https://phtq-canada.blogspot.com/2024/05/gia-tri-cua-con-nguoi.html
GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI - TK.THÍCH CHÂN TUỆ
https://phtq-canada.blogspot.com/2021/02/gia-tri-cua-con-nguoi.html
GIÁ TRỊ CỦA CON NGƯỜI
https://phtq-canada.blogspot.com/2021/02/gia-tri-cua-con-nguoi.html
Giá trị của con người
·
Từ ngàn xưa cho đến ngày
nay, từ phương đông sang đến phương tây, từ Á châu sang đến Âu châu, Mỹ châu,
Phi châu và Úc châu, khi bàn về vấn đề giá trị của con người, người ta có vô số
cách nhận định, có vô số căn cứ, có vô số cơ sở, có vô số thước đo, có vô số
tiêu chuẩn, có vô số khía cạnh và có vô số căn bản, để bàn bạc, để thảo luận,
để tranh cãi, để thẩm định giá trị của con người.
·
Không ai đồng ý với ai.
Không thời điểm nào giống thời điểm nào. Không địa phương nào hợp với địa
phương nào. Không sắc tộc nào đồng quan điểm với sắc tộc nào. Không tôn giáo nào
đồng ý với tôn giáo nào.
·
Trong phạm vi xã hội,
phải chăng con người có nhiều tài sản, tiền bạc, của cải thì có giá trị
hơn? Phải chăng con người có nhiều quyền thế, lắm chức tước, địa vị cao
thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có kiến thức rộng, hiểu biết sâu
thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nghề nghiệp chuyên môn, bằng
cấp cao thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nhiều danh vọng, nhiều
tiếng tăm thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có sắc đẹp mỹ miều,
duyên dáng thì có giá trị hơn? Phải chăng con người có nhiều tài năng,
khéo léo thì có giá trị hơn?
·
Trong phạm vi tín ngưỡng
hay tôn giáo, phải chăng người tu sĩ có giá trị hơn quảng đại quần chúng tín
đồ? Phải chăng vị tu sĩ nào tu nhiều năm, hay có phẩm trật cao thì có giá
trị hơn? Phải chăng tín đồ nào đi cúng kiến, lễ bái, xem lễ, cầu nguyện
nhiều thì có giá trị hơn? Phải chăng người nào biết làm việc phước thiện, biết
làm công quả, biết làm đồng công, biết giúp đỡ nhiều người, biết bố thí kẻ
nghèo, biết cúng dường các bậc tôn túc, biết phân biệt phải trái, trắng đen thì
có giá trị hơn?
·
Trong muôn ngàn câu hỏi
đó, trong muôn ngàn ý kiến của muôn triệu người, tự cổ chí kim, từ đông sang
tây, từ Á sang Âu, vấn đề cần suy tư hiện nay của chúng ta là gì? Đó chính
là hai câu hỏi:
·
Đâu là giá trị chân
thật của con người?
·
Tìm hiểu giá trị chân
thật của con người được ích lợi gì?
·
* * *
·
Trong khi bàn về vấn đề
giá trị của con người, thông thường người ta có thể xem xét về hai phương diện:
vật chất và tinh thần.
·
Về phương diện vật chất,
người đời thường đánh giá cao những con người ăn mặc lịch sự, sang trọng, đúng
thời trang, những con người sống trong những ngôi nhà cao, cửa rộng, những tòa
biệt thự đồ sộ, nguy nga, tráng lệ, những con người đi trên những chiếc xe hơi
lộng lẫy, đắt tiền, đầy đủ tiện nghi, những con người rộng rãi, hào phóng, xài
tiền như nước.
·
Bên cạnh đó, người đời
cũng thường đánh giá cao những con người có sắc đẹp quyến rủ, những con người
dung mạo tuyệt trần, những con người có thân hình lực lưỡng, cân đối, những con
người khỏe mạnh, tráng kiện, những con người có uy quyền, có thế lực, có danh
vọng, những con người có địa vị trong xã hội, những con người có tài sản kếch
sù, những con người có nhiều cơ sở làm ăn, buôn bán, kinh doanh khắp nơi, những
con người hét ra lửa mửa ra khói, những con người tiền hô hậu ủng, những con
người có kẻ ăn người ở, có kẻ hầu người hạ, phục dịch trong ngoài, những con
người có sức mạnh vô địch, những con người có võ công tuyệt luân.
·
Những con người như vậy
sở dĩ được đánh giá cao, bởi vì đó là mục tiêu nhắm đến, là niềm mơ ước đạt
được của hầu hết mọi người nam nữ, già trẻ, lớn bé, trên thế gian
này. Bằng đủ mọi cách, mọi thứ, mọi phương pháp, mọi phương tiện, mọi mưu
mô, mọi kế sách, mọi thủ đoạn, mọi chiến thuật, mọi chiến lược, mọi sách lược,
con người trên thế gian này đều chỉ mong đạt được, đoạt được những điều mơ ước
đó, dù có phải chà đạp lên sanh mạng hay nhân phẩm của người khác hay nhiều
người khác. Lắm khi con người bất chấp sanh mạng và tiền đồ của cả một dân
tộc, hay của cả nhân loại trên quả địa cầu này, chỉ vì những tiêu chuẩn giá trị
trên đây. Thật thảm thương thay!
·
Về phương diện tinh thần,
người đời thường đánh giá cao những con người có nhiều bằng cấp chuyên môn,
những con người có kiến thức rộng rãi, thông thuộc lịch sử đông tây kim cổ,
những con người có sự hiểu biết bao quát mọi vấn đề trong cuộc sống, những con
người có nhiều năng khiếu đặc biệt, những con người đạt được nhiều thành tích
trong mọi lãnh vực, những con người có hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, đàng
hoàng, bề ngoài đứng đắn, từ tốn, chậm rãi, những con người thực hiện được
những chuyện cao cả, những chuyện dị thường, những chuyện huyền bí, những
chuyện kinh dị, những chuyện kinh thiên động địa, những chuyện không ai làm
nổi, những chuyện không ai tưởng tượng nổi.
·
Tất cả những con người kể
trên được đánh giá là những con người có giá trị trong xã hội. Nói cách
khác, giá trị của con người trong thế gian hiện nay được xem xét không ngoài
hai phương diện: vật chất và tinh thần. Nếu không giàu sang thì cũng phải
tài giỏi. Nếu không quyền thế thì cũng dòng dõi quý phái, danh gia, vọng
tộc. Nếu không có chức thì cũng phải có bằng. Nếu không tốt tướng,
khỏe mạnh, đẹp đẽ, mặn mà thì cũng phải nết na, duyên dáng, thùy mị, đạo đức.
Chính vì những tiêu chuẩn qui định giá trị của con người như trên, cho nên cuộc
đời trên thế gian này đầy dẫy những bất công, gian trá, phiền não và khổ
đau.
·
Nếu tiêu chuẩn qui định
giá trị của con người là tiền tài, của cải, giàu sang thì tức nhiên những con
người thuộc giới bình dân sẽ bị khinh khi, chà đạp. Như vậy, nhân phẩm không
còn được tôn trọng, nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con người
không có nhiều tiền tài, của cải, giàu sang thường mang mặc cảm tự ti, thấp
kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng phản ứng, đối phó, đôi co, cãi cọ,
bực bội, khi "thấy" người khác khinh dể mình, khi "nghe"
người khác khinh dể mình, khi "nghi" người khác khinh dể mình. Đôi
khi chưa thấy ai khinh dể mình, chỉ nghe thoang thoáng, nghe đồn đại, nghe
phong thanh người khác khinh dể mình, hoặc nghi người khác khinh dể mình, thì
mình đã nổi trận lôi đình, nổi giận đùng đùng, ầm ầm, tam bành lục tặc nổi lên
cuồn cuộn. Bởi vậy mới biết trong lòng mỗi người chúng ta, ai ai cũng đều
có một ngọn hỏa diệm sơn cả.
·
Tâm trạng của những người
không có nhiều tiền tài, của cải, giàu sang thường bất an, xáo trộn. Chỉ
cần một lời nói, một cử chỉ hay một ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể
làm bùng nổ những cuộc tranh luận, những cuộc tranh chấp, những cuộc tranh
biện, những cuộc tranh đấu, những cuộc cãi vã giữa hai người, giữa hai nhóm
người, giữa hai đoàn thể. Và như vậy thường dẫn đến chuyện ấu đả nhau, tìm cách
chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản, cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm
luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho tơi bời hoa lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc
đầu lên nổi. Hoặc con người tìm cách kiện tụng nhau, lôi nhau ra trước ba
tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ phân xử những bạn bè cũ người đồng
hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ đó là "cố ý" miệt thị người
khác nghèo hơn mình, ít tiền tài hơn mình, miệt thị nhóm người khác ít của cải,
ít vốn liếng, ít tiền bạc hơn mình, miệt thị đoàn thể khác ít uy tín hơn đoàn
thể mình.
·
Trái lại, những con người
nhiều tiền lắm bạc thường kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, coi trời bằng nắp
vung, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi người. Những con người thừa tiền lắm
của thường có thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời
bằng cặp kiếng đen; dù rằng tiền bạc và của cải, họ đang sở hữu, không có xuất
xứ trong sạch, không có xuất xứ rõ ràng, minh bạch và thực là không đáng hãnh
diện, không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào cả! Chính vì tiêu
chuẩn qui định giá trị của con người là tiền tài, của cải, giàu sang, gây nên
hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp bênh, đạo đức suy đồi, tranh chấp triền
miên. Cuộc đời đầy dẫy những phiền não và khổ đau, cho cả hai hạng người
"có hay không có" tiền tài, của cải, giàu sang.
·
Nếu tiêu chuẩn qui định
giá trị của con người là quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến
thức, bằng cấp, tài năng, thì tức nhiên những con người thuộc giới bình dân sẽ
bị khinh khi, chà đạp. Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng, nhân
quyền không còn được bình đẳng. Những con người không có quyền thế, địa vị,
chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng, thường mang
mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng phản ứng, đối
phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy" người khác khinh dể mình,
khi "nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi" người khác
khinh dể mình.
·
Tâm trạng của những người
không có quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp,
tài năng, thường bất an, xáo trộn. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ hay một
ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận,
những cuộc tranh chấp, những cuộc tranh biện, những cuộc tranh đấu, những cuộc
cãi vã giữa hai người, hai nhóm người, hai phe phái. Và như vậy thường dẫn
đến chuyện ấu đả nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản,
cho sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho tơi bời hoa
lá nhà người, cho chúng khỏi ngóc đầu lên nổi. Hoặc con người tìm cách
kiện tụng nhau, lôi nhau ra trước ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ,
nhờ phân xử những bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý
nghĩ đó là "cố ý" miệt thị người khác ngu hơn mình, miệt thị người
khác bằng cấp thấp hơn mình, miệt thị người khác ít tài năng hơn mình, miệt thị
nhóm người khác ít danh giá hơn mình, miệt thị phe phái khác ít quyền thế hơn
mình.
·
Trái lại, những con người
quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài
năng, thường kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi
người. Những con người quyền cao chức trọng, những con người ăn trên ngồi
trước, những con người bằng này cấp kia, những con người có chức có tước,
thường có thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời
bằng cặp kiếng đen; dù rằng quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá,
kiến thức, bằng cấp, tài năng của họ chỉ là dõm, là hư, là giả tạm, là hão
huyền, và thực là không đáng hãnh diện, không đáng khoe khoang, không đáng tự
hào chút nào cả!
·
Chính vì tiêu chuẩn qui
định giá trị của con người là quyền thế, địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá,
kiến thức, bằng cấp, tài năng, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp
bênh, đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên. Cuộc đời đầy dẫy những phiền
não và khổ đau, cho cả hai hạng người "có hay không có" quyền thế,
địa vị, chức tước, phẩm hàm, danh giá, kiến thức, bằng cấp, tài năng.
·
Nếu tiêu chuẩn qui định
giá trị của con người là bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng
trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thì tức nhiên những con người thuộc giới bình
dân sẽ bị khinh khi, chà đạp. Như vậy, nhân phẩm không còn được tôn trọng,
nhân quyền không còn được bình đẳng. Những con người không có bề ngoài
sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, thường
mang mặc cảm tự ti, thấp kém, dễ tự ái, cho nên lúc nào cũng sẵn sàng phản ứng,
đối phó, đôi co, cãi cọ, bực bội, khi "thấy" người khác khinh dể
mình, khi "nghe" người khác khinh dể mình, khi "nghi" người
khác khinh dể mình.
·
Tâm trạng của những người
không có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo
mạo, uy nghi, thường bất an, xáo trộn. Chỉ cần một lời nói, một cử chỉ hay một
ý nghĩ "vô ý" nào đó cũng có thể làm bùng nổ những cuộc tranh luận,
cãi vã giữa hai người, hai nhóm người, hai tông phái. Và như vậy thường dẫn đến
chuyện ấu đả nhau, tìm cách chơi nhau cho đến chết, cho tán gia bại sản, cho
sạt nghiệp luôn, cho dẹp tiệm luôn, cho đóng cửa báo luôn, cho tơi bời hoa lá
nhà người, cho chúng khỏi ngóc đầu lên nổi. Hoặc con người tìm cách kiện
tụng nhau, lôi nhau ra trước ba tòa quan nhớn quan nhỏ, tóc quăn mũi lõ, nhờ
phân xử những bạn bè cũ người đồng hương, nếu như lời nói, cử chỉ hay ý nghĩ đó
là "cố ý" miệt thị người khác xấu xí hơn mình, không sang trọng bằng
mình, không oai phong bằng mình, không nỗi tiếng bằng mình, miệt thị nhóm người
khác không quí phái bằng nhóm mình, miệt thị tông phái khác không được chính
tông, chính phái, chân truyền như mình, không trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi,
đĩnh đạc như mình.
·
Trái lại, những con người
có bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy
nghi, thường kiêu căng, ngạo mạn, phách lối, dễ gây ác cảm, thù hận đối với mọi
người. Những con người bộ vó trang nghiêm, những con người ra vẻ quí phái,
những con người có tướng oai phong, những con người có tiếng có tăm, thường có
thái độ mục hạ vô nhân, họ nhìn đời bằng nửa con mắt, họ nhìn đời bằng cặp
kiếng đen, dù rằng bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang
nghiêm, đạo mạo, uy nghi của họ chỉ là cái võ không ruột và thực là không đáng
hãnh diện, không đáng khoe khoang, không đáng tự hào chút nào cả!
·
Chính vì tiêu chuẩn qui
định giá trị của con người là bề ngoài sang trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng
trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi, gây nên hậu quả an ninh của xã hội cũng bấp
bênh, đạo đức suy đồi, tranh chấp triền miên. Cuộc đời đầy dẫy những phiền
não và khổ đau, cho cả hai hạng người "có hay không có" bề ngoài sang
trọng, đẹp đẽ, quí phái, hình tướng trang nghiêm, đạo mạo, uy nghi.
·
Như vậy, chúng ta phải
công nhận rằng các yếu tố, các căn cứ, các tiêu chuẩn qui định giá trị của con
người trên đây thường dẫn đến những vụ xáo trộn, những vụ tranh cãi, những vụ
tranh chấp, những vụ tranh đấu, những vụ tranh biện, những vụ tranh luận, những
vụ tranh đua, những vụ kiện tụng, những vụ con kiến đi kiện củ khoai, những vụ
vạch áo cho người xem lưng, những vụ vạch lá tìm sâu, những vụ đào xới tam
đại tổ tiên người khác để sỉ vả, nhục mạ, mắng nhiếc, chửi bới, bêu riếu, những
trận bút chiến, những sự chia rẽ, những hiện tượng phân hóa, những bất công
trong xã hội. Đồng thời, các tiêu chuẩn qui định giá trị của con người
trên đây cũng dẫn đến những phiền não và khổ đau trong tâm tư của tuyệt đại đa
số con người trên thế gian này trong mọi hoàn cảnh.
·
Thí dụ như chỉ cần nghe
người nào đó chê mình nghèo, chê mình bất tài, chê mình ngu, chê mình dốt, dù
là chê trước mặt hay chê sau lưng, thì chúng ta cũng khó mà nhịn được. Đôi
khi, chưa nghe trực tiếp người nào nói, chỉ cần nghe đồn, nghe nói, hay tưởng
tượng người nào đó nói xấu mình điều gì đó, mình chẳng bao giờ bận tâm dành một
phút để suy xét xem mình có thực xấu như người ta nói đó hay không, nhiều khi
chưa kịp suy nghĩ phải trái gì hết, thì ngọn hỏa diệm sơn trong lòng chúng ta
đã bùng lên dữ dội, khó mà ngăn nổi. Cho dù có nhịn được bề ngoài, làm tỉnh
ngoài mặt, chúng ta cũng khó lòng dẹp được những niệm sân, khởi lên trong tâm
trí. Cho dù có dẹp được những niệm sân đó trong tâm trí hôm nay, nhưng sau
này, mỗi khi chúng ta nhớ lại cảm giác bị khinh chê đó, tâm trí cũng khởi những
niệm sân, như thể câu chuyện mới vừa xảy ra vậy.
·
Thí dụ như chỉ cần đọc
báo, xem phim thấy tác giả hay đạo diễn nào đó viết lách, kể chuyện, dựng phim,
ngụ ý châm biếm, khôi hài, chế giểu, đùa cợt, chê bai, khích bác, công kích
những thói hư tật xấu của một nhân vật nào đó trong truyện hay trong phim,
giống y chang như mình, hay na ná giống như mình, thì chúng ta khó mà nhịn
được, khó mà dằn được cơn tức giận trào lên như sóng cồn ngoài biển cả, khó mà
nín được, không thể không phản ứng, không thể không viết bài đáp lại, nhẹ thì đính
chánh, thanh minh thanh nga, nặng thì mạt sát, hèn nhát thì sáng tác thư rơi,
ném đá dấu tay, tuyên truyền rỉ tai, bươi móc đời tư, tam đại nhà người ta cho
hả hê cái lòng dạ hỏa diệm sơn lâu đời của mình, cho đả cơn tức giận vô cùng vô
tận trong lòng mình, còn chưa chịu thôi, nữa là phải nhịn hay sao?
·
Nếu không làm vậy, chúng
cho là mình ngu, không biết gì cả. Chúng nó ngu chứ mình đâu có ngu dại
gì! Nhất định phải làm tới, phải làm cho ra nhẽ mới thôi. Dại gì mà
nhịn chứ! Tại sao lại phải nhịn? Nhịn thì nhục! Cự thì
đục! Có khi người ta thực sự không có ý ám chỉ mình, nhưng mình cứ la
toáng hoáng lên và nhận bừa rằng họ ám chỉ mình, để rồi tự mình chuốc lấy phiền
não và khổ đau, ngày ăn không ngon, đêm ngủ chẳng được!
·
Lúc nào mình cũng nghi,
lúc nào mình cũng nghĩ, lúc nào mình cũng tưởng tượng và cho rằng người ta luôn
luôn chực chờ để "chơi" mình, người ta luôn luôn muốn đè mình xuống
để nâng họ lên, người ta luôn luôn muốn tìm dịp để hại mình, người ta luôn luôn
rình rập, người ta luôn luôn soi mói, người ta luôn luôn muốn vạch lá tìm sâu,
người ta luôn luôn muốn bới lông tìm vết, người ta luôn luôn muốn vạch áo mình
cho bàng dân thiên hạ, bá tánh trăm họ xem lưng mình cho biết chơi!
·
Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy rằng:
·
Không nên tìm lỗi của kẻ
khác,
·
không nên xét những việc
kẻ khác có làm hay không làm.
·
Hãy tìm lỗi của chính
mình,
·
hãy xét những điều đã làm
hay không làm
·
trong hành động của chính
mình.
·
Thực ra, dù người ta nói
mình ngu, mình không ngu thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta
nói mình ngu, mình tức giận lên, thì đúng là mình ngu quá rồi, còn gì nói
nữa! Người ta nói mình làm bậy, mình không có làm bậy thì thôi, hơi đâu
phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói mình dính lọ trên mặt, mình không có
dính lọ trên mặt thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta nói
mình bị mất uy tín, mình đâu có uy tín để mất thì thôi, hơi đâu phí sức tức
giận cho mệt. Người ta nói mình nghèo đến mức không có khố để che thân, mình
không có nghèo đến mức đó thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt. Người ta
nói mình ngu đến mức không có chữ nghĩa để đem bán độ nhựt, mình không có ngu,
không có dốt đến mức đó thì thôi, hơi đâu phí sức tức giận cho mệt.
·
Trong Pháp Tứ Y, Đức Phật
có dạy: "Y nghĩa bất y ngữ ".
·
Nghĩa là muốn có được
cuộc sống an lạc và hạnh phúc, chúng ta đừng cố chấp, đừng quan tâm đến những
"lời nói vô nghĩa" như trên. Chúng ta chỉ có hai bàn tay, làm
sao có thể bụm miệng thế gian cho xuể? Thôi thì kệ họ đi. Được như vậy thì khỏe
quá chừng chừng! Khỏe re! Còn cố chấp thì nặng như bò kéo xe! Trong
thời Đức Phật còn tại thế, khi Ngài đi khất thực, có người đi theo sau quấy
rầy, dùng đủ mọi lời thô tháo, mắng nhiếc, nhục mạ. Ngài vẫn thản nhiên
bước đi trong chánh định, như không có chuyện gì xảy ra cả. Người đó thấy Đức
Phật tiếp tục lặng thinh, nên tức giận quá, chặn đường và hỏi: Này ông Cồ
Đàm, có nghe ta nói gì không, có chịu thua chưa?
·
Lúc đó, Đức Phật từ tốn
nói bài kệ như sau:
·
Người hơn thì thêm
oán.
·
Kẻ thua ngủ chẳng yên.
·
Hơn thua đều xả hết.
·
Giấc ngủ được an
lành.
·
Như vậy, nếu chúng ta
không quan tâm đến chuyện hơn thua, không chấp những lời nói vô nghĩa, những
câu văn, ngôn ngữ, bài viết xuất phát từ lòng hận thù, ganh tị, đố kỵ, ghen
ghét, ai muốn nói gì cũng chẳng sao, ai muốn nghĩ gì cũng được, thì chắc chắn
chúng ta sẽ không phiền não và khổ đau, ngày ăn cơm ngon lành, tối đến ngủ
thẳng giấc. Chẳng hạn như khi chúng ta đi ăn tiệc, mãn tiệc ra về, chủ nhà gói
quà biếu tặng, nhưng chúng ta không nhận, thì chủ nhà đương nhiên phải giữ món
quà đó lại.
·
Cũng vậy, người đời
thường "tặng" chúng ta những lời khen, tiếng chê đầu môi chót lưỡi,
chúng ta "không nhận", thì chẳng ảnh hưởng gì, sẽ được an giấc
ngủ. Nếu nhận lời khen, dù biết là không đúng, thì cũng khoái chí quá ngủ
chẳng được. Nhận tiếng chê, tiếng chì, tiếng bấc, dù biết là đúng, thì
cũng bực dọc quá, bực bội quá, bực mình quá, bực tức quá, tức nhiên ngủ cũng
chẳng được. Như vậy, nếu chẳng những nhận vào tâm thức những lời khen,
tiếng chê, còn quyết tâm sống để dạ chết mang theo, thì chúng ta ngu hay không
ngu? Kệ họ nói gì, nghĩ gì thì có phải là khỏe biết mấy! Người ta nói lời
khen, tiếng chê xong rồi, họ về nhà quên mất, ngủ thẳng cẳng. Còn chúng ta cứ
nhớ mãi, nhớ mãi, còn đem san sẻ chia sớt cái tâm thần bất an vì những lời
khen, tiếng chê đó cho những người thân trong gia đình, vợ chồng con cái, để
mỗi người mất ngủ vài đêm giống như mình vậy, thử hỏi chúng ta ngu hay
khôn?
·
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn,
Lục Tổ Huệ Năng cũng dạy:
·
Tắng ái bất quan
tâm.
·
Trường thân lưỡng cước
ngọa.
·
Nghĩa là nếu những chuyện
thương thương ghét ghét chẳng bận lòng, chẳng đem vào tâm thức, thì chúng ta sẽ
nằm thẳng hai chân ra mà an giấc ngủ, giấc ngủ được an lành, khỏi phải trằn
trọc suốt canh trường, nằm đếm số từ một đến vài trăm ngàn! Thiệt là khỏe
re! Khỏe ru bà rù! Trong tam tạng kinh điển, Đức Phật có dạy về "pháp
nhẫn ba la mật". Nếu thực sự chúng ta biết được, hiểu được và thực
hành được như vậy, thì chắc chắn chúng ta sẽ thoát khỏi phiền não và khổ đau,
chúng ta sẽ sống cuộc đời an lạc và hạnh phúc ngay trên thế gian đầy tranh chấp
này.
·
Thế nào là "pháp
nhẫn ba la mật"?
·
Đó là phương pháp nhẫn
nhịn, kham nhẫn, chịu đựng mọi chuyện trên đời, mọi cơn sóng gió của thế
gian. Đó là phương pháp "nhẫn nhịn mà không thấy nhục
nhã" như người đời thường nghĩ. Bởi vì, nếu nhẫn nhịn mà còn
thấy là nhục nhã, thì chúng ta chỉ có thể nén giận để nhịn, chắc là không lâu,
không quá ba lần. Chúng ta nên nhận định một cách sáng suốt rằng những lời
thị phi "không có nghĩa" gì cả, cho nên chúng ta "không cần
chấp" làm gì. Chúng ta không chấp vào những lời nói, phê bình, chỉ
trích, mạ lị, miệt thị, vu khống, vu cáo, thay trắng đổi đen, lộng giả thành
chơn, thì chắc chắn chúng ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm được.
·
Thí dụ như khi người ta
đưa lửa tới đốt, chúng ta đưa bổi ra đón, lửa có điều kiện cháy lớn
hơn. Nếu chúng ta không đón ngọn lửa do người ta đem tới, thì ngọn lửa đó
chỉ đốt hư không mà thôi, hư không không có gì để đốt cháy được, lúc nào đó lửa
cũng sẽ tắt queo, không gây thiệt hại gì! Cũng vậy, khi bị người khác công
kích, chỉ trích, mạ lị, miệt thị, chúng ta không chấp vào đó, coi chuyện đó là
những chuyện "đương nhiên phải có" ở thế gian đầy tranh chấp, ganh
tị, đố kỵ, chúng ta sẽ an ổn, bình yên, không ai xâm phạm được.
·
Trong Kinh Diệu Pháp Liên
Hoa, gọi tắt là Kinh Pháp Hoa, Đức Phật dạy: đó là "thập như thị",
tức là mười thứ như thị, gồm có: như thị tánh, như thị tướng, như thị thể, như
thị lực, như thị tác, như thị nhơn, như thị duyên, như thị quả, như thị báo,
như thị bản mạt cứu cánh.
·
Nghĩa là: do tâm tánh của
con người như vậy cho nên hình tướng của con người là như vậy; do bản thể của
con người như vậy cho nên nghiệp lực của con người là như vậy; do tạo tác của
con người như vậy gây ra nghiệp nhơn như vậy cộng thêm nghiệp duyên như vậy cho
nên nghiệp quả của con người là như vậy; vì nghiệp báo của con người như vậy
cho nên từ xưa đến giờ cứu cánh của con người cũng là như vậy. Hiểu được
mười điều đương nhiên như thị, như thế, như vậy, tức là chúng ta đã thấy tột
chơn tướng của mọi pháp trên thế gian này. Được như vậy, được như thế, được như
thị, chúng ta sẽ sống đời an lạc và hạnh phúc, bởi vì chúng ta đã giác ngộ và
giải thoát. Nhưng làm thế nào thực hành được pháp nhẫn ba la mật?
·
Câu trả lời đó là:
"Người muốn thực hành được pháp nhẫn ba la mật, phải đạt được trạng thái
vô ngã".
·
Trước hết, người đạt được
"trạng thái vô ngã" là người không còn chấp "cái ta" tầm
thường, như mọi người trên thế gian này thường chấp. Người đời thường
chấp, thường cho rằng, tấm thân tứ đại mấy chục ký lô chính là "mình",
chính là "ta". Khi được hỏi mình là ai, người đời thường chỉ
ngay ngực, hay chỉ vào tấm thân tứ đại nặng nề và trả lời: Ta đây nè! Cho
nên, hể ai đụng đến "ta", thì phải phản ứng ngay, phải đối phó ngay,
nhịn không nổi, nín không được.
·
Trái lại, người đạt được
"trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng: tấm thân, do đất nước gió
lửa hợp thành này, không phải là "ta" thực sự. Đó chỉ là cái
trạm dừng tạm thời của kiếp này, trong vô số kiếp, của "ta" mà
thôi. Đến khi mãn kiếp này đời này, "ta" sẽ bỏ lại cái tấm thân
đó mà ra đi, tìm cái thân xác khác, trong sáu nẻo luân hồi. Nếu không
khéo, do lòng tham lam lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái thân
con heo, hoặc do lòng sân hận lâu đời dẫn dắt, "ta" lại chọn nhằm cái
thân con rắn mãng xà, hay do lòng si mê lâu đời dẫn dắt, "ta" lại
chọn nhằm cái thân con bò, thì khốn khổ biết là bao nhiêu. Sở dĩ gọi đó là
"tấm thân tứ đại", do "đất nước gió lửa" hợp thành, bởi vì
nếu không có những chất từ đất ra như thức ăn, những chất từ nước như thức
uống, những chất từ gió như dưỡng khí, những chất từ lửa như hơi ấm, bồi bổ
liên tục mỗi giây, mỗi phút, mỗi giờ, mỗi ngày, thì chúng ta đã vong mạng từ
lâu rồi vậy. Đó chỉ là "tấm thân tứ đại", không phải thực là
"ta" vậy.
·
Thứ đến, người đạt được
"trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng: tâm trạng của mình luôn
luôn thay đổi trong từng sát na, trong từng giây phút. Những tâm niệm,
những suy tư, nghĩ tưởng trong giây phút trước đây, bây giờ đã khác đi hay
không còn nữa. Tâm tánh của mình có khi hiền thiện như thánh nhơn, cũng
lắm khi độc hại còn hơn ác quỉ. Mình chỉ thấy mọi người khác gian ác, mọi người
khác nguy hiểm, mọi người khác sai lầm, đáng bị trừng phạt, đáng bị bỏ tù, đáng
bị xử tử, để cho xã hội này, cho thế gian này, trong đó có mình, được sống bình
yên, được hưởng sung sướng!
·
Con người thường thấy là
mình đúng, khi đòi hỏi phải trừng phạt thật nặng, đòi hỏi phải bỏ tù rục xương,
đày đọa địa ngục, xô xuống hỏa ngục, những người khác phạm tội ác. Con
người thường suy nghĩ, sáng chế, yêu cầu thi hành những hình phạt ghê rợn nhất
để trừng phạt, trừng trị đích đáng những phạm nhân đã sát hại thân nhân mình và
nghĩ rằng người quá cố sẽ vui lòng nơi suối vàng. Thực ra, đó là tâm trạng
của chính mình muốn như vậy mà thôi. Người đã chết có nói gì đâu, có yêu
cầu gì đâu, có đòi hỏi gì đâu? Bởi vậy có câu: "Suy bụng ta ra bụng
người... chết! ".
·
Mấy ai nghĩ được rằng:
nếu làm như vậy, cả hai gia đình phạm nhân và nạn nhân cũng đều thiệt hại một
nhân mạng, đều cùng đau khổ như nhau. Thỉnh thoảng báo chí cũng có đăng
các tin rất cảm động, gia đình nạn nhân xin giảm tội, xin xử nhẹ tội, hay xin
tha tội cho phạm nhân.
·
Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy:
·
Lấy oán báo oán, oán
nghiệp chập chùng.
·
Lấy ân báo oán, oán
nghiệp tiêu tan.
·
Con người thường nhân
danh công lý, nhân danh tôn giáo, nhân danh lẽ phải, nhân danh thượng đế, nhân
danh đủ các thứ có thể nhân danh được, để kết án, kết tội, trừng trị tất cả mọi
người khác. Còn nếu mình phạm tội thì đáng được tha thứ, phải được tha thứ,
người khác thì không đáng được! Cái chỗ bất công này là nguyên nhân chính, đưa
tới xáo trộn, biến loạn trong xã hội là như vậy.
·
Cuối cùng, người đạt được
"trạng thái vô ngã" chính là người không còn chấp "cái ta"
tầm thường như mọi người trên thế gian này thường chấp. Người đạt
được"trạng thái vô ngã" là người hiểu rõ ràng rằng: "ta"
không phải là cái thân tứ đại nặng nề, và cũng không phải là cái tâm suy
nghĩ lăng xăng lộn xộn thường ngày, bởi vì những thứ đó bị vô thường chi phối,
nay còn mai mất, chợt hiện chợt biến, không tồn tại vĩnh viễn.
·
Như vậy, "cái
gì" tồn tại vĩnh viễn, không bị vô thường chi phối, "cái gì" bất
cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm, theo như Đức Phật chỉ dạy trong Bát Nhã Tâm
Kinh? Đó chính là "cái ta chơn thật", đó chính là "con
người chơn thật" của tất cả chúng ta. Mục đích cứu kính rốt ráo tột
cùng của Đạo Phật chính là nhằm khai mở, chỉ bày "con người chơn
thật" đó cho mọi người biết được, hiểu được, ngộ được, nhập được, sống
được. Người nào được như vậy tức là được giác ngộ và giải thoát, được an
lạc và hạnh phúc hiện đời.
·
Trong kinh sách, Đức Phật
có dạy:
·
"Thiên thượng
thiên hạ duy ngã độc tôn".
·
Nghĩa là trên trời dưới
đất chỉ có "cái ta chơn thật" là điều độc nhứt đáng tôn trọng, đáng
trân quí mà thôi. Cũng trong Bát Nhã Tâm Kinh, Đức Phật có dạy:
·
Tâm vô quái ngại, vô quái
ngại cố, vô hữu khủng bố,
·
viễn ly điên đảo
mộng tưởng, cứu cánh niết bàn.
·
Nghĩa là: Nếu chúng ta
ngộ được, nhập được, sống được bằng "con người chơn thật" không tướng
mạo, nên không dơ, không sạch, không tăng, không giảm, không kẹt nhị biên, thể
nhập bất nhị pháp môn, thì tâm chúng ta không bị bất cứ cái gì có thể khủng bố,
nên không còn sợ hãi, do không còn sợ hãi nên không có gì có thể khiến cho mình
kinh khiếp hoảng sợ, chúng ta xa lìa được tất cả các chuyện điên đảo đảo điên,
các chuyện mộng mơ mơ tưởng, các chuyện không thực ở thế gian, cuối cùng đạt
được cảnh giới niết bàn vô sanh, không còn phiền não khổ đau, không còn sinh tử
luân hồi. Đó mới chính thực là mục đích cứu kính của người theo đạo Phật
bằng trí tuệ bát nhã.
·
Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật dạy rằng:
·
Người nào ôm ấp tâm niệm
nó mắng tôi, nó chửi tôi,
·
thì không phải là
người trí, chỉ chuốc khổ vào thân thôi.
·
Người nào không ôm
ấp những tâm niệm như vậy,
·
thì người đó dẹp
được lòng sân hận.
·
Nghĩa là chúng ta đã thấy
rõ như trên, bất cứ ai dù bị mắng chửi, bị mạ lỵ hay không bị mắng chửi, không
bị mạ lỵ, mà cứ ôm ấp tâm niệm đó trong lòng, thì chỉ chuốc lấy phiền não và
khổ đau cho chính mình, có khi còn đem lại bất an cho gia đình, cho những người
chung quanh nữa mà thôi.
·
Trong suốt những năm dài
thuyết pháp độ sanh, Đức Phật luôn luôn khuyến khích mọi người nên thực hành
hạnh nhẫn nại, nhẫn nhịn đến mức rốt ráo, cao tột, trong kinh điển gọi là
"pháp nhẫn ba la mật". Đức Phật luôn luôn hành pháp nhẫn nại, dù
lắm khi Ngài cũng bị chỉ trích, bị chửi mắng, thậm chí bị tấn công. Nhẫn
nại không bao giờ là dấu hiệu của sự yếu đuối, ươn hèn, kém cỏi, chủ bại, đầu
hàng, nhục nhã. Trái lại, nhẫn nại là sức mạnh bất khuất, sức mạnh vạn
năng, sức mạnh vô song của người tự chủ, của người đã ngộ được và sống được với
"cái ta chơn thật", cho nên không còn sợ bị chúng khinh khi, không
còn sợ chúng "được đằng chân lân đằng đầu", không còn sợ chúng
"được nước làm tới". Tại sao vậy? Bởi vì "cái ta chơn
thật" không phải là tấm thân tứ đại, không có tướng mạo, cho nên không ai
có thể xâm phạm được. Điều nên sợ, đáng sợ chính là mình không thể kham
nhẫn được, không thể chịu đựng nỗi, không thể tự thắng mình, không thể tự chủ
được bản thân và bản tâm mình trước những thử thách, trước những sóng gió của
cuộc đời mà thôi.
·
Trong Kinh Pháp Cú, Đức
Phật có dạy:
·
Chiến thắng trăm ngàn
quân không bằng tự thắng mình.
·
Tự thắng tâm mình là điều
cao quý nhứt.
·
Nghĩa là chúng ta kham
nhẫn được, thực hành được "pháp nhẫn ba la mật" là chúng ta đã
"tự thắng tâm mình" rồi vậy.
·
Trong Kinh Pháp Bảo Đàn,
Lục Tổ Huệ Năng có dạy:
·
Hãy dứt trừ hết các tâm
xấu của chính mình: tâm ghen ghét, tâm tà vạy, tâm vị ngã, tâm giả dối, tâm
ngạo mạn, tâm khinh người, tâm tà kiến, cùng tất cả những hạnh bất thiện trong
mọi thời mọi lúc, hãy luôn luôn thấy lỗi mình, không nói chuyện tốt xấu của
người.
·
Thấu hiểu được và thực
hành được lời dạy trên đây của Lục Tổ thì không cần phải hỏi làm sao để cuộc
sống được an lạc và hạnh phúc. Đó chính là an lạc và hạnh phúc
vậy. Trong vô lượng pháp môn tu theo đạo Phật, chỉ cần tu hạnh "nhẫn
nhục ba la mật", nghĩa là "nhẫn mà không thấy nhục", thì cũng
đạt đến chỗ cứu kính gọi là "vô sanh pháp nhẫn".
·
Vô sanh pháp nhẫn là công
phu tu chứng do sức kham nhẫn, sức chịu đựng được muôn pháp trên thế gian xảy
đến, mà chúng ta không sanh khởi một niệm nào cả trong tâm trí. Tâm trí
luôn luôn thanh tịnh, an ổn, tự tại, không xáo trộn, không lay động. Muôn
pháp trên thế gian này không ngoài tám thứ, chia làm bốn cặp, đó là: "lợi
và suy, hủy và dự, xưng và cơ, khổ và lạc". Tám thứ đó còn gọi là
"Bát Phong", hay tám ngọn gió của thế gian, không bao giờ ngừng thổi,
hết cơn gió này lại đến cơn gió khác.
·
Khi gió thổi hiu hiu, nhè
nhẹ, chúng ta có thể kham nhẫn nổi một cách dễ dàng. Thí dụ như những lúc
tai họa xảy tới chút đỉnh, gặp vài chuyện xui xẻo nho nhỏ, bị các chuyện thị
phi không đáng kể, nhưng nhờ có những phước báo đã làm từ nhiều đời trước và
ngay cả đời này, cho nên chúng ta có thể lướt qua dễ dàng. Hoặc là những
lúc được lợi lộc nho nhỏ tới, được những lời khen tặng tán dương, hay những
chuyện vui nho nhỏ xảy ra, chúng ta cũng bị động tâm, khó giữ được sự thanh
thản bình yên.
·
Khi gió thổi thành những
trận cuồng phong, gây tổn thất không thể lường được. Đó là những lúc tai
họa lớn xảy đến dồn dập, họa vô đơn chí, nhẹ thì tan nhà nát cửa, nặng thì mất
mạng. Chẳng hạn như vừa bị bệnh hoạn, vừa mất công ăn việc làm, vừa gặp
tai nạn xe cộ, vừa gặp hỏa hoạn thiêu rụi nhà cửa, vừa bị chúng kiện đòi bồi
thường bạc triệu! Hoặc những lúc tán gia bại sản, làm ăn thua lỗ, những
lúc bị chúng bêu xấu, làm nhục trước công chúng, làm mất thanh danh, gây tai
tiếng, bị chúng phỉ báng, vu khống, vu cáo, vu oan giá họa. Trong những
trường hợp như vậy, chắc chắn chúng ta thế nào cũng bị động tâm, loạn tâm, điên
cuồng, chán đời, bi quan, yếm thế, không thể giữ được sự thanh thản, bình yên,
thanh tịnh được.
·
Người đạt được "vô
sanh pháp nhẫn" là người kham nhẫn, chịu đựng nổi "bát phong"
của cuộc đời, còn gọi là người "bát phong xuy bất động". Nghĩa
là con người trải qua tám gió nói trên mà vẫn như như bất động. Đó mới
chính thực là con người có giá trị chơn thật, bất tùy phân biệt, nam nữ, học
thức, địa vị, tướng mạo, dung nghi, xuất xứ, tôn giáo, tuổi tác, sắc tộc, địa
phương, thời gian, tu sĩ, cư sĩ, đồng cư trên thế giới ta bà này.
·
* * *
·
Tóm lại, con người tuy có
tiền của nhiều, tài sản to, địa vị tốt, bằng cấp cao, kiến thức rộng, danh vọng
lớn, tài năng giỏi, đến khi bị suy sụp, đến khi bị hủy báng, đến khi bị phê
phán, đến khi bị khỗ nạn, nhưng không giữ được tư cách, không giữ được nhân
phẩm, tâm hồn không giữ được bình thản, thanh tịnh, thì ắt không phải là con
người có giá trị rồi. Hơn nữa, những thứ như tiền của, tài sản, địa vị,
bằng cấp, kiến thức, danh vọng, tài năng, sắc đẹp, hình tướng, phẩm trật, đều
là những thứ giả tạm, vô thường, không cố định, luôn luôn biến dịch, luôn luôn
thay đổi, cho nên tất cả đều không thể dùng để thẩm định giá trị của con
người.
·
Theo giáo lý của Đạo
Phật, con người ở trên thế gian này không được đánh giá qua các cách nhận định,
các thước đo, các tiêu chuẩn, các khía cạnh và các căn bản trên đây về cả hai
phương diện vật chất và tinh thần. Con người có giá trị là con người biết
ngắm nhìn cuộc đời, biết lắng nghe cuộc đời, biết kham nhẫn và can đảm nhìn
thẳng những phiền và khổ đau, biết chuyển hóa tam chướng thành tam nghiệp thanh
tịnh. Con người có giá trị là con người biết chấp nhận tất cả những gì xảy
đến với mình từ cuộc đời, từ lúc sống cho đến lúc chết, không mong cầu, không
van xin, không sợ hãi, sẵn sàng đón nhận phiền não hay khổ đau, an lạc hay hạnh
phúc.
·
Con người có giá trị là
con người biết hàng phục tâm mình bằng cách độ vô biên chúng sanh trong tâm
thức mình vào niết bàn, mà không thấy có chúng sanh nào được diệt độ và biết an
trụ tâm mình bằng cách bố thí, xả bỏ không chấp bốn tướng ngã, nhơn, chúng
sanh, thọ giả, không dính sáu trần sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, như lời
Đức Phật dạy trong Kinh Kim Cang.
·
Con người có giá trị là
con người biết chiến đấu và chiến thắng nội tâm của chính mình, biết trưởng
dưỡng tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, biết lấy ân đức đáp hận thù, như lời Đức
Phật dạy trong Kinh Pháp Cú.
·
Con người có giá trị là
con người biết sống với "tâm bình thường". Kinh sách có câu:
"Bình thường tâm thị đạo". Con người có giá trị là con người
"đối cảnh vô tâm", tức là con người vẫn sống trong cuộc đời như bao
nhiêu người khác, nhưng không có tâm tham sân si, cho nên tâm không loạn
động.
·
Con người có giá trị là
con người dám bước chân lên con thuyền không đáy, trôi giạt giữa trời nước mênh
mông. Con thuyền đó chính là con thuyền bát nhã, trời nước mênh mông chính là
cảnh giới trầm luân, khổ hải vạn trùng ba. Con người có giá trị theo quan
niệm của nhà Phật là con người giác ngộ được bản ngã chân thật, bên ngoài không
chấp trước, dính mắc chuyện trần đời, mắt trông thấy sắc rồi thôi, tai nghe
thấy tiếng nghe rồi thì không, cho nên bên trong không có niệm khởi và giải
thoát được những phiền não và khổ đau.
·
Con người có giá trị là
con người bát phong xuy bất động, là con người có cuộc sống an lạc và hạnh phúc
hiện đời. Đó chính là đại sự nhân duyên mười phương tam thế chư Phật thị
hiện ở đời, để khai thị cho con người ngộ nhập vào chân lý bất biến của vũ trụ
vậy. []
llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll