---------- Forwarded message ----------
From: Ton That Son [Nuoc_VIET]
Date: 2016-02-13 16:51 GMT-05:00
Subject: [Nuoc_VIET] Chớ tin lời các giáo phẩm tôn giáo bịa đặt gạt gẫm thế gian u mê.
Chúa chết - Phật chết - Ai ai cũng phải chết - Cầu Chúa Cầu Phật có được gì đâu ?
NÊN LO TU TÂM CHUYỂN TÁNH
To:
Cc: "VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA"
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
From: Ton That Son
Date: 2016-02-13 16:51 GMT-05:00
Subject: [Nuoc_VIET] Chớ tin lời các giáo phẩm tôn giáo bịa đặt gạt gẫm thế gian u mê.
Chúa chết - Phật chết - Ai ai cũng phải chết - Cầu Chúa Cầu Phật có được gì đâu ?
NÊN LO TU TÂM CHUYỂN TÁNH
To:
Cc: "VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA"
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
On Saturday, February 13, 2016 10:06 PM, VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
[truongvobiquocgiavietnam]
wrote:
Chớ tin lời các giáo phẩm tôn giáo bịa đặt gạt gẫm thế gian u mê.
On Saturday, February 13, 2016 3:53 PM,
[diendan_songvui]
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Chớ tin lời các giáo phẩm tôn giáo bịa đặt gạt gẫm thế gian u mê.
Chúa chết - Phật chết - Ai ai cũng phải chết - Cầu Chúa Cầu Phật có được gì đâu ?
NÊN LO TU TÂM CHUYỂN TÁNH
Ngày nay, con người đã hiểu được là nước bốc hơi thành mây, mây tụ lại thành mưa. Khi mưa có thể có sấm sét, do các luồng điện chạm nhau trên không trung. Ðó là bài khoa học thường thức đã và đang được dạy ở bực tiểu học từ bao lâu nay. Mưa có ở trong đất liền, mưa có ở trên rừng núi, mưa có ở ngoài biển khơi. Mưa do đủ "nhân duyên" mà có. Mưa không vì thương người dân làm ruộng đang cần nước tưới, mưa không vì ghét dân đô thị muốn được khô ráo sạch sẽ, mưa không vì thương hay ghét một ai, mưa không do trời nào làm ra cả. Thậm chí, từ lâu nay các khoa học gia còn có thể làm được mưa nhân tạo. Có đủ "nhân duyên" thì có mưa. Chỉ có con người khôn ngoan biết dùng nước mưa để làm ruộng, hứng nước mưa để làm nước uống.
Thực ra khi nghiệp quả, nghiệp báo, quả báo đến ngày giờ phải lãnh, phải gánh chịu, dù con người có chạy lên non, lên núi, chui vào hang, trốn trong nhà, ra ngoài đường, xuống dưới biển, bất cứ đi đến đâu, cũng không thể nào tránh được. Nghiệp quả, nghiệp báo, hay quả báo, cũng như phước báo, do con người tạo ra và theo con người từ kiếp này sang kiếp khác như hình với bóng vậy. Chúng ta cũng đã thấy có những người xông pha ngoài chiến trận, hiểm nguy vô cùng, giữa lằn tên mũi đạn, nhưng không hề hấn gì. Ðến khi nằm ở trong nhà, lại tử thương vì đạn pháo kích!
NÊN LO TU TÂM CHUYỂN TÁNH
- HỎI: - Thưa Thầy, có người nói: Tôi đã chứng kiến nhiều Phép Lạ và dám cam đoan
điều đó ! Tuy nhiên,
người này không nói rõ Phép Lạ đó xảy ra ở đâu và như thế nào? Tuyên truyền
Phép Lạ có đáng tin hay không?
- ĐÁP: - Đó chỉ là lối nói gạt gẫm con nít, phỉnh lừa những kẻ nặng đức tin u mê, thiếu lý trí, hay những kẻ tâm thần. Việc gì không giải thích được thì cho đó là ý của thượng đế toàn năng. Chuyện phép lạ chết đi sống lại, cả hồn lẫn xác bay lên trời, ngôi mộ trống trơn, thật là hoang tưởng, con nít cũng không tin, chỉ có kẻ khùng điên mới tin. Chuyện phép lạ lạy tượng phật ngọc hay tắm sông suối có thần tiên đức mẹ hiện ra, người đui què, kẻ bại liệt ngồi xe lăn cũng sáng mắt, đứng lên chạy bộ được, người bệnh hết bệnh, người sắp chết sống lại và khoẻ mạnh, nhờ chúa xót thương, thật là hoang đường, chỉ có kẻ tâm thần mới tin. Chuyện chúa toàn năng để ban phước và trừng phạt là chuyện tào lao. Giáo hoàng hay hồng y, giám mục, linh mục sống trong khả năng bảo hộ của chúa toàn năng, cũng sợ sẽ chết, sợ bị ám chết, sợ xe đụng chết, phải nhờ bác sĩ bệnh viện cứu chữa. Hai đội quân thù nghịch, hai đội bóng tranh giải, đều cầu chúa trời ban ơn giúp đỡ, chúa trời giúp bên nào?
Tóm lại, Vua chết, Chúa chết, Phật chết, thần thánh hay con người ai cũng chết. Chỉ có con người biết tu tâm chuyển tánh, sống đời lương thiện, cứu người giúp đời, tu nhân tích đức, tạo phước làm phước, thì cuộc sống hạnh phúc, khi chết bình an, không cần Chúa thương, không cần Phật cứu. Nên hiểu: chỉ có PHƯỚC BÁU, do chính con người tạo ra, cứu con người tai qua nạn khỏi mà thôi. Khi hết số vẫn phải chết, như Chúa chết Phật chết hay bất cứ thánh nhân nào cũng đã chết. Chớ tin lời các giáo phẩm tôn giáo bịa đặt gạt gẫm thế gian u mê.
- ĐÁP: - Đó chỉ là lối nói gạt gẫm con nít, phỉnh lừa những kẻ nặng đức tin u mê, thiếu lý trí, hay những kẻ tâm thần. Việc gì không giải thích được thì cho đó là ý của thượng đế toàn năng. Chuyện phép lạ chết đi sống lại, cả hồn lẫn xác bay lên trời, ngôi mộ trống trơn, thật là hoang tưởng, con nít cũng không tin, chỉ có kẻ khùng điên mới tin. Chuyện phép lạ lạy tượng phật ngọc hay tắm sông suối có thần tiên đức mẹ hiện ra, người đui què, kẻ bại liệt ngồi xe lăn cũng sáng mắt, đứng lên chạy bộ được, người bệnh hết bệnh, người sắp chết sống lại và khoẻ mạnh, nhờ chúa xót thương, thật là hoang đường, chỉ có kẻ tâm thần mới tin. Chuyện chúa toàn năng để ban phước và trừng phạt là chuyện tào lao. Giáo hoàng hay hồng y, giám mục, linh mục sống trong khả năng bảo hộ của chúa toàn năng, cũng sợ sẽ chết, sợ bị ám chết, sợ xe đụng chết, phải nhờ bác sĩ bệnh viện cứu chữa. Hai đội quân thù nghịch, hai đội bóng tranh giải, đều cầu chúa trời ban ơn giúp đỡ, chúa trời giúp bên nào?
Tóm lại, Vua chết, Chúa chết, Phật chết, thần thánh hay con người ai cũng chết. Chỉ có con người biết tu tâm chuyển tánh, sống đời lương thiện, cứu người giúp đời, tu nhân tích đức, tạo phước làm phước, thì cuộc sống hạnh phúc, khi chết bình an, không cần Chúa thương, không cần Phật cứu. Nên hiểu: chỉ có PHƯỚC BÁU, do chính con người tạo ra, cứu con người tai qua nạn khỏi mà thôi. Khi hết số vẫn phải chết, như Chúa chết Phật chết hay bất cứ thánh nhân nào cũng đã chết. Chớ tin lời các giáo phẩm tôn giáo bịa đặt gạt gẫm thế gian u mê.
Kính mời quí vị đọc bài viết sau đây:
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ ĐÂU?
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
VP. Phật-Học Tịnh-Quang Canada
CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ ĐÂU?
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
VP. Phật-Học Tịnh-Quang Canada
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
Trời
ơi, tại sao tôi khổ quá vậy nè? Tôi ăn hiền ở lành, tôi cầu xin van vái hoài,
tại sao trời không giúp đỡ gì hết? Còn cái bà hàng xóm gian ác, chưa bao giờ
cầu xin gì cả, mà trời lại giúp bà ta được buôn may bán đắt, gia đình hạnh
phúc, con cái đỗ đạt? Tại sao lại có chuyện bất công quá vậy, hả trời?
Trong
đời sống hằng ngày, không nhiều thì ít, chúng ta đã từng nghe qua những câu
than thở, trách móc "trời" như
vậy, do những người chung quanh nói ra miệng, hoặc cũng có lúc do chính chúng
ta nghĩ thầm như vậy trong bụng. Khi gặp chuyện không may trong cuộc sống, hay
gặp nghịch cảnh trong cuộc đời, hầu như mọi người đều kêu "trời" cứu giúp, nếu như người
đó không theo tôn giáo nào. Hoặc là van xin, khấn vái, cầu nguyện "đấng thiêng liêng" cứu độ, cứu rỗi,
cứu vớt, phù hộ, độ trì cho được tai qua nạn khỏi.
Trên
thực tế, có những người cầu nguyện được tai qua nạn khỏi, có những khi cầu
nguyện được tai qua nạn khỏi. Nhưng có biết bao nhiêu người cầu nguyện, không
được tai qua nạn khỏi, biết bao nhiêu khi cầu nguyện, không được tai qua nạn
khỏi. Những lúc cầu nguyện nhưng không được tai qua nạn khỏi, con người bèn tự
an ủi, hoặc nghe người khác giải thích là: Tại vì cầu nguyện chưa khẩn thiết
lắm, chưa chí tâm chí thành lắm, hoặc là lúc đó trời bận đi cứu giúp người
khác, cho nên không nghe lời van vái, lời nguyện cầu của mình. Lời giải thích có tính cách tiêu cực như vậy, thực tế
chẳng giúp ích gì cho cuộc sống tâm linh của con người. Cầu
nguyện hay van xin chỉ giúp con người cảm thấy được bình an trong nhứt thời đau
khổ mà thôi, chứ không giúp con người thực sự giảm bớt hay thoát ly được phiền
não và khổ đau. Cũng giống như miếng thuốc cao dán, chỉ trị được phần ngoài da,
chứ không dứt trừ được căn bệnh trầm kha. Cuộc sống của con người cứ quanh đi
quẩn lại những chuyện đau khổ khổ đau như vậy nhiều đời nhiều kiếp, không có
lối thoát.Tại sao
vậy? Muốn có câu trả lời chính xác, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu:
"Nguyên nhân nào thực sự gây ra những sự khổ đau trên thế gian này?".
Thực
sự, nguyên nhân của những chuyện khổ đau đau khổ trên thế gian này, không phải
do "trời" nào gây ra cả, mà
chỉ vì con người quá ích kỷ, thường hay suy nghĩ đến
"cái ta" hay "cái bản ngã" quá nhiều.
Chuyện gì có lợi cho mình, cho vợ chồng mình, cho con cái mình, cho gia đình
mình, cho dòng họ mình, cho tổ chức mình, cho tôn giáo mình, cho dân tộc mình,
cho quốc gia mình thì được, bằng như ngược lại thì dứt khoát là không được! Bất
cứ chuyện gì xảy ra trên đời nầy, con người cũng đều nghĩ là "vì mình, cho mình". Chẳng hạn như trời
nắng tốt là để cho mình, gia đình mình, bạn bè mình và hội đoàn mình đi chơi
vui vẻ! Trời mưa lớn là để cho mình khỏi tốn tiền rửa xe! Ra đường gặp đám
tang, cho là người ta xui xẻo thì mình gặp hên! Hoa quỳnh nở trong nhà mình cho
là điềm may mắn, điềm tài lộc đến với mình, đến với gia đình mình! Sở công
chánh thấy gia đình mình dọn nhà tới khu vực nầy, liền mở con đường mới băng
ngang khu đất trống để cho mình đi làm tiện lợi hơn trước! Từ hồi dân mình qua
Canada nhiều, trời thương dân mình, nên thời tiết cũng ấm áp hơn trước! Cái gì cũng đều nghĩ là "vì mình, cho mình"
trước tiên hết trơn!
Con
người có sự suy nghĩ như vậy cho nên đau khổ lại hoàn khổ đau! Chính vì con
người có tâm ích kỷ như vậy, cho nên gây phiền não và khổ đau cho mọi người
chung quanh, có liên hệ với họ về phương diện gia đình hay xã hội. Không có
trời nào có thể giúp con người được hết khổ đau, nếu chính con người không chịu
từ bỏ lề lối suy nghĩ như vậy. Thậm chí ngay trong gia đình, nếu người vợ hay
người chồng có nếp suy nghĩ ích kỷ, cái gì cũng "vì
mình, cho mình" trước tiên như vậy, thì gia đình đó khó có hạnh
phúc được. Nếu người con nào cũng chỉ biết suy nghĩ cho chính bản thân mình mà
thôi, thì người con đó rất dễ bất mãn với cha mẹ và anh chị em trong gia đình.
Cái gì cũng đòi hỏi phần tốt, phần hơn, phần lợi cho mình, không cần đếm xỉa gì
đến những người chung quanh, dù là ruột thịt, thì làm sao có thể sống chung với
người khác được? Nhẹ thì bất hòa, gây gổ triền miên trong gia đạo. Nặng hơn thì
bỏ nhà ra đi, hoặc gây đau khổ cho những người thân thuộc, nhưng vì mê muội,
lại xem như kẻ thù.
Còn
đối với mọi người khác ngoài gia đình, các con người có tâm ích kỷ như vậy, lúc
nào cũng nghĩ đến mình, vì mình, cho mình, thường dễ trở nên gian ác đối với
đồng chủng, đồng loại, tàn nhẫn đối với đồng bào,
đồng hương, hay đồng đạo. Những con người như vậy chỉ biết có đồng
tiền mà thôi. Chẳng hạn như vì muốn được hưởng lợi nhiều, ở không lãnh tiền,
cho nên con người sẵn sàng vu oan giá họa cho người khác, kiện tụng người khác
đòi bồi thường thiệt hại tưởng tượng do họ tự tạo dựng ra, mặc kệ người khác
đau khổ thế nào, gia đình của người khác ra sao cũng mặc kệ. Miễn là họ thắng
kiện dù phải dùng đủ mọi thủ đoạn để hại người lợi mình. Những người như vậy
lại thường hay nói chuyện nhân nghĩa, phải quấy, nhưng họ nhìn ai cũng thấy
quấy, chỉ có họ là phải, nhìn ai cũng thấy nguy hiểm đáng ghét, chỉ có họ là
hiền từ dễ thương!
Trong
thời đại văn minh, khoa học tiến bộ hiện nay, những sự tin tưởng nơi trời, như
là một đấng đầy quyền lực, một đấng toàn năng, một đấng sáng tạo ra muôn loài,
một đấng có quyền thưởng phạt tùy ý, đã và đang dần dần tan biến, không nhiều
người còn tin như thế. Chẳng hạn trước kia, con người tin tưởng có thần sấm
sét, thần sông, thần núi, thần nước, thần gió, thần mưa, rồi đặt tên là: thiên
lôi, hà bá, sơn thần, thủy thần, phong thần, vũ thần. Thực ra đó chỉ là sản
phẩm của trí tưởng tượng của con người trong sách vở truyện mà thôi. Những người yếu bóng vía, yếu tim, yếu gan, nhẹ dạ, ngây thơ,
lại tưởng là thiệt
Ngày nay, con người đã hiểu được là nước bốc hơi thành mây, mây tụ lại thành mưa. Khi mưa có thể có sấm sét, do các luồng điện chạm nhau trên không trung. Ðó là bài khoa học thường thức đã và đang được dạy ở bực tiểu học từ bao lâu nay. Mưa có ở trong đất liền, mưa có ở trên rừng núi, mưa có ở ngoài biển khơi. Mưa do đủ "nhân duyên" mà có. Mưa không vì thương người dân làm ruộng đang cần nước tưới, mưa không vì ghét dân đô thị muốn được khô ráo sạch sẽ, mưa không vì thương hay ghét một ai, mưa không do trời nào làm ra cả. Thậm chí, từ lâu nay các khoa học gia còn có thể làm được mưa nhân tạo. Có đủ "nhân duyên" thì có mưa. Chỉ có con người khôn ngoan biết dùng nước mưa để làm ruộng, hứng nước mưa để làm nước uống.
Ai ai cũng biết rõ ràng hột cam là "nhân" sinh ra cây cam
và cây cam sinh ra "quả" cam. Luật nhân quả đã quá rõ ràng như vậy. Khoa học cũng đã công nhận như vậy.
Thế mà cho đến ngày nay, vẫn còn có người không chịu tin, lại thích tin tưởng
những chuyện linh thiêng huyền bí, càng mơ hồ khó hiểu, khó giải thích chừng
nào, lại càng tin nhiều chừng ấy! Nếu con người chịu khó suy tư sâu rộng hơn
một chút, thì sẽ không còn những lời oán than trách móc trời như trước đây nữa.
Hể đã có "nguyên nhân", cộng thêm "trợ duyên" đầy đủ thì
chắc chắn sẽ có "kết quả hay hậu quả". Thí dụ như hột cam là nguyên
nhân chính, cộng thêm trợ duyên như đất tốt, nước tưới, phân bón, công người
chăm sóc, kỹ thuật trồng trọt thì kết quả sẽ là cây cam và quả cam.
Luật nhân quả
không chỉ áp dụng cho riêng một ai, cho riêng một sắc dân nào, cho riêng tín đồ
của một tôn giáo nào cả. Luật nhân quả là một lẽ
thực, là chân lý, không lệ thuộc thời gian hay không gian, luôn luôn
áp dụng, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào. Sách vở có nói về luật nhân quả như
các câu sau: cây nào sinh quả nấy, có lửa mới có
khói, gieo gió thì gặt bão, sinh sự thì sự sinh. Về phương diện tâm
linh, về phương diện tinh thần, những việc con người tạo tác, những việc con
người nói ra, những việc con người suy nghĩ, từ thân khẩu ý, chính là những
nguyên nhân, gây ra những kết quả hay hậu quả, mà con người sẽ thừa hưởng, sẽ
nhận lấy, hay sẽ gánh chịu.
Chẳng
hạn như câu: "Gieo nhân nào, gặt quả nấy".
Thí dụ như khi còn nhỏ chăm học, lớn lên cố gắng làm việc và biết
tiết kiệm là các nguyên nhân. Kết quả là đời sống vật chất sau nầy khá giả,
sung túc. Nghiện ngập, rượu chè, say mê cờ bạc
là các nguyên nhân, hậu quả là sự tán gia bại sản về sau. Tham tiền, tham sắc,
tham danh, tham ăn, tham ngủ là các nguyên nhân của những việc làm sai trái,
xấu xa, độc ác, bất chấp thủ đoạn, chẳng những gây đau khổ cho chính mình, còn
gây khổ đau cho thân nhân và cho những người chung quanh nữa. Những cơn nóng
giận không tự kềm chế được là nguyên nhân của
những thất bại, khổ đau, hối hận sau nầy.
Sách có câu: "Nhất niệm sân tâm khởi, bách vạn chướng môn
khai".
Nghĩa
là một khi tâm niệm tức giận, sân hận khởi lên mà chúng ta không tự kềm chế,
không tự khắc phục được, thì biết bao nhiêu, trăm ngàn vạn chuyện khó khăn, đau
khổ, chướng ngại tiếp nối theo sau đó. Những giây phút nóng giận ngu si, lầm
lẫn là nguyên nhân của những sự hối tiếc, đau khổ sau đó, có khi kéo dài triền
miên suốt cả cuộc đời. Những sự cố gắng tu tâm
dưỡng tánh, tìm học để hiểu ra chân lý là các nguyên nhân đem lại
kết quả là đời sống an lạc và hạnh phúc ngay tại thế gian này cho mình và cho
những người chung quanh. Như vậy, nếu con người hiện đang sống khỏe mạnh, làm
ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc, con cái nên thân, đó là đang thụ hưởng "kết quả" của phước báo nhiều đời nhiều
kiếp trước, do chính mình tạo tác, chứ không do trời nào ban phước cho hết,
cũng không do cầu nguyện van xin, nhắc nhở kêu gào mà được, nếu như mình không
thực sự xứng đáng được thụ hưởng những điều tốt đẹp đó. Còn nếu như con người
hiện đang gặp nghịch cảnh, gặp khổ đau, đó là đang gánh chịu "hậu quả" của nghiệp báo nhiều đời
nhiều kiếp trước, do chính mình tạo tác, chứ không do trời nào giáng họa cho
hết, cũng không do cầu nguyện van xin, rên la thảm thiết, mà tránh khỏi được.
Trời,
nếu là đấng chí công vô tư, tại sao lại có lòng thương ghét, ban phước giáng
họa tùy tiện, theo lời van xin cầu nguyện được? Trời, nếu là đấng linh thiêng,
tại sao lại để cho tội ác xảy ra, rồi mới giáng họa trừng phạt? Trời, nếu là
đấng toàn quyền, tại sao lại không chịu ngăn ngừa, ngăn chận trước các tội ác
trên thế gian? Trời, nếu là đấng vạn năng, tại sao lại chịu thua loài yêu ma
quỉ quái, chỉ biết hành phạt loài người? Trời, nếu là đấng đầy lòng bác ái, tại
sao lại sáng tạo ra cuộc đời đầy đau khổ cho nhân loại: bệnh tật, thiên tai,
hạn hán, bão lụt? Hiểu được lý lẽ này, biết rõ
ràng "trời" không có thực, chỉ là sản phẩm tưởng tượng của con người
mà thôi. Hiểu thấu đáo tường tận sự công bằng của luật nhân quả, con người sẽ
giảm bớt khổ đau, sẽ không còn "than trời trách đất" nữa. Trái
lại, con người sẽ không còn bi quan yếu đuối, sẽ mạnh mẽ hơn, can đảm hơn, mạnh
dạn hơn, dám nhận lãnh "hậu quả" do
chính mình tạo tác, hay an nhiên thụ hưởng "kết
quả" do chính mình tạo tác và tiếp tục làm những việc thiện để
có phước báo, tránh những việc bất thiện để tránh nghiệp báo, quả báo.
Thực
ra, chỉ có những phước báo do tạo tác việc phước
thiện là có thể giúp con người được "tai qua nạn khỏi" mà thôi, không
có trời nào làm chuyện bất công bằng, đến giúp đỡ mình theo lời van
xin, cầu nguyện cả. Vì thế cho nên, thay vì cầu nguyện, van vái trời, con người
hãy tích phước, tạo phước, bằng cách làm các việc thiện, nói các lời thiện,
nghĩ các điều thiện, tức là giữ gìn ba nghiệp thân khẩu ý được thanh tịnh. Làm
được như vậy, nhưng cũng đừng chấp rằng mình đã làm được bao nhiêu việc thiện,
để giữ gìn tâm ý luôn luôn trong sáng và yên tĩnh, là chúng ta đang giảm thiểu
nghiệp báo đã tạo, bớt phiền não và khổ đau của đời mình một cách tích cực vậy.
Chúng ta thử xét thí dụ:
Nếu
một người bị bắt buộc phải ăn một nắm muối thì quả thực là khó khăn và đau khổ.
Nhưng nếu người đó có thể bỏ nắm muối vào trong tô nước rồi uống, thì có lẽ dễ
chịu được một chút. Nếu người đó có thể bỏ nắm muối vào trong lu nước rồi uống,
thì sẽ dễ chịu hơn chút nữa. Nếu người đó có thể bỏ nắm muối vào trong hồ nước
lớn rồi uống, thì chuyện sẽ không còn thành vấn đề lớn nữa.
Nắm
muối kia tượng trưng cho những nguyên nhân tội lỗi, những nghiệp nhân bất thiện
do chính mình đã tạo tác trước đây, bây giờ phải gánh nghiệp quả, phải chịu
nghiệp báo, phải lãnh quả báo, không thể né tránh được, không thể đổ trút cho
trời nhờ chuộc tội thế cho mình được, hay là nhờ các vị đại diện trời tuyên bố
tha tội cho là hết sạch được đâu! Còn tô nước, lu nước hay hồ nước tượng trưng
cho phước báo ít hay nhiều có được từ những nguyên nhân phước thiện do chính
mình đã tạo tác trước đây, bây giờ có thể thụ hưởng kết quả tốt đẹp. Nhờ có
phước báo hóa giải được ít nhiều những nghiệp quả, nghiệp báo, quả báo phải
gánh chịu.
Chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chính là nghĩa đó vậy.
Người đời thường nói: "Con người hại thì còn tránh được. Trời
hại thì khỏi tránh!".
Sách cũng có các câu: "Chạy đàng trời không khỏi nắng", hay:
"Lưới trời lồng lộng, tuy thưa mà không lọt".
Chữ
"trời" trong các câu nói này nên được hiểu là nghiệp quả, hay nghiệp
báo, nói chung là "quả báo",
theo quan điểm của Phật giáo, chứ đâu có trời nào lại nỡ lòng hại con người
khơi khơi, vô cớ, vô lý, vô lẽ như vậy.
Thực ra khi nghiệp quả, nghiệp báo, quả báo đến ngày giờ phải lãnh, phải gánh chịu, dù con người có chạy lên non, lên núi, chui vào hang, trốn trong nhà, ra ngoài đường, xuống dưới biển, bất cứ đi đến đâu, cũng không thể nào tránh được. Nghiệp quả, nghiệp báo, hay quả báo, cũng như phước báo, do con người tạo ra và theo con người từ kiếp này sang kiếp khác như hình với bóng vậy. Chúng ta cũng đã thấy có những người xông pha ngoài chiến trận, hiểm nguy vô cùng, giữa lằn tên mũi đạn, nhưng không hề hấn gì. Ðến khi nằm ở trong nhà, lại tử thương vì đạn pháo kích!
Chúng ta thử xét thí dụ khác:
Một
cục sỏi rớt xuống nước sẽ chìm lĩm ngay. Nếu cục sỏi đó được đặt trên một chiếc
xuồng, dù nhỏ và bằng giấy, thì cục sỏi đó cũng không chìm được. Cũng như một
người gây tội, mà không có phước báo, sẽ lãnh đủ hậu quả, quả báo, nghiệp báo.
Nhưng nếu người đó có phước báo, do
đã tạo tác nhiều việc phước thiện trước đây, thì tội nghiệp sẽ được giảm khinh.
Một chiếc máy bay rớt xuống biển sẽ chìm ngay. Nhưng một chiếc hàng không mẫu
hạm có khả năng chuyên chở được hàng trăm, hàng ngàn chiếc máy bay, vượt qua
biển lớn. Theo luật pháp trên thế gian này cũng vậy, người nào gây tội sẽ phải
đền tội tương xứng. Nhưng người nào có làm công lao gì đó, tội nghiệp sẽ được
giảm khinh. Sách có câu: "Lấy công chuộc
tội" hay "Ðoái công chuộc tội", chính là nghĩa đó. Ðó mới thực
sự gọi là công bằng vậy.
Tóm lại,
qua những tư duy chân chính này, chúng ta hiểu ra rằng cuộc đời dù có khổ đau,
cay đắng, nhưng không vì thế mà bi quan chán đời,
không tiêu cực, yếu đuối, van xin, cầu nguyện "ông Trời"
do chính mình tưởng tượng ra, để tự dối mình, chính vì muốn chạy tội, muốn
tránh né nghiệp quả, nghiệp báo, hay quả báo do chính chúng ta tạo tác. Trái
lại, tinh thần của chúng ta sẽ mạnh mẽ hơn, tích cực hơn trong cuộc sống hằng
ngày.
Chúng
ta nhứt định làm tất cả việc phước thiện, dù lớn dù nhỏ, quyết tâm tránh tất cả
việc bất thiện, dù nhỏ dù lớn. Chúng ta luôn luôn
kiếm cách tìm dịp, giúp người giúp đời, trong phạm vi khả năng của mình, để cố
gắng đem lại an lạc và hạnh phúc cho chính mình và cho những người chung quanh.
Chúng ta luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, không bao giờ bận tâm nhớ nghĩ đến
các việc phước thiện đã làm.
Hiểu
được như vậy, làm được như vậy, chắc chắn cuộc đời của chúng ta sẽ giảm bớt khổ
đau, tâm tư của chúng ta sẽ giảm bớt phiền não, tinh thần được khinh an, trí óc
được thanh thản và những người chung quanh chúng ta chắc chắn cũng sẽ cảm nhận
được niềm an lạc hạnh phúc cùng với chúng ta vậy.
Do đó, cuộc đời vui tươi và đẹp đẽ, an lạc và hạnh phúc, cửa
thiên đàng cõi cực lạc rộng mở kể từ đây.
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
Kính mời viếng thăm
Ý NGHĨA CỦA
PHƯỚC BÁU
TK Thích Chân Tuệ
Trong cuộc sống hằng ngày chúng ta thường nghe nói: Người này "có
phước" quá, cho nên mới được vừa giàu sang, vừa học giỏi, vừa đẹp đẽ, vừa
mạnh khỏe, vừa may mắn, cầu con được con, cầu của được của, vạn sự như ý, tùy
tâm mãn nguyện. Hoặc cũng có khi chúng ta nghe nói: Người này "bạc
phước" quá, cho nên làm chuyện gì cũng thua lỗ, tính toán việc gì cũng
hỏng, muốn gì cũng không nên, cầu gì cũng chẳng được, tai họa xảy ra tới tấp,
gặp xui xẻo liên miên! Khi được may mắn, khi được sung sướng, khi được những sự
như ý, khi được tất cả những điều gọi là "có phước", người đời thường
nghĩ rằng, cho rằng: mình có phước báu như vậy là do trời thương, trời ban cho
mình! Những người đó không chịu tìm hiểu thêm: Tại sao ông trời lại thương mình
và ban cho mình phước báu như vậy, mà không ban cho biết bao nhiêu người khác?
Như vậy có phải là bất công chăng? Như vậy có đúng chăng? Tại sao con người lại
có ý nghĩ như vậy?
Sở dĩ con người có ý nghĩ như vậy là do tâm ích kỷ nhiều đời, do
tập khí tham lam bỏn sẻn, do tánh ganh tị đố kỵ mà ra. Con người khi được sung
sướng, thì mặc kệ người khác ra sao, chẳng bận tâm đoái hoài, đó là tâm ích kỷ.
Con người khi được toại nguyện, muốn gì được nấy, thì mặc kệ người khác ra sao,
thậm chí trong lòng còn chẳng muốn ai khác được như vậy, đó là tập khí tham lam
bỏn sẻn. Con người khi được thành công thắng lợi, thì mặc kệ người khác ra sao,
chẳng muốn ai khác bằng mình hay hơn mình, đó là tánh ganh tị đố kỵ vậy.
Thực ra, không có ông trời, thượng đế, hay đấng tạo hóa nào làm
những chuyện bất công, thiên vị như vậy. Những "phước báu"
chúng ta đã hưởng, đang hưởng, và sẽ hưởng, chính do chúng ta đã tạo trong
nhiều kiếp trước và ngay trong kiếp này. "Mình làm mình chịu, mình làm
mình hưởng" mới là lẽ công bằng tuyệt đối vậy. Cũng không ít người thắc
mắc: Làm sao biết mình "có phước" hay không? Làm sao để tạo phước?
Ðồng thời chúng ta cũng cần nên biết: thế nào là phước hữu lậu và thế nào là
phước vô lậu? Và khi làm phước giúp đỡ ai điều gì, mình nên nguyện như thế nào?
* * *
Trên thế gian này, nếu ngước nhìn lên chúng ta sẽ thấy không
biết bao nhiêu người giàu sang hơn mình, học thức hơn mình, khỏe mạnh hơn mình,
sung sướng hơn mình, đẹp đẽ hơn mình, địa vị hơn mình, quyền thế hơn mình, may
mắn hơn mình, nhàn nhã hơn mình, bình yên hơn mình, thông minh hơn mình, sáng
suốt hơn mình, nhứt là không biết bao nhiêu người tu tập giác ngộ hơn mình,
được an lạc và hạnh phúc hơn mình. Những người như vậy chính là những người
"có phước" hơn mình. Trái lại, khi nhìn xuống chúng ta sẽ thấy
không biết bao nhiêu người nghèo hèn hơn mình, dốt nát hơn mình, yếu đuối hơn
mình, khổ sở hơn mình, xấu xí hơn mình, thấp kém hơn mình, cô thế hơn mình, xui
xẻo hơn mình, cực khổ hơn mình, hoạn nạn hơn mình, đần độn hơn mình, tối tăm
hơn mình, nhứt là không biết bao nhiêu người không được sống an lạc và hạnh
phúc như mình. Những người như vậy chính là những người "bạc phước"
hơn mình.
Như vậy, rõ ràng chúng ta được gọi là "có phước",
hay đang thọ hưởng "phước báo", nếu như chúng ta có đủ tay
chân, mắt mũi vẹn toàn, cơm ăn áo mặc, khỏe mạnh ít đau, sống lâu trăm tuổi,
tâm trí bình thường, gia đình hạnh phúc, cuộc sống tương đối đầy đủ, cuộc đời
tương đối bình yên, không gặp hoạn nạn, không gặp hiểm nguy, không gặp tai
biến, không gặp chiến tranh, không gặp đói khát, không gặp kẻ thù, không gặp
thiên tai, hỏa hoạn động đất, bão lụt cuồng phong. Khi nào bị đau mắt, không
còn nhìn thấy được gì nữa cả, chúng ta mới thấy giá trị của đôi mắt, giá trị
của thị giác, mà hằng ngày chúng ta không lưu tâm. Ðến khi gặp thầy gặp thuốc,
được chữa lành bệnh, đôi mắt trở lại như xưa, chúng ta mới thấy là mình đang
"có phước"! Hoặc khi nào bị bệnh bại xuội cả hai chân, không còn đi
đứng được bình thường, phải dùng xe lăn. Ðến khi khỏi bệnh, được bình phục như
xưa, chúng ta mới thấy là mình đang "có phước"!
Thí dụ như trên một chuyến máy bay, một chuyến tàu thủy hay một
chuyến xe lửa gặp tai nạn, hằng trăm người thương tích tử vong, những người
được sống sót chính là những người "đại phước" vậy. Họ là những người
theo đủ mọi tôn giáo, thuộc đủ mọi sắc dân, thuộc đủ mọi thành phần trong xã
hội, gồm đủ mọi lứa tuổi, nhưng điểm quan trọng là: chính họ đã "tu nhơn
tích phước" nhiều đời nhiều kiếp trước, mới được sống còn như vậy, chứ
không phải do họ cầu nguyện van xin thánh thần thiên địa gì cả, dù là chí thành
và khẩn thiết lắm, trong lúc ngộ nạn, mà được đâu!
Chúng ta thử suy nghĩ: trong khi lâm nạn, người thì cầu Ðức Mẹ
cứu giúp, người thì cầu Bồ Tát Quán Âm cứu tai, cứu khổ, cứu nạn. Vậy, khi cả
hai người cùng thoát được nạn, vị nào thực sự đã tế độ họ? Thực sự chính
"phước báo" của mỗi người đã cứu chính họ mà thôi. Người có
"phước báo" nhiều hơn, thoát nạn một cách an ổn hơn. Người có
"phước báo" ít hơn, thoát nạn với một chút xây xát. Người hết phước
báo, không phước báo, thì đã vong mạng!
Thậm chí trong số những người tử vong trong các tai nạn, nhiều
trường hợp có cả các chức sắc thuộc các tôn giáo, có cả những người đã từng đại
diện thượng đế tha tội cho nhiều người khác! Còn chính họ có tội nghiệp, đến
lúc phải trả, vẫn phải đền trả quả báo, nghiệp báo như mọi người khác vậy!
Chúng ta đọc báo cũng thấy có những chuyến hành hương cầu nguyện của các tôn
giáo, bị lật xe trên đường đi hoặc trên đường về, gặp nạn hỏa hoạn tại thánh
địa, tại khu vực hành lễ, khiến cho hàng trăm người, hàng ngàn người tử vong
thương tích. Ðiều này giúp cho chúng ta nhận định rất rõ ràng rằng: con người
tạo nghiệp báo, dù vô tình hay cố ý, cho đến lúc quả báo chín mùi, lại không có
phước báo che chở, thì cầu nguyện van xin cũng chẳng ích lợi gì, chẳng có hiệu
quả gì.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Dù lên non, xuống biển,
vào hang, nghiệp báo vẫn theo con người như hình với bóng, không ai có thể
tránh được".
Nghĩa là nếu như con người không biết tu nhơn tích phước, chỉ lo
tạo tội tạo nghiệp, trong cuộc sống đấu tranh giành giựt hằng ngày, cho đến khi
quả báo thuần thục, không ai có thể tránh được, dù cho người đó là bất cứ ai
trong thế gian này, không phân biệt vua quan, chức quyền hay thường dân, giàu
sang hay nghèo hèn, học thức hay bình dân, nam phụ lão ấu, tín đồ hay chức sắc!
Có ông Liêm Sứ ở Hồng Châu, đến hỏi Thiền sư Mã Tổ Ðạo Nhất:
Uống rượu ăn thịt là nên hay không nên? Mã Tổ Ðạo Nhất đáp: Uống rượu ăn thịt
là cái "lộc" của ngài. Không uống rượu ăn thịt là cái
"phước" của ngài! Có phước mới hưởng lộc. Có phước mới trường thọ.
Không phước sao được hưởng lộc, sao được trường thọ? Như vậy, chúng ta đã tạm
hiểu thế nào là "có phước". Bây giờ chúng ta thử tìm hiểu vấn đề:
trong cuộc sống hằng ngày, những phương cách nào, những pháp môn nào, những
việc làm nào, những hành động nào, những lời nói nào, hay những ý nghĩ nào có
thể tạo "phước báu", công năng và ích lợi của "phước báu"
như thế nào?
1) Trước tiên là Bố Thí. Hạnh bố thí là nền tảng của tất cả các hạnh lành, là căn bản
của việc thực hành giáo pháp, luôn luôn được đề cập đến trong Phật giáo. Bản
chất của con người thế gian là luôn luôn muốn có, muốn thêm, muốn nữa, không
bao giờ thấy đủ, không bao giờ thỏa mãn với những gì mình đang có. Cho nên, nếu
được lên thiên đàng, nếu được về cõi tây phương, mà vẫn còn giữ lòng tham như
vậy, gọi là "đới nghiệp vãng sanh", thì con người vẫn thấy khổ đau
như hiện đời vậy thôi. Muốn được an lạc hạnh phúc hiện đời, ngay tại thế giới
ta bà này, hãy vui thích với những gì mình đang có, bởi vì mình không thể có
những gì mình thích. Mong cầu nhiều, mơ ước nhiều, chỉ thêm nhiều đau khổ mà
thôi. Thực là đơn giản!
Ðạo Phật dạy hạnh bố thí để giúp con người dẹp lòng tham lam ham
muốn, ích kỷ hẹp hòi, gồm có tham tiền tài, tham sắc đẹp, tham danh vọng, ham
ăn ham uống, ham ngủ ham nghỉ. Ðạo Phật dạy hạnh bố thí để đem lại an lạc và
hạnh phúc cho người đời. Tại sao vậy? Bởi vì với lòng tham ngũ dục: tài, sắc,
danh, thực, thùy, nói trên, con người trên thế gian phải đấu tranh, giành giựt,
phải dùng mọi thủ đoạn để thỏa mãn, bất chấp sự đau khổ của kẻ khác, bất chấp sự
an nguy của chính bản thân, với bất cứ giá nào cũng phải đoạt cho bằng được sự
như ý! Không được thỏa mãn, con người dễ nổi lòng sân hận, thù đời ghét người,
oán trời trách đất! Hạnh bố thí giúp con người hiểu được ít nhiều sự an lành
thiết thực của người và của chính mình như thế nào. Cái gì mình tiêu xài thì đã
qua mất rồi. Cái gì mình đang có chưa chắc giữ được lâu dài, nhưng chắc chắn
rằng sẽ để lại khi qua đời. Chỉ có những gì mình đã bố thí, đã cho ra, mới thực
sự là "của mình", mới thực sự là "phước báu", và sẽ đến với
mình các qua dạng: bình yên may mắn, tai qua nạn khỏi, cầu gì được nấy, trong
cuộc sống hằng ngày của chúng ta.
Trong khi thực hành hạnh bố thí, chúng ta đừng nên thắc mắc: nếu
mình quyên góp tiền bạc cho một người hay một tổ chức nào đó, để làm việc từ
thiện, nhưng họ không làm đúng như lời họ nói, thậm chí họ còn lợi dụng lòng
tốt của nhiều người để thủ lợi, làm việc sai trái, thì mình có được
"phước báu" hay không? Tại sao vậy? Bởi vì khi chúng ta tự
nguyện, phát tâm tùy hỷ, đóng góp tịnh tài cho một việc từ thiện, cứu người
giúp đời, với tâm vị tha bất vị kỷ, vì người quên mình, vì muốn giúp người,
không vì phước báu cho mình, thì chúng ta đã có "phước báu" ngay tại
chỗ đó rồi, ngay từ lúc phát tâm tùy hỷ như vậy đó. Còn chuyện người đó, chùa
đó, tổ chức đó, có làm đúng hay không, tội nghiệp họ tạo, quả báo họ sẽ tự
nhận. Nhân nào quả nấy. Chúng ta không cần phải bận tâm!
Chúng ta cũng được hiểu thế nào là "phước điền" cao thượng
nhứt, đó là những "ruộng phước" đem lại nhiều "phước báu"
nhứt, khi hành động tạo phước của chúng ta hướng đến. Cũng ví như người nông
dân hiểu biết đám ruộng nào phì nhiêu, trồng trọt sẽ cho năng suất cao nhứt.
Phước điền cao thượng đó chính là bốn ơn nặng, hay tứ trọng ân, gồm có: ơn cha
mẹ, ơn thầy bạn, ơn xã hội, ơn tam bảo. Hạnh bố thí dù là tài thí, pháp thí hay
vô úy thí, đều đem lại "phước báu" vô lượng vô biên, nếu như mình làm
hạnh bố thí với thiện tâm, trực tâm và bồ đề tâm. Nghĩa là tạo được bao nhiêu
"phước báu" do hạnh bố thí, chúng ta đều nên phát tâm "hồi
hướng" cho toàn thể chúng sanh trong pháp giới đồng thọ hưởng. Có như thế, quả báo
phước đức sau này, còn gọi là phước báo, mới thực sự to lớn. Tại sao vậy? Bởi
vì không giữ riêng cho mình, dù là "phước báu" do chính mình tạo nên,
có nghĩa là mình đã diệt được lòng tham. Khi lòng tham đã diệt được, sự giải
thoát mới hoàn toàn, phước báo mới vô lượng vô biên vậy.
2) Thứ hai là Trì Giới. Trì giới là nghiêm chỉnh ăn ở theo đúng giới luật của Phật Tử,
dù là cư sĩ tại gia, hay tu sĩ xuất gia. Nhờ đó, trong cuộc sống, chúng ta
không làm tổn nhơn, hại vật, trong khi tạo ích lợi cho mình. Ðó là cách tạo
"phước báu" vô cùng vô tận, không thể nghĩ bàn. Thí dụ như chúng ta
trì giới không nói dối, không nói lời xuyên tạc, thêm bớt, vu cáo, để buộc tội,
vu oan cho kẻ khác phải chịu nhiều đau khổ, cho thỏa mãn lòng căm tức của chúng
ta đối với người đó, dù cho đó là kẻ thù, hay kẻ mình không ưa cũng vậy. Thí dụ
như người tu sĩ Phật giáo cố gắng giữ gìn giới hạnh trong sạch, cuộc sống thanh
tịnh, chăm lo tu học, không tham gia hoạt động thế sự, không lo chuyện thế
gian, không ham danh văn sĩ, thi sĩ, tiến sĩ gì gì đó với đời, thì vị tu sĩ đó
đem lại biết bao nhiêu "phước báu" cho chính bản thân, cho đồng bào
Phật Tử và cho đạo pháp.
Ðược như vậy, không cần đợi đến kiếp mai sau, mà ngay hiện tại,
trên cuộc đời này, ở tại nơi đây, trong kiếp sống này, chúng ta có thể thọ
hưởng "phước báu" của một nếp sống giới hạnh. Lợi ích của giới đức
phát sanh ngay trong hiện tại. Hiện tại rất quan trọng đối với người biết sống
trong tỉnh thức, biết quán sát nội tâm, biết giữ gìn giới hạnh. Quá khứ đã trôi
qua, nhớ nhung tiếc nuối chỉ phí phạm thời giờ, chẳng những điên rồ, mà đôi khi
còn tạo nghiệp xấu, vì những chuyện tức giận, thù hận đã qua. Trong khi đó,
tương lai chỉ là viễn ảnh mơ hồ, không có gì cố định, không có gì chắc
chắn.
Người nào hẹn đến khi có tuổi rồi, mới cạo đầu vào chùa bắt đầu
tu, cũng là người đang sống trong mơ, đang trong cơn mê. Tại sao vậy? Bởi vì có
ai biết được chắc chắn mình sống đến bao lâu? Trong khi đó, chúng ta có thể tạo
"phước báu" bằng cách tu tâm dưỡng tánh, ngay hiện tại, trong cuộc
sống hằng ngày, đừng đợi đến ngày nào cả. Tu tâm dưỡng tánh được ngày nào,
chúng ta hưởng "phước báu" ngay ngày đó, thì tại sao phải hẹn? Vã lại
tu tâm dường tánh đâu phải là việc dành riêng cho các tu sĩ, hoặc đâu phải cạo
đầu vào chùa mới gọi là tu! Các bậc tôn túc thường nhắc nhở chúng ta: "tu mau kẻo trể"
và "tu trong mọi hoàn cảnh", chính là nghĩa đó vậy.
Chẳng hạn như trước đây, chúng ta thích bàn chuyện thị phi, phải
quấy, tốt xấu, thích xen vào chuyện của thiên hạ thế nhân, cho nên lắm khi gặp
rắc rối, tranh cãi, đôi co, mích lòng, có khi dẫn tới chuyện kiện tụng lôi
thôi. Bây giờ chúng ta hiểu được giáo lý đạo Phật, biết rằng tu tâm dưỡng tánh
đem lại nhiều "phước báu" hiện đời, có thể thực hành trong mọi hoàn
cảnh, chúng ta quyết tâm dừng ngay, chừa bỏ tất cả, thì cuộc sống sẽ an lạc và
hạnh phúc, không còn phiền não và khổ đau nữa. Giới luật ví như hai đường sắt
của một tuyến xe lửa. Chiếc xe lửa nào, chạy đúng đường sắt, sẽ chạy ngon lành,
đến nơi đến chốn, bình yên vô sự. Chiếc nào mà chạy, trật khỏi đường rầy, tức
nhiên lật gọng, tai nạn thê thảm. Cũng vậy, những người Phật Tử, dù tại gia cư
sĩ, hay xuất gia tu sĩ, trì giới thanh tịnh, sẽ tu tinh tiến, kết quả rõ ràng,
bớt chuyện phiền não, giảm thiểu khổ đau, chóng được niết bàn, an lạc hạnh
phúc, ngay tại hiện đời.
3) Thứ ba là Nhẫn Nhịn. Có người quan niệm: nhịn thì nhục, cự thì đục. Họ cho rằng nếu
nhịn được đằng chân, chúng sẽ lân đằng đầu, được nước lần này chúng sẽ làm tới
lần sau, nhịn hoài chúng sẽ cho là mình ngu, cho là mình hèn, làm sao nhịn nổi,
tại sao phải nhịn chứ? Chính quan niệm như vậy khiến cho cuộc đời luôn luôn đầy
dẫy những tranh chấp, cãi vã, hơn thua, kiện tụng, đấu tranh, cho nên thường
dẫn đến phiền não và khổ đau. Thực ra, chính vì con người không thể thực hành
được "hạnh nhẫn nhịn" cho nên mới có quan niệm như trên. Người ta
mắng mình một tiếng, mình trả một miếng, có khi nhiều hơn, thì dễ dàng quá.
Người ta hành động, không tốt với mình, mình liền trả đủa, hết sức nặng nề, cho
thiệt hả giận, cho thực đả nư, thì dễ dàng quá. Nhưng còn tiếp theo, sau đó thì
sao? Câu chuyện như vậy, biết đến bao giờ, mới được chấm dứt, và dứt thế nào?
Người ta lỡ lầm, vi phạm tội ác, mình đòi trừng phạt, cho thiệt xứng đáng,
phanh thây xẻ thịt, treo cổ bắn bỏ, đày xuống địa ngục, bỏ tù rục xương, rủa xả
chửi mắng, tưng bừng tơi tả, thì hãy thử nghĩ: ai ác hơn ai?
Có những người trên thế gian này xin ân xá cho kẻ phạm tội đã
giết người thân của mình, bởi vì những người đó đã biết cảnh mất người thân,
đau khổ như thế nào, nên không muốn gia đình phạm nhân lâm vào cảnh ngộ bi
thương đó. Chúng ta đọc báo thấy thực sự có những người như vậy, nhưng rất hiếm
hoi! Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:" Lấy oán báo oán, oán nghiệp
chập chùng. Lấy ơn báo oán, oán nghiệp tiêu tan" . Người ta mắng mình một
tiếng, nếu mình nhịn được, không trả một miếng, mới thực là khó. Người ta hành
động, không tốt với mình, mình không hành động, giống y như vậy, mới thực là
khó. Hơn nữa, nếu người ta gặp, khó khăn hoạn nạn, mình sẵn sàng giúp, thực tâm
thực tình, hết lòng hết dạ, lại càng khó hơn. Làm được như vậy, mọi chuyện bình
yên, tiếp theo sau đó. Câu chuyện thù oán, chắc chắn chấm dứt, một cách êm đẹp,
nhẹ nhàng dễ dàng.
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:"Thắng vạn quân không bằng
tự thắng mình. Tự thắng mình là điều cao quí nhứt". Nghĩa là tự kềm chế bản
thân, tự kềm chế hành động, tự kềm chế ngôn ngữ, tự kềm chế ý nghĩ của chính
mình, mới thực là khó. Con người thường bị tâm tham lam, tâm sân hận và tâm si
mê sai khiến, điều khiển, cho nên cuộc đời mới gặp nhiều phiền não và khổ đau.
Khi tâm tham khởi lên, khi tâm sân khởi lên, khi tâm si khởi lên, người nào
tỉnh thức, tự kềm chế được, tự hóa giải được, thì cuộc sống sẽ an lạc hạnh
phúc. Chiến thắng được tâm tham lam, sân hận, si mê của chính mình, mới thực sự
gọi là "có phước", mới thực sự đem lại an lạc và hạnh phúc cho cuộc
đời mình. Cho nên cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành", chính
là nghĩa đó vậy.
Khi chiến thắng được tâm tham chẳng hạn, không đi ăn trộm, không
chôm chĩa đồ, không gạt gẫm người, con người khỏi gặp rắc rối với pháp luật.
Khi chiến thắng được tâm sân chẳng hạn, không chửi mắng đánh đập, không trả thù
người khác, không thưa gửi kiện tụng, không gây thêm phiền não, không tạo thêm
kẻ thù, không tăng thêm nghiệp báo, không chuốc thêm oán hờn, không làm chuyện
càn dở, con người được thoải mái bình yên. Khi chiến thắng được tâm si chẳng
hạn, không mê tín dị đoan, không uống nước sông suối, chẳng có chút vệ sinh,
lại cho là nước thánh, không tin chuyện huyễn hoặc, không tin thiên linh chuỗi,
chẳng có căn cứ, con người được bình tĩnh, tâm trí sáng suốt. Nhờ đó, con người
sẽ ăn được ngon, ngủ được yên. Sách có câu: "Ăn được ngủ được là
tiên". Ðó là "phước báu" do chính mình tạo nên, không do
trời ban, không do cầu nguyện.
4) Thứ tư là Tinh Tấn. Tinh tấn nghĩa là siêng năng, cần mẫn tu tâm dưỡng tánh trong
mọi hoàn cảnh, trong mọi động tác, đi, đứng, nằm, ngồi, để ngăn chận ba nghiệp,
không tạo thêm tội lỗi, nghiệp báo mới. Không phải đợi đến lúc quỳ trước bàn
Phật, hay đi đến chùa, hoặc dự các khóa tĩnh tâm, mới gọi là tu! Tu như vậy ít
quá, một tháng mới có một khóa tu, một tuần mới đến chùa một lần, một ngày niệm
hương trước bàn thờ, hay ngồi thiền, chừng một tiếng đồng hồ, 23 tiếng còn lại,
tha hồ để tâm trí dong ruỗi theo những ý nghĩ tạp nhạp, thương người này, ghét
người khác, thị phi phải quấy, tâm trí bất định. Ðến khi nghịch cảnh xảy đến,
tai nạn giáng xuống, không đủ năng lực để đối phó, tâm trí của chúng ta sẽ xáo
trộn, bất an, đương nhiên dẫn đến khổ đau và than trời trách đất. Sách có câu:
"Mấy người lòng dạ tinh ma. Ðã làm phải chịu, kêu mà ai thương",
chính là nghĩa đó vậy.
Chúng ta tinh tấn làm tất cả các điều thiện, dù lớn dù nhỏ, cứu
người giúp đời, làm cho cuộc sống của chính mình và của những người chung
quanh, có ý nghĩa hơn, an lạc hơn và hạnh phúc hơn. Chúng ta tinh tấn diệt trừ
những tạp niệm vọng tưởng, thường xúi giục chúng ta tạo thêm nghiệp báo xấu, để
cho chính mình và những người chung quanh bớt lo âu, phiền muộn vì những hành
động sai khiến bởi tâm tham, tâm sân và tâm si của mình.
Chúng ta thử nghĩ: thực hành hạnh tinh tấn như vậy, có phải chúng
ta được vô lượng vô biên "phước báu" chăng? Và nhờ hạnh tinh tấn,
chúng ta không nản lòng trên đường tu tập các hạnh lành, dù gặp biết bao nhiêu
nghịch cảnh trở ngại. Cho nên trong đạo Phật, hạnh tinh tấn được tượng trưng
bởi Bồ Tát Ðại Lực Ðại Thế Chí, là vị Bồ Tát có năng lực tinh tấn lớn lao, có ý
chí siêu xuất thế gian, dũng mãnh tiến bước không lui, trước mọi nghịch cảnh,
trước mọi nghiệp chướng.
5) Thứ năm là Thiền Ðịnh. Thiền định nghĩa là trau dồi tâm tánh cho
được tự tại, cho được bình tĩnh thản nhiên, trước mọi hoàn cảnh của cuộc sống.
Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường gặp những bước thăng trầm, những
sóng gió của cuộc đời, chẳng hạn như lúc thịnh lúc suy, lúc được danh dự lúc bị
hủy báng, lúc được khen tặng lúc bị chỉ trích, lúc được sung sướng lúc bị khổ
đau. Trong kinh sách gọi đó là "bát phong", thường làm cho tâm trí
của chúng ta bị bất an, chao đảo, giao động, xao xuyến, xáo trộn.
Cho nên đạo Phật dạy nhiều phương pháp để hàng phục và an trụ tâm,
tùy theo căn cơ, trình độ, hoàn cảnh, sở thích, tâm nguyện của mỗi người, gọi
là vô lượng pháp môn. Chẳng hạn như pháp môn tịnh độ dạy chúng ta tụng kinh,
niệm Phật để định tâm. Khi chúng ta tụng kinh, thân ngồi ngay ngắn, nghiêm
trang, miệng đọc lời Phật dạy trong kinh, tâm chú ý vào lời kinh và tiếng
chuông mõ, nên không còn nghĩ ngợi linh tinh lang tang, tư tưởng không còn chạy
lung tung nữa. Như vậy có nghĩa là tam nghiệp, gồm thân khẩu ý của chúng ta,
đều được thanh tịnh.
Kinh sách có câu:"Tam nghiệp hằng thanh tịnh đồng Phật
vãng tây phương". Nghĩa là khi ba nghiệp của chúng ta luôn luôn thanh tịnh, không
còn tạo nghiệp nữa, thì "phước báu" vô lượng vô biên, chúng ta cùng chư
Phật sống trong cõi tịnh độ tây phương. Hoặc khi tâm trạng bị hoang mang, lo
lắng, sợ sệt, xôn xao, chúng ta dùng câu niệm Phật để định tâm, để trấn áp
những tâm trạng bất an vừa kể.
Ở đây, cần biết thêm rằng không phải chúng ta tụng kinh để cho
Ðức Phật nghe! Cũng không phải chúng ta niệm Phật để cho Ðức Phật tính sổ, coi
chúng ta niệm được bao nhiêu câu, cộng được bao nhiêu chuỗi mỗi ngày! Kinh điển
ghi lại lời dạy của Ðức Phật cốt để hướng dẫn chúng ta tu tâm dưỡng tánh, điều
trị tâm bệnh của chúng sanh, ví như toa thuốc của bác sĩ để điều trị thân bệnh,
chứ không phải để đọc đi, đọc lại, tụng cho bác sĩ nghe! Mục đích chúng ta tụng
kinh, niệm Phật là để hàng phục và an trụ tâm, chuyển hóa từ kẻ phàm phu tục
tử, trầm luân đau khổ, thành người trí tuệ, giác ngộ giải thoát. Hàng phục và
an trụ được tâm, chúng ta mới có được cuộc sống phước báu, an lạc và hạnh phúc.
“CƯỜI LÊN ĐI NHÉ!”
CƯỜI LÊN ĐI NHÉ!
NẾU CƠN MƯA NGOÀI TRỜI MÃI MÃI KHÔNG
DỨT
CƯỜI LÊN ĐI.
NẾU EM VẤP NGÃ ĐÔI LẦN
CƯỜI LÊN ĐI,
NẾU HẠNH PHÚC MÃI LẪN TRÁNH SAU LÀN
MÂY.
CƯỜI LÊN ĐI,
CHO DÙ HỒN EM LẶNG YÊN TRONG SẦU NÃO.
CƯỜI LÊN ĐI NHÉ!
TÂM TƯ EM ĐANG RỘNG MỞ.
CƯỜI LÊN ĐI,
DÙ MƯA NGỪNG NHƯNG MẶT ĐẤT PHỦ ĐẦY
TUYẾT.
CƯỜI LÊN ĐI,
NỖI BUỒN RỒI SẼ CHÓNG QUA.
CƯỜI LÊN ĐI NHÉ!
TÂM HỒN EM SẼ TOẢ SÁNG CẢ CUỘC ĐỜI.
HẠNH PHÚC ĐẾN VỚI NỤ CƯỜI VÀ TÌNH YÊU.
Viên Phụng Kính Tặng
Thế nào là cuộc
sống có ý nghĩa?
.1) Sống lợi mình lợi người là cuộc sống có ý nghĩa.
.2) Sống không ưu tư, không phiền não trong mọi hoàn cảnh là cuộc sống có ý nghĩa.
.3) Sống trong tỉnh thức là cuộc sống có ý nghĩa.
.1) Sống lợi mình lợi người là cuộc sống có ý nghĩa.
.2) Sống không ưu tư, không phiền não trong mọi hoàn cảnh là cuộc sống có ý nghĩa.
.3) Sống trong tỉnh thức là cuộc sống có ý nghĩa.
.4) Sống
trong an lạc và hạnh phúc là cuộc sống có ý nghĩa.
.5) Sống an trú trong hiện tại là cuộc sống có ý nghĩa.
.5) Sống an trú trong hiện tại là cuộc sống có ý nghĩa.
.6) Sống
trong giác ngộ và giải thoát là cuộc sống có ý nghĩa.
- Kính mời đọc:
.1) Sống lợi mình lợi người là cuộc sống có ý nghĩa.
Những việc gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không muốn bị người khác quấy rầy, không muốn đời tư bị bươi móc, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không thích bị ai phê bình, chỉ trích, khinh khi, phỉ báng, thì mình đừng vạch lá tìm sâu, bới bèo tìm bọ, viết thư nặc danh, hăm dọa chửi bới người ta. Phải nên biết rằng: gieo nhân nào gặt quả nấy, đong đấu nào nhận đấu nấy!
Những việc gì mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không muốn bị người khác quấy rầy, không muốn đời tư bị bươi móc, thì mình đừng làm như vậy cho người ta. Chẳng hạn như mình không thích bị ai phê bình, chỉ trích, khinh khi, phỉ báng, thì mình đừng vạch lá tìm sâu, bới bèo tìm bọ, viết thư nặc danh, hăm dọa chửi bới người ta. Phải nên biết rằng: gieo nhân nào gặt quả nấy, đong đấu nào nhận đấu nấy!
.2) Sống không ưu tư, không phiền não trong mọi hoàn cảnh là cuộc sống có ý nghĩa.
Vì áp lực của cuộc đời thường đè nặng trong tâm tư, chúng ta bị ngoại cảnh chi phối quá nhiều, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên. Lúc thịnh thì vui, lúc suy thì buồn. Lúc nhục nhã thì bực, lúc danh dự thì khoái. Lúc xưng tán thì thích, lúc phê phán thì quạu. Lúc khổ thì than, lúc hân hoan thì chịu! Nở được nụ cười nhẹ nhàng, vô ưu, trầm tĩnh, trong mọi hoàn cảnh giúp chúng ta sống cuộc đời có ý nghĩa. Nụ cười thương yêu, nụ cười có ý thức bao giờ cũng đẹp đẽ và thường giúp con người sống cuộc đời có ý nghĩa một cách mầu nhiệm khó thể nghĩ bàn.
.3) Sống trong tỉnh thức là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta biết mình thực sự là ai, biết mình thực sự
đang làm gì, biết mình thực sự đang nói gì, biết mình thực sự đang nghĩ gì.
Chúng ta thường mang cái áo đời danh lợi, cho nên quên "con người chân
thật" của mình, luôn luôn sống trong ảo tưởng. "Con người chân
thật" là con người luôn luôn sống trong tỉnh thức, kiểm soát được hành
động, lời nói và tư tưởng, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, trình độ, xuất
xứ, đời sống, dân tộc. Sống trong tỉnh thức nghĩa là phải có chánh kiến, theo
chánh tư duy, giữ gìn chánh ngữ, thực hành chánh nghiệp, sống với chánh mạng,
có chánh tinh tiến, luôn luôn chánh niệm, có được chánh định.
.4) Sống trong an lạc và hạnh phúc là cuộc sống có ý nghĩa.
Cuộc sống không dính mắc, không sân hận, không si mê, không phiền não, không chấp chặt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh chấp, không hơn thua, không bon chen, không đua đòi. Khi có người mang lửa đến đốt, chúng ta đừng đưa bổi ra đón, thì sẽ không bị đốt cháy. Nghĩa là nếu bị người chửi mắng, hay khi nhận được thư, dù nặc danh hay chính danh, nặng lời nhục mạ, chúng ta không nổi cơn sân, dù ngoài mặt hay trong lòng, thì chúng ta được bình yên vô sự. Chúng ta không có được những gì mình thích, thì hãy thích những gì mình có. Ðược như vậy, ngày ăn ngon tối ngủ yên, và chắc chắn chúng ta sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc.
.5) Sống an trú trong hiện tại là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta thường luyến nhớ quá khứ, mơ tưởng tương lai. Sống trong cuộc đời hiện tại, chúng ta nên biết rằng "mình đang sống", đang hít thở không khí, đang ở trong chánh niệm, sống với thiện tâm, sống không tà niệm. Ðược như vậy, tâm của chúng ta như dòng nước trong mát, không vướng bụi trần, không vương phiền não. Bình an dưới thế cho người thiện tâm.
Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:
Quá khứ tâm bất khả đắc, hiện tại tâm bất khả đắc,
vị lai tâm bất khả đắc.
Nghĩa là chuyện quá khứ cảm giác đã qua đi, không
nên nhớ nữa, chuyện hiện tại thấy đó rồi mất đó, cảm giác nào rồi cũng qua mau,
không có gì tiếc nuối, chuyện tương lai chưa đến, đừng lo lắng ưu tư phiền
muộn, chỉ khiến cuộc đời thêm phức tạp phiền não mà thôi!
.6) Sống trong giác ngộ và giải thoát là cuộc sống có ý nghĩa.
Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, bình yên, phẳng lặng, an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải biết quán sát chân lý, nhận chân lẽ thực, thấy được thực tướng của vạn hữu. Chúng ta muốn có cuộc sống ý nghĩa, thì nên biết rằng, chúng ta sinh ra đời để trả hết các nợ đã vay, đã tạo tác từ nhiều tiền kiếp, đừng tạo thêm nghiệp mới, chấm dứt sinh tử luân hồi, không si mê, không mơ tưởng, không van xin, không mong cầu. Chúng ta phải sáng suốt nhận định rõ ràng: cuộc đời khổ nhiều vui ít.
Cho nên, chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: sinh lẫn diệt, còn lẫn mất, được lẫn thua, khen lẫn chê, vui lẫn buồn. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: có làm có hưởng, có làm có chịu, sinh sự sự sinh, gieo gió gặt bão. Chấp nhận cuộc đời là chấp nhận: nay còn mai mất, nay xấu mai tốt, nay bạn mai thù, chuyển biến không ngừng. Cần phải có thời gian tu tập thực nghiệm lâu dài, cần phải có công phu quán chiếu bền bỉ, cần phải có ý chí mạnh mẽ, nghị lực vững vàng, để chuyển hóa cuộc đời từ phiền muộn, ưu tư, lo âu, sợ hãi, trở thành hoan hỷ, vui vẻ, thanh thản, tự tại. Ðược như vậy, chúng ta sẽ giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi.
Kính mời viếng thăm
http://lotus-lantern-canada.blogspot.com/
MỘT VÀI CHUYỆN CHO VUI ĐỜI
*MUA VÉ SỐ
Người bán vé số:
-Ông ơi mua một tấm vé số đi ông, bảo đảm thế nào cũng trúng độc
đắc 25 triệu đô.
Ông B:
-Tôi đã mua rồi!
Người bán:
-Mua thêm một tấm nữa đi, mua nhiều trúng nhiều mà ông!
Ông B:
-Nếu không trúng thì sao?
Người bán:
-Thì ông cứ đến đây tìm tôi!
Ông B:
-Tìm anh để làm gì?
Người bán:
-Để mua thêm vài tấm nữa!
*ĐÀNH THÔI
Cô con gái một vị Tổng Thống chạy xe quá tốc độ và bị cảnh sát
chặn lại.
Cô ta vênh mặt hỏi viên cảnh sát:
-Này, thế anh có biết cha tôi là ai không?
-Ôi! Tôi không thể giúp gì cho cô được, sao cô không hỏi thử mẹ
cô xem…
*MAY MẮN ĐẤY
Một ông già đang đi bách bộ thình lình gặp một người cỡi xe đạp
đụng té nhào. Kẻ gây tai nạn vừa đỡ người xui xẻo đứng dậy vừa nói:
-Ông có thể cho rằng hôm nay ông may mắn lắm đấy.
Ông già nổi giận:
-Anh vô ý đụng phải tôi, gây thương tích cho tôi, mà còn bảo tôi
tự cho là còn may mắn à?
Người xe đạp nói:
-Đúng vậy, vì hôm nay chủ nhật không làm việc, tôi đi bằng xe
đạp, chứ ngày thường tôi lái xe …truck.
*ĐI BÁC SĨ
-Tình trạng sức khỏe của ông đang tiến triễn tốt đấy. Còn chỗ chân
trái đang bị sưng cũng không có gì đáng lo cả.
-Tôi cũng vậy, nếu chân trái của bác sĩ bị sưng thì tôi cũng
chẳng lo gì cả.
Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí
TKN Thích Nữ Chân Liễu
Mỗi năm Tết đến, nơi
nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về
mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con
Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng
tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm
từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới
hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường
mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn
hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia
mùa đông Canada tuyết rơi lạnh buốt người.
Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ
Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức
Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui
xuân an lành trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới.
Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:
“Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát
Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn
thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải
người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm
hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.
Quán Thế Âm nghĩa là
quán sát âm thanh từ thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu
nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô
cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ
Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ
bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán
Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví
như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho
đến khi giác ngộ viên mãn.
* Lục độ ba la mật gồm có:
-
Bố thí là dùng vật
chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.
-
Trì giới là giữ giới
thanh tịnh trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
-
Nhẫn nhục là kham nhẫn
và cam chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
-
Tinh tấn là cố gắng
vượt mọi thử thách, giữ tâm chí vững bền.
-
Thiền định là tâm an
nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
-
Trí tuệ là nhận thức
sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.
*Bát chánh đạo gồm có:
- Chánh
kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.
- Chánh
tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.
- Chánh
ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.
- Chánh
nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.
- Chánh
mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.
- Chánh
tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
- Chánh
niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
- Chánh
định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.
Bồ Tát Quán Thế Âm
nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc
của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo
Pháp giải thoát tối thượng; và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường
Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.
Cúng dường Ðức Phật
Thích Ca:
Ðức Phật Thích Ca là
một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho
người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp
Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói
buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần
nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay
tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói,
sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ
càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm.
Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành
trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí
tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị
an lạc vô biên.
Tham ái sanh ưu tư
Tham ái sanh sợ hãi
Ai giải thoát tham ái
Không ưu, không sợ hãi.
(Kinh
Pháp Cú)
Tâm từ thắng nóng giận
Tâm thiện thắng ác hung
Tâm thí thắng tham lam
Tâm chơn thắng dối trá.
(Kinh
Pháp Cú)
Hành Giả Pháp Hoa thực
hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi
chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là
“vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo
quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích
Ca thù thắng nhất.
Cúng dường Đức Phật Ða Bảo:
Ðức Phật bên trong
Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến
Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không
dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của
thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát
nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu
giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có
công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có
tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ,
tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.
Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư
Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện
đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng
bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ
dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho
nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế
Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện
thân cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một
cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ
Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn
trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô
cùng.
Bồ Tát Quán Thế Âm là
hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc
lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán
Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể ban phước hay thỏa
mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều
người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao
thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả năng đoạn tận phiền não,
phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả
lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho
đời.
Hiểu rõ chân lý nhân quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và
hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ
đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự
chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành
an lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng
lòng tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn
đến đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu
như không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người
ít mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được
an ổn tự tại.
Ða dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.
(Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
Như lòng cha mẹ thương
con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý
muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải
thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn
của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc
về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm
lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho
người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.
Trì niệm hồng danh của
Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt
giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi
là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp
tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc
nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước
đến giờ.
. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân hận,
nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ lòng tham
dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng si mê,
dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích: Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích không trói
buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ lòng hung
ác, ác tâm tự điều phục.
Có câu chuyện đáng suy
ngẫm như sau:
Theo thông lệ các chùa
mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về
tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh
vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã
mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với
tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn
vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ.
Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.
Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.
Tóm lại, Bồ Tát Quán
Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho
người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút
Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí
tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự
tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ,
thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật
chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác.
Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất. []
Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất. []
TKN Thích Nữ Chân Liễu
(Toronto, Canada)
Kính thưa quí vị,
Con người thường sống hàng ngày trong thế giới nhị biên: thị/phi,
đúng/sai, phải/quấy,
đẹp/xấu, thương/ghét, thích/không thích, cho nên chìm đắm trong phiền
não khổ đau.
Không cần phải đợi đến già mới phát tâm tu, thường khi quá muộn, thân
đau tâm mệt,
lắm việc trái ngang ngăn cản đời sống tâm linh, trí tuệ khó khai mở.
Trong cuộc sống bận rộn, hãy dành thời gian ngắn mỗi ngày
để suy tư, ngẫm nghĩ, tập quán chiếu,
lâu dần sẽ đạt được an lạc và hạnh phúc hiện đời.
Xa hơn, con người đạt được giác ngộ và giải thoát khi tuổi vừa 20 như ngài La Hầu La,
con trai của Thái Tử Tất Đạt Đa,
tức là Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội bồ đề khi ngài 35 tuổi.
Người tu dù xuất gia khi còn nhỏ tuổi - hay sau này,
nếu
thực tâm tu và học, đều có thể đạt thành chánh quả (giác ngộ và giải thoát).
Ngược lại, nhiều vị đạo sĩ tu đến tuổi già nua, bỏ mạng trong khổ hạnh
lâm, cũng chưa giác ngộ.
Tại sao?
Bởi vì BẢN NGÃ của người đó càng tu càng to như cây cổ thụ trong chốn
thiền lâm.
Tiền
bạc và địa vị trong chốn tu hành làm hư hỏng người tu - dù 100 tuổi hay hơn nữa
cũng vậy thôi.
Không cần phải là người theo đạo Phật, chỉ cần buông bỏ những cố chấp
xưa nay,
con người có thể giác ngộ và giải thoát như nhau.
Đó chính là thế giới "bất nhị" hay pháp môn "bất
nhị" (không hai - nhưng không phải là một).
Kính thư,
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
VP.PHTQ.CANADA
cutranlacdao@yahoo.com
--------------------------------
Đạo Phật chủ trương chuyển hóa tâm bất thiện
thành tâm thiện.
Đạo Phật không chủ trương tiêu diệt người xấu ác.
Người hiện nay tuy tâm tánh xấu ác - nếu giác ngộ và giải thoát
thì sẽ chuyển
hóa thành người toàn chân thiện mỹ.
Ví như phân rác chuyển hóa thành hoa thơm,
bùn nhơ chuyển
hóa thành sen thơm,
nước sông hồ dơ đục chuyển hóa thành nước sạch
trong uống được.
Đồ tể buông dao chuyển hóa thành Phật.
Kính mời quí vị đọc bài viết dưới đây
Kính mời
quí vị đọc bài viết dưới đây
Ý NGHĨA LỄ
CẦU NGUYỆN
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
CẦU TRỜI CÓ
ĐƯỢC GÌ ĐÂU
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
TỰ LỰC MỚI
THỰC LÀ TU
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll