ngộ. Như vậy số người tu đông mà ngộ ít, bắt buộc chúng ta phải lựa chọn thôi. Vì vậy đối với Tăng bảo trong thời này cần chọn lọc kỹ một chút. Nhiều khi có vị truyền giới cho đệ tử, không được uống rượu mà bản thân mình lại uống hết chai này đến chai khác. Như vậy ai tin được? Buộc lòng chúng ta phải chọn lọc, không thể thấy hình thức người tu rồi nói sao tin vậy. Cho nên chúng ta phải cẩn thận. Được vậy giá trị Tăng mới còn. Nếu chúng ta dễ tin, tin bừa quá vô tình làm cho giá trị Tăng bảo ngày càng suy sụp đi. Đó là tin về Tăng.

Như vậy đối với Phật, Pháp, Tăng là ba ngôi quí báu. Phật bảo thì chúng ta không nghi ngờ, thật là quí báu tuyệt vời. Pháp bảo chúng ta cũng tin trăm phần trăm. Nhưng Tăng bảo cần phải chọn lọc. Đó là tôi nói rõ để tất cả chúng ta hiểu và tin Tam bảo.

Kế đến, ngoài tin Tam bảo Phật dạy chúng ta phải tự tin nơi mình. Dù người xuất gia hay tại gia đều phải có sức mạnh tin ở nơi mình. Tin mình là tin cái gì? Tin ta có đủ khả năng thay đổi hay là chuyển hóa những nghiệp xấu dở trở thành nghiệp hay tốt. Như trên tôi đã nói, Phật dạy chúng ta phải bỏ nhân xấu, tạo nhân tốt. Mình tin rằng mình có khả năng bỏ được những nhân xấu và cố gắng tạo được nhân tốt.

Ví dụ Phật tử lúc trước rượu chè say sưa, bây giờ qui y thọ giới rồi biết đó là nhân xấu, quyết tâm bỏ rượu để hết nghiệp nhân xấu. Tự mình quyết tâm bỏ thì bỏ được, chớ đâu ai bỏ thế cho mình được. Nếu chúng ta tin ở khả năng có thể chuyển của mình thì bỏ được các nghiệp xấu, chắc chắn như vậy. Nhờ thế Phật tử sẽ tiến bộ nhiều, sẽ tăng trưởng nhiều, nhất là tăng trưởng phần đạo đức. Ngược lại nếu không tin mình, nói đã lỡ ghiền làm sao bỏ được. Thầm nghĩ như vậy thì phải chịu ghiền suốt đời thôi. Cho nên niềm tin nơi chính mình rất quan trọng, có tính quyết định nhiều nhất trên con đường tu tập của chúng ta.

Song tự tin như vậy cũng chưa đủ, còn phải tin đặc biệt hơn nữa. Tin như thế nào? Lịch sử ghi rõ ràng đức Phật Thích-ca Mâu-ni khi đi tu, Ngài học hỏi với các tiên nhân nhưng tu không có kết quả như ý. Cuối cùng từ bỏ hết, Ngài đến ngồi dưới gốc Bồ-đề thệ rằng: “Nếu nơi này ta không thành đạo, dù xương tan thịt nát quyết không rời cội cây này”. Thệ nguyện như vậy rồi, suốt bốn mươi chín ngày đêm thiền định, tâm lóng lặng trong sạch, tự Ngài sáng ra những điều trước kia chưa từng biết.

Như vậy trí tuệ của Phật từ đâu mà có? Không ai dạy, không học gì thêm tại sao lại biết, biết quá tầm hiểu biết của thế gian. Điều đó minh chứng rằng khi tâm mình hoàn toàn thanh tịnh thì trí tuệ sáng suốt sẵn có phát ra. Trí tuệ ấy vượt ngoài tất cả trí sáng suốt thường, nên Phật gọi là vô sư trí, tự nhiên trí hay căn bản trí. Chúng ta có trí vô sư, có trí căn bản, có trí tự nhiên, nhưng không chịu khai thác nên không dùng được.

Đức Phật đã giác ngộ viên mãn nên trí tuệ của Ngài cũng viên mãn. Vì vậy những gì Phật dạy chúng ta đến bây giờ hơn hai ngàn năm vẫn không lạc hậu, không sai sót. Đức Phật là một con người, chúng ta cũng là con người, đức Phật có sẵn trí vô sư, trí tự nhiên, trí căn bản, chúng ta cũng có đầy đủ như Ngài. Quí vị có tin không? Lòng tin của chúng ta còn yếu quá. Bởi thế Phật tu giác ngộ, còn mình tu hoài không thấy giác ngộ. Nếu chúng ta vững tin, khẳng định mình cũng sẽ giác ngộ như Phật, mới mong thực hiện được nguyện vọng ấy.

Ở thế gian, các nhà khoa học hoặc bác học, khi muốn nghiên cứu một đề tài gì, họ phải dồn cả tâm lực, có khi quên cả vợ con, quên cả tắm rửa, dồn sức đi sâu trong vấn đề đang nghiên cứu. Nhờ dồn sức như vậy, qua một thời gian bỗng dưng họ sáng lên gọi là phát minh. Như vậy ai dạy họ phát minh? Tự họ sáng ra do tâm chuyên nhất, không tạp loạn. Đó là trí vô sư đã sẵn, nhưng trước kia họ lo học, lo tìm kiếm bên ngoài, lượm lặt bên ngoài nên trí ấy không thể phát ra được. Bây giờ họ trở lại chuyên tâm dồn sức để phát huy trí tuệ của mình, do đó nó phát ra. Điều này chứng tỏ chúng ta ai cũng có sẵn trí vô sư, mà bỏ quên nên không dùng được rồi tự cho mình khờ dại…

Trong kinh Phật có nói rõ: “Nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh”, nghĩa là tất cả chúng sanh đều có tánh Phật. Chữ tánh là sẵn, ai cũng có sẵn tánh giác, không riêng gì Phật. Nhưng chúng ta có mà không biết tìm cách khơi dậy, không biết tìm cách phát sáng, nên nó cứ im lìm chìm lặng. Nếu chúng ta tu đúng cũng sẽ thành Phật. Vì vậy thành Phật hay không là chuyện của mình, chớ không phải của ai. Chúng ta dám xưng là Phật tử mà không dám tin mình sẽ thành Phật thì vô lý quá. Nếu là con Phật, Ngài tu thành Phật, ta tu cũng thành Phật.

Thế mà Như Lai ngại chúng ta yếu đuối không dám nhận, nên Ngài nói thêm: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”. Như vậy tất cả chúng ta đều có chủng tử, có nhân duyên sẽ thành Phật. Người tu quyết chí đi tới giác ngộ viên mãn, chớ không phải tu để mà tu, thì nhất định sẽ thành Phật. Ngoài ra, có chỗ Phật còn nói: “Tất cả chúng sanh đã thành Phật”. Nghe câu này đa số không hiểu nổi. Nói sẽ thành Phật thì chịu, còn đã thành Phật thì lắc đầu, không chịu. Phật nói như vậy có quá đáng không? Thật ra vì y cứ trên tánh giác sẵn có từ thuở nào của chúng sanh nên Ngài nói như thế. Bây giờ chúng ta làm sao cho tánh giác hiện đủ thì thành Phật ngay thôi. Song, nếu tánh giác chưa hiện thì nó cũng đã có sẵn nơi chúng ta rồi. Vì vậy đức Phật mới nói “tất cả chúng sanh đều đã thành Phật”, tức đều đã có Phật nhân.

Ví như có người có hòn ngọc quí vô giá. Nếu lấy ra dùng thì họ sẽ thành người giàu có sang trọng. Nếu không lấy ra dùng, tuy họ mang thân nghèo khó trong hiện tại, nhưng hòn ngọc quí vẫn nằm sẵn trong túi áo, nghĩa là họ vẫn có hòn ngọc như thường. Đã có hòn ngọc thì lúc nào chẳng giàu. Tuy nhiên, dùng được thì sự giàu sang ấy hiện rõ, còn chưa dùng được thì sự giàu sang ấy tiềm ẩn, chớ không phải không giàu.

Cũng vậy Phật đã khơi dậy được tánh giác nên Ngài thành Phật, còn chúng ta có tánh giác mà chưa khơi dậy nên ông Phật của mình còn ngủ quên, chớ không phải không có. Ta cũng là Phật mà Phật ngủ. Bây giờ nếu khéo tu, khéo chuyển chúng ta sẽ thành Phật như Ngài, giác ngộ như Ngài. Đừng nghĩ mình không có khả năng, rồi tự lui sụt. Cứ ôm mặc cảm thành Phật là chuyện của Phật, còn mình là chúng sanh phàm phu xấu tệ, thì phải chịu trôi lăn trong sanh tử, không biết bao giờ mới ra khỏi.

Vấn đề là làm sao để khơi dậy tánh Phật đây? Thật ra không có gì khó hết. Như mùa mưa nước đục ngầu, ta cần nước nên xuống hồ múc nước đục đổ vô khạp. Nước này đục mãi hay sẽ trong? Tuy nước đục mới đổ vô khạp còn nhiều cáu bợn, không thể dùng được. Nhưng nếu chúng ta khéo gạn lọc, nước đục từ từ lắng xuống, nó sẽ trở thành nước trong. Nếu không lắng mà cứ quậy hoài thì nước đục sẽ không bao giờ trong. Khi nước trong rồi, ta nhìn vô thấy rõ mặt mũi mình, phải không? Chẳng những thấy mặt mình mà còn thấy những cảnh trời mây bên ngoài nữa.

Như vậy nước trong từ đâu lại? Từ nước đục chớ gì. Nước trong đã sẵn, nhưng vì hoà tan với đất bùn nên biến thành đục, nếu chúng ta khéo lóng nó sẽ trở thành trong. Tánh nước vốn trong, tại bụi đất hòa tan thành đục. Cũng vậy, tâm chúng ta sẵn có tánh giác chân thật, nhưng vì ta vọng tưởng điên đảo quá thành ra mờ tối. Bây giờ muốn hết mờ tối thì dừng hết những vọng tưởng điên đảo ấy đi, đừng quậy nó lên nữa. Đức Phật nói: “Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành”, đó là một cách an ủi thúc đẩy chúng ta tiến lên.

Có nhiều người cứ nghĩ mình đủ thứ mê muội, đủ thứ xấu xa trông gì thành Phật. Cũng như thấy nước đục quá, không biết làm sao cho nó trong nên đổ bỏ, thật đáng tiếc! Chỉ cần lắng hết cặn bả thì nước đục thành trong. Bởi tánh nó trong sẵn nên lắng nó mới trong, nếu tánh nó là đục thì lắng gì lắng, vẫn đục như thường. Hiểu như vậy mới thấy lời Phật là chân thật, mở ra một con đường cho chúng ta tu hành. Bởi vì chư Phật luôn muốn chúng sanh được giác ngộ, chớ các Ngài không muốn chúng ta chìm mãi trong luân hồi sanh tử.

Chư Tăng Ni hay Phật tử tập tu thiền, ngồi ngó xuống im lìm một hai giờ, không làm gì hết. Người ngoài thấy tu như vậy là ích kỷ, tiêu cực. Đối với thế gian một hai giờ làm ra tiền khá lắm chứ, còn ngồi ngó xuống hoài mất thì giờ, có lợi ích gì đâu? Vì vậy họ cho rằng việc tọa thiền không thích hợp. Đó là vì họ không hiểu, thật ra việc làm này rất phi thường. Tại sao? Bởi vì nơi tâm chúng ta đã sẵn có tánh giác, nhưng vì vọng tưởng điên đảo che phủ hoài. Bây giờ ta ngồi yên nhìn xem thực tướng nó là gì. Khi biết vọng tưởng chỉ là bóng dáng hư ảo, không thật ta không đắm mê chạy theo nó nữa, chúng tự lui tan. Đó là ta đang vén những áng mây mờ phủ che tánh giác xưa nay của mình. Một việc làm để giải quyết tận căn để số phận con người trong ba cõi sáu đường như vậy mà cho là vô ích, tiêu cực được sao?

Quí vị khi nào được năm ba phút không nghĩ việc này, việc nọ sẽ thấy trong đầu thảnh thơi sáng suốt vô cùng. Càng suy nghĩ càng rối rắm, càng suy nghĩ càng mờ tối, chớ không thể sáng được. Cũng như nước đục mà cứ quậy mãi thì đục hoài, không bao giờ trong được. Cũng vậy, tâm chúng ta điên đảo rối nuồi, cuồng loạn. Bây giờ phải ngồi lại nhìn nó, thấy được nó rồi tự nhiên hạn chế bớt sự cuồng loạn, bớt loạn lần lần sẽ đi đến yên định. Định rồi phát trí tuệ, nên trong nhà Phật dạy ba môn giải thoát là Giới, Định, Tuệ.

Giới để ngăn ngừa, kềm chế tiếp xúc các duyên, thì trong tâm sẽ bớt vọng tưởng. Tâm bớt vọng thì dễ yên. Cho nên người giữ giới được rồi, ngồi tu tâm dễ yên định. Tâm đã yên định thì trí tuệ chân thật hiện tiền, chớ không có gì lạ hết. Hiểu rõ như thế mới thấy việc tọa thiền rất quan trọng. Ta ngồi im lặng nhưng thật ra đang làm một việc, chuyển con người mê muội trở thành con người sáng suốt giác ngộ. Đó là chuyện phi thường chớ đâu phải thường.

Nếu chúng ta không muốn trầm luân muôn đời muôn kiếp thì phải vượt thoát vòng sanh tử. Muốn vượt ra ngoài vòng sanh tử chúng ta phải giác ngộ tròn đầy. Ngồi thiền là cố gắng nỗ lực dẹp bỏ tâm điên đảo, để được giác ngộ tròn đầy. Đây là việc làm của những con người sáng suốt lạc quan, yêu đời yêu đạo, chớ đâu phải như một số người đã hiểu sai lầm.

Tôi xin hỏi quí vị một câu: Hiện giờ trong tâm quí vị nhớ cái gì nhiều nhất? Chắc chắn là nhớ người mình thương hoặc nhớ người mình ghét nhiều nhất, phải không? Có nhiều người nói tôi thù kẻ đó nguyện không đội trời chung, tức là nhớ tới muôn kiếp. Như vậy trong lòng mình chất chứa cái thương cái ghét, cái buồn cái giận, đủ thứ hết. Những thứ đó là nhân sẽ đưa chúng ta đi trong luân hồi sanh tử, gặp lại nhau để đền trả mãi không thôi. Nếu ta cứ mặc tình cho những nhân ấy lồng lộn, làm rối rắm mình mãi thì chừng nào mới ra khỏi luân hồi sanh tử. Cho nên phải chận, phải dừng hết không cho nó phát triển nữa.

Nhà Phật gọi thương nhiều là ái, từ ái dẫn tới đời sau gặp lại nhau. Ghét nhiều là tắng, cũng là nhân dẫn tới đời sau gặp lại nhau. Muốn không gặp khổ đau bởi người thương kẻ ghét ở mai sau nữa, chúng ta phải làm sao? Thôi, đừng thèm thương ghét ai hết, bỏ hết, quên hết đi thì đời sau không gặp lại. Người đã làm khổ mình, nếu ta cứ giận hoài là nuôi lớn thêm nỗi khổ, chớ có được gì đâu. Như vậy bỏ hết lợi hơn hay ôm ấp lợi hơn? Biết bỏ là lợi, nhưng đa số chịu ôm chớ không chịu bỏ. Giữ hoài không nỡ bỏ, biết nó khổ nhưng vẫn ôm giữ nên Phật nói chúng sanh đáng thương.

Do không tỉnh giác, cứ ôm ấp những nhân đau khổ, vì vậy đời này khổ, đời sau càng khổ hơn. Thế nên Phật dạy chúng ta phải luyện lọc, chừa bỏ những niệm xấu ác để đời sau có mặt trên thế gian không gặp đau khổ, xấu ác nữa. Đó là tu. Nên nhớ chủ tạo thành nghiệp là tâm. Chúng ta ngừa đón được tâm, làm chủ được tâm rồi thì sẽ không tạo nghiệp xấu ác. Không làm chủ được tâm, gặp duyên tới sanh đủ thứ chuyện không dừng được. Bây giờ ngồi lại tu cho tâm yên tịnh là ta giành quyền làm chủ, không để tâm rối loạn, muốn nghĩ gì thì nghĩ. Người dụng công như thế, sức làm chủ không phải thường.

Thế gian chịu làm chủ người này người kia, can thiệp dạy bảo thiên hạ. Còn chính mình làm chủ mình không được. Gặp việc bất như ý giận la như điên, gặp việc thích thú thì mê man tàn tịch. Người tu Phật không thể như thế được, phải tập làm chủ ý niệm. Một niệm vừa khởi lên ta bắt nó phải dừng, được như vậy mai kia mới làm chủ được nghiệp. Làm chủ được nghiệp mới tránh khỏi những con đường luân hồi đau khổ.

Tôi nhắc lại, chúng ta là Phật tử nên có lòng tin đúng đắn về đạo Phật. Có lòng tin đúng đắn rồi, trên đường tu chúng ta mới xứng đáng là đệ tử Phật, đang tập tiến lên trên con đường giác ngộ. Quí vị nhớ hiểu ứng dụng cho đúng thì cuộc đời tu hành không tiến nhanh cũng tiến chậm, chớ không bao giờ dừng ở một chỗ. Ngược lại nếu cứ đi sai hoài, chẳng những không được tiến mà có thể còn bị lạc lối nữa.

Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi. Đừng đi sai, đừng đi lệch uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không? Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian làm lem luốc, phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.


HT THÍCH THANH T