TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Wednesday 21 May 2014

*** TU TÂM DƯỠNG TÁNH (CƯ TRẦN LẠC ĐẠO TẬP 3)

Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Trên thế giới hiện nay, từ Âu sang Á, có rất nhiều tôn giáo, tín ngưỡng khác nhau.  Nói chung, đối với mỗi tôn giáo đều có hai hạng người: tu sĩ và tín đồ.  Trong phạm vi bài này, để cho quảng đại quần chúng cùng theo dõi, chúng ta chỉ nhắc đến Phật giáo.  Trong phạm vi đó, chúng ta thử tìm hiểu một vấn đề thường được đề cập đến trong cuộc sống hằng ngày, đó là chữ "tu", nhất là vấn đề tu hành dành cho cả hai giới tín đồ và tu sĩ, hay nói cách khác là Phật Tử tại gia và xuất gia.

Về phương diện vật chất, khi thấy có một công trình kiến trúc lâu năm đang xuống cấp, hư hao, người ta đề nghị trùng tu hay tu bổ, nghĩa là sửa chữa công trình đó cho tốt đẹp hơn, khang trang hơn, vững chắc hơn.  Về phương diện tinh thần hay tâm linh, khi gặp một người hiền lành, biết ăn chay, tụng kinh niệm Phật, tánh tình dễ dãi, hiền hòa nhã nhặn với mọi người, người ta thường nói người đó "nhờ biết tu" nên mọi người chung quanh cảm thấy dễ thở, thoải mái.  Niềm an lạc và hạnh phúc có ngay từ trong gia đình người đó, ảnh hưởng đến ngoài xóm làng, bạn bè và những người quen biết. 

Còn đối với những người không biết tu, bản thân họ không hưởng được an lạc và hạnh phúc, không biết được thế nào là "pháp vị" vi diệu tuyệt vời.  Họ thường bị phiền não và khổ đau của cuộc đời chi phối, bức bách, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng yên, bởi những chuyện thị phi, hơn thua, tranh chấp liên tục, không bao giờ giải quyết được ổn thỏa.  Thêm nữa, gia đình họ khó có được những ngày thực sự êm đềm hạnh phúc, bởi ảnh hưởng những nhiệt não tỏa ra từ con người không biết thế nào là tu đúng theo Chánh Pháp, hoặc chỉ biết tu hình tướng và tin theo những điều mê tín dị đoan. 

Những người không biết Chánh Pháp để tu, thường cảm thấy bất mãn, bực dọc, thèm muốn, thích đấu tranh, thích hơn thua, thích tiện nghi, nhàn hạ, chùa to tượng lớn, phô trương, cung kính, ăn trên ngồi trước, nghĩa là họ thích đủ mọi thứ trên trần đời.  Họ luôn luôn nhìn thấy cuộc đời đầy phiền não và khổ đau, mọi người trên trần đời là bần tiện xấu xa, con người và cuộc đời đều đáng lánh xa. 

Họ không bao giờ nghĩ là họ chưa hoàn toàn, chưa hoàn hảo, họ cũng có một phần lỗi trong các cuộc tranh chấp ở đời.  Lúc nào họ cũng thấy là "mình đúng người sai".  Cho nên họ chạy đi tìm thần linh, tìm thượng đế để cầu nguyện, khấn vái, cầu khẩn,van xin, hết điều này đến điều nọ.  Nếu mọi chuyện đều được đáp ứng, toại nguyện, tốt đẹp như ý họ mong cầu, họ cho là "trời thương".  Bằng như ngược lại, họ phiền trách, cho là "trời không thương", hoặc "trời bất công"! 

Những người không hiểu biết Chánh Pháp thường nghĩ rằng, cho rằng đạo Phật chỉ dành cho những người thất tình, bất đắc chí, hay những người già cả không sống được với con cháu trong gia đình nên cạo đầu vào chùa để "tu".  Lâu ngày cửa chùa biến thành chỗ trốn nợ đời, hay là viện dưỡng lão, thiền môn biến thành sân khấu cải lương nam bộ của những kẻ sầu đời, chán ngán thế thái nhơn tình! 
Bởi vậy cho nên, thiết tưởng chúng ta cũng cần tìm hiểu: "tu" nghĩa là gì, để làm gì, có ích lợi gì?  Những ai cần phải tu?  Tại sao phải tu?  Làm sao tu theo Phật?  Muốn tu theo Phật phải làm gì? 
Trong mọi giới Phật Tử chúng ta hiện nay, phần đông không hiểu rõ ý nghĩa của chữ "tu", không hiểu rõ tu để làm gì, cho nên ứng dụng một cách đáng thương.  Có người cho rằng tu là phải cạo râu tóc, mặc áo nâu sòng, hay áo cà sa, vào ở trong chùa, tức là phải có hình tướng nhà sư, phải là tu sĩ mới gọi là "người tu".  Hoặc rộng rãi hơn một chút, có người cho rằng phải biết ăn chay, thường xuyên đi chùa, tụng kinh, niệm Phật, làm công quả, làm Phật sự, làm việc chùa, mới gọi là người tu.  Không làm như vậy thì không phải là người tu. 

Hiểu như vậy không hoàn toàn sai, nhưng chúng ta chỉ mới chú ý đến phần "sự", tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài của một người tu mà thôi.  Hay nói cách khác, những điều đó chỉ là "điều kiện có" của một người tu, dù là xuất gia tu sĩ hay tại gia cư sĩ, chứ chưa phải là "điều kiện đủ" để thành một người tu thực sự theo đạo Phật.  Đạo Phật không chú trọng nhiều đến hình thức, hình tướng, nhưng không phải không cần có hình thức, hình tướng bên ngoài.  Tuy vẫn cần phải có hình thức, hình tướng bên ngoài, một người tu đồng thời cũng phải có chất lượng "sự", có nội dung bên trong, gọi là phần "lý", cả hai phải được vẹn toàn, phải "lý sự viên dung" mới gọi là tu đúng Chánh Pháp . 

Trước hết nói về phần "sự", tức là phần hình thức, hình tướng bên ngoài, chúng ta thảy đều đồng ý là một người tu cần phải có hình thức trang nghiêm thanh tịnh.  Nghĩa là một người tu cần phải ăn mặc tề chỉnh, đi đứng đàng hoàng, thái độ chững chạc, cử chỉ khoan thai, nói năng lễ độ, hòa nhã khiêm tốn.  Không ai có thể chấp nhận một người ăn mặc lôi thôi xốc xếch, đi đứng nghiêng ngửa, nói năng hồ đồ, cử chỉ thô tháo, là một người tu chơn chính, ngoại trừ trường hợp các bậc thánh nhơn trong các chuyện cổ tích.  Cũng trong phần sự, nói chung người tu là người ăn hiền ở lành, không làm việc gì bất thiện, khổ người hại vật, luôn luôn giúp đỡ bất cứ ai, khi cần đến. 

Tuy nhiên, phần quan trọng hơn cả chính là phần "lý", tức là phần nội dung bên trong, phần tâm tánh chủ yếu, phần ý nghĩa của những việc làm bên ngoài trên đây.  Nghĩa là một người tu cần phải giữ gìn giới luật, tụng kinh, niệm Phật, thiền quán, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ bát nhã, đi chùa, làm tất cả mọi công việc đem lại ích lợi cho mình và cho người, một cách chí công vô tư, không phân biệt, không thành kiến.  Phần lý này được tóm gọn trong bốn chữ, đó là TU TÂM DƯỠNG TÁNH vậy. 
Nếu một người tu chỉ biết lo phần sự, chỉ biết lo trau chuốt hình tướng bên ngoài, chỉ biết lo làm những việc hình thức, không có phần lý, không thực sự thông hiểu và không thực hành Chánh Pháp, thì đó chỉ là cái thùng rỗng, chỉ có cái võ, không có ruột.  Một người chỉ biết tu hình thức như vậy, dù có cạo tóc vào ở trong chùa, trong tâm vẫn còn đầy dẫy phiền não, chỉ biết học những nghi lễ cúng kiến mà không hiểu ý nghĩa cao siêu của các nghi lễ đó.  

Họ không chịu nghiên cứu tìm hiểu Chánh Pháp, ngọn đuốc trí tuệ tắt ngỏm, cho nên chư Tổ gọi những người như vậy là "tu mù".  Người thế gian thường gặp họ trong các tang lễ, nên gọi họ là "thầy tụng đám ma".  Một người chỉ biết tu hình thức như vậy, không có ích lợi gì cho chính bản thân họ, ngoài lợi dưỡng, không có ích lợi gì cho những người chung quanh, và nhứt là không ích lợi gì cho đạo pháp cả. 

 Khi đến chùa lễ Phật, tụng kinh, cúng kiến hay thọ tam qui ngũ giới, Phật Tử chúng ta thường nghĩ rằng: chắc là từ đây về sau, chư Phật sẽ phù hộ độ trì cho được bình an, mọi mong cầu được vạn sự như ý, và cuối cùng, sau khi lìa bỏ cõi đời này, chúng ta sẽ được chư Phật rước về miền cực lạc.  Như vậy chúng ta chưa phải là Phật Tử chơn chánh.  Thọ tam qui tức là qui y Tam Bảo, gồm Phật Pháp Tăng, và nguyện giữ năm giới là sát, đạo, dâm, vọng, tửu.  Nói cách khác, qui y Tam Bảo rồi, chúng ta không sát sanh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, không uống rượu. 

Thực ra, kể từ ngày đó, việc chúng ta phải làm là cố gắng sửa đổi tâm tánh của chúng ta, phải quyết chí chừa bỏ những thói hư, tật xấu, phải chiến thắng những tâm niệm tham lam, sân hận, si mê, phải từ bỏ những lời nói ác độc, gièm xiểm, ganh tị, đố kỵ, phải từ bỏ những hành động xấu xa, gian ác, bất thiện, sát nhơn hại vật, phải từ bỏ những ý nghĩ lợi mình hại người, khen mình khinh người.  Kể từ ngày đó, chúng ta phải sống theo hạnh của chư Phật, chư Bồ Tát, làm lành lánh dữ, làm theo những lời dạy quí báu của chư Phật, chư Bồ Tát, chư vị Tổ sư, giữ gìn tâm ý cho thanh tịnh.  Đó chính là tu tâm dưỡng tánh vậy. 

Chúng ta thường nghĩ tu là nương tựa, là cầu xin với chư Phật để thỏa mãn mọi mong cầu và qui y Phật, theo Phật, thờ cúng Phật, lạy Phật, sẽ được bình an suốt đời.  Bởi vậy cho nên chúng ta trở thành yếu hèn, ỷ lại, mất hết ý nghĩa cao đẹp của chữ "tu".  Do bản chất của con người là tham lam, yếu đuối và sợ hãi, dù là Phật Tử thuần thành, đi chùa lễ Phật, tụng kinh thường xuyên, chúng ta cũng không tránh khỏi những tâm bệnh nói trên, cho nên không tránh khỏi những phiền não và khổ đau của cuộc đời. 

Do lòng tham lam sâu đậm từ vô thủy cho đến ngày nay, chúng ta qui y Phật với lòng mong cầu thỏa mãn những ước mơ thầm kín, thường là quá sức để thực hiện.  Chúng ta thỉnh thoảng đến chùa, hay thậm chí cạo tóc vào ở luôn trong chùa hằng chục năm dài, nhưng không chú ý đến việc học đạo, không màng đến những giáo pháp cao siêu trong các kinh điển, không học hỏi các bậc thiện tri thức, để tự tu tâm dưỡng tánh theo lời Phật dạy. 

Chúng ta thường đến chùa chỉ để cầu bình an, xin may mắn, khấn vái điều này, van xin điều nọ, khi gặp khó khăn, lâm cảnh khổ nạn, bèn tự kêu lên: "Phật ơi, cứu con!", người đời quen gọi, đó là "tu hú"!  Chúng ta sống lây lất cho qua ngày tháng trong niềm mê tín như vậy, để chờ ngày được Phật rước về miền cực lạc.  Thật là vô minh, làm uổng phí cả cuộc đời hiện tại vô cùng quí báu! 
Chỉ mang đến chùa có một bó nhang, một nải chuối, một bình bông, đóng góp một ít tiền ấn tống kinh sách, hoặc đăng báo lời nguyện với hai ba câu niệm Phật và Bồ Tát, chúng ta cầu nguyện, khấn vái, van xin, đủ thứ chuyện.  Nào là thân thể khỏe mạnh, gia đạo bình an, bệnh tiêu tật hết, con cái giàu sang, buôn may bán đắt, nhứt bổn vạn lợi, thắng chuyện kiện thưa, được tiền bạc triệu, tình duyên tốt đẹp, thi đâu đậu đó, tai qua nạn khỏi, vạn sự kiết tường, muôn sự như ý, tùy tâm mãn nguyện, quyến thuộc siêu sanh, thân nhân trường thọ, nghĩa là chúng ta mong cầu đủ mọi thứ trên trần đời.  Với cái giá cầu nguyện rẽ mạt như vậy, chúng ta van xin đủ những điều mà chư Phật đã dứt bỏ, và khuyên chúng ta nên dứt bỏ, để tu tập cho đến chỗ giác ngộ và giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi. 

Vì không chịu học đạo cho nên chúng ta mới sai lầm như vậy.  Làm như vậy, có phải là chúng ta đã phỉ báng Phật, đã làm sai lời Phật dạy?  Chúng ta không hiểu luật nhân quả, nghĩa là ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão, sinh sự sự sinh, gieo nhân nào gặt quả nấy, cho nên chúng ta dễ dàng phạm tội tạo nghiệp, dùng thủ đoạn thưa kiện, kiếm được nhiều tiền, cúng Phật chút đỉnh, tự kỷ ám thị, để mong cầu hết tội, chạy tội, xóa tội.  Nếu thực tâm muốn sạch tội, chúng ta phải biết pháp sám hối để diệt trừ nghiệp chướng, phiền não và khổ đau, tức là phải biết những lời dạy của chư Phật, phải học hỏi Chánh Pháp. 

Mọi phiền não khổ đau trên đời đều từ gốc vô minh mà ra.  Muốn hết phiền não khổ đau, muốn được giải thoát, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng ta phải giác ngộ.  Muốn được giác ngộ, chúng ta phải học hỏi giáo pháp, tức là những lời Phật dạy, để tự ứng dụng tu tập cho đúng Chánh Pháp, để tự tu tâm dưỡng tánh.  Được như vậy, chúng ta sẽ mở mang trí tuệ bát nhã với ngọn đuốc Chánh Pháp của chư Phật, để cương quyết, can đảm, kiên trì, nổ lực, tinh tấn tu hành, cho đến ngày giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.  Muốn hiểu được lời Phật dạy, muốn được hưởng pháp vị một cách thấm thía, nồng nàn, chúng ta phải tận lực suy tư, nghiền ngẫm Chánh Pháp một cách tường tận, tinh vi.  Đồng thời, chúng ta phải áp dụng Chánh Pháp vào trong đời sống hằng ngày. 
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
 Hãy tự thắp đuốc, tự mình bước đi.
Thắp sáng trí tuệ, ngọn đuốc chánh pháp. 
Nghĩa là: Đức Phật dạy chúng ta hãy tự quán chiếu, tự soi sáng trí tuệ của mình bằng cách học hỏi giáo pháp, để tự chuyển hóa ba nghiệp thân khẩu ý của mình cho được thanh tịnh, hay nói cách khác, để tự tu tâm dưỡng tánh. 

Theo lịch sử, vào thời đó, lúc Đức Phật còn tại thế, Ngài không thể cứu được các vị đại đệ tử của Ngài, khi nghiệp báo của họ đến.  Ngay bản thân của Đức Phật cũng bị những khổ nạn, cũng gặp những khó khăn do ngoại đạo gây nên, thì thử hỏi, chúng ta không chịu tự tu tâm dưỡng tánh, tự thắp đuốc lên mà đi, tự cứu chính mình, mà chỉ một mực cầu nguyện, van xin, khấn vái đủ điều như trên, liệu có được gì chăng? 
Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:
Dù có lên non, xuống biển vào hang,
 nghiệp báo đã mang, vẫn theo con người
như hình với bóng, không ai có thể
tránh khỏi thoát khỏi. 
Nghĩa là: nếu chúng ta không biết tự tu tâm dưỡng tánh, để chuyển hóa ba nghiệp, thì dù cho có van xin, cầu khẩn đến đâu, hay thay hình đổi dạng, làm vua hay thường dân, làm cư sĩ tại gia hay tu sĩ xuất gia, làm tín đồ hay làm giáo chủ, dù như thế nào đi nữa, chúng ta cũng không tránh khỏi khi nghiệp báo đến.  Đó chính là luật nhân quả vậy.  Có vị giáo chủ đương thời khi ra tiếp xúc với công chúng, đứng ở trên xe hơi, trong lồng kính chống đạn, vì sợ bị ám sát. Thượng đế còn không cứu được khi con người đến lúc phải trả nghiệp, huống gì là cái lồng kính!  Cũng vậy, tục ngữ có câu: "Chạy trời không khỏi nắng", chính là nghĩa đó vậy. 

Chắc mọi người ai cũng thừa nhận rằng: tất cả chúng ta đều sẵn có hai thứ tâm địa, đó là tâm hiền lương và tâm bất lương.  Tâm hiền lương là cái nhân đem lại cái quả an lạc và hạnh phúc cho mình và cho người, đời này và nhiều đời sau Tâm bất lương ác độc là nhân đem lại quả phiền não và khổ đau cho mình và cho người, đời này và nhiều đời sau.  Tu là dẹp bỏ tâm bất lương ác độc, phát triển tâm hiền lương.  Tu là điều kiện tất yếu cho tất cả mọi người muốn hết khổ được vui, không phân biệt bất cứ ai, bất cứ giới nào. 

Người nào còn chất chứa tâm niệm bất lương ác độc, thì cầu nguyện bình yên chỉ hoài công mà thôi, cũng như người uống nhằm độc dược mà lại chưa muốn chết!  

Tư tưởng yếu hèn và ích kỷ khiến chúng ta nghĩ đến việc trao gởi thân mạng của chúng ta và của gia đình cho chư Phật, nhờ chư Phật phò hộ, độ trì hết thảy mọi việc được bình an khi còn sống, được về miền cực lạc khi từ giã cõi đời.  Những người này cung kính Đức Phật như một vị thần linh hộ mạng, tưởng như Đức Phật có quyền năng bảo hộ cho bản thân họ và gia đình họ suốt đời.  Vì thế khi bản thân hay gia đình họ xảy ra việc gì không may, họ hết sức tha thiết chí thành, cầu nguyện van xin Đức Phật gia hộ cho được tai qua nạn khỏi.  Nếu được như ý, thì họ cho là Đức Phật linh thiêng, tiếp tục đi chùa lễ Phật, để cầu khẩn, van xin tiếp chuyện khác. 
 Họ không hiểu rằng do chính họ ăn ở hiền lành, làm việc phước thiện, tạo phước đức trước đây, và ngày nay nhờ phước báo đó đã cứu họ qua được cơn hiểm nghèo, hoạn nạn, chứ không phải do van xin, cầu khẩn mà được đáp ứng đâu.
 Chính phước báo đã làm giảm thiểu nghiệp báo đó vậy.  

Bằng như không được toại nguyện, không được tai qua nạn khỏi, do thiếu phước báo, họ dễ dàng sanh lòng phỉ báng Đức Phật không từ bi, không linh thiêng, và chạy theo ngoại đạo tà giáo, cúng kiến bất cứ vị thần thánh nào, mà họ nghe đồn là linh thiêng, là có quyền năng tối thượng, siêu việt, sẵn sàng chịu chết thay họ, chuộc tội của họ làm, cho họ được bình yên sung sướng.  Với tâm quịt nợ, trốn trách trách nhiệm, họ bị gạt gẫm, tiền mất tật mang, đánh mất chánh tín, rơi vào hố sâu mê tín dị đoan, ngày càng xa rời Chánh Pháp. 

Có nhiều người cầu nguyện van xin Đức Phật không có kết quả, bèn đến các lăng tẩm của những vị tướng quân bị triều đình ngày trước bức hại, nghe đồn hiển thánh thành thần, hoặc đến miểu ông miếu bà cốc cô nào đó, để cầu khẩn khấn vái, ký gửi con cái bệnh hoạn khó nuôi, xin bùa hộ mạng bình yên, xin phép làm ăn một vốn bốn lời.  Thực là đáng thương vô cùng! Tại sao như vậy?  Bởi vì những vị đó lúc đương thời còn giữ không được cái mạng của họ, thì làm sao mà cứu giúp ai ở đời sau được chứ!  Còn những ông đồng bà cốt, cô hai cô ba, có khả năng nào giải tai giải nạn cho người khác, trong lúc tự lo thân của họ còn chưa xong, ngày nào không có khách cúng tiền, không biết lấy gì mà ăn?
 
Cuộc sống của chúng ta đầy dẫy những lo âu, bất trắc.  Cho nên chúng ta luôn luôn sống trong sự sợ hãi.  Khi gặp hoạn nạn chúng ta thường tìm cách nương tựa vào một đấng thiêng liêng tưởng tượng nào đó, để cầu nguyện, khấn vái, van xin, mong được an tâm.  Bởi vậy cho nên, chúng ta thường nghĩ rằng qui y Phật, đi chùa lễ Phật, tụng kinh niệm Phật, hay hằng ngày ở nhà tụng kinh, thắp hương, cúng Phật, là "tu" và sẽ được chư Phật ban cho mọi sự như ý, mọi thứ an lành, mọi sự sung sướng.  Nếu không được toại nguyện, chúng ta sẽ đánh mất niềm tin và lạc vào ngoại đạo một cách dễ dàng. 

Ở đây chúng ta cần hiểu rõ ràng rằng: "Ngoài tâm cầu đạo tức là ngoại đạo". 
Tại sao vậy?  Bởi vì chư Tổ có dạy:  "Phật tức Tâm, Tâm tức Phật", ngoài tâm không có Phật, Phật ở chính ngay trong tâm của chúng ta. 

Phật không có ở trong chùa, không có ở trên non trên núi, không có ở dưới sông dưới suối, không có ở trong rừng trong hang, không có ở cội cây hòn đá. Phật không có ở trong các pho tượng hay tranh vẽ.  Những người tự xưng là Phật sống, là đại diện Phật để dâng sớ cúng sao giải hạn, cầu an cầu siêu, cầu đủ mọi thứ trên trần đời, hoặc thấy cội cây, hòn đá có hình dáng lạ lùng nào đó, liền cho là Phật hiện, đổ xô đến lạy lấy lạy để, đều không phải Chánh Pháp, đều là mê tín dị đoan cả. Thậm chí có người tu đến khi mãn phần, xác thân tứ đại đem thiêu, thấy có vài chuyện lạ, liền cho là hiển linh, cho là xá lợi, rủ nhau đến chụp hình, lễ lạy cho có phước, để cầu xin, van vái.  Thật là đáng thương cho những người gọi là Phật Tử như vậy, dù là tại gia hay xuất gia. 
Ngày xưa, Thái Tử Tất Đạt Đa rời bỏ hoàng cung, ra đi tìm đạo giải thoát.  Sau một thời gian tu tập thiền định, trí tuệ bát nhã bừng sáng, Ngài giác ngộ được Chân Lý và thành Phật.  Sau đó, Đức Phật chỉ dạy rằng: 
"Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh". 
Nghĩa là tất cả mọi chúng sanh ai ai cũng có Phật Tánh, còn gọi là tánh giác ngộ, đó là tánh sáng suốt hoàn toàn tuyệt đối.  Dù là kẻ ngu hay người trí cũng đều có Phật Tánh như nhau.  Chỉ tại sự mê ngộ chẳng đồng, cho nên mới có kẻ ngu người trí.  Người ngộ được Phật Tánh sẽ thấy cảnh trần càng đẹp càng thuần.  Phật Tánh hay tánh giác ngộ chỉ hiện ra khi tâm phiền não không còn, cũng như khi mây đen tan biến hết thì mặt trăng sáng hiện ra vậy.  Nói một cách khác, do công phu tu tâm dưỡng tánh, cho nên trong khi vẫn sống ở đời, nhưng không còn bị cảnh trần chi phối, không còn bị cảnh trần gây phiền não, thì vọng tâm lăng xăng lộn xộn trước đây của chúng ta chuyển hóa thành Phật Tánh, trở nên thanh tịnh trong sáng. 

Tất cả mọi chúng sanh ai ai cũng sẽ trở thành một vị Phật nếu biết tu tâm dưỡng tánh theo đúng Chánh Pháp, không cần phải qua tận xứ Ấn Độ tìm Phật, không cần phải vào rừng, trèo non lội suối, không cần phải làm những chuyện thay đổi hình tướng, không cần phải làm những chuyện dị hình dị tướng, không cần phải làm những chuyện khác thường khác đời gì cả. Tất cả mọi chúng sanh ai ai cũng có thể tu trong mọi hoàn cảnh, ngay tại thế gian này, ngay trên cõi đời này.  Chỉ có điều là chúng ta có phát tâm muốn tu hay không mà thôi. 

Chúng ta đã biết là tất cả ai ai cũng đều có những tâm niệm xấu ác cần phải tu, cần phải sửa, cần phải chừa bỏ, như là tâm tham lam, sân hận, si mê, kiêu ngạo, nghi ngờ, đố kỵ, tị hiềm, ganh ghét, hơn thua, cố chấp, che giấu, bỏn xẻn, keo kiệt, ích kỷ, dối gạt, lao xao, lộn xộn, lười biếng, buông lung, phóng túng.  Tại sao vậy?  Tại sao chúng ta cần phải dẹp bỏ những tâm niệm trên mới gọi là tu? 

Bởi vì, trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Những tâm niệm đó chỉ là vọng tâm".  Nghĩa là những tâm niệm đó "tùy duyên mà có", hết duyên thì lặng mất, chứ không phải là tâm thực của chúng ta, không phải là "chơn tâm".  Chẳng hạn, không có ai đến quấy nhiểu, làm phiền, chúng ta sẽ hiền lành như bụt vậy.  Chỉ khi nào có người đến, nói điều gì khó nghe, khó lọt vào tai, hay làm điều gì bất như ý, đụng chạm quyền lợi, xúc phạm tự ái, chúng ta sẽ nổi tam bành lục tặc ngay tức thì, do nghiệp chướng tích lũy lâu đời nhiều kiếp, trong kinh sách gọi là "tùy duyên" mà tâm tức giận đó nổi lên.  Nhẹ thì cãi vã, nặng thì ấu đả.  Kết cuộc, một bên vào nhà thương hay ra nghĩa địa, một bên thì vào nhà tù hay ra tòa án.  Bởi vì người đời thường cho là "nhịn thì nhục", cho nên hể ai "cự thì đục".  Thế là sóng gió, thế là phiền não và khổ đau nối tiếp theo sau đó. 

Nếu người nào hiểu được là "nhịn chẳng có gì nhục, cự chẳng cần phải đục" thì người đó sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc không nghi.  Chỉ e sợ rằng chúng ta nhịn không nổi mà thôi, chứ có gì gọi là nhục đâu.  Chỉ vì tự ái quá cao, coi mặt mũi quá trọng, nên chúng ta phản ứng mà chẳng kịp suy nghĩ đến hậu quả xảy ra sau đó. 

Thí dụ như có người đến mắng chúng ta là đồ ngu như bò, chắc là chúng ta sẽ nổi tức ngay.  Như vậy là người đó nói đúng quá rồi, còn gì nữa mà đôi co và cãi vã!  Bởi vì nếu chúng ta thực sự không ngu và thực sự không phải là con bò, thì cần gì phải tức giận cho mệt.  Lời nói của người đó không có nghĩa lý gì cả, cho nên chúng ta không cần phải chấp làm gì.  Được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, không nghi.  Hơn nữa, lời chửi mắng chỉ là chuyện nhỏ, còn những chuyện lớn hơn, chẳng hạn như bạn bè chơi thân với nhau từ lâu, rồi sang đoạt tài sản, bản quyền sách vở, rồi lại lôi đầu mình ra trước ba tòa quan lớn, thưa kiện cho sạt nghiệp luôn, thì chúng ta mới phải đối phó sao đây, cư xử sao đây, cho gọi là phải đạo? 

Trong kinh sách có câu:
"Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả". 
Nghĩa là người có trí tuệ bát nhã của bậc Bồ Tát, trước khi hành động, nói năng, suy nghĩ, đều cân nhắc đắn đo hậu quả, còn phàm phu tục tử, muốn làm thì làm, muốn nói thì nói, muốn nghĩ thì nghĩ, chẳng cần biết đến hậu quả ra sao.  Trong tam tạng kinh điển, Đức Phật có dạy: Tự ái tức là chấp ngã, chấp ngã thì khổ đau.  Muốn hết phiền não và khổ đau thì phải đạt được "trạng thái vô ngã", đó là mục đích cứu kính của đạo Phật.  Muốn đạt được trạng thái vô ngã, chúng ta cần phải tu học và hành trì trong một thời gian không ngắn!  Đó chính là tu tâm dưỡng tánh vậy. 

Chấp ngã nghĩa là gì?  Chấp ngã tức là "chấp cái ta" là thiệt, là ngon lành, hể ai đụng tới là ăn thua đủ ngay tức thì.  Chúng ta có biết đâu rằng "cái ta" ngon lành đó, chỉ gồm có cái xác thân hôi hám bằng xương thịt, trong kinh sách gọi là thân tứ đại vì gồm có bốn chất là đất nước gió và lửa, sẽ bị chúng ta bỏ lại trần thế ngay khi lìa đời.  Cát bụi sẽ trở về với cát bụi.  Vậy cái gì là "ta" thực sự đây?  Có phải cái tâm suy nghĩ là "ta" chăng?  Cũng không phải!  Tại sao vậy?  Bởi vì cái tâm suy nghĩ lăng xăng, lộn xộn đó "tùy duyên mà có", hết duyên thì lặng mất, cho nên đó chỉ là "vọng tâm", tức là cái tâm vọng động mà thôi, đâu phải thực là "ta".  Nếu đó là "ta", thì chẳng lẽ, "ta" lúc có lúc không, lúc còn lúc mất? 

Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Đức Phật có dạy:
 "Sanh diệt ký diệt. Tịch diệt hiện tiền". 
Nghĩa là khi vọng tâm sanh diệt lặng mất rồi, tức là tâm trạng lúc có lúc không lắng hết, thì cảnh giới tịch diệt, tức là chơn tâm hiện tiền.  Chơn tâm là một tên gọi khác của Phật Tánh.  Chúng ta có thể ví dụ mặt biển lúc yên lặng, bình thản, im sóng lặng gió như là chơn tâm.  Lúc có gió thổi đến, gió nhẹ sóng nhỏ, gió lớn sóng to.  Ví như vọng tâm điên đảo, nổi sóng tham lam, giận tức, ngu si, khi đáp ứng với những ngọn gió của đời sống, như bị dụ dỗ danh lợi, bị chửi mắng nhục mạ, bị chọc tức trêu gan, bị khen chê phê phán, bị suy sụp cơ nghiệp. 

Nói một cách khác, mặt biển tùy gió mà nổi sóng. Tâm của chúng ta cũng vậy, tùy duyên mà sanh khởi những tạp niệm, sanh khởi những vọng niệm xấu xa ích kỷ, lợi mình hại người. Mặt biển tượng trưng cho tâm thể thanh tịnh của chúng ta, trong kinh sách gọi là Chân Tâm hay Phật Tánh.
Tu tâm dưỡng tánh nghĩa là làm sao sửa đổi, chừa bỏ những những tâm niệm trên đây, làm sao khi có gió thổi đến, mà mặt biển tâm thanh tịnh của chúng ta không một chút xao động, không một chút gợn sóng, tức là chúng ta đã đạt được mục đích cứu kính của Đạo Phật rồi.  Đó mới thực là một người chơn chính tu theo đạo Phật, mới thực sự là một Phật Tử thuần thành, dù là tại gia cư sĩ hay xuất gia tu sĩ.  Ngược lại, đó chỉ là hình tướng bên ngoài không hơn không kém mà thôi. 
Tục ngữ Pháp có câu: "L'habit ne fait pas le moine", tức là: "Chiếc áo cà sa không tạo ra người tu sĩ", chính là nghĩa đó vậy. 
Tục ngữ Việt Nam ta có câu: Thứ nhứt tu tập tại gia.Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa. 

Nghĩa là tu tập tại gia là việc dễ nhứt, bởi vì trong gia đình toàn là những người thân thương, nên mọi việc đều được cảm thông dễ dàng hơn, dễ tha thứ hơn, dễ bỏ qua những lỗi lầm sai trái.  Kế đến, khi ra chợ làm ăn buôn bán, mà muốn tu thực là khó, bởi vì gặp những người ở ngoài chợ, phần đông người lạ, ý kiến tánh tình, mỗi người mỗi khác, biết đâu mà lường, làm dâu trăm họ, làm sao tu được?  Vào chùa tu lại càng khó hơn, bởi vì giới luật nhà chùa, khắc khe nghiêm ngặt, thường bị kiểm soát, canh chừng nhắc nhở, mất hết tự do. 

Tuy nhiên, có người giải thích khác hơn như sau: Tu tập tại gia là việc khó khăn nhứt, bởi vì người trong gia đình quá quen thuộc, cho nên lờn mặt, khó tu khó sửa, không người nhắc nhở, khuyến khích tu tập, bụt nhà không thiêng. Hơn nữa tại gia, đủ thứ cám dỗ, đủ thứ phiền não, khổ đau cuộc đời, bận rộn suốt ngày, không có thời giờ, làm sao tu được?  Tu chợ thì ít khó hơn, bởi vì mỗi ngày chỉ đi chợ vài tiếng đồng hồ là nhiều, có khi mỗi tuần chỉ đi chợ một lần, chuyện gì tu được thì tu, chuyện gì tu không được thì thôi!  Tu ở chùa là dễ dàng nhứt, bởi vì không phải lo chuyện sinh nhai, không ai dám xúc phạm, không bận rộn chuyện thế gian, có thầy lành bạn tốt sách tấn đồng tu. 

Vậy quan niệm nào mới thực là đúng?  Câu trả lời tương đối là: "tùy duyên", tức là tùy người, tùy hoàn cảnh, tùy địa phương, tùy pháp môn, tùy thời đại, tùy giáo phái, tùy nhiều điều kiện, không có gì nhứt định đúng hoàn toàn cả!  Bất cứ hoàn cảnh nào, dù dễ hay khó, người nào tu được, người đó an lạc, chung quanh hạnh phúc!  Thực là đơn giản! 
* * * 
Tóm lại, muốn "tu tâm", nghĩa là chừa bỏ những tâm niệm xấu ác, bất thiện trên đây, chúng ta cần phải "dưỡng tánh", nghĩa là nuôi dưỡng, phát triển những đức tánh tốt đẹp thay thế, như là tánh từ bi hỷ xả, tánh bình đẳng vô tư, tánh công minh chính trực, tánh nhẩn nhịn nhu hòa, tánh trong sạch hiền lương, tánh siêng năng tinh tấn, tánh kiên trì bền chí.  Những đức tánh tốt đẹp này thay thế những tâm niệm bất thiện, lăng xăng lộn xộn, lâu ngày giúp chúng ta giác ngộ, và chuyển hóa vọng tâm thành chơn tâm, tức là chúng ta đã giải thoát khỏi sanh tử luân hồi. 
Tất cả mọi người đều cần phải biết tu.  

Con người có tu mới được an lạc, tự tại và giải thoát. Gia đình có tu mới được hạnh phúc. Nhân loại có tu mới thanh bình. Chúng ta cũng biết cuộc đời khổ đau, bất trắc, hay an vui, sung sướng, là quả báo từ nhiều đời nhiều kiếp trước, do "chính chúng ta đã làm", đúng theo luật nhân quả.  Chúng ta đã tạo "nhân" nào trước đây thì nay chúng ta nhận "quả", kết quả hay hậu quả, tương ưng đó vậy.  Chúng ta nên nhớ chư Phật và chư vị tu hành đắc đạo cũng không ra ngoài luật nhân quả.  Các Ngài chỉ ra ngoài vòng sanh tử luân hồi nhờ biết tu theo lời chư Phật dạy, đúng Chánh Pháp, nên thoát khỏi mọi khổ đau, mọi ràng buộc của cuộc đời. 

Vậy, nếu muốn khỏi khổ đau, muốn được an vui, chúng ta hãy phát tâm "tu" ngay từ giờ phút này.  Nếu muốn tu hành đúng Chánh Pháp, chúng ta phải phát tâm cầu học Phật Pháp một cách mãnh liệt.  Chỉ có cách đó mới có thể giúp chúng ta giác ngộ và giải thoát mà thôi.  Chúng ta hãy tự kiểm điểm, xem mình thuộc hạng nào sau đây: Nếu chúng ta thuộc hạng đến với Phật để mong cầu bình an, van xin điều nọ điều kia, thì hãy nên thức tỉnh, can đảm chuyển hướng tu hành để trở thành người Phật Tử chơn chánh, tuy còn trong vòng sanh tử luân hồi, nhưng cũng sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc.  Nếu chúng ta thuộc hạng đến với Phật để tu học, để tu tâm dưỡng tánh, thì nên cố gắng, nổ lực hơn nữa, để mọi sự xấu xa, phiền não đều tan biến, tiến thẳng trên đường giác ngộ và giải thoát, thoát ly khỏi vòng sanh tử luân hồi. 

Toàn thể chúng ta đều muốn là người chánh tín, không ai muốn là hạng người mê tín dị đoan, phải biết ứng dụng Chánh Pháp để chuyển hóa cuộc đời mình, bớt khổ thêm vui, thực sự đem ngọn đuốc Chánh Pháp soi sáng đời mình, ra khỏi đêm tối vô minh. 
Sau hết, chúng ta cần nhớ lại lời chư Tổ đã dạy:
Tu mà không học, đúng là tu mù.
Học mà không tu, đúng là tủ sách. 

Kính chúc quí vị, nhờ học hiểu Phật Pháp, biết tu tâm dưỡng tánh nên tạo được cảnh giới niết bàn, hưởng sự an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời, giải thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, không phân biệt là tại gia cư sĩ hay xuất gia tu sĩ.  
 Tỳ Khưu Thích Chân Tuệ 
(cutranlacdao@yahoo.com)

PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 25
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
NĂM ĐIỀU QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO PHẬT (CON TIN TRONG CHÙA)
BẤT TÙY PHÂN BIỆT- CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT
HIỆN TƯỢNG MÊ TÍN TRONG CÁC TÔN GIÁO
TU TÂM DƯỠNG TÁNH

Saturday 10 May 2014

*** BẤT TÙY PHÂN BIỆT - CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT



Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
 
Bất Tùy Phân Biệt (Cư Trần Lạc Đạo Tập 1)
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Trên phương diện tự do tư tưởng, con người thường phát biểu nhiều ý kiến. Sống trên đời này, có nhiều ý kiến mới tỏ ra mình là con người văn minh tiến bộ, thuộc giới trí thức, học cao hiểu rộng, kiến thức uyên bác, đông tây kim cổ kinh sử lão thông, việc gì cũng tỏ ra mình rành rọt cả sáu câu, thông suốt từ A đến Z. Cùng một sự việc, cùng một vấn đề, mỗi người đều có ý kiến riêng của mình. "Không ai giống ai". Không ai chịu nhường bước ai. Không ai chịu nhìn nhận ý kiến của ai. Không ai thực sự biết tôn trọng chân lý, cho nên thường đưa đến chỗ tranh cãi một cách quyết liệt, đôi khi còn đi xa hơn!

Sách có câu: "Năm người mười ý! ". Nghĩa là một người có ít ra là hai ý kiến trong cùng một vấn đề. Một người có ý kiến thế này, nhưng một lúc sau hay một ngày sau, chính người đó lại có ý kiến thế khác, thay đổi ý kiến của chính mình. Bởi thế cho nên con người đấu tranh, cãi vã nhau để bênh vực ý kiến chủ quan "nhứt định là đúng không sai" của mình, võ mồm võ miệng không xong thì xử dụng võ lực, nếu sống trong tình trạng chậm tiến, kém phát triển. Còn nếu như sống trong thế giới văn minh hơn, tiến bộ hơn, phát triển hơn ở các nước Âu Mỹ, con người thưa kiện nhau ra ba tòa quan lớn, quan nhỏ để đòi bồi thường cho bằng được một đô la danh dự hão, sau khi đã tiêu pha gần hết cơ nghiệp thực, đã vất vả gầy dựng bấy lâu nay trong các chi phí kiện tụng.

Từ ngàn xưa cho đến ngày nay, con người khổ đau triền miên như vậy, cho nên đạo Phật gọi đời là bể khổ. Trong nhiều kiếp trầm luân sanh tử, nước mắt của chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn. Tâm trạng con người thay đổi triền miên, nay thương mai ghét, nay ghét mai lại thương. Thương thương ghét ghét như những sợi dây xích trói buộc con người trong vòng phiền não khổ đau, như những lượn sóng cao ngất trời vùi dập con người trong sinh tử triền miên. Biển khổ sông mê mênh mông, chuyện này chưa dứt, chuyện khác xảy ra, như những đợt sóng vỗ, trùng trùng điệp điệp, tiếp nối nhau, cao ngất trời, không biết đến bao giờ mới dứt. Bởi vậy, trong kinh sách có câu: "Ái hà thiên xích lãng. Khổ hải vạn trùng ba".

Tuy nhiên, đạo Phật không dừng ở chỗ thế gian thường than trời trách đất, kêu khổ, khổ ơi là khổ đó. Ðạo Phật chỉ dạy cho con người nhận định rõ ràng: Cuộc đời khổ nhiều vui ít, cuộc đời sống nay chết mai, cuộc đời nay còn mai mất, không ai biết trước cuộc đời ngày sau sẽ ra sao? Nhưng đạo Phật không có ý tiêu cực, bi quan, chán nản, yếm thế. Ðạo Phật chỉ dẫn con đường giác ngộ và giải thoát, chứ không dẫn dắt con người đến chỗ yếu đuối, bạc nhược, chỉ biết đặt đức tin vô căn cứ vào thượng đế tưởng tượng, cầu nguyện van xin.

Ðạo Phật chỉ dạy rất nhiều phương pháp, gọi là vô lượng pháp môn, con người ứng dụng để tự giác ngộ và giải thoát mọi phiền não và khổ đau của chính mình một cách tích cực, một cách thiết thực, nhằm xây dựng cuộc đời an lạc hơn, hạnh phúc hơn. Trong vô lượng pháp môn đó, có pháp môn gọi là "Bất Tùy Phân Biệt". Pháp môn này được Ðức Phật chỉ dạy trong bộ kinh Thủ Lăng Nghiêm, không những dành cho Phật Tử, mà còn dành cho tất cả những ai trên đời muốn tìm hiểu cội gốc của phiền não và khổ đau, cùng những phương pháp giải thoát khỏi các khổ đau và phiền não đó.
* * *
Trước hết, từ ngữ "bất tùy" có nghĩa là: không theo. Còn hai chữ "phân biệt", tùy theo chỗ dùng, được tạm giải thích có nghĩa là: kỳ thị, so đo, suy lường, tính toán, hơn thua, phải quấy, thị phi, cố chấp, thành kiến, định kiến, thường kiến, đoạn kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến. Vậy, "bất tùy phân biệt" có nghĩa là trong cuộc sống, muốn được an lạc và hạnh phúc, chúng ta không nên để tâm niệm chạy theo những tư tưởng tính toán, so đo, hơn thua, thị phi, phải quấy, không nên có đầu óc kỳ thị, thiên lệch, thành kiến, nghiêng bên này hay bên kia, bênh vực con mình gièm pha con người khác, không cố chấp một ý nghĩ cố định nào của mình là chân lý tuyệt đối. Một hạt minh châu, hạt châu như ý, có thể phát ra nhiều sắc sáng khác nhau, tùy theo góc cạnh nhìn của mỗi người.

Ở đây, xin nói ngay, "bất tùy phân biệt" không có nghĩa là chúng ta không hiểu biết, không phân biệt được thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu. Tức là không phải chúng ta không có trí tuệ để có thể phân biệt được thế nào là đúng hay sai, thế nào là thực hay giả, thế nào là thiên lệch hay viên mãn, thế nào là rộng lớn hay nhỏ mọn. Trái lại, chúng ta đã hiểu biết một cách tường tận muôn sự muôn vật đúng như thực tướng, không điên đảo, không sai sót. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải vượt qua trình độ hiểu biết căn bản đó, đạt được sự hiểu biết khá hơn, giác ngộ cao siêu hơn, mới gọi là "bất tùy phân biệt" được.

Chúng ta hiểu biết rõ ràng thế nào là chánh tà, chơn ngụy, thiên viên, đại tiểu, nhưng chúng ta không hề cố chấp vào đó để đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì tâm phân biệt, kỳ thị già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, không thể nào đem lại an lạc và hạnh phúc, chỉ đưa chúng ta đến phiền não và khổ đau mà thôi. Ở đời, chúng ta thường trách người khác có tâm phân biệt, nhưng ít khi chịu phản quan tự kỷ, xét lại xem chính mình có tâm phân biệt như vậy hay không? Bởi vì khi chúng ta nói người này, người kia có tâm phân biệt, tức là chúng ta đã có tâm phân biệt rồi đó.

Ðối với một sự việc nào đó, chúng ta thường không chịu suy xét một cách khách quan, mà hay có tâm phân biệt già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, xuất xứ, học thức, chủ tớ, thân sơ, thương ghét, màu da, dân tộc, địa phương, tôn giáo, để đi đến kết luận một cách thiên lệch, không đúng chơn lý, không đúng lẽ phải, không đúng sự thực. Thí dụ như với người thân thích, chúng ta luôn luôn bênh vực, sao cũng cho là đúng! Còn với tất cả những người khác, thế nào cũng cho là sai. Với người đồng đạo hay cùng tổ chức, chúng ta luôn luôn bênh vực, cho là đúng, cái gì cũng đúng! Nhưng với người khác đạo, khác tổ chức thì cho là sai, cái gì cũng sai, tất cả đều sai! Tâm kỳ thị, tâm thiên lệch "phủ bênh phủ, huyện bênh huyện", thực ra đã có tự ngàn xưa. Ðó chính là tâm phân biệt của con người vậy.

Mục đích tối thượng của đạo Phật còn chỉ dạy chúng ta một điều hết sức cao siêu, vi diệu. Ðó là ngoài những hình tướng bên ngoài như già trẻ, lớn bé, sang hèn, giàu nghèo, nam nữ, tất cả mọi người trên thế gian này đều có một điều giống nhau, một điều thật giống nhau, một điều hết sức giống nhau, một điều muôn đời giống nhau, một điều khắp nơi giống nhau. Dễ hiểu như là máu cùng đỏ, nước mắt cùng mặn, bộ xương cùng trắng, lục phủ ngũ tạng không khác. Con người thuộc mọi sắc dân trên khắp thế giới đều như vậy, thậm chí mọi loài súc sanh cũng đều như vậy. Ðiều giống nhau, đồng nhau đó là cái gì?


Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:"Ly nhứt thiết tướng thị danh thực tướng". Nghĩa là khi xa lìa tất cả mọi hình tướng bên ngoài của con người, đừng cố chấp, đừng có tâm phân biệt nam nữ, nghèo giàu, già trẻ, đẹp xấu, chúng ta mới có thể nhận ra rằng tất cả mọi người trên thế gian này đều có một bản thể giống nhau, đồng nhau, tạm gọi là "con người chân thật". Muốn hiểu được, thấy được, giác ngộ được "con người chân thật" của chính mình, chúng ta phải lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê. Cũng như mặt hồ nước có phẳng lặng mới có thể soi thấy mặt trăng rằm trong đáy nước. Cũng như không có những đám mây tham sân si che lấp, thì mặt trăng chân thật mới hiển lộ vậy.

Thế nào là "con người chân thật"? Ðó là con người sáng suốt, có trí tuệ bát nhã, đủ năng lực giải thoát mọi phiền não và khổ đau. Ðó là con người không tham lam, không sân hận, không si mê, tâm địa lúc nào cũng sáng suốt, thanh tịnh, tỉnh thức. Ðó là con người bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm. Ðó không phải là cái thân xác nặng nề của chúng ta đang có hiện nay. Ðó cũng không phải là cái tâm lăng xăng lộn xộn, suy nghĩ vớ vẫn vẫn vơ của chúng ta hiện nay. Thật vậy, những lúc tâm chúng ta lăng xăng lộn xộn, lo lắng bất an, chúng ta không thể sáng suốt suy nghĩ điều gì, nhớ điều gì cả. Chỉ khi nào chúng ta sống được với "con người chân thật" thì khi đó mới thực sự có được an lạc và hạnh phúc của cảnh giới thiên đàng, cảnh giới niết bàn mà thôi. "Con người chân thật" chính là con người không có tâm phân biệt. Nói cách khác, con người có tâm "bất tùy phân biệt" chính là "con người chân thật" vậy.

Tâm phân biệt, cố chấp, thị phi, phải quấy, đúng sai, hơn thua, thường đưa đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì trên thế gian này có điều gì đúng hay sai tuyệt đối đâu. Chẳng hạn như chữ hiếu đối với dân tộc này là nuôi dưỡng cha mẹ già yếu cho đến lúc mãn phần. Còn chữ hiếu đối với dân tộc khác là khi thấy cha mẹ già thì họ cho leo lên cây, rồi con cháu xúm lại rung gốc cây. Nếu cha mẹ còn khỏe mạnh leo trở xuống được, con cháu vui mừng tiếp tục nuôi dưỡng. Bởi lẽ họ quan niệm rằng cha mẹ còn khỏe mạnh thì mới vui sống và yêu đời.

Cũng vậy, hiện nay vấn đề phá thai là nhân đạo hay vô nhân đạo? Vấn đề bác sĩ có quyền giúp bệnh nhân nan y, hết thuốc chữa, đau đớn thập phần, được chết theo ý muốn của họ hay không? Ðâu là câu trả lời đúng nhất, hợp tình, hợp lý, hợp luật, hợp lệ nhất? Trong nhiều vấn đề, chúng ta có thể chỉ đúng một phần thôi, hãy lắng nghe ý kiến của người khác, như vậy mới đúng là tinh thần của người biết tôn trọng chân lý. 


Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Ðức Phật có dạy:"Tri kiến lập tri tức vô minh bổn. Tri kiến vô kiến tư tức niết bàn". Nghĩa là chúng ta ai ai cũng có tri kiến, tức là có sự hiểu biết. Nhưng nếu chúng ta chấp chặt tri kiến của mình là đúng, là độc nhứt vô nhị, sự chấp chặt đó là gốc của vô minh phiền não. Nếu không cố chấp như vậy, nhứt định chúng ta sống trong cảnh giới niết bàn cực lạc không nghi. Sau đây, chúng ta thử tìm hiểu Pháp Tứ Y, Ðức Phật dạy trong Kinh A Hàm, gồm có: Y pháp bất y nhân, Y nghĩa bất y ngữ, Y trí bất y thức, Y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa.

1) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y pháp bất y nhân". Nghĩa là chúng ta nên xét theo sự việc chứ không xét theo con người. Thí dụ như một người ăn hiền ở lành đúng tiêu chuẩn, thì phải được lên thiên đàng, không phân biệt, không chấp cứ người đó là có đạo nào hay ngoại đạo. Chứ lên thiên đàng mà cũng phe đảng như vậy hay sao? Cũng vậy, Niết bàn không dành riêng cho giới tu sĩ. Ðó chính là cảnh giới của tất cả những ai thực hành đúng theo lời Ðức Phật đã dạy, không phân biệt là Phật Tử, hay không phải là Phật Tử.

Tâm phân biệt người này thế này, người kia thế khác cũng dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Con người phân biệt màu áo tu sĩ với cư sĩ, phân biệt có đạo với ngoại đạo. Nếu là tu sĩ thì lên Niết bàn, nếu là người có đạo thì lên thiên đàng. Còn số đông đại chúng muôn vạn triệu triệu người, thì có chỗ dành sẵn dưới địa ngục! Hởi ơi, đâu là lòng từ bi và bác ái trong những con người có tâm phân biệt như thế! Chúng ta thường hay chấp chặt, tin ngay lập tức những gì giáo chủ dạy, những gì người tự nhận đại diện thượng đế nói, mà không chịu xét xem những lời dạy đó, những lời nói đó có đúng lẽ thực, có hợp chân lý hay không, cứ tin bừa bãi, tin một cách mù quáng, hết sức mê tín dị đoan, gọi đó là đức tin! 

Như vậy, chúng ta đã "y nhân", dù là thượng đế, chứ không "y pháp", dù là chân lý. Bởi vậy, cho nên ở Âu Mỹ hiện nay, những trung tâm hướng dẫn thiền định thu hút rất nhiều người đến thực tập, không phân biệt sắc dân hay tôn giáo gì cả. Ở những nơi đó, con người tư duy chân lý, quán sát lẽ thực, thực hành Chánh Pháp. Người nào thực tập đúng pháp môn thiền định thì đạt được cảnh giới an lạc và hạnh phúc đó, một cách bất tùy phân biệt! Như vậy chính là "y pháp bất y nhân".

2) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là đừng chấp những lời nói, ngôn ngữ, bài viết không có ý nghĩa gì, chúng ta sẽ không phiền não và khổ đau. Thí dụ như có người hỏi chúng ta rằng: Sao dạo này anh chị mất uy tín quá vậy? Câu hỏi đó không có ý nghĩa gì cả, chỉ nhằm mục đích chọc tức chúng ta mà thôi. Chúng ta nghe rồi thì thôi, hoặc có thể lờ đi như không nghe thấy, bởi vì chúng ta hiểu tường tận thế nào là "vô ngã", không thấy có "bản ngã", nên không thu nhận câu đó vào trong tâm trí.

Như vậy chúng ta sẽ không thấy phiền não và khổ đau. Hoặc giả khiêm nhường hơn, chúng ta có thể từ tốn đáp: Chúng tôi có uy tín hồi nào đâu để mất cơ chứ! Thí dụ như có người mắng chúng ta giống như con bò. Nếu chúng ta thu nhận câu đó vào tâm trí, rồi sanh phiền não giận tức, quả thực chúng ta không được thông minh cho lắm. Câu nói đó không căn cứ vào đâu cả, chúng ta giận làm gì cho mệt. Hoặc là, có người phê bình chúng ta nóng tánh mà chúng ta tức giận lên tiếng cãi chánh, quả thực người đó nói chẳng sai, chứ còn gì nữa! Thậm chí, nếu có người viết bài phê phán, chỉ trích, miệt thị, mạ lỵ, chưởi bới, vu khống, sỉ vả, khiêu khích, lăng nhục, bôi lọ, chụp mũ, bịa chuyện, mà chúng ta chỉ "y nghĩa bất y ngữ", thì họ làm gì có thể xúc phạm, làm sao có khả năng gây phiền não và khổ đau cho chúng ta được, phải không thưa quí vị!


Người ta đưa lửa tới đốt, nếu chúng ta không đáp ứng, không đưa thân đưa tâm ra lãnh đủ, thì họ chỉ đốt "hư không" mà thôi, chẳng nhằm nhò gì chúng ta cả. Chửi bới hồi lâu, không thấy ép phê, không thấy hiệu quả, không thấy động đậy gì về phía chúng ta, họ cũng chán nản, cảm thấy hao hơi tổn sức, rồi tự ngưng thôi. Còn nếu chúng ta phản ứng, lên tiếng cãi chánh, thanh-minh-thanh-nga, biện bạch, cũng giống như chúng ta thổi hơi vào lửa đỏ, cho bùng thêm lên, hà hơi tiếp sức, gây cảm hứng, tạo duyên cớ cho họ làm tới mà thôi.

Lúc Ðức Phật còn tại thế, khi Ngài bị người ngoại đạo theo quấy rầy, Ngài vẫn thản nhiên cất bước, như không có chuyện gì xảy ra cả. Người đó thấy Ðức Phật cứ tiếp tục lặng thinh, bèn chặn lại hỏi: Này ông Cồ Ðàm, có chịu thua chưa? Lúc đó, Ðức Phật từ tốn nói bài kệ như sau: "Người hơn thì thêm oán. Kẻ thua ngủ chẳng yên. Hơn thua đều xả hết. Giấc ngủ được an lành" .
Như vậy, nếu chúng ta không chấp những lời nói vô nghĩa, những câu văn, ngôn ngữ xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen ghét, chắc chắn chúng ta sẽ không nhức đầu nhói tim, khỏi uống thuốc chẳng cần dầu cù là, nghĩa là chúng ta không phiền não và khổ đau. Chẳng hạn như khi chúng ta đi dự tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói quà biếu tặng, nếu chúng ta không nhận thì chủ nhà phải giữ món quà đó lại. Cũng vậy, người đời thường tặng chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót lưỡi, chúng ta không nhận thì sẽ được ăn ngon ngủ yên.

Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Ðức Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Tắng ái bất quan tâm. Trường thân lưỡng cước ngọa". Nghĩa là những chuyện thương thương ghét ghét, chẳng làm bận lòng, chúng ta sẽ nằm thẳng hai chân mà an giấc ngủ, khỏi phải trằn trọc trăn trở, nằm đếm một hai, cho đến trăm ngàn! Khỏe re! Như vậy chính là "y nghĩa bất y ngữ".

3) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y trí bất y thức". Nghĩa là chúng ta nên xét sự việc theo trí tuệ bát nhã, chứ không xét theo tình thức, tình cảm thiên lệch của con người. Tâm phân biệt sắc tướng đẹp hay xấu, tiếng nói dễ nghe hay khó nghe, mùi hương dễ chịu hay khó chịu, món ăn ngon hay dở, bài văn khen tặng hết lời hay phê phán nặng lời, thường dẫn con người đến phiền não và khổ đau. Tại sao vậy? Bởi vì sắc tướng đẹp hay xấu thực sự không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy người đối diện, tùy cảm tình của con người mà thôi. Món ăn ngon hay dở cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang đói bụng hay không mà thôi. Khi đói lòng, một củ khoai cũng thấy ngon, nhưng khi no đủ quá rồi thì sơn hào hải vị cũng chẳng ngon bằng một lọ tương! Khen tặng hay phê phán cũng không có tiêu chuẩn nhứt định, tùy theo con người đang nịnh bợ, tâng bốc để thủ lợi, hay đang quạu quọ vì không còn hưởng lợi, như lời giao kết trước đây nữa mà thôi.

Người nào hiểu được như vậy, thực tập đúng pháp môn thiền định, không để cho những tình thức phân biệt dẫn dắt đến chỗ sai lạc, đến chỗ phiền não và khổ đau, người đó đạt được "trí tuệ bát nhã". Nói cách khác, trí tuệ bát nhã là trí tuệ phát sanh do tâm "bất tùy phân biệt", do công phu trì giới, tu tập thiền định mà hiện ra. Trí tuệ bát nhã khác với trí tuệ của thế gian do công phu học tập trong học đường mà đạt được, thể hiện qua các bằng cấp cao thấp. Trí tuệ bát nhã là trí tuệ sẵn có nơi tất cả mọi con người, không phân biệt già trẻ, lớn bé, nghèo giàu, nam nữ, xuất xứ, học thức, thân sơ, thương ghét, dân tộc hay tôn giáo gì cả. Do sự lắng lòng cho thanh tịnh, không tham lam, không sân hận, không si mê, chúng ta sẽ đạt được "trí tuệ bát nhã". Như vậy chính là "y trí bất y thức".

4) Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy: "Y liễu nghĩa, bất y bất liễu nghĩa". Nghĩa là chúng ta chỉ nên căn cứ theo những sự việc có ý nghĩa, những điều nào rõ ràng, minh bạch, chứ đừng chạy theo những sự việc mơ mơ hồ hồ, những chuyện không có căn cứ vào đâu cả. Thí dụ như chúng ta thường nghe một câu chuyện truyền miệng, rồi vội vàng kết luận là người này tốt, người kia xấu, người này phải, người kia quấy. Hoặc những tin đồn dĩa bay xuất hiện, thần thánh hiện ra nơi này nơi khác, có người thi triển thần thông phép lạ chữa hết bệnh nan y, không thể kiểm chứng được, chúng ta không cần quan tâm. Vã lại, những câu chuyện như vậy không có ích lợi gì cho việc tu tâm dưỡng tánh, chỉ làm loạn tâm chúng ta mà thôi.

Ðối với những chuyện thị phi trên thế gian này, chúng ta không có thời gian, không có khả năng, không có hoàn cảnh, không có điều kiện, để tìm hiểu sự thực, đã vội vàng kết luận, nhứt định không đúng vậy. Ðối với những sách gọi là kinh Phật, chúng ta cũng cần nên dè dặt. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy 37 phẩm trợ đạo, để giúp con người tiến bước trên con đường giác ngộ và giải thoát. Kinh Phật liễu nghĩa có nội dung giảng dạy lý nhân quả, lý vô thường, vô ngã, chơn không diệu hữu, để giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau.

Những cuốn sách có nội dung: cúng sao giải hạn, cầu gì được nấy, bói toán mê tín, tin tưởng thánh thần, cầu nguyện van xin, tình duyên gia đạo, coi phong thủy, xem nhà cửa, chọn đất đai, đều không phải là kinh điển ghi lời Ðức Phật dạy. Vấn đề này còn có phần tế nhị, bởi vì Ðức Phật thuyết pháp tùy theo căn tánh của chúng sanh, cho nên kinh điển có quyền có thực, có hiển có mật. Kinh Phật vô lượng nghĩa, không có cao thấp, tùy theo công phu tu học đến đâu, con người hiểu kinh Phật đến đó.


Tóm lại, để kết thúc bài này, chúng tôi ghi lại hai câu sau đây của Thiền sư Hoàng Bá:
Nhược bất nhứt phiên hàn triệt cốt
Tranh đắc mai hoa phốc tỷ hương.
Nghĩa là:"Nếu không một phen sương thấm lạnh. Hoa mai đâu nở ngát hương thơm". Sau khi trải qua một mùa đông lạnh thấu xương, hoa mai mới hội đủ thời tiết nhân duyên để nở rộ và tỏa mùi hương thơm ngát khắp nơi nơi. Cũng vậy, chúng ta cần phải trải qua những thử thách cam go của cuộc đời, mới có được bài học nhẫn nhục, nhẫn mà không thấy nhục. Cổ nhân có dạy: "Một sự nhịn chín sự lành". Hiểu đạo rồi, chúng ta có thể nói: "Một sự nhịn muôn vạn sự lành".  

Con người chỉ học được và nếm được chút hương vị từ bi sau khi trải qua những giai đoạn khổ đau của cuộc đời. Khi nào bắt đầu thấy được giữa tuyết trắng và bùn nhơ không khác, không có cái gì xấu, không có cái gì đẹp, lúc đó con người bắt đầu biết nhìn sự vật với tâm bất tùy phân biệt, cũng là lúc con người hiểu được và hành được tâm đại bi. Người có tâm đại bi tức là không có tâm phân biệt, không có tả không có hữu, không có bạn không có thù, không có thân không có sơ, không có thị không có phi, không có thương không có ghét. Tuy nhiên tâm đại bi không phải là vô tri, mà chính là sức mạnh mầu nhiệm đem lại an lạc và hạnh phúc cho cuộc đời.

Hiểu được rõ ràng thế nào là "vô ngã", thế nào là "con người chân thật", chúng ta mới tìm được an lạc và hạnh phúc trên cõi đời này. Hơn thế nữa, chúng ta cần phải trải qua nhiều thăng trầm của cuộc đời, mới nhận thấy được những lời dạy của đức Phật không dành riêng cho bất cứ ai sống trên đời này. Không phân biệt tôn giáo, không phân biệt sắc tộc, bất cứ người nào thực tâm lắng nghe, lắng lòng suy nghĩ, đem những lời dạy quí báu đó áp dụng trong cuộc sống. Nhứt định người đó sẽ sống một cuộc đời an lạc và hạnh phúc với "con người chân thật" của chính mình vậy. 


CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT
TK THÍCH CHÂN TUỆ


Trong Kinh Ðại Bát Niết Bàn, Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo". Nghĩa là chúng ta không làm tất cả các việc bất thiện, không làm những việc ác, tránh những việc tổn người hại vật, cố gắng làm tất cả những việc thiện, những việc ích lợi cho người khác, nhưng đừng ghi nhớ, đừng chấp chặt vào những việc ích lợi đã làm, thì tâm ý của chúng ta sẽ được thanh tịnh. Ðó là tu tâm dưỡng tính, đó là điều cốt yếu chư Phật mười phương ba đời muốn dạy như vậy.

Thí dụ chúng ta đã làm những việc ích lợi cho bất cứ ai mà chấp chặt vào đó thì tâm của chúng ta sẽ bực dọc, bất an khi không được ai khen tặng hoặc không được ai đáp ứng như ý.

Nếu như quên đi những việc thiện đã làm, giúp đỡ người với tâm "thi ân bất cầu báo đáp", thì chúng ta sẽ yên ổn, bình an, tâm của chúng ta sẽ không loạn động, không bực bội khi gặp phải người vô ơn. Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng dạy rằng: "Trong tâm khiêm tốn là công. Ngoài hành lễ phép là đức". Hay: "Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức".

Nghĩa là "bên trong" chúng ta phải chuyên cần vận nội lực loại trừ những tâm niệm kiêu ngạo, tật đố, ngã mạn, ganh tị, đố kỵ, khen mình khinh người, để đạt được tâm niệm khiêm tốn, hạ mình, nhún nhường, tùy hỷ công đức.

Ðồng thời, chúng ta cũng phải vận nội công để khắc phục các tạp niệm, để tâm không còn có các vọng tưởng.

Mỗi khi tạp niệm, vọng tưởng khởi lên, chúng ta liền giác ngộ, liền nhận biết và dừng ngay, không tiếp tục theo dòng tâm thức, đi lang thang từ đông sang tây, từ quá khứ đến hiện tại và vị lai, từ chuyện này đến chuyện khác. Như vậy chúng ta có được "công".
Ðiều quan trọng cần biết là: chúng ta đừng sợ có vọng tưởng, tạp niệm khởi lên trong tâm thức. Ai ai cũng có vọng tưởng và tạp niệm.

Chỉ sợ chúng ta không giác ngộ, không nhận biết kịp thời, nên bị vọng tưởng, tạp niệm lôi cuốn, đi lang thang làm khách phong trần, quên mất cố hương, từ bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp.

Khi dong ruổi theo các vọng tưởng, tạp niệm như vậy, tâm của chúng ta sẽ loạn động với thất tình lục dục, tức là quên mất "bản tâm thanh tịnh" sẵn có của chúng ta.

Còn "bên ngoài" chúng ta thực hành lễ phép, cung kính, tôn trọng tất cả mọi người, bởi vì mọi người ai ai cũng có "Chân Tâm Phật Tính" như nhau, mọi người ai ai cũng có ưu điểm để chúng ta học hỏi, noi theo, không phân biệt, không thành kiến, không kỳ thị, không tranh cãi, không hơn thua, không thị phi, không ỷ mình là kẻ trên người trước, kẻ có nhiều công lao, kẻ có nhiều tài năng, kẻ làm được nhiều việc không ai bằng. Như vậy chúng ta được nhiều người thương mến, gần gũi. Như vậy chúng ta có được "đức". Thêm nữa, người Phật Tử muốn có công đức thì bên trong không có tâm chấp ngã, tâm chấp pháp, nói chung là tâm cố chấp; bên ngoài hành động luôn luôn ngay thẳng, bình đẳng, công minh, chính trực.

Hãy phát tâm tìm học kinh điển, biết đúng Chính Pháp mà hành theo, tránh chuyện tu mù, tu mò, để khỏi lạc sang tà giáo, ngoại đạo. Công đức là ở "Pháp Thân", phát sinh trí tuệ bát nhã, không do tu phúc, không do làm những việc phúc thiện mà được.

Chúng ta ngày nay cũng hay lầm lẫn cho rằng lập chùa, giúp chư tăng tu học, bố thí, cúng dường, làm Phật sự, đi chùa lạy Phật là được nhiều công đức và tự hào rằng mình làm vô lượng vô biên công đức, cần phải được tán thán, rồi chờ đến ngày được vãng sinh về cõi tây phương cực lạc quốc của Ðức Phật A Di Ðà!

Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật dạy rất rõ ràng cõi Tây phương cực lạc là nơi chỉ có các bậc bồ tát "nhứt sinh bổ xứ", tức là các bực "thượng thiện nhơn" sắp thành Phật, những người hiền thiện bậc thượng, gặp gỡ nhau mà thôi.

Những người còn đầy dẫy tham sân si, đầy dẫy nghiệp chướng, đầy dẫy phiền não thì nhứt định không thể nào đạt được cảnh giới đó. Không thể chỉ lấy có một chút ít thiện căn phúc đức làm nhân duyên, để cầu nguyện về cõi cực lạc đó được.

Ví như người đeo nặng qua sông thì phải chìm, không thể nổi được. Chứ không phải Ðức Phật A Di Ðà không có lòng từ bi cứu độ chúng ta.

Chư Phật có tâm đại từ đại bi muốn cứu độ chúng ta, nên chỉ dạy các pháp môn tu học, các phương pháp, để chúng ta noi theo đó mà tự mình tu tập, để tự được cảnh giới an lạc và hạnh phúc hiện đời và vãng sinh mai sau.

Có người quan niệm "đới nghiệp vãng sinh", nghĩa là con người vẫn còn mang nghiệp chướng, nhưng nhờ biết niệm Phật A Di Ðà, nên được Ngài thương xót cho vãng sinh về cõi tây phương cực lạc, rồi tu tiếp sướng hơn.

Ðiều này có vẻ "phe đảng" cũng như quan niệm cứ chấp nhận rước thượng đế vào lòng thì sẽ được thượng đế cho về thiên đàng, hưởng phúc đời đời, không cần biết đó là người như thế nào!

Thực ra, đạo Phật không có dạy như vậy. Nếu thực sự muốn tu cho thành người tốt, thì chúng ta hãy tu ngay ở cõi đời này, đừng hẹn. Còn mang nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nếu về tây phương, chỉ làm nơi đó ô uế mà thôi.

Dù có được về bên đó chăng nữa, không thấy thích hợp, cũng sẽ đòi về trở lại mà thôi! Sống với những người thế tục, chúng ta mới cần phải tu, mới có cơ hội để tu. Chứ về bên đó gặp toàn người tốt thì đâu cần phải tu nữa.

Cũng như người còn nhiều phiền não quá, nhiều nghiệp chướng quá, dù có được đưa vào chùa ở, mà không quyết tâm trì chí, cũng khó mà tu được, có ngày cũng xuất, nếu không xuất thì sẽ gây biết bao nhiêu việc đáng tiếc cho cảnh thiền môn!

Trong Kinh A Di Ðà, Ðức Phật cũng dạy nếu có thiện nam, thiện nữ nào nghe được danh hiệu Phật A Di Ðà, luôn luôn trì giữ danh hiệu đó trong tâm trí, lúc nào cũng niệm Phật, nhớ nghĩ tới Phật, trong một ngày, hai ngày, ba ngày, bốn ngày, năm ngày, sáu ngày, cho đến bảy ngày, đạt được tâm yên không loạn.

Khi thọ mệnh hết, người như vậy giữ gìn được tâm không điên đảo, tức thời được vãng sinh cõi nước tây phương cực lạc của Ðức Phật A Di Ðà. Tại sao vậy?

Bởi vì khi tâm của người đó luôn luôn niệm Phật, không còn lăng xăng, lộn xộn, không còn loạn động vì các việc đối đãi thị phi, hơn thua, tốt xấu, cho nên cảm ứng được cảnh giới tịnh độ của Ðức Phật A Di Ðà vậy.

Nói cách khác, tâm của người đó thấy mọi sự đúng như thực, thấy mọi việc không còn điên đảo, gọi là "tâm bất điên đảo", cho nên người đó thấy được "Tự Tính Di Ðà, Duy Tâm Tịnh Ðộ".

Nghĩa là nhờ tâm được thanh tịnh, bất loạn động, bất điên đảo, cho nên người đó thấy được "Phật Tính", tức là "Pháp Vô Sinh", không còn sinh tử luân hồi, tức đắc vãng sinh tây phương cực lạc.

Nếu còn nghiệp chướng nặng nề, tham giận kiêu căng, si mê lầm lạc, nghĩa là tâm còn điên đảo, tâm còn loạn động, làm sao vãng sinh được mà mong cầu!

Cõi tây phương cực lạc hay cõi thiên đàng là cảnh giới "bất tùy phân biệt", bình đẳng tuyệt đối, chí công vô tư, làm gì còn chia giai cấp có chín phẩm, ba hạng, thượng trung hạ, như con người tưởng tượng cho thêm lộn xộn và phức tạp! Không thể lấy tâm lượng phàm phu xét cảnh giới bồ tát! Như vậy, cốt tủy của đạo Phật, không phải là van xin cầu nguyện, cúng kiến lễ lạy cho nhiều, mà chính là lúc nào cũng nhớ nghĩ tới hạnh nguyện của chư Phật, nói lời như Phật dạy, hành động như Phật dạy, luôn luôn giữ gìn tâm ý thanh tịnh, bình an, yên tĩnh, không loạn động, không điên đảo.

Ðược như vậy, tam nghiệp hằng thanh tịnh, chúng ta vừa có phúc đức vừa có công đức đầy đủ, phúc tuệ trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện. Kinh sách có câu:

 "Phúc Tuệ Lưỡng Toàn Phương Tác Phật". Cứu kính của đạo Phật chính là nghĩa đó vậy. 

BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG

LƯƠNG TÂM VÀ PHẬT TÂM
LỜI DI HUẤN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
PHẬT DẠY CÂU CHUYỆN NĂM NGƯỜI MÙ
PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỐ 25
Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN