https://phtq-canada.blogspot.com/2011/11/giac-ngo-va-giai-thoat.html
https://phtq-canada.blogspot.com/2017/03/giac-ngo-va-giai-thoat-muc-ich-cuu-canh.html
https://phtq-canada.blogspot.com/2017/10/ao-phat-la-ao-giac-ngo.html
https://phtq-canada.blogspot.com/2019/12/giac-ngo-va-giai-thoat.html
https://phtq-canada.blogspot.com/2024/02/giac-ngo-va-giai-thoat.html
GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
(Cư Trần Lạc Đạo Tập
2)
Tỳ-Khưu
Thích-Chân-Tuệ
Trên thế gian này, đạo
Phật đã có mặt hơn hai ngàn năm trăm năm lịch sử, khởi thủy từ Á châu truyền
sang Âu châu và hiện nay đang phát triển mạnh mẽ tại Mỹ châu và Úc châu. Song
song với đà phát triển của khoa học hiện nay, dân chúng ở các xứ văn minh và
tiến bộ đang dần dần mất sự tin tưởng nơi các tôn giáo chủ trương thần quyền,
thiếu căn cứ khoa học, giải thích mọi sự mọi việc qua đức tin nơi thượng đế mà
thôi. Cùng với sự phát triển của khoa học, dân chúng ở các quốc gia Âu Mỹ Úc
ngày càng đối diện với các khủng hoảng tinh thần, do nhiều áp lực, nhiều khó
khăn, dồn dập xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Khoa học ngày càng đáp ứng tối
đa các nhu cầu, những tiện nghi vật chất của con người. Trong khi đó, các tôn
giáo hiện diện tại đây từ trước, không đáp ứng được những nhu cầu tinh thần,
những vấn đề tâm linh của con người.
Cho nên, dân chúng ở
các quốc gia Âu Mỹ Úc đã và đang hướng về tìm hiểu giáo lý của đạo Phật và thực
hành những lời dạy của Đức Phật trong đời sống hằng ngày. Từ đó, họ tìm được sự
an lạc và hạnh phúc, ngay trong đời sống đầy dẫy những bất trắc và phiền não
khổ đau. Họ phát tâm tu tập một cách tích cực, dưới nhiều hình thức, tu sĩ hay
cư sĩ tại gia, họ viết sách, dịch kinh Phật Giáo để phổ biến cho mọi người cùng
hiểu biết, để được giác ngộ và giải thoát. Nghĩa là họ đến với đạo Phật bằng
trí tuệ, chứ không phải chỉ bằng niềm tin mà thôi.
* * *
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai
mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như Lai
vậy".
Nghĩa là nếu chúng ta
đến với Như Lai, tức là đến với Đức Phật chỉ bằng niềm tin, chỉ biết tin tưởng
Đức Phật như là một vị giáo chủ đầy quyền năng, có thể ban phước như lời cầu
nguyện của chúng ta, có thể ban cho chúng ta và gia đình một cuộc sống bình an,
như ý, mà không chịu học hiểu giáo lý, tìm hiểu những lời dạy của Đức Phật, để
áp dụng vào đời sống hằng ngày, tức là chúng ta phỉ báng Đức Phật. Tại sao vậy?
Bởi vì, nếu cầu nguyện,
khấn vái, van xin, nhưng không toại nguyện, không công hiệu, không hữu hiệu,
không hiệu quả, không kết quả như ý hoặc không có được đáp ứng gì cả, chúng ta
sẽ nghĩ là Đức Phật không linh thiêng, niềm tin không còn, dễ theo ngoại đạo.
Chắc chắn ai ai cũng biết: cuộc đời của các vị giáo chủ của các tôn giáo trên
thế gian này đều không có bình an một cách tuyệt đối, theo cái nhìn tầm thường
của chúng ta, các vị vẫn gặp chuyện bất trắc, vẫn bị người khác nhục mạ, vu
cáo, ám sát, bỏ tù, xử án, kết tội, thậm chí giết chết thê thảm như một tội
phạm hình sự! Như vậy, các vị giúp chúng ta được như ý, như lời cầu nguyện,
khấn vái, van xin của chúng ta bằng cách nào? Cuộc đời của Đức Phật cũng gặp
những chuyện như vậy, cũng trải qua các giai đoạn của cuộc sống như mọi người
khác trên thế gian: sanh, già, bệnh, chết.
Như vậy, Đức Phật cứu
khổ thế gian này bằng cách nào? Bằng hình thức ban phước theo lời cầu nguyện,
van xin chăng? Bằng cách cứu độ cho những ai thờ phượng chăng? Bằng cách cứu độ
cho những ai tụng vài thời kinh, niệm vài câu A Di Đà Phật, hay đọc vài bài chú
chăng?
Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc
lên mà đi. Thắp lên với Chánh
Pháp".
Nghĩa là tất cả chúng
ta hãy tìm hiểu giáo lý của Đạo Phật một cách tường tận, rồi áp dụng vào đời
sống hằng ngày. Hãy đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc Chánh
Pháp, để được giác ngộ và giải thoát, để được an lạc và hạnh phúc ngay hiện
đời. Đức Phật Thích Ca đã trải qua những tháng năm tu tập và giác ngộ ngay dưới
cội cây bồ đề, trên thế gian này. Sau đó, Đức Phật sống trọn cuộc đời, trong
cảnh giới an lạc và hạnh phúc, tự tại và giải thoát, dù cho cuộc đời cũng gặp
những sóng gió khó khăn, nhưng Đức Phật không cảm nhận phiền não và khổ đau như
tất cả chúng sanh khác.
Vì tâm đại từ đại bi,
thương tất cả chúng sanh trầm luân trong sanh tử, Đức Phật đem Chánh Pháp, là
những điều Ngài đã giác ngộ được, giảng dạy trong nửa thế kỷ, ví như để lại
những bản đồ cho tất cả chúng sanh biết con đường, biết phương pháp tu tập. Bất
cứ ai áp dụng đúng đắn, kiên trì, đều được giải thoát khỏi vòng sanh tử luân
hồi.
Toàn bộ Chánh Pháp của
Đạo Phật nhằm mục đích chỉ rõ cái khổ của cuộc đời, nguyên nhân gây ra đau khổ,
tiếp theo chỉ rõ cảnh giới niết bàn tịch diệt và con đường dẫn chúng ta đến
cảnh giới an lạc đó.
Trong kinh sách gọi đó
là "Tứ Diệu Đế", gồm có: khổ, tập, diệt, đạo.
Đó chính là cách Đức Phật cứu độ chúng
sanh, ban phước cho chúng sanh vậy.
Do đó, chúng ta hãy tìm
hiểu:
Tứ Diệu Đế là gì?
Đức Phật đã giác ngộ điều gì và giải thoát như thế nào?
* *
1) Điều trước tiên Đức
Phật giác ngộ: cuộc đời là khổ. Thực vậy, chúng ta ai ai cũng đều công nhận
cuộc đời "khổ nhiều vui ít". Những niềm vui trong cuộc sống thực là
hiếm hoi. Trái lại, những điều phiền não, đau khổ, bất trắc, bất như ý, bất toại
nguyện thì quá nhiều. Ngoài cái khổ vì thiếu ăn, thiếu mặc của những người
nghèo đói do thiếu phước báo, cái khổ đến với mọi người trên khắp thế gian,
không phân biệt già, trẻ, lớn, bé, nam phụ lão ấu, địa vị, học thức, giàu
nghèo, địa phương, sắc tộc, tôn giáo, vua chúa hay thường dân, đời này hay đời
trước. Cái khổ chung của tất cả mọi người trên thế gian đó là những gì?
Đó chính là chúng ta
khổ vì: sanh, già, bệnh, chết. Chúng ta khổ vì sanh ra trong cuộc đời dẫy đầy
những chuyện bất như ý, khó khăn, đấu tranh, sóng gió và gian nan, vì tuổi già
sức yếu, đi đứng khó khăn, vì bệnh hoạn đau đớn triền miên, vì cái chết đến bất
ngờ, không như ý. Chúng ta muốn được luôn luôn bình an, trẻ mãi không già, khỏe
mãi không đau, sống mãi không chết, nhưng nào có ai được như vậy đâu? Chẳng
những chúng ta khổ vì sanh, già, bệnh, chết, chúng ta còn khổ vì xa lìa người
thân thương, vì gặp những người không ưa, những kẻ oán thù, vì cầu nguyện, van
xin nhiều quá, mà chẳng được gì, vì ngũ ấm xí thạnh, nghĩa là cái thân xác ngày
một to béo nặng nề một cách khổ sở, và quan trọng hơn, chúng ta khổ vì cái vọng
tâm điên đảo đảo điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, thay đổi từng giây
từng phút, không lúc nào ngừng nghỉ, ví như con vượn chuyền cây, như con ngựa
chạy rong, như con trâu giẫm đạp lúa mạ của người.
Cái tâm ý điên đảo đảo
điên, cái vọng tưởng lăng xăng lộn xộn, tạo tội tạo nghiệp này, là nguyên nhân
chính dẫn chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Làm sao hàng phục và an
trụ được cái tâm ý này chính là trọng tâm của đạo Phật.
Trong kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy: "Cuộc đời là biển
khổ. Nước mắt chúng sanh nhiều hơn bốn biển lớn".
Cuộc đời đầy dẫy những
chuyện khổ đau, chúng sanh chìm đắm trong biển khổ, khiến cho nước mắt trong
nhiều đời nhiều kiếp có thể so sánh với nước bốn biển lớn. Con người mãi mê đấu
tranh, giành giựt, hận thù, bon chen, hơn thua trong cuộc sống, do lòng tham
lam, sân hận, si mê, mà quên đi những khổ đau, cho đến khi nhắm mắt lìa đời,
cũng chưa giác ngộ được. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử
luân hồi.
2) Đạo Phật nhận định
cuộc đời là biển khổ, nhưng không đưa tới quan niệm tiêu cực, bi quan, yếm thế,
chán đời. Đức Phật dạy chúng ta nhận định như vậy để thức tỉnh, để tìm phương
cách giải thoát, không còn chìm đắm trong những cơn vui giả tạm, ngắn ngủi,
những danh vọng, quyền tước, vật chất của thế gian. Cũng như một vị thầy thuốc
chẩn bệnh, định bệnh để tìm ra nguyên nhân gây bệnh và tìm cách chữa trị. Cho
nên, ngay sau đó, Đức Phật chỉ rõ nguyên nhân gây ra khổ đau.
Trong Kinh Viên Giác,
Đức Phật có dạy:
"Con người vì vô
minh cho nên có hai thứ chấp: chấp ngã và chấp pháp. Đó là hai nguyên nhân
chính gây ra phiền não và khổ đau của cuộc đời".
Khi nào hiểu được một
cách rõ ràng và phá trừ được hai nguyên nhân chính gây ra khổ đau, chúng ta sẽ
tìm được an lạc hạnh phúc thực sự trong cuộc sống hiện tại.
Thế nào là "chấp ngã"?
Chấp ngã có hai phần:
vật chất và tinh thần. Về vật chất, chúng ta chấp cái thân xác tứ đại mấy chục
ký lô này là "mình". Về tinh thần, chúng ta chấp cái tâm suy nghĩ,
tính toán, suy lường là chính "mình". Nếu có người hỏi: chúng ta là
ai? Chúng ta liền chỉ vào thân mình và trả lời: Tôi đây nè! Thực ra, cái xác
thân tứ đại giả tạm này đâu phải là "mình". Cái xác thân tứ đại bao
gồm những chất: đất, nước, gió, lửa, tụ hội với nhau trong một thời gian, từ
khi cha mẹ sinh ra, cho đến khi chúng ta thở ra, mà không muốn hít vào nữa, thì
ô hô tử vong! Thời gian đó ít năm, nhiều năm, ngắn dài tùy theo nghiệp duyên
của mỗi người. Người đời thường gọi đó là: số mạng, định mạng, hay số mệnh,
định mệnh.
Có người được vài chục năm. Có người chỉ trong hơi thở! Lúc đó, hơi thở trở
về với gió, hơi ấm trở về với vũ trụ, các chất lỏng như máu, mủ, nước tiểu trở
về với nước, các chất cứng như thịt, xương trở về với đất. Cái gì là
"mình" đây? Còn lại chỉ là cái xác không hồn, cái tử thi bất động.
Cái xác thân tứ đại của chúng ta tan rã, trở về với tứ đại của vũ trụ. Nói nôm
na là: cát bụi trở về với cát bụi. Thậm chí, ngay khi còn sống hiện nay, nếu chúng
ta không vay mượn tứ đại bên ngoài để bồi bổ từng ngày, từng giờ, từng phút,
từng giây, thì chúng ta đâu tồn tại được. Luôn luôn mượn không khí thở ra hít
vào, lát lát mượn ly nước, ngày ngày mượn vài ba chén cơm. Cái thân tứ đại muốn
khỏe thì khỏe, muốn đau yếu thì đau yếu, chúng ta không thể làm chủ nó như ý
muốn của chúng ta được. Vậy mà chúng ta cứ chấp chặt cái thân xác tứ đại là
"mình", chúng ta dành trọn cuộc đời để yêu mến, cung phụng, săn sóc
nó, thì quả là chúng ta quá mê muội, đang sống trong mộng tưởng, trong cơn mê,
mà không biết đó thôi.
Chúng ta đã hiểu cái
thân xác tứ đại không phải là mình, vậy còn cái tâm suy nghĩ, tính toán, suy
lường có phải là mình chăng? Thực ra, cái tâm đó cũng không phải là
"mình". Tại sao vậy? Bởi vì, có lúc chúng ta suy nghĩ rất hiền lành,
thánh thiện, muốn giúp đỡ mọi người, muốn bố thí cúng dường, muốn trở thành
người hoàn toàn tốt. Nhưng cũng có nhiều lúc, chúng ta tính toán, suy lường,
muốn hơn người khác cho thỏa lòng ganh tị, đố kyﬠmuốn thấy người khác suy sụp,
gặp nạn cho thỏa lòng hơn thua, ganh ghét, tị hiềm. Vậy thử hỏi chúng ta là
người thiện hay bất thiện? Chúng ta là một hay là hai?
Dù là khởi tâm thiện,
hay khởi tâm bất thiện, chúng ta cũng khổ đau. Lúc tâm thiện khởi lên, muốn làm
người tốt, muốn giúp đỡ người khác mà không được, thí dụ chúng ta muốn cứu
người thân bị bệnh nan y, thầy thuốc đã bó tay, chúng ta sẽ đau khổ. Lúc tâm
bất thiện khởi lên, muốn thấy người khác khổ đau, nguy nan, khốn đốn, mà họ vẫn
cứ bình an, chúng ta sẽ đau khổ. Đàng nào chúng ta cũng đau khổ cả! Lòng tự ái
cao là một dạng của tâm chấp ngã. Do tâm tham ái, chấp ngã một cách mù quáng,
chúng ta đã, đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu trong nhiều đời
nhiều kiếp. Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
Thế nào là "chấp pháp"?
Chấp pháp cũng có hai
phần: vật chất và tinh thần.
Về phương diện vật
chất, chúng ta chấp mọi thứ có hình tướng như cái nhà này, cái xe này là của
mình. Về tinh thần, chúng ta chấp mọi thứ, mọi việc, mình làm, mình nói, mình
nghĩ, cái gì của mình cũng là đúng, là nhất. Về phương diện vật chất, chúng ta
đang sống trong mộng tưởng, cho là cuộc đời này sẽ vĩnh viễn trường tồn, cho là
những người thân sẽ mãi mãi ở bên mình, cho là những của cải vật chất như nhà
cửa, xe cộ, vàng bạc, cơ nghiệp luôn luôn thuộc về mình. Cho nên, nếu người
thân có ra đi, hoặc có mệnh hệ nào, nếu của cải vật chất có bị mất mát hư hao,
thì chúng ta sẽ đau khổ!
Về phương diện tinh
thần, chúng ta thường chấp chặt ý kiến của mình là đúng, việc mình làm là đúng,
ai có ý kiến khác, ai làm khác là không đúng, là sai. Chúng ta thường cho là
người khác lúc nào cũng phải suy nghĩ giống như mình, nên khi có người phát
biểu khác đi, chúng ta khó chấp nhận được. Chúng ta không thấy những lỗi lầm,
sai trái của mình, cho nên đau khổ, bực bội, vì chỉ thấy lỗi lầm của người.
Thí dụ trong gia đình,
nếu người cha không nhận thấy lỗi của mình, chỉ biết la mắng con cái vì chúng
không theo ý muốn của mình, bất chấp ý kiến của chúng, thì người cha đó chắc
chắn sẽ phiền não đau khổ và làm cho mọi người trong gia đình cũng phiền não
đau khổ theo. Chúng ta nên biết hai thế hệ khác nhau thì ý kiến, sự suy nghĩ,
cảm giác đều khác nhau. Hơn nữa, chúng ta đừng chấp chặt các quan niệm xa xưa,
cổ lổ, lạc hậu, không còn hợp thời nữa. Cứ chấp chặt như vậy chỉ đưa đến phiền
não và khổ đau mà thôi. Chuyện vợ chồng cũng vậy. Chuyện cộng đồng cũng vậy.
Chuyện quốc gia xã hội, cho đến chuyện thế giới, cũng không khác, chỉ vậy thôi.
Khi bất cứ chuyện gì xảy ra, người nào, bên nào cũng có một phần lỗi, không
nhiều thì ít, không bên nào vẹn toàn, không người nào toàn vẹn. Hiểu được như
vậy, làm được như vậy, chúng ta sẽ bớt khổ đau nhiều lắm.
Trong cuộc sống gia
đình cũng như ngoài xã hội, điều quan trọng là chúng ta phải biết quên mình vì
người, thì mới có an lạc và hạnh phúc. Còn nếu tâm ý quá ích kỷ, chỉ biết có
mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình, cái gì cũng vì mình hết
trơn, thì chỉ có phiền não và khổ đau mà thôi. Muốn có một gia đình hạnh phúc,
người cha phải biết hy sinh, lo lắng mọi nhu cầu vật chất lẫn tinh thần cho cả
gia đình, người mẹ cũng phải biết hy sinh những vui thích cá nhân, hòa hợp với
nhịp sống chung của gia đình, con cái phải biết nhớ ơn sinh thành, dưỡng dục
của cha mẹ, phải biết nghe lời dạy dỗ, phải biết báo hiếu.
Trong một quốc gia có
hai, ba, hoặc nhiều phe nhóm đấu tranh, kình chống nhau kịch liệt, phe nào cũng
muốn tiêu diệt phe kia, phe nào cũng cho mình là đúng nhứt, là yêu nước nhứt,
thì quốc gia đó khó có thể tiến bộ được, dân chúng không thể sống trong an lạc
và hạnh phúc được. Tại sao vậy? Bởi vì phe cầm quyền làm được bất cứ việc gì,
cũng bị phe chống đối phá hoại, ngăn trở, phỉ báng, xuyên tạc. Chúng ta thường
tự kỷ ám thị, không chịu nhìn nhận sự thật, chỉ vì sự thật không theo như ý của
mình, của gia đình mình, của phe nhóm mình, của tôn giáo mình.
Trên thế gian này,
người chủ muốn công nhân viên làm việc nhiều, nhưng phát lương ít; ngược lại,
công nhân viên muốn làm việc ít, nhưng lãnh lương nhiều. Thế là đấu tranh và
đau khổ! Trên thế gian này, người ta thường nhớ rất kỹ đã làm ơn, giúp đỡ cho
bất cứ ai, bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào; nhưng lại không muốn nhớ bất cứ ai đã
làm ơn, giúp đỡ mình. Trên thế gian này, trâu cột ghét trâu ăn, được làm vua
thua làm giặc, có ít xích ra nhiều, chuyện bé xé ra to, chuyện có nói không,
chuyện không nói có, lấy oán báo ân, ăn cháo đá bát, được chim bẻ ná, được cá
quăng nôm, khen mình khinh người, là những "chuyện như thị", tức là
những sự thực đương nhiên, không cần ngạc nhiên, nhiều không thể kể hết được.
Hiểu được như thế và đừng làm như thế, chúng ta sẽ mỉm cười và bớt đau khổ
nhiều lắm!
Chúng ta thường mơ ước,
cầu nguyện cho cuộc đời được bình an, không sóng gió. Nhưng làm sao có thể như
vậy được? Thực ra, cuộc đời cũng giống như mặt biển cả, sóng gió triền miên,
khi nhiều sóng khi ít sóng, ít khi sóng lặng gió yên, cơn sóng này qua đi, thì
cơn sóng khác lại đến. Việc này chưa xong, thì việc khác lại xảy đến. Điều quan
trọng hơn cả là chúng ta cần nên biết áp dụng Chánh Pháp, để ứng xử mọi sự mọi
việc, với tâm thiền định, bình tĩnh, thản nhiên, chấp nhận, thì chúng ta sẽ
giảm bớt khổ đau. Do tâm tham ái, chấp pháp một cách mù quáng, chúng ta đã,
đang và sẽ tạo tội tạo nghiệp không biết bao nhiêu, trong nhiều đời nhiều kiếp.
Đó là nguyên nhân dẫn dắt chúng ta vào vòng sanh tử luân hồi.
3) Sau khi chỉ rõ
nguyên nhân của sự khổ đau, của sanh tử luân hồi, Đức Phật chỉ bày cảnh giới
niết bàn, thường hằng, tịch diệt, bình yên, thanh tịnh, an lạc và hạnh phúc cho
những ai biết áp dụng Chánh Pháp vào đời sống hằng ngày.
Trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn, Đức Phật có dạy:
Chư hành vô thường. Thị sanh diệt pháp. Sanh diệt diệt dĩ. Tịch diệt vi lạc.
Nghĩa là mọi sự mọi
việc trên đời đều vô thường, không có gì tồn tại vĩnh viễn, gọi là pháp sanh
diệt. Tất cả mọi sự mọi việc sanh ra, rồi cũng sẽ diệt đi, không có gì là vĩnh
cửu, chuyện vui có tới rồi cũng đi, chuyện buồn có đến rồi cũng qua, thời gian
sẽ xóa tan tất cả mọi sự mọi việc. Chuyện vui hay buồn đều làm tâm của chúng ta
loạn động và bất an. Tâm của chúng ta dù khởi niệm từ bi, hay khởi niệm sân
hận, rồi cũng lặng đi, tất cả đều là các tâm niệm sanh diệt. Chỉ có khi nào các
tâm niệm sanh diệt như vậy diệt đi rồi, lặng mất rồi, không còn nữa, chúng ta
sẽ được sống trong cảnh giới an lạc hạnh phúc, cảnh giới tịch diệt vi diệu.
Trong Kinh A Di Đà, Đức
Phật dạy: đó là cảnh giới của
người đạt được "nhất tâm bất loạn".
Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của
người có tâm "bất tùy phân biệt", của người không còn tranh chấp thị
phi, phải quấy, hơn thua, đúng sai.
Trong Kinh Tịnh Danh,
hay Kinh Duy Ma Cật, Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của
người đạt được "pháp môn bất nhị", của người không còn kẹt trong vòng
đối đãi nhị biên, không còn thành kiến, định kiến, thiên kiến, biên kiến, tà
kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong Kinh Kim Cang,
Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của
người đạt được "thân kim cang bất hoại", của người không còn kẹt vì
các hình tướng giả tạm bên ngoài, của người đạt được "thực tướng".
Trong Bát Nhã Tâm Kinh,
Đức Phật dạy: đó là cảnh giới của
người đạt được "chư pháp bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng,
bất giảm", hay là cảnh giới của người "hành thâm bát nhã và chiếu
kiến ngũ uẩn giai không".
Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Đức Phật có dạy: "Sanh
diệt ký diệt, tịch diệt hiện tiền".
Nghĩa là khi nào tâm
sanh diệt tiêu mất, không còn nữa, thì cảnh giới tịch diệt, tức là cảnh giới
niết bàn hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào mây đen tan mất, thì trăng sáng
hiện ra trước mắt. Cũng như khi nào phiền não và khổ đau hết, thì an lạc và
hạnh phúc hiện tiền. Nói một cách khác: "vọng tâm tiêu hết, chân tâm hiện
tiền". Thực là đơn giản, dễ hiểu như vậy.
Cảnh giới tịch diệt an
lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không
thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được
một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh
giới an lạc tịch diệt.
Cảnh giới này không thể
nghĩ bàn, không thể dùng lời lẽ của thế gian để diễn tả trọn vẹn được, ai thực
hiện được, sống được trong cảnh giới đó, thì tự người đó biết, cũng như người
uống nước, nóng lạnh tự biết. Cảnh giới này còn gọi là "đạo". Sách có
câu: "đạo bất khả ngôn thuyết". Nghĩa là không thể dùng ngôn ngữ của
thế gian này để diễn tả, để chỉ bày, để nói về "đạo". Sách cũng có
câu: "ngữ ngôn đạo đoạn". Nghĩa là khi nói lên bằng ngôn ngữ thế gian
thì đã mất "đạo" rồi.
4) Đến đây, Đức Phật
chỉ dạy những phương pháp, những
pháp môn để đạt được "đạo", tức là đạt được cảnh giới niết bàn tịch
diệt đó. Vấn đề hiện giờ là: làm sao để các tâm niệm sanh diệt đó không còn
khởi lên nữa, hoặc các tâm niệm sanh diệt đó có khởi lên, làm sao cho nó lắng
xuống, tiêu mất? Nói cách khác: Làm sao hàng phục và an trụ được cái tâm ý này
chính là trọng tâm của đạo Phật.
Toàn
bộ giáo pháp của đạo Phật, chia ra 37 phẩm, gồm có: tứ niệm xứ, tứ như ý
túc, tứ chính cần, ngũ căn, ngũ lực, thất bồ đề phần và bát chánh đạo.
Chánh Pháp gồm 37 phẩm
này giúp chúng ta đạt được "đạo"
bằng trí tuệ, bằng sự quán chiếu, nhận thức được chân lý chứ không phải chỉ
bằng niềm tin đơn giản mà thôi.
* *
"Tứ Niệm Xứ" là bốn chỗ cần quán niệm luôn luôn. Quán thân
bất tịnh, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng thân xác tứ đại này chứa toàn những thứ
nhơ nhớp, những thứ bất tịnh bên trong. Quán thọ thị khổ, nghĩa là luôn luôn
nhớ rằng thọ nhận nhiều cảm giác, nhiều tự ái, ai nói gì cũng chấp chặt, thì
tức nhiên là khổ. Quán tâm vô thường, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng tâm ý con
người đổi thay vô chừng, không cố định, nay vầy mai khác, chớ có chấp chặt làm
chi cho khổ! Quán pháp vô ngã, nghĩa là luôn luôn nhớ rằng mọi sự mọi việc trên
thế gian đều không nhứt định, không cố định. Thí dụ những quan niệm chồng chúa
vợ tôi, trọng nam khinh nữ, chỉ đúng ở thời đại nào đó mà thôi, không có thực
thể cố định, không đúng với mọi thời gian, không đúng với mọi không gian.
"Tứ chính cần" là bốn việc luôn luôn chuyên cần, chăm chỉ
thực hành một cách chân chính. Đối với việc bất thiện đã sinh, phải trừ dứt
hẳn, đối với việc bất thiện chưa sinh, đừng cho sinh ra, đối với việc thiện
chưa sinh, làm cho sinh ra, đối với việc thiện đã sinh, làm cho tăng trưởng.
"Tứ như ý túc" là bốn pháp thiền định, hay là bốn phương tiện
đưa chúng ta đến chỗ như ý muốn, thành tựu viên mãn. Đó là: dục, cần, tâm,
quán. Nghĩa là: chúng ta phải có lòng thiết tha mong muốn, tìm cầu sự giải
thoát, chúng ta phải chuyên cần, tinh tấn học hiểu giáo lý, chúng ta phải khắc
chế tâm niệm đến chỗ bất loạn, chúng ta phải biết cách quán chiếu để giác ngộ
chân lý, thấu hiểu lẽ thực.
"Ngũ căn" là năm pháp căn bản sinh ra các việc thiện. Đó
là: tín, tấn, niệm, định, tuệ. Nghĩa là: chúng ta phải có niềm tin sâu xa, vững
chắc nơi Chánh Pháp vô thượng, tinh tấn tu tâm dưỡng tánh không hề biết mệt
mỏi, luôn luôn có tâm niệm hiền thiện, từ bi hỷ xả, luôn luôn giữ sự bình thản,
tỉnh thức, thiền định, bất loạn và luôn luôn dùng trí tuệ để suy xét mọi sự mọi
việc, không tin tưởng bừa bãi, không mê tín dị đoan.
"Ngũ lực" là năm sức mạnh do năm pháp căn bản nói trên
thành tựu được. Nghĩa là do tín lực chúng ta có niềm tin kiên cố, mạnh mẽ nơi
Chánh Pháp, do tấn lực chúng ta có sức mạnh tinh thần bất thối chuyển, san bằng
những trở ngại trên đường tu tập, do niệm lực chúng ta luôn luôn ghi nhớ những
thiện pháp, do định lực chúng ta có được sự tập trung tư tưởng, và do tuệ lực
chúng ta giác ngộ được con đường giải thoát khỏi sanh tử luân hồi.
"Thất
bồ đề phần" còn gọi là "thất
giác chi", là bảy phần hiểu biết, bảy điều dẫn đến chỗ giác ngộ. Đó là:
trạch pháp, tinh tấn, hoan hỷ, khinh an, niệm, định, xã. Trạch pháp là dùng trí
tuệ chọn lựa sự thực hư, chơn giả của tất cả các pháp. Tinh tấn là tâm mạnh mẽ
dứt trừ tất cả các nghiệp bất thiện, thực hành tất cả các nghiệp thiện. Hoan hỷ
là tâm luôn luôn vui vẻ với mọi người, với mọi việc trên thế gian, không phân
biệt gì cả, để tất cả chúng sanh đều hỷ kiến.
Khinh an là tâm nhẹ
nhàng, an lạc khi dứt trừ các phiền não, các cố chấp nặng nề, thoát ra ngoài
vòng tục lụy của thế gian. Niệm là tâm luôn luôn nhớ nghĩ đến chư Phật, đến tất
cả chúng sanh, vì tâm từ bi hỷ xả mà hành trì giới luật, làm các việc phước
thiện. Định là tâm luôn luôn bình thản, không tán loạn, an nhiên, tự tại. Xã là
tâm buông bỏ tất cả những hệ lụy của cuộc đời, tất cả những thành kiến, định
kiến, thiên kiến, biên kiến, tà kiến, ác kiến, thường kiến, đoạn kiến, không
chấp chặt những tư tưởng chật hẹp, ích kỷ.
"Bát
chánh đạo" là con đường gồm tám điều
chân chánh, dẫn đến mục đích cứu kính của đạo Phật: giác ngộ và giải thoát.
Đó là: chánh kiến,
chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định.
1) Chánh kiến là
sự hiểu biết chân chánh, chẳng hạn như hiểu biết về lý nhân quả, lý nhân duyên,
lý duyên khởi, trùng trùng duyên khởi. Sự hiểu biết này không bị chi phối bởi
thành kiến, định kiến, tà kiến, ác kiến, thiên kiến, biên kiến, đoạn kiến,
thường kiến. Người có chánh kiến là người thấy mọi sự mọi việc "đúng như
thực".
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy: "Hãy đến với đạo Phật để thấy đúng như thực, chứ không phải
chỉ đến để mà tin!" Thấy "đúng như thực" nghĩa là sao? Nghĩa là:
* Mọi sự việc đều có
nguyên nhân. Thí dụ khi thấy một cái cây mọc lên, chúng ta biết ngay là do hạt
nhân nẩy mầm, không phải tự nhiên mà có. Khi được bình an, sung sướng, chúng ta
hiểu là đang hưởng phước. Khi gặp tai nạn, trắc trở, chúng ta hiểu là đang đền
trả quả báo. Tất cả việc phước hay họa là quả của nhân, do chúng ta gieo trước
đây, đời trước hay đời này, chứ không do ông trời nào ban phước giáng họa bừa
bải cả. Đó là lý nhân quả.
* Mọi sự việc do nhân
duyên sinh và cũng do nhân duyên diệt. Một cuốn sách do các nhân duyên có người
viết, có giấy mực, có thợ in ấn, có thợ đóng bìa mà hình thành. Đến khi do các
nhân duyên bị mối mọt ăn, bị lửa đốt, bị thấm nước, cuốn sách đó sẽ bị hủy
hoại. Cuốn sách không phải tự nhiên mà có, không phải tự nhiên mà mất! Đó là lý
nhân duyên.
* Mọi sự mọi việc không
phải tự nhiên mà phát khởi. Có người hỏi thì mới có người đáp. Có người ăn quà
mới có người bán quà. Có người bán quà mới có người ăn quà. Có chửi mắng người
mới bị ăn bạt tai. Có chơi xấu người mới bị người chơi xấu. Có gió mới có sóng.
Có sinh sự thì sự mới sinh. Có chuyện này xảy ra, mới có chuyện kia xảy ra, rồi
có chuyện nọ xảy ra tiếp theo, cứ như thế liên tục không bao giờ dứt. Đó là lý
duyên khởi, trùng trùng duyên khởi.
2) Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, theo đúng lẽ thực, không lợi mình hại
người. Sự suy nghĩ này không bị chi phối bởi thành kiến, định kiến, thiên kiến,
biên kiến, tà kiến, ác kiến, đoạn kiến, thường kiến.
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy: "Không nên tin
ngay tất cả những gì người xưa nói, tất cả những gì người có thế lực đạo cũng
như đời nói, tất cả những gì người bề trên nói, tất cả những gì có nhiều người
tin theo, có ghi trong sách vở.
Chỉ nên tin những gì có
thể kiểm nghiệm được, đúng với chân lý, đúng với lẽ thực, thông qua trí tuệ
sáng suốt, thấy có ích lợi cho bản thân và cho mọi người".
Bởi vậy, Đức Phật dạy
ba môn học phát sinh trí tuệ, đó là: "Văn-Tư-Tu". Nghĩa là chúng ta
hãy nghe giảng, hãy đọc sách, hãy nghiên tầm, hãy học hỏi, rồi suy nghĩ, tư
duy, quán chiếu cho chính chắn, thấu đáo, trước khi thực hành, tu tập theo.
3) Chánh ngữ là
lời nói chân chánh, không lợi mình hại người, không thêu dệt, gây hiềm khích
giữa các cá nhân hay tập thể, không xu nịnh, không trái lẽ thực, không thiên
vị. Lời nói này dễ nghe, đem lại niềm vui cho kẻ khác, không bị chi phối bởi ác
kiến, thành kiến, biên kiến, đoạn kiến, thường kiến. Người có chánh ngữ là
người không nói những lời khiến kẻ khác đau khổ, phải xức dầu cù là, phải uống
thuốc nhức đầu, dù cho họ là người thân hay kẻ thù hoặc bất cứ ai chăng nữa!
Người có chánh ngữ là người biết giữ chữ tín, được lòng tin yêu của mọi người.
Khi cần nói, chỉ nói pháp vô sanh, không nói pháp sanh diệt, thị phi.
4) Chánh nghiệp là hành động tạo nghiệp chân chánh, không mưu cầu lợi mình hại
người. Dù cho người có hành động không tốt đối với mình, chúng ta cũng không có
hành động trả đủa, vì làm như vậy chúng ta đâu có khác gì hơn người. Người ta
viết báo chửi bới, vu cáo, bôi lọ, nhục mạ, phỉ báng. Chúng ta biết đó là hành
động không chân chánh, thì chúng ta đừng làm y như vậy đối với người.
Trong Kinh A Hàm, Đức
Phật có dạy: "Tam nghiệp hằng
thanh tịnh. Đồng Phật vãng tây
phương". Nghĩa là giữ gìn ba
nghiệp thân khẩu ý chân chánh, thanh tịnh, thì chúng ta theo chư Phật về cảnh
giới tây phương cực lạc mà an hưởng.
5) Chánh mạng là mạng sống, cuộc sống chân chánh. Nghĩa là chúng ta chỉ làm
những nghề chân chánh, không xâm phạm mạng người, tổn hại mạng vật để sinh
sống. Người có chánh mạng là người sống cuộc đời có ý nghĩa, lợi mình lợi
người, không lường gạt ai, không ăn không ngồi rồi, không sống bám vào kẻ khác,
không sống bám vào xã hội, luôn luôn có tâm niệm phục vụ chúng sanh là cúng
dường chư Phật.
6) Chánh tinh tấn là sự siêng năng, chuyên cần, chăm chỉ chân chánh, tức là làm
tất cả những việc thiện và tránh tất cả việc bất thiện, luôn luôn tu tâm dưỡng
tánh, không lúc nào ngơi nghỉ, mệt mõi, buông lung hay thối tâm.
Trong Kinh Đại Bát Niết
Bàn, Đức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật
giáo".
Trong kinh sách, tượng
trưng cho sự siêng năng, tinh tấn một cách dũng mãnh, vượt ngoài ý chí tầm
thường của thế gian, đó là Bồ Tát Đại Thế Chí.
7) Chánh niệm là
luôn luôn khắc chế tâm niệm bên trong, bên ngoài luôn luôn tránh sự đấu tranh,
cãi vã. Chư Tổ có dạy: "Nội cần khắc niệm
chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa là con người có
công phu tu tập, cố gắng dẹp bỏ tạp niệm trong tâm, con người có đức độ bên
ngoài luôn luôn từ tốn, lễ độ, nhã nhặn, hiền hòa. Người có chánh niệm là người
luôn luôn biết rõ ràng mình đang làm gì, đang nói gì, đang nghĩ gì, luôn luôn
sống trong tỉnh thức, nhận biết ngay mỗi khi vọng niệm dấy khởi và không theo,
luôn luôn nhớ và sống theo lời Phật dạy, luôn luôn sống với Chân Tâm Phật Tánh,
tức là với Bản Tâm Thanh Tịnh.
8) Chánh định là
sự bình tĩnh sáng suốt, do tam nghiệp thanh tịnh, do quán tâm từ bi để dẹp trừ
lòng sân hận, mở rộng tình thương, do quán thân bất tịnh để dẹp trừ lòng tham
ái, do quán lý nhân duyên để dẹp trừ lòng si mê, ngã chấp và pháp chấp, do quán
giới phân biệt để khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần, không khởi sáu thức, không
sanh vọng niệm và do quán sổ tức, đếm hơi thở ra thở vào, để dẹp trừ tâm loạn
động, tâm lăng xăng lộn xộn.
Người có chánh định do
giữ gìn giới luật, sẽ phát sanh trí tuệ bát nhã, đưa đến giác ngộ và giải
thoát. Đó là tam vô lậu học "Giới-Định-Tuệ". Ngoài ra, chúng ta cũng
đã biết dù khởi niệm thiện hay bất thiện cũng đều dẫn đến khổ đau, bởi vì vẫn
còn kẹt hai bên, tức là nhị biên, người đời gọi là hai thái cực. Cho nên, Đức
Phật dạy "Pháp Môn Bất Nhị", giúp chúng ta lặng hết những tâm niệm dù
thiện hay bất thiện, để không còn phiền não và khổ đau, để được an lạc và hạnh
phúc, để được về cõi tây phương cực lạc, để được giác ngộ và giải thoát.
Tóm lại, chúng ta biết
những điều Đức Phật chứng ngộ và giảng dạy, được gọi là Chánh Pháp ghi trong
các kinh điển, ví như các bản đồ giúp nhân loại biết phương pháp tu tập, để
được giác ngộ và giải thoát, để được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời.
Chánh Pháp không dành riêng cho bất cứ ai, dù là Phật Tử hay không, dù là tu sĩ
xuất gia hay cư sĩ tại gia. Mặc dù có người thờ phượng Đức Phật, tin tưởng Đức
Phật mà không học hiểu Chánh Pháp, không áp dụng Chánh Pháp, thì cũng không ích
lợi gì hiện đời cả.
Chư Tổ có dạy: "Tu mà không học
là tu mù. Học mà không tu là đãy
sách". Nghĩa là muốn hưởng an
lạc và hạnh phúc, muốn được giác ngộ và giải thoát, chúng ta phải tu tập. Nhưng
tu tập mà không chịu học hiểu Chánh Pháp cũng ví như người mù lại không có bản
đồ, không người hướng dẫn, thì làm sao đi đến nơi đến chốn một cách an lành được.
Bản thân đã tu mù, không nghiên tầm giáo lý, kinh điển đại thừa, mà còn dẫn dắt
người khác tu tập, thì quả là đại họa, là phỉ báng đạo Phật, là sư tử trùng
thực sư tử nhục. Trái lại, Chánh Pháp để áp dụng, thực hành chứ không phải để
nói suông, để thảo luận, để tranh cãi. Người chỉ lo học hiểu để thỏa mãn kiến
thức, mà không lo tu tập, không áp dụng vào đời sống hằng ngày, thì cũng chỉ có
thể hiểu biết đến mức độ nào đó mà thôi, cũng ví như cái đãy, cái túi đựng sách
có giới hạn vậy thôi. Những người đó cũng như những người đếm tiền trong ngân
hàng, những người đếm bò cho chủ, trọn không có tiền và cũng không có bò.
Có câu chuyện giáo lý
tối thượng thừa như sau: Có một anh mù, đến thăm người bạn, đến lúc trời tối
mới ra về. Người bạn đưa cho cây đèn. Anh mù bèn nói không cần, bởi vì đối với
anh, trời sáng cũng như tối, ban ngày cũng như ban đêm, không có gì khác, không
phân biệt được gì cả. Người bạn khuyên hãy cầm cây đèn, để người khác thấy mà
tránh. Anh mù nghe có lý bèn nhận cây đèn và ra về. Trên đường về, có người đi
đụng phải anh. Anh mù bèn la lên: bộ không thấy cây đèn tôi đang cầm đây hay
sao? Người kia đáp: Cây đèn của anh đã tắt từ lâu rồi!
Thế mới biết chúng ta
cần cây đèn của chính chúng ta, để giúp chúng ta tai qua nạn khỏi, để giúp
chúng ta giác ngộ và giải thoát khỏi vòng trầm luân, sanh tử luân hồi. Cây đèn
do người khác trao cho, có khi không được hữu dụng. Cây đèn luôn luôn hữu dụng
đó phải là cây đèn của chính chúng ta. Cây đèn đó chính là trí tuệ bát nhã của
tất cả mọi người chúng ta vậy. [ ]
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll