TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Monday 24 January 2022

CHÁNH NIỆM HAY CHÁNH TRỊ

Phật giáo chỉ ra 4 kiểu người phúc mỏng mệnh khổ: Hãy xem bạn có nằm trong số đó hay không (cuối trang)

http://phtq-canada.blogspot.com/2018/08/theo-chinh-tri-theo-ton-giao.html

      http://phtq-canada.blogspot.com/2020/12/chinh-tri-va-ton-giao.html

      http://phtq-canada.blogspot.com/2022/01/chanh-niem-hay-chanh-tri.html

http://phtq-canada.blogspot.com/2018/08/theo-chinh-tri-theo-ton-giao.html

  Chính Trị & Tôn Giáo

Thứ Tư 08.08.2018

Kính thưa Quí Vị,

Chính Trị và Tôn Giáo là hai đề tài, hai phạm trù rất nhạy cảm, rất dễ gây tranh cãi, nhưng rất gần gũi với đời sống của mọi người trên thế gian.

Người đời thường ngây thơ, chơn chất, nên dễ bị lừa bịp bởi miệng lưỡi qua lời hứa hẹn của các chính trị gia.

Người đời thường dễ tin, nông cạn, nên dễ bị gạt gẫm bởi các hình thức, nghi lễ đượm vẻ linh thiêng huyền bí qua các bánh vẽ thiên đàng nước trời hay tây phương cực lạc của các chức sắc tôn giáo trong các giáo hội, hay cơ sở tôn nghiêm như nhà chùa hay nhà thờ.

Người đời dù có biết được sự thực hay chân lý, biết được mặt thật hay mặt trái của nhà chùa hay nhà thờ, cũng thường khó nói ra.

Tại sao?

Bởi những người u mê, ám chướng, ngu si, đần độn, cố chấp, bảo thủ, tôn thờ các thần tượng chính trị hay tôn giáo, từ mê tín đến cuồng tín, sẽ hung hăng kết án vô thần, phá hoại tôn giáo, phá hoại tín tâm của người khác.

Từ lâu nay, VP. PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA vẫn chủ trương phổ biến chánh pháp và chánh tín, bài trừ tà pháp và mê tín dị đoan trong các tôn giáo, đặc biệt là Công Giáo và Phật Giáo.

VP.PHTQ.CANADA vạch trần cho những người muốn biết sự thực và tìm hiểu chân lý qua nhiều bài viết được nhiều người suy ngẫm và tri ân.

Kể từ hôm nay, VP.PHTQ.CANADA sẽ tiếp tay phổ biến các bài viết liên quan đến sự thực và chân lý, trên lãnh vực chính trị và tôn giáo, từ mọi người qua các diễn đàn, không phân biệt người viết thuộc thành phần nào, theo tinh thần y pháp bất y nhân.

Quí vị có thể theo dõi các bài viết, tham gia sự tranh luận trên internet, để đạt sự thực và chân lý,

qua LINK: http://phtq-canada.blogspot.com

hoặc gửi Email về: cutranlacdao@yahoo.com

Kính chào Quí vị

và kính chúc Quí vị cùng bửu quyến vạn sự an lành.

Kính thư,

VP. PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA


Ý kiến độc giả
:

Con người vốn ích kỷ do tự ngã (bản ngã)

Tính ích kỷ là nguồn gốc của mọi sự tàn ác trên đời.

Do tính ích kỷ con người mong cầu và ước nguyện, muốn tối đa cho bản thân và những điều liên quan bản thân (gia đình, dòng họ, đẳng cấp, tổ chức, sắc tộc, phe phái, quê hương, tổ quốc)

Mong cầu và ước nguyện, qua tôn giáo gọi là cầu nguyện.

Con người cầu nguyện được mọi điều tốt đẹp cho bản thân, không cần biết tâm hồn mình thiện hay ác.

Con người cầu nguyện bản thân giàu sang, sung sướng, triệu phú tỷ phú, làm chủ nhân ông, không làm việc thấp kém, nguy hiểm, nhọc nhằn.

Nếu việc mong cầu ước nguyện thành tựu, con người vẫn xử dụng cầu tiêu, nhưng không có ai là người chùi rửa cầu tiêu.

Nguy hại cho thế gian toàn những người ích kỷ, u mê, tin chuyện cầu nguyện thượng đế ban cho bản thân mà không quan tâm đến bản tánh thiện hay ác.

 

Do tính ích kỷ, con người cầu mong những kẻ thù, đối nghịch, đối thủ, khác đạo, khác màu da, khác đẳng cấp, biến mất.

Trên đời này không còn ai sống sót. Chết hết ráo.

Tóm lại, may mắn thay, cầu nguyện có được gì đâu. Cho nên con người mới còn tồn tại đến ngày nay.


Lý do xảy ra xung đột giữa các phe phái chính trị trong một quốc gia hoặc giữa hai tôn giáo là bởi chưa có sự thỏa thuận trước với nhau khi cùng chung sống trong kỳ vọng hòa bình.

Nếu sống cô độc riêng rẻ thì mỗi người đều tự cho mình quyền tự do tư tưởng và hành động, nhưng khi đã tụ tập lại với nhau để chung sống thành một xã hội thì không ai được phép tự ý ép buộc người khác phải tuân theo tư tưởng của cá nhân mình. Vì thể, đã là thành phần của một xã hội thì con người phải chấp nhận mất đi quyền độc tài sai khiến người khác, mà ngược lại người đó phải tuân theo quy luật chung của xã hội. Chẳng hạn trong xã hội đầy cạnh tranh thì phải cùng nhau thỏa thuận một quy luật chung là không ăn gian, không nói dối để chiếm phần thắng cho mình.

Dĩ nhiên vì danh dự cho nên bên nào cũng khăng khăng cho mình là không ăn gian nói dối, và vin theo sự khẳng định đó, luật pháp cần ghi lên giấy trắng mực đen sự khẳng định cam kết ngay thẳng này để làm kỷ luật cho mọi vi phạm về sau. Bởi vậy khi có tranh cải gì thì dựa trên luật cam kết đó mà phân xử, phe nào vi phạm thì phe đó phải chịu thua trước công luận, và nếu vẫn ngoan cố gây chiến tranh thì kẻ vi phạm sẽ bị cả xã hội lên án và trừng phạt.

Thời xưa, ở sòng bạc người ta cho phép sát phạt nhau để ăn tiền của nhau, nhưng luật định là ai gian lận sẽ bị chặt ngón tay. Thằng nào đã bị chặt ngón tay rồi mà chui vô sòng bạc là bị đuổi ra ngay !

Trích JB Trường Sơn

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

https://phtq-canada.blogspot.com/2022/01/chanh-niem-hay-chanh-tri.html


Chánh Trị và Tôn Giáo

Thích Nhất Hạnh: Chánh niệm hay chánh trị?

Bên cạnh thuyết pháp chánh niệm, vai trò chánh trị của ông nổi bật (và gây tranh cãi) không kém.

Trong các nhân vật lãnh tụ tôn giáo từ thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, Thích Nhất Hạnh có vẻ là người nổi tiếng nhất, song cũng gây tranh cãi nhất.

Một mặt, tại phương Tây, thiền phái của Thích Nhất Hạnh cũng như sách thiền, sách Phật học do ông viết có tầm ảnh hưởng không hề nhỏ. [1] Ông được xưng tụng là người cha của chánh niệm (mindfulness). Người Tây phương có vẻ rất thích thú với định hướng Phật giáo của Thích Nhất Hạnh.

Trong một bài giảng đạo nổi tiếng, ông từng cho rằng ai cũng có thể trở thành Bồ tát (bodhisattvas) nếu họ học cách tìm thấy niềm vui và thanh thản ngay ở những hành động nhỏ nhặt nhất như lột cam hay uống trà. Với hơn 70 quyển sách được xuất bản, vai trò của Thích Nhất Hạnh trong đời sống tâm linh phương Tây là không thể phủ nhận.

Christiana Figueres, cựu thư ký thường trực của Công ước khung Liên Hiệp Quốc về Biến đổi Khí hậu, từng chia sẻ vào năm 2016 rằng cô đã không thể tham gia và xây dựng thành công Hiệp định Paris nếu không nhờ vào những lời giảng dạy của Thích Nhất Hạnh. Giám đốc Ngân hàng Thế giới Jim Yong Kim gọi quyển “Phép màu của Chánh niệm” (Miracle of Mindfulness) của Thích Nhất Hạnh là quyển sách ưa thích nhất của ông. [2]

Thích Nhất Hạnh trong một bức ảnh chụp tại Làng Mai vào năm 2009. Ảnh: PVCEB.

Tuy nhiên, đối với nhiều người, đặc biệt đối với cộng đồng người Việt hải ngoại hình thành ngay sau năm 1975 và những người trong nước có tìm hiểu về chiến tranh Việt Nam, Thích Nhất Hạnh không khác gì con cờ của chính quyền Bắc Việt.

Cùng với Phật giáo Ấn Quang, một nhánh chính của Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất hoạt động tích cực tại miền Nam Việt Nam, Thích Nhất Hạnh và giới tăng sư phản chiến thời kỳ này bị nhiều người gọi là “phản quốc” hay “ăn cơm quốc gia, thờ ma cộng sản”.

Điều gì đã tạo ra hai hình ảnh thuộc về hai thái cực khác biệt nhau đến như vậy? Liệu đó có phải là hiểu nhầm? Định mệnh của lịch sử? Hay chúng là sự thật? Bài viết sẽ không đi quá xa về việc bình luận hay đưa ra những giả thiết mang tính chất âm mưu thường thấy về vị thiền sư lừng danh này (như về đời sống vợ chồng, con riêng hay thực tế tu tập). Do bản thân Thích Nhất Hạnh ít khi được bàn đến trong sử sách chính thống Việt Nam, tác giả mong muốn cung cấp cho bạn đọc những thông tin còn thiếu sót đó.

Con đường đến danh tiếng quốc tế

Danh tiếng của Thích Nhất Hạnh trước tiên đến từ quốc gia nơi ông sinh ra. Thích Nhất Hạnh tên thật là Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, lớn lên tại Huế, Việt Nam. [3] Ông được ghi nhận là có định hướng tu hành khi còn khá nhỏ. Năm 16 tuổi, Nguyễn Xuân Bảo xuất gia theo phái Thiền Tông tại Việt Nam và chính thức trở thành một sư thầy vào năm 1951.

So với độ tuổi, Thích Nhất Hạnh đạt được những thành tựu tôn giáo đáng kể. Ở giữa tuổi 20, Thích Nhất Hạnh đã có sách xuất bản riêng. Ông bắt đầu quảng bá cho cách tiếp cận đổi mới của riêng ông về Phật giáo.

Thích Nhất Hạnh vào những năm 1950. Ảnh: PVCEB.

Ông chỉ trích Phật giáo miền Nam Việt Nam thời kỳ này quá phi chính trị và cách biệt với đời sống người dân. Từ đó, ông phát động phong trào Phật giáo Dấn thân (thường được biết đến ở phương Tây là “Engaged Buddhism”). [4] Nhiệm vụ của phong trào này là áp dụng triết lý và điều răn dạy của Phật giáo vào đời sống thực tế để giải quyết các vấn đề như chiến tranh, bất bình đẳng xã hội hay đàn áp chính trị. Thích Nhất Hạnh đồng thời là chủ biên của Tạp chí Phật học Việt Nam, một tờ báo chỉ được phát hành tại miền Nam Việt Nam.

Năm 1960, sự ra đời của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Miền Nam Việt Nam là dấu mốc đẩy các cuộc xung đột, giết chóc tại miền Nam Việt Nam ngày càng leo thang và lan tỏa vào thành phố.

Phong trào Phật giáo Dấn thân của Thích Nhất Hạnh được cho là trở thành cái gai trong mắt của chính quyền Ngô Đình Diệm khi công khai phản đối nhiều hoạt động quân sự và khuyến khích người dân phản chiến.

Tuy vậy, Thích Nhất Hạnh vẫn đến Sài Gòn sinh sống trong một thời gian trước khi được chọn tham gia vào chương trình trao đổi do Đại học Princeton, Hoa Kỳ tài trợ. Ông học tập về Tôn giáo học So sánh (Comparative Religion) và được bổ nhiệm làm giảng viên môn Phật giáo Đông phương tại trường Đại học Columbia sau khi kết thúc khóa học. Đây là giai đoạn Thích Nhất Hạnh bắt đầu xây dựng danh tiếng của mình như một nhà vận động phản chiến, hay thậm chí có thể nói là một trong những người đầu tiên khơi mào cho phong trào phản chiến tại Hoa Kỳ. Ông nhanh chóng trở thành gương mặt “người thật việc thật” từ Việt Nam được giới phản chiến Hoa Kỳ thời điểm này ưa chuộng.

Năm 1963, sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh và giết hại, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam và tiếp tục các hoạt động của mình. Danh tiếng và ảnh hưởng của Thích Nhất Hạnh đối với phong trào phản chiến trong nước được tăng cường.

Ngay sau khi chính phủ Sài Gòn mới thành hình, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất được thành lập. Thích Nhất Hạnh là một trong những thành viên tích cực nhất.

Ông được giao làm chủ bút của tuần báo Hải Triều Âm - cơ quan ngôn luận chính của Viện Hóa đạo và Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất. [5] Tuần báo này thu hút nhiều tác giả Phật học, nghị luận viên có tiếng nói và nhanh chóng trở thành tạp chí tôn giáo phổ biến nhất miền Nam Việt Nam. Ông cũng tạo cơ sở cho việc thành lập một trường học Phật giáo dành riêng cho thanh thiếu niên có tên gọi Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội. [6]

Thích Nhất Hạnh dạy trẻ em tập đọc bằng một bài hát về Quán Thế Âm Bồ Tát tại một làng tự nguyện những năm 1960. Ảnh: PVCEB.

Hải Triều Âm lẫn Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội đều có xu hướng chống chính phủ Sài Gòn. Các bài viết của Hải Triều Âm đều có mục tiêu chung là chỉ trích Ngô Đình Diệm và biện giải cho phong trào Phật giáo trước đó, với điểm nhấn là việc Thích Quảng Đức tự thiêu. Tờ báo còn dấn sâu vào việc phê bình chính phủ đương thời miền Nam Việt Nam, yêu cầu loại bỏ các thành phần “thân Diệm” còn sót lại trong chính quyền, đồng thời chỉ trích khả năng can thiệp của quân đội Hoa Kỳ vào chiến tranh Việt Nam.

Bản thân Thích Nhất Hạnh cũng cho ra đời quyển “Hoa sen trong biển lửa”, viết bằng tiếng Việt (xuất bản và biết đến tại phương Tây với tên gọi “Lotus in the Sea of Fire”). [7] Theo người viết, cuốn sách này là tác phẩm phê bình và đấu tranh chính trị thuần túy. Nó bàn và phân tích cả đến vấn đề lịch sử Việt Nam cận đại với mục tiêu gây ảnh hưởng lên dư luận; và chỉ là “vô tình” có sử dụng ngôn ngữ Phật học.

Năm 1966, nhận lời mời của Đại học Cornell, Thích Nhất Hạnh lên đường sang Hoa Kỳ. [8] Chuyến đi trở thành chuyến công du tại hơn 19 quốc gia. Ông phát biểu trước Quốc hội Vương quốc Anh, Quốc hội Canada, Quốc hội Thụy Điển. Ông gặp gỡ với hai đại diện của hai chiến tuyến ở Hoa Kỳ: phe chủ chiến của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Robert McNamara và phe phản chiến do Thượng Nghị sĩ William Fulbright đứng đầu. Ông thậm chí còn có cơ hội gặp gỡ riêng và trình bày ý kiến với Giáo hoàng Paul VI.

Thông điệp chủ đạo của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài nhất nhất như một: đòi hỏi Hoa Kỳ ngừng can thiệp vào chiến tranh Việt Nam; yêu cầu các hoạt động quân sự của quân đội Việt Nam Cộng hòa và quân đội Hoa Kỳ chỉ được giới hạn trong phạm vi phòng vệ; lên án các vi phạm nhân quyền nói chung và quyền tôn giáo nói riêng tại miền Nam Việt Nam; yêu cầu chính quyền Sài Gòn thương lượng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam và từ đó chấm dứt chiến tranh, thống nhất đất nước. [9]

Thông điệp này bị cho là vượt quá vai trò của một lãnh tụ tôn giáo, và khá dễ hiểu khi nó không được Việt Nam Cộng hòa chào đón. Thích Nhất Hạnh bị cấm trở lại miền Nam Việt Nam. Song trong cuộc sống tha hương, hình ảnh và quan điểm của ông ngày càng phổ biến ở phương Tây, mà đặc biệt là Hoa Kỳ. Giới hippies phổ nhạc những bài thơ phản chiến của Thích Nhất Hạnh, và Martin Luther King đề cử ông cho giải Nobel Hòa bình năm 1967. [10]

Thích Nhất Hạnh cùng mục sư Martin Luther King trong một cuộc họp báo về chiến tranh Việt Nam ở Chicago vào ngày 31/5/1966. Ảnh: PVCEB.

Dù công khai chống lại phe chủ chiến ở Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn trong suốt hai thập niên tồn tại ngắn ngủi của quốc gia này, Thích Nhất Hạnh luôn xem mình nằm ở vị trí trung lập và chưa bao giờ đứng về phe nào. Quan điểm này cũng được báo chí thế giới phản ánh ghi nhận.

Trong luận thư đính kèm với một bài thơ phản chiến gửi cho ấn phẩm New York Review of Books, ông khẳng định: [11]

“Người ta cho rằng chúng tôi quá ngu ngơ về Cộng sản. Chúng tôi không như thế. Chúng tôi biết rằng Phật giáo bị quản thúc và kiểm soát như thế nào tại miền Bắc. Chúng tôi đã được học về những gì xảy ra tại Trung Hoa. Chúng tôi biết không có chỗ cho tâm linh trong chủ nghĩa Marx.

Và chúng tôi đã sẵn sàng cho một cuộc đấu tranh chính trị hòa bình đối với những người Cộng sản, nhưng nó chỉ có thể thực hiện nếu chiến tranh kết thúc. Chúng tôi tin rằng người dân miền Nam Việt Nam có thể tự bảo vệ mình khỏi chủ nghĩa Cộng sản nếu họ được trao quyền tự quyết và thực hiện đời sống chính trị của mình trong hòa bình”.

“Kẻ phản bội”?

Những hoạt động chính trị của Thích Nhất Hạnh liên quan đến chiến tranh Việt Nam đã giúp ông trở nên nổi tiếng và nay, có thể nói, là lãnh tụ Phật giáo có ảnh hưởng nhất thế giới, chỉ đứng sau Đức Dalai Lama.

Song dù phong trào phản chiến giúp tiếng nói của ông nhận được sự đồng cảm và ủng hộ rất lớn từ giới bình dân phương Tây, Thích Nhất Hạnh không tìm được nhiều sự ủng hộ từ chính những người ông từng hứa sẽ bảo vệ - người dân miền Nam Việt Nam. Và người viết, ở mức độ nào đó, hiểu được sự bất mãn của phần lớn những người sinh sống dưới thời kỳ Việt Nam Cộng hòa, đặc biệt là những thuyền nhân phải vượt biên sau năm 1975.

Bạn đọc có thể tham khảo những quan điểm này, được tổng hợp tương đối rời rạc trong tác phẩm “The Dark Journey: Inside the Re-education Camps of Vietcong” của tác giả Hoa Minh Truong, do Strategic Book Publishing xuất bản. [12] Người viết đã cân nhắc và nhận thấy nhà xuất bản có trụ sở ở Hoa Kỳ từng vướng vào nhiều tranh chấp pháp lý với các tác giả và cộng sự, và chắc chắn chúng ta không thể hoàn toàn tin tưởng vào chất lượng biên tập của họ. Tuy nhiên, xét về mặt thông tin, không quá khó để kiểm chứng lại chúng.

Điểm thứ nhất, nhiều người chỉ ra tiêu chuẩn kép trong các vận động chính trị của Thích Nhất Hạnh.

Dù cực lực lên án Hoa Kỳ tham chiến và phê phán tình trạng nhân quyền của chính quyền miền Nam Việt Nam, ông chưa bao giờ có thái độ tiêu cực đối với vai trò của quân đội Trung Quốc tại Bắc Việt, hay việc quân đội Bắc Việt Nam tiến vào miền Nam Việt Nam. Đặc biệt hơn, ông chưa từng dám lên tiếng phản đối những chiến dịch khủng bố, ám sát tại đô thị do lực lượng Mặt trận (thường được quân nhân Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn gọi là Việt Cộng) thực hiện.

Người dân chạy nạn đợt tấn công Mậu Thân 1968 trở về Huế sau khi binh lính Mỹ và Việt Nam Cộng hòa tái chiếm thành phố. Hình chụp ngày 13/3/1968. Nguồn: Getty Images.

Đây là luận điểm mà người viết cho rằng không hề nói quá. Từ các cuộc thảm sát sau Tổng tiến công Mậu Thân năm 1968 do chính quyền Bắc Việt và phe Mặt trận chủ động thực hiện, cho đến hàng loạt những vụ đánh bom nhắm vào các mục tiêu dân sự suốt từ năm 1968 cho đến 1975, người viết không tìm được bất kỳ tài liệu nào về việc Thích Nhất Hạnh lên tiếng phản đối hay lên án những hành vi leo thang vũ lực của phía chính quyền cộng sản, dù ông luôn tự nhận mình là người trung lập.

Trong suốt giai đoạn này, Thích Nhất Hạnh vẫn tiếp tục những nỗ lực phản chiến, hay đúng hơn là chỉ trích chính quyền Hoa Kỳ và chính quyền miền Nam Việt Nam. Đây là điều khó lý giải, bởi sau sự kiện Mậu Thân 1968 đẫm máu, khó ai có thể nghĩ phe quyết chiến tại Việt Nam thật sự là Hoa Kỳ hay chính quyền Sài Gòn.

Song những nỗ lực của Thích Nhất Hạnh với phong trào phản chiến quốc tế vẫn thành công trong việc đẩy toàn bộ trách nhiệm của việc leo thang chiến sự tại miền Nam Việt Nam về phía liên minh Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn. Một năm trước sự kiện Mậu Thân 1968, trong tác phẩm “Hoa sen trong biển lửa” đã nhắc đến ở trên, ông vẫn cho rằng Mặt trận là một lực lượng đại diện ý nguyện nhân dân mà cả Hoa Kỳ lẫn Sài Gòn phải tôn trọng ý kiến. [13]

Vậy, nói về tự do tôn giáo và bảo vệ Phật giáo, liệu Thích Nhất Hạnh có tiền hậu bất nhất hay không? Có nhiều bằng chứng cho thấy là có.

Trong giai đoạn trước 1975, đặc biệt là sau 1963, dù Lễ Phật Đản và các hoạt động Phật giáo được tiến hành một cách hết sức thuận lợi, [14] Thích Nhất Hạnh vẫn vận động mạnh mẽ và nhiều lần lên án chính quyền Sài Gòn trong vấn đề tự do tôn giáo tại quốc hội nhiều nước hay tại Liên Hiệp Quốc.

Tuy nhiên, sau năm 1975, ông gần như không có bất kỳ chỉ trích nào dành cho Chính phủ lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam và sau đó là Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, dù các tăng lữ, tăng ni thuộc phái của chính ông phải chịu sự đàn áp và tổn thất nặng nề.

Ngay sau giải phóng, cơ sở Phật giáo của các giáo phái trong nhánh Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN) như Ấn Quang hay Quốc Tự bị tịch thu trên diện rộng, dù phái Ấn Quang của Thích Nhất Hạnh khá ủng hộ Mặt trận trước đó.

Năm 1977, khi việc quốc hữu hóa tài sản của GHPGVNTN trở nên quyết liệt và phổ biến hơn, Ban trị sự của Giáo hội cũng ra lời kêu gọi tổ chức biểu tình. [15] Song phong trào dân sự, tôn giáo thời điểm này không dễ dàng thành công như trong thời kỳ của chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Những chức sắc lãnh đạo cuộc biểu tình như Thích Huyền Quang và Thích Quảng Độ bị bắt và bị xét xử hình sự. Các cuộc tự thiêu chìm vào quên lãng.

Thích Quảng Độ trong phiên tòa vào tháng Tám năm 1995 tại Thành phố Hồ Chí Minh cùng với Hòa thượng Thích Không Tánh, Thích Nhật Ban, Thích Trí Lực và hai Cư sĩ Đồng Ngọc, Nhật Thường. Ảnh: Phật tử Việt Nam.

Đến năm 1981, Giáo hội này bị chính quyền giải thể bằng quyết định hành chính. Thay vào đó, Giáo hội Phật giáo Việt Nam ra đời sau cuộc họp của các đại diện tăng lữ do chính quyền chỉ định.

Kể từ lúc ấy, Giáo hội Phật giáo Việt Nam tự nhận mình là đại diện độc tôn của tất cả các hoạt động Phật giáo của người Việt Nam cả trong lẫn ngoài nước. Nó cũng là thành viên đại diện duy nhất của tôn giáo này trong Mặt trận Tổ Quốc Việt Nam. Năm 1981 cho đến đầu thập niên 1990 là giai đoạn mà hoạt động tôn giáo bị kiểm soát chặt chẽ, với việc các cá nhân phản đối bị bắt bớ, giam giữ và xét xử.

Thích Quảng Độ, lãnh đạo cuối cùng của GHPGVNTN, ra tù vào năm 1998 và tá túc tại Thanh Minh Thiền viện ở thành phố Hồ Chí Minh dưới sự kiểm soát chặt chẽ của chính quyền. Do sức ép quá lớn và sự xuất hiện thường xuyên của lực lượng an ninh, công an, Thích Quảng Độ sau đó phải rời thiền viện này. [16] Ông mất vào đầu năm 2020.

Câu chuyện về sự đàn áp của chính quyền đối với GHPGVNTN, bằng cách nào đó, chưa bao giờ tìm được đường vào những lời giảng hay những bài phát biểu của Thích Nhất Hạnh tại nước ngoài. Ngược lại, ông tập trung phổ biến và xây dựng nhiều chi nhánh Phật giáo Thiền tông của mình tại nước ngoài, tận hưởng những thành công lớn cả về mặt tôn giáo lẫn tài chính.

***

Trong một khoảng thời gian dài, Thích Nhất Hạnh không hề lên tiếng về những bất công mà người dân miền Nam Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975, về nỗi thống khổ của hơn hai triệu thuyền nhân Việt Nam và hàng trăm ngàn người bỏ mạng trên biển; hay ra mặt bảo vệ quyền lợi cho chính giáo hội trong nước của mình.

Đến năm 2005, Thích Nhất Hạnh trở về Việt Nam để chủ trì Đại lễ cầu siêu cho các “nạn nhân chiến tranh Việt Nam”. Trớ trêu thay, ông cũng chỉ làm việc thông qua Giáo hội Phật giáo Việt Nam, với sự can dự sâu của chính quyền trước mặt truyền thông quốc tế.

Thích Nhất Hạnh thăm chùa Thiên Mụ tại Huế vào năm 2005. Ảnh: Dang Ngo/ Zuma Press.

Đây có thể xem là giọt nước tràn ly khiến cho một bộ phận lớn người Việt hải ngoại cũng như giới nghiên cứu chiến tranh Việt Nam khó có thể cân nhắc Thích Nhất Hạnh như là một nhân vật trung lập với chánh niệm Phật giáo thuần túy.

Hiển nhiên, Thích Nhất Hạnh có thể tự xem mình là kẻ thù của cả hai phía trong chiến tranh Việt Nam; như ông tự kể một cách châm biếm rằng tội của ông là “đã xem con người của cả hai bên là anh em, dù họ thuộc phía Cộng sản hay thuộc phía chống Cộng”. [17]

Với những bằng chứng đã có, người viết cho rằng chánh niệm của Thích Nhất Hạnh chưa bao giờ chỉ là chánh niệm. Ông thành lập ra phong trào Phật giáo Dấn thân là để can dự và tham gia vào cuộc đối thoại, tranh cãi chính trị của Chiến tranh Việt Nam. Vậy nên, dù đúng hay sai, lịch sử có quyền tháo bỏ cái hào quang thánh người ta đội cho ông và xét lại vai trò của ông như nó đã làm với bất kỳ ai.


Chú thích

1.  Aidyn Fitzpatrick. (2019, January 24). The Monk Who Taught the World Mindfulness Awaits the End of This Life. Time. Retrieved 2022, from https://time.com/5511729/monk-mindfulness-art-of-dying/

2.  Xem [1]

3.  Kyte, L. (2022, January 21). The Life of Thich Nhat Hanh. Lion’s Roar. Retrieved 2022, from https://www.lionsroar.com/the-life-of-thich-nhat-hanh/

4.  Thich Nhat Hanh. (2021, June 10). The Fourteen Precepts of Engaged Buddhism. Lion’s Roar. Retrieved 2022, from https://www.lionsroar.com/the-fourteen-precepts-of-engaged-buddhism/

5.  Thích Giác Toàn. (Aug 2014). Lược Sử Báo Chí Phật Giáo Việt Nam Từ Năm 1951 Đến Năm 1975. Thư viện Hoa Sen. https://thuvienhoasen.org/a21838/luoc-su-bao-chi-phat-giao-viet-nam-tu-nam-1951-den-nam-1975

6.  Chân Diệu Hải. (2014). Trái tim thanh niên phụng sự xã hội – Làng Mai. Làng Mai. Retrieved 2022, from https://langmai.org/dai-may-tim/van/cau-van-cua-long-truoc-2014/trai-tim-thanh-nien-phung-su-xa-hoi/

7.  Vietnam: Lotus in a Sea of Fire - A Buddhist Proposal for Peace: Thich Nhat Hanh, Thomas Merton: 9780809013340: Amazon.com: Books. (1967). Amazon. Retrieved 2022, from https://www.amazon.com/Vietnam-Lotus-Buddhist-Proposal-Peace/dp/0809013347

8.  Modernity and Re-enchantment. (2007). Google Books. Retrieved 2022, from https://books.google.com.vn/books?id=0h9qDwAAQBAJ

9.  A Proposal for Peace: 1 June, 1966. (2019, October 10). Plum Village. Retrieved 2022, from https://plumvillage.org/about/thich-nhat-hanh/letters/a-proposal-for-peace-1-june-1966/

10.  Schedneck, B. (2019, March 18). Thich Nhat Hanh, the Buddhist monk who introduced mindfulness to the West, prepares to die. The Conversation. Retrieved 2022, from https://theconversation.com/thich-nhat-hanh-the-buddhist-monk-who-introduced-mindfulness-to-the-west-prepares-to-die-111142

11.  Thich Nhat Hanh. (2021, November 21). A Buddhist Poet in Vietnam | by Thich Nhat Hanh. The New York Review of Books. Retrieved 2022, from https://www.nybooks.com/articles/1966/06/09/a-buddhist-poet-in-vietnam/

12.  The Dark Journey. (2010). Google Books. Retrieved 2022, from https://books.google.com.vn/books?id=082R3MlMLfAC

13.  Congressional Record. (1967). Google Books. Retrieved 2022, from https://books.google.com.vn/books?id=BNZwcP4UuZEC

14.  Phật Giáo A Lưới. (2015). Lễ Phật đản năm 1964 trong ký ức người dân Sài Gòn - Phật giáo A Lưới. Phật Giáo A Lưới. Retrieved 2022, from http://phatgiaoaluoi.com/news/Dien-dan/Le-Phat-dan-nam-1964-trong-ky-uc-nguoi-dan-Sai-Gon-6088/#.XZmNYVUzbix

15.  Vietnam. (1995). Human Rights Watch. Retrieved 2022, from https://www.hrw.org/reports/1995/Vietnam.htm

16.  RFA. (2020, October 11). Hoà Thượng Thích Quảng Độ bị đuổi khỏi Thanh Minh Thiền Viện. Radio Free Asia. Retrieved 2022, from https://www.rfa.org/vietnamese/news/vietnamnews/ven-thich-quang-do-evicted-10072018085741.html

17.  BBC Vietnamese. (2005). BBC Việt Ngữ. Retrieved 2022, from https://www.bbc.com/vietnamese/regionalnews/story/2005/01/050110_thichnhathanh

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll 

Phật giáo chỉ ra 4 kiểu người phúc mỏng mệnh khổ: Hãy xem bạn có nằm trong số đó hay không

Khánh An |

Nếu nhận thấy bản thân thuộc một trong bốn kiểu người được nhắc đến dưới đây, bạn nên thay đổi càng sớm càng tốt.

Có câu tục ngữ: "Nhất ẩm nhất trác, mạc phi tiền định." Câu này có nghĩa là mọi việc đều có nhân quả của nó, của bản thân mình thì không mất được, không phải của mình thì có cầu cũng không được. 

Dưới góc nhìn của Phật gia thì vạn vật trên thế gian đều có nhân quả, phúc họa không tự tìm đến cửa mà là do con người tạo ra, bạc mệnh phúc mỏng là do ông trời sắp đặt, người phúc lớn mệnh tốt cũng là nhân quả của họ.

Phật Giáo cho rằng, bốn kiểu người sau đây thường bạc phận phúc mỏng, chúng ta hãy cùng xem xem những kiểu người được nhắc đến ở đây là gì.

1. Người hay giận dữ, quở mắng người khác

Trái tim mang nhiều oán hận là một trong ba loại độc mà Phật Giáo đã nêu và làm tổn hại âm đức nhất, nếu một người có lòng oán hận quá nặng, người đó nhất định sẽ khổ sở.  

Trong "Thành duy thức luận" có nói: "Người có nhiều oán hận là ghen ghét thành tính, không kiểm soát được hành vi của mình, không sống yên ổn, làm nhiều điều ác."

Căm hận ám chỉ một loại trạng thái tâm lý thích than phiền, oán hận và quở mắng người khác. Dưới cách nhìn của Phật giáo, oán giận là nguồn gốc của tất cả tội ác. Thường xuyên oán hận sẽ ảnh hưởng đến may mắn và phong thủy của một người, thậm chí nó sẽ tạo ra tội, ra nghiệp không thể tưởng tượng được, khiến người đó phải nhận quả đắng, bạc phận phúc mỏng.

Trong "Nhập hành luận" có nói: "Một lần oán hận có thể hủy hết cả công đức mà bạn đã tích góp được trong nghìn kiếp, làm nhiều việc thiện bạn sẽ nhận được quả ngọt".

Chỉ cần có một suy nghĩ oán hận sẽ thiêu đốt hết cả rừng công đức, nếu có trái tim oán hận quá nặng, bạn sẽ bị thiêu hủy hết tất cả công đức và phúc đức, cho dù bạn tích góp được phúc đức nhiều đến cỡ nào cũng không ngăn được việc bạn sẽ tiêu hao hết chúng.

2. Người không hiếu thuận với cha mẹ

Phật giáo cho rằng, cha mẹ là phúc điền (nơi nuôi dưỡng phúc đức) lớn nhất trên thế gian này, nếu một người không hiếu thuận với cha mẹ thì sẽ dẫn đến kết cục vô cùng thảm hại, ngược lại một người hiếu thuận với cha mẹ thì người đó sẽ gặp được nhiều may mắn nhất trên thế gian này.

Trong "Kinh địa tạng Bồ Tát bổn nguyện" có nói: "Nếu không hiếu thuận với cha mẹ thì sẽ bị đuổi cùng giết tận, bị giáng xuống địa ngục vô tận, ngàn vạn kiếp không được siêu sinh."

Nếu một người không hiếu thuận với cha mẹ, nhất định sẽ phải nhận ác báo, bạc phận phúc mỏng.

Tôi có một người hàng xóm cưới được một cô vợ vô cùng xinh đẹp, cưới vợ xong thì quên mất mẹ, tôi cũng đã nhiều lần khuyên anh ấy rằng: "Anh đối xử với vợ tốt như vậy, chăm sóc vô cùng chu đáo tỉ mỉ, nhưng lại để cha mẹ ở nhà chịu khổ, không quan tâm không hỏi thăm cha mẹ, anh nỡ lòng ư?"

Cậu ta trả lời rằng: "Mặc dù cha mẹ đã lớn tuổi nhưng vẫn được xem là khỏe mạnh, mặc dù ăn không được ngon nhưng không đến nỗi đói chết, không cần tôi phải quan tâm lo lắng."

Trong lòng tôi cũng biết rõ rằng hành vi của anh hàng xóm sẽ mang lại quả báo như thế nào, nhưng đối phương lại không nghe lời khuyên của tôi nên tôi cũng hết cách.

Cũng giống như Phật Thích Ca Mâu Ni muốn độ hóa chúng sinh nhưng chúng sinh lại không muốn tiếp nhận lời dạy dỗ của Phật, nên Phật cũng lực bất tòng tâm.

Quả báo đến vô cùng nhanh chóng và mãnh liệt, không lâu sau đó, vợ của cậu hàng xóm bệnh nặng qua đời, tuy sinh được hai người con trai nhưng hai đứa trẻ từ nhỏ đã không biết hiếu thuận, hoàn cảnh trong tương lai tin chắc rằng mọi người đều có thể tưởng tượng ra được. 

Nửa đời sau của người hàng xóm không nghe lời khuyên này chắc chắn sẽ cô độc lạnh lẽo, vất vả cả một đời.

Phật thường nói rằng: "Người không hiếu thuận với song thân (cha mẹ) trong nhà thì thành tâm bái Phật có tác dụng gì?" Nếu một người đã không hiếu thuận với cha mẹ thì đến Phật Bồ Tát cũng không cứu nổi anh ta.

3. Người thường xuyên sát sinh

Phật Giáo cho rằng: "Trong tất cả các tội nghiệp thì sát sinh là tội nặng nhất." Nếu một người thường xuyên sát sinh thì sẽ gặp phải nhân quả vô cùng nghiêm trọng, tất nhiên người đó sẽ bạc phận phúc mỏng.

Trong "Đại trí độ luận" có khuyên người đời rằng: "Đừng nên cướp đi mạng sống của những sinh vật khác, nếu sát sinh con người sẽ phải chịu muôn vàn kiếp khổ đau."

Người có nghiệp sát sinh càng nặng thì phúc sẽ càng mỏng, nếu không thể ngừng việc giết hại họ sẽ phải nhận quả đắng đoản thọ (có tuổi thọ ngắn).

4. Người mang khẩu nghiệp

Trong cuộc sống có một kiểu người thích đi khắp nơi nói xấu người khác, nói chuyện thị phi sau lưng người khác, thích xuyên tạc, ăn nói lung tung, thường nói những lời chua ngoa và những câu làm tổn thương người khác, người như thế nhất định sẽ phúc mỏng bạc phận.

Phật giáo cho rằng miệng của con người tạo nghiệp nhanh nhất, không cẩn thận một chút may mắn sẽ từ miệng chạy đi mất. 

Miệng là cánh cửa của tai họa, nếu bạn thường ăn nói lung tung, hai mặt và bịa chuyện thì nhất định sẽ tạo ra quả đắng.

Nếu người bạc phận phúc mỏng muốn càng sống càng gặp được nhiều may mắn thì nhất định phải có tấm lòng lương thiện, làm nhiều việc tốt, nói lời hay ý đẹp, hiếu thuận với cha mẹ của mình, có như thế mới gặp được may mắn, kéo dài tuổi thọ và tạo nhiều phúc cho con cháu.

llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll