llllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll
BỘ SÁCH
CƯ TRẦN LẠC ĐẠO
TÁI BẢN
(Trọn
Bộ 3 Tập)
cần
thiết cho quí Phật Tử
để
tìm hiểu chánh pháp và cách ứng dụng
trong
đời sống thực tế hàng ngày
gồm
các bài giảng sau đây:
Nội Dung Tập 1:
1)
An Lạc và Hạnh Phúc
2)
Bát Chánh Đạo
3)
Bát Phong
4)
Bất Tùy Phân Biệt
5)
Chánh Kiến và Chánh Tín
6)
Công Đức và Phước Đức
7) Hạnh
Bố Thí
8)
Mười Điều Tâm Niệm
9)
Nguồn Gốc của Khổ Đau
10)
Phước Báu
11)
Thập Đại Nguyện
12)
Xuân Di Lặc.
Nội Dung Tập 2:
1)
Ăn Mặn Ăn Chay
2)
Ân Oán Cõi Đời
3)
Bát Nhã Tâm Kinh
4)
Cầu Trời có được gì không?
5)
Chánh Ngữ
6)
Dọn Kho Ăn Tết
7)
Giác Ngộ và Giải Thoát
8)
Làm Sao Gặp Phật
9)
Lương Tâm và Phật Tâm
10)
Pháp Môn Chăn Trâu
11)
Thập Mục Ngưu Đồ
12)
Qua Cơn Mê.
Nội Dung Tập 3:
1)
Ái Ngữ
2)
Ăn Chay Hay Ăn Mặn
3)
Biết Mình Có Phước
4)
Chữ Tâm Trong Đạo Phật
5)
Dâng Sớ Cầu An Cúng Sao Giải Hạn
6)
Đầu Năm Đi Chùa
7)
Gia Đình Hòa Thuận
8)
Giá Trị Của Con Người
9)
Không Có Có Không
10)
Luật Nhân Quả
11)
Năm Người Mù Rờ Voi
12)
Nhân Nào Quả Nấy
13)
Phúc Tuệ Song Tu
14)
Tâm Thư
15)
Thủ Ấn Của Phật Thích Ca
16)
Tội Nghiệp
17)
Tu Tâm Dưỡng Tánh
18)
Tứ Nhiếp Pháp
19)
Y Nghĩa Bất Y Ngữ
20)
Ý Nghĩa Của Cuộc Sống.
Quí vị
phát tâm thỉnh sách, ấn tống, bảo trợ
xin hoan hỷ liên lạc với tác giả:
TỲ-KHƯU
THÍCH-CHÂN-TUỆ
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 RAILROAD ST.,
BRAMPTON, ON, L6X-1G9
CANADA
*
Email: cutranlacdao@yahoo.com
*
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 - 123 RAILROAD ST.,
BRAMPTON, ON, L6X-1G9
CANADA
*
Email: cutranlacdao@yahoo.com
*
Cốt tủy của đạo Phật
Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm
Mục đích cứu kính của đạo Phật là giúp đỡ con
người giải thoát khỏi phiền não và khổ đau, xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh
phúc ngay hiện đời. Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải hàng phục tâm
của mình và an trụ tâm của mình, phải nương nhờ chánh pháp, học hiểu giáo lý và
đem thực hành, áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.
Chư Phật và chư Tổ giảng giải tam tạng kinh
điển cũng nhằm mục đích này mà thôi. Chánh pháp được ví như chiếc thuyền,
thường gọi là thuyền bát nhã, chở chúng ta từ bến mê, đầy dẫy những chuyện bất
trắc, bất như ý, phiền não và khổ đau, qua đến bờ bên kia, được gọi là bờ giác
ngộ và giải thoát.
Con người đạt được giác ngộ, giải thoát mọi
khổ đau, trói buộc, dính mắc của chuyện thế gian, hàng phục được vọng tâm, vọng
tưởng, vọng thức, vọng niệm, tâm liền được an trụ. Từ đó, tuy vẫn sống
tại thế gian, nhưng tâm an nhiên tự tại, bình tĩnh thản nhiên trước mọi sóng
gió của cuộc đời. Ngay đó, cảnh giới niết bàn hiện tiền.
Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm.
Nếu như các cơ sở Phật giáo như chùa chiền,
niệm Phật đường, thiền viện, trung tâm văn hóa Phật giáo, ngoài việc chăm lo
phát triển tầm mức hoạt động, phát triển qui mô của cơ sở, ngoài các hình thức
nghi lễ cần thiết của một tôn giáo, ngoài các phương tiện thiện xảo dĩ huyễn độ
chơn giúp người sơ cơ, với tâm đại từ đại bi, tận tâm tận tình, tận sức tận
lực, truyền bá chánh pháp, giảng dạy giáo lý, giúp đỡ mọi người sáng tỏ chân
lý, thấu hiểu mục đích cứu kính của đạo Phật, cốt tủy của đạo Phật, thì thực là
phước báu lắm thay, hạnh phúc lắm thay!
Người Phật Tử chân
chính đến các chùa chiền, hay các cơ sở Phật giáo, chỉ nên cầu học Chánh Pháp,
để tự mình cứu độ chính mình, theo lời dạy của chư Phật, chuyển hóa phiền não
thành bồ đề, loạn tâm thành an tâm, tâm phan duyên thành tâm thanh tịnh, không
cầu bất cứ điều gì khác, nhứt là những điều chư Phật khuyên dạy nên bỏ, chẳng
hạn như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, và các sự hưởng thụ
sung sướng, cùng những điều mê tín dị đoan: dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn,
xin xăm bói quẻ, coi ngày tốt xấu. _
kính
mời tham khảo theo link:
QUAN
ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG PHTQ
BÁT
CHÁNH ĐẠO (CTLĐ 1)
HẠNH
BỐ THÍ (CTLĐ 1)
BÁT CHÁNH ĐẠO
(Cư Trần Lạc Đạo
1)
Tỳ
Khưu Thích Chân Tuệ
Trong cuộc đời đau khổ
trên thế gian này, khi gặp những việc tai biến, những sự bất trắc, những chuyện
bất như ý, con người thường có khuynh hướng cầu nguyện van xin tổ tiên ông bà,
thánh thần thiên địa, ngọc hoàng thượng đế, Bồ Tát Phật Tổ, từ bi gia hộ,
thương xót cứu giúp, tai qua nạn khỏi, cho được bình yên. Nhưng thực ra, chúng
ta ai ai cũng hiểu rằng việc cầu nguyện chỉ có tác dụng giúp cho con người được
an tâm trong giây phút cầu nguyện đó thôi. Có mấy ai cầu gì được nấy? Cầu xin
không được đáp ứng, chẳng lẽ thiên địa không bác ái, Bồ Tát không từ bi? Còn
Ðức Phật cứu độ chúng sanh bằng cách nào, như thế nào?
Ðạo Phật không chỉ dạy
cầu nguyện như là cứu kính. Theo quan niệm của Phật giáo, cầu nguyện được xem
như những lời chúc lành, những mong muốn thiết tha, với mục đích vị tha bất vị
kỷ, vì người không vì mình, một cách phát tâm đại từ bi. Chẳng hạn như chúng ta
cầu nguyện cho quốc thới dân an, chúng sanh an lạc. Chúng ta làm được việc tốt
gì, có được công đức hay phước báu nào, cũng hồi hướng, cầu nguyện cho tất cả
chúng sanh đều trọn thành Phật đạo. Chẳng hạn như chúng ta cầu nguyện cho cha
mẹ được mạnh khỏe bình yên, sống lâu trăm tuổi. Song việc đó có được hay không,
còn tùy phước duyên của cha mẹ. Tuy nhiên, việc cầu nguyện như vậy cũng nói lên
được lòng hiếu thảo chân thành của chúng ta.
Trong Kinh Pháp Cú,
Ðức Phật có dạy: "Hãy tự thắp đuốc lên mà đi. Thắp lên với Chánh
Pháp". Nghĩa là mọi người hãy tự mình tích cực chuyển hóa thân tâm của
mình, bằng cách cố gắng học hiểu giáo lý của đạo Phật, đó là ngọn đuốc Chánh
Pháp, soi đường chỉ lối, giúp con người thoát ly phiền não và khổ đau của cuộc
đời, khi thực sự đem áp dụng vào đời sống hằng ngày. Ðó là cách duy nhất thập
phương tam thế chư Phật cứu độ chúng sanh. Người Phật Tử chân chánh cần nên nhớ
kỹ điều này.
* * *
Theo giáo lý của đạo Phật,
con người can đảm nhìn nhận sự thực là: cuộc đời khổ nhiều vui ít, nhưng không
tư tưởng tiêu cực, không bi quan yếm thế, không ngán ngẩm chán chường. Trái
lại, con người tích cực tìm phương cách để được giác ngộ và giải thoát, không
thụ động chấp nhận, không cầu nguyện van xin. Ðể giúp chúng sanh được sống an
vui, xả trừ triền phược, cắt đứt trói buộc, dẹp tan phiền não, thoát ly đau
khổ, trong tam tạng kinh điển, Ðức Phật thuyết minh "Bát Chánh
Ðạo".
Bát chánh đạo là
phương pháp giản dị, thích hợp với đời sống hằng ngày của chúng sanh, nhằm mục
đích cải thiện tâm lý, ngôn từ và hành động, giúp đỡ con người bỏ tà đạo theo
chánh đạo. Bát chánh đạo giúp chúng sanh hướng về, tiến đến một đời sống chí
diệu cao siêu, hay ít ra cũng xây dựng được đời sống an lạc và hạnh phúc. Vì
vậy, "Bát Chánh Ðạo" còn được gọi là "Bát Thánh Ðạo".
Bát chánh đạo là con
đường đưa chúng sanh đến chỗ giác ngộ và giải thoát, gồm tám điều chân chánh,
đó là: chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh
tấn, chánh niệm, chánh định.
*1.- CHÁNH KIẾN:
Trước hết, chúng ta
nhận thức mọi sự sự vật vật hiện hữu, tức là muôn pháp trên thế gian, khắp pháp
giới, đều do nhân duyên sinh, không trường tồn và sẽ biến diệt. Ðó là "Lý
Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", hai chánh kiến quan trọng mọi người
cần thấu triệt.
A. - Thế nào là chánh
kiến? - Chánh kiến là kiến thức chân chánh. Nghĩa là
con người cần có sự hiểu biết và sự nhận thức sáng suốt và hợp lý. Chánh kiến
có ích lợi giúp con người không sống trong mê lầm, điên đảo. Người có chánh
kiến thấy như thế nào thì nhận đúng như thế ấy, không thay đổi trắng đen, không
kỳ thị xấu tốt, không phê phán hay dở. Chánh kiến là sự hiểu biết và nhận thức
không bị tập quán, thành kiến, dục vọng hay tâm phân biệt, ngăn che và làm sai
lạc. Người có chánh kiến hiểu biết tường tận thế nào là chánh tà, chơn ngụy,
đại tiểu, thiên viên, nhưng với tâm bình thường, tâm chính trực và tâm bất tùy
phân biệt.
a) Lý nhân quả: Chúng ta ai ai cũng biết: "Gieo nhân nào
gặt quả nấy". Thí dụ như có hột cam gieo xuống đất, gọi là
"nhân", cộng thêm nước tưới, ánh sáng, phân bón, công chăm sóc, gọi
là "trợ duyên", chúng ta sẽ gặt hái được "quả cam", sau một
thời gian nào đó. Không thể nào gieo hột cam ngọt lại gặt quả chanh chua được,
hay ngược lại. Lý nhân quả còn được gọi là lý nhân duyên.
* Không bao giờ có quả
mà không có nhân. Có mây mới có mưa, có lửa mới có khói, gieo gió mới gặt bão,
sinh sự thì sự sinh. Không thể có chuyện tự nhiên có cái cây mọc lên, mà không
có hạt giống trong đất. Không thể có chuyện tự nhiên chúng tới chửi mình, mà
mình chẳng có làm gì hết, trong kiếp này hay những kiếp trước! Ðó là chân lý.
Ðó là lý nhân quả hay lý nhân duyên. Nhận rõ quả báo của hành vi, ngôn từ và ý
niệm của chính mình như vậy, chúng ta sẽ không trách người, trách trời, trách
đất gì hết, chỉ biết trách mình, cho nên không còn phiền não và khổ đau nữa.
Trái lại, chúng ta tích cực sửa đổi tâm tánh, làm sao cho mỗi ngày một tốt đẹp
hơn, để cuộc đời được sáng sủa hơn, gia đình được hạnh phúc hơn.
* Việc này sinh ra do
việc kia đã sinh ra. Không có chuyện gì xảy ra, dù lớn hay nhỏ, dù quan trọng
hay bình thường, mà không do có chuyện khác xảy ra trước đó. Thí dụ như chúng
ta có cái bánh để ăn, nguyên do trước đó có bột, có đường và có công thợ, dĩ nhiên
cũng do chúng ta có tiền mua. Thí dụ như: Cơ thể phát phì nguyên do ăn uống quá
độ. Nghèo túng nguyên do làm biếng. Bệnh tật nguyên do thiếu vệ sinh. Con cái
không có tình thương đậm đà nguyên do cha mẹ không thường xuyên chăm sóc, gần
gũi. Thiên hạ thù ghét nguyên do lời nói khó nghe. Vợ chồng lục đục nguyên do
thiếu sự cảm thông, thiếu sự hiểu biết, thiếu sự hòa hợp.
* Muôn sự muôn vật
trên thế gian này đều do nhân duyên sinh. Mọi sự mọi việc không do ông trời,
không do một đấng tạo hóa đầy quyền năng nào tạo ra cả. Có người cho rằng:
chính con người sinh ra thượng đế, bởi vì thượng đế chỉ là sản phẩm do con
người tưởng tượng mà thôi.
Mỗi đạo giáo, mỗi dân
tộc, mỗi thời gian, có mỗi quan niệm khác nhau về thượng đế. Thượng đế, nếu có
thực, không thể để cho các người thế gian lợi dụng danh nghĩa và phải là đấng
chí công vô tư. Tại sao lại có những chuyện: trời thương người này hơn người
kia, cho người này sung sướng hơn người kia, người này sinh ra khỏe mạnh, trong
cảnh giàu sang, người kia sinh ra tật nguyền, trong cảnh nghèo khó, dân tộc này
giàu sang sung sướng, dân tộc khác nghèo nàn khổ cực?
Theo giáo lý của đạo
Phật, sở dĩ người này khác người kia về phương diện này hay phương diện nọ, bởi
vì mỗi người tạo tác nghiệp nhân khác nhau, cho nên nhận nghiệp quả khác nhau.
Cũng như người làm bánh thì ăn bánh, người nấu chè thì ăn chè. Chính mình làm
mình hưởng. Chính mình làm mình chịu. Ðó mới thực là chí công vô tư vậy.
b) Lý vô thường: Chúng
ta ai ai cũng biết: "Có sinh ắt có diệt". Nghĩa là muôn sự muôn vật
trên thế gian này đều không tồn tại vĩnh viễn. Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có
dạy: "Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng". Nghĩa là bất cứ vật nào có
hình tướng, nhìn thấy được bằng cặp mắt thường, lớn như quả núi, tòa nhà, nhỏ
như tấm thân chúng ta, như hạt cải, hạt cát, tất cả đều hư vọng, đều trải qua
bốn giai đoạn: "sinh, trụ, dị, diệt". Mọi vật sinh ra, trụ thế một
thời gian ngắn dài, rồi cũng biến dị và cuối cùng cũng bị diệt mất! Thí dụ như:
Cây bông hồng từ hạt giống trong đất sinh ra, mọc lên, trổ hoa. Hoa hồng khoe
hương sắc, ít ngày sau héo úa, tàn lụi, trở thành phân bón cho bông hồng khác
sau này. Cuộc đời cứ như thế tiếp diễn không ngừng, đạo Phật gọi là "sự
luân hồi", cũng như bánh xe quay mãi, quay mãi vậy.
Hiểu được như vậy, khi
của cải vật chất, xe hơi đồ đạc bị mất mát hư hao, khi con cái lỡ tay đập bể
hay làm hư hại vật gì, dù quí giá đến đâu, thậm chí khi người thân đến lúc qua
đời, chúng ta sẽ không khổ đau nhiều. Hiểu được như vậy, khi gặp một việc tai
biến, một sự bất trắc, một chuyện bất như ý, thậm chí tán gia bại sản, người
thân biến thành kẻ thù, chúng ta cũng sẽ không đau khổ nhiều. Chuyện gì rồi
cũng sẽ qua, có gì tồn tại mãi mãi đâu mà cố chấp, tranh đua hơn thua, cái mạng
sống này còn không giữ được nữa, huống là thứ gì khác trên đời này? Có ai sống
mãi không chết? Có ai trẻ mãi không già? Có ai khỏe mãi không đau? Ðó là lý vô
thường. Có câu: Bèo hợp rồi tan, trăng tròn rồi khuyết. Cuộc đời cứ như thế
xoay vần đổi thay, không bao giờ dừng. Thường xuyên quán chiếu, tin sâu
"Lý Nhân Quả" và "Lý Vô Thường", cuộc đời của con người sẽ
an lạc và hạnh phúc hơn.
Trong Kinh Thủ Lăng
Nghiêm, Ðức Phật có dạy: "Nhân duyên hòa hợp hư vọng hữu sinh. Nhân duyên
ly tán hư vọng hữu diệt".
Nghĩa là: Muôn sự muôn
vật trên thế gian này do nhân duyên hình thành, tạm gọi là sinh. Muôn sự muôn
vật do nhân duyên tan rã, tạm gọi là diệt. Thí dụ như: Một chiếc xe mới được
hình thành do tất cả các bộ phận, các phụ tùng ráp lại, tạm gọi là sinh. Ðến khi
xe hư, các phụ tùng, các bộ phận được tháo rời ra, chiếc xe không còn nữa, tạm
gọi là diệt. Thí dụ khác: Tấm thân tứ đại của chúng ta cũng vậy, hình thành do
đất, nước, gió, lửa, tạm gọi là sinh. Sống đời một thời gian nào đó, khi hết
nhân duyên, thì cát bụi trở về với cát bụi, tạm gọi là chết. Tại sao vậy? Bởi
vì khi đó, chính là lúc chúng ta bắt đầu một kiếp khác. Bánh xe luân hồi đang
chuyển động đó vậy.
B. - Thế nào là tà kiến? - Ngược lại, tà kiến là sự hiểu biết và nhận thức sai lầm. Theo
quan điểm của Phật giáo, cho sự hiện hữu của tự thân và hoàn cảnh đều là tự
nhiên, không có quả báo cùng nhiều duyên khác tập hợp, đó là tà kiến và mê tín.
Chấp thượng đế tạo vật, phủ nhận nhân quả nghiệp báo, chủ trương định mệnh, phủ
nhận kết quả của hành nghiệp, đó là tà kiến và mê tín.
Quan niệm thương ghét khác biệt giữa người và
người, giữa người và vật, coi thú vật sinh ra để nuôi sống con người, đó là tà
kiến và mê tín.
Cố chấp thành kiến,
quan niệm phân biệt phải trái, đúng sai cố định, đi tới kết luận, người nào
không tin theo tín ngưỡng như mình, đều phải bị trừng trị nghiêm khắc, phải bị
đọa địa ngục đời đời, đó là tà kiến và mê tín. Chấp theo thần thoại, đồng bóng
bói toán, xem sao giải hạn, định hướng nhà cửa, tin bướng tin càn, tin vô căn
cứ, làm bể cái gương, điềm không may mắn, đầu năm quét nhà, tài lộc ra cửa,
mùng năm mười bốn hăm ba của dân ta, con số 13 của dân tây, cho là xui xẻo, đó
là tà kiến và mê tín. Ðốt vàng mã, tiền bạc, xe hơi, nhà lầu, áo quần, hình
nhơn bằng giấy, cho người chết xài dưới âm phủ, đó là tà kiến và mê tín. Không
may đau bệnh, không khám bác sĩ, không đi bệnh viện, không muốn uống thuốc,
không chịu kiêng cữ, lại đi xem bói, thỉnh bùa chú giấy, đem về đốt uống, nước
tiên nước thánh, nước suối nước sông, chẳng hạp vệ sinh, cũng đem về uống, đó
là tà kiến và mê tín.
Nói chung, những điều
gì phản khoa học, trái với chân lý, không theo lý trí, chẳng thể xét suy, không
thể kiểm chứng, đều được gọi là tà kiến và mê tín. Tà kiến và mê tín thường có
nơi những người có lòng cố chấp nặng nề, chấp ngã và chấp pháp, dù người bình
dân, hay kẻ học thức, ở ngoài thế gian, cũng như trong đạo. Ðức Phật ra đời,
thuyết pháp độ sinh, phá màn vô minh, dẹp tan tà kiến, mê tín dị đoan, chỉ nhằm
mục đích, khai thị chúng sanh, ngộ nhập trí tuệ bát nhã, trong Kinh Pháp Hoa,
gọi là Tri Kiến Phật, để được giác ngộ và giải thoát.
2. - CHÁNH TƯ DUY:
Sách có câu:
"Bình an dưới thế cho người thiện tâm". Người thiện tâm luôn luôn
nghĩ tốt, nghĩ đúng, nghĩ thiện, cho nên làm tốt, làm đúng, làm thiện, và nói
tốt, nói đúng, nói thiện. Người thiện tâm là người có tâm trí luôn luôn được
bình an, thảnh thơi, thư thái.
A. - Thế nào là chánh tư
duy? - Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh.
Nghĩa là con người cần phải nghiệm xét, nghĩ suy, quán chiếu một cách đúng đắn,
hợp với chân lý, không trái với lẽ phải, có lợi cho mình và cho người. Chúng ta
thường xuyên suy nghĩ đến "giới, định, tuệ" để tu tập giải thoát, suy
nghĩ nguyên nhân gây đau khổ cho chúng sanh, để giải thích và khuyến tu, suy
nghĩ những hành vi lỗi lầm, những lời nói sai trái và những tâm niệm xấu xa của
chính mình để sám hối và cải đổi. Tất cả những điều đó gọi là chánh tư
duy.
Chư Tổ có dạy:
"Phản quan tự kỷ bổn phận sự". Nghĩa là quay lại chiêm nghiệm, suy
xét, quán sát tự tâm chính mình là phận sự của chúng ta. Chánh tư duy có ích
lợi giúp con người không sống trong đen tối, không phạm lỗi lầm do mê tín dị
đoan.
Ngày xưa, thời Ðức
Phật còn tại thế, có một người con của vị quốc sư, tên là Ma Ha Ca Chiên Diên,
đến với Ðức Phật xin được xuất gia tu hành. Ðức Phật hỏi nguyên do nào ông phát
tâm như thế. Ông trả lời rằng: Bởi vì ông chiêm ngưỡng 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp
của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi thân tướng Như Lai già
yếu, ông không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ hai, ông lại đến xin được xuất
gia. Ðức Phật lại hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông tôn trọng pháp âm
vi diệu của Ðức Phật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi Như Lai không
thuyết pháp, ông không còn phát tâm nữa sao? Lần thứ ba, ông lại đến xin được
xuất gia. Ðức Phật cũng hỏi nguyên do. Lần này ông đáp: Bởi vì ông kính phục
chư tăng tu hành nghiêm túc, cẩn mật. Ðức Phật bèn nói: Như vậy, sau này khi
tình cờ thấy vị tăng nào tu hành không như ý ông, ông không còn phát tâm nữa
sao?
Ba lần xin được xuất
gia đều không toại nguyện, dù ông hết lòng tán thán tam bảo bên ngoài: Phật,
Pháp, Tăng. Lần sau cùng, ông đến với Ðức Phật và bạch rằng: Bạch Ðức Thế Tôn,
từ lâu con đã nghe Thế Tôn thuyết pháp, con đã suy nghĩ tường tận chín chắn.
Sau đó, đem áp dụng cho bản thân, áp dụng trong gia đình, con thấy có ích lợi
thiết thực, tâm được khinh an, gia đạo được yên vui. Cho nên con phát tâm xuất
gia để tu hành rốt ráo, cho đến giác ngộ và giải thoát, để tự lợi và lợi tha.
Ngưỡng mong Ðức Thế Tôn rủ lòng từ bi hứa khả. Lần đó, Ðức Phật chấp nhận. Sau
này, Ðại Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên trở thành vị đệ tử nghị luận bậc nhứt trong
tăng đoàn thời Phật.
Lời tác bạch của Ðại
Ðức Ma Ha Ca Chiên Diên mang ý nghĩa sâu sắc trong nhà Phật: Ngài đã nghe Ðức
Phật thuyết giảng giáo lý, đã suy nghĩ một cách chín chắn tường tận, mới đem áp
dụng vào đời sống của Ngài và của gia đình. Ðó chính là ba bước "văn, tư,
tu" để phát triển trí tuệ bát nhã. Văn có nghĩa là nghe, là học hỏi, là
nghiên cứu. Tư có nghĩa là tư duy, là suy nghĩ chân chánh. Tu có nghĩa là sửa
đổi, là thực hành, là áp dụng. Còn được gọi là "Tam Tuệ Học" trong
Phật giáo. Ba lần đầu, Ngài hướng lòng tôn kính đến tam bảo bên ngoài, nên chưa
được chấp nhận.
Sau cùng, Ngài biết "phản
quan tự kỷ", hướng về "tam bảo tự tâm", biết đường hướng tu
hành, để phát sanh trí tuệ. Nghĩa là Phật Tử biết hướng về bản tánh sáng suốt
của tự tâm gọi là Phật, hướng về pháp môn vi diệu của tự tâm gọi là Pháp, hướng
về bản thể thanh tịnh của tự tâm gọi là Tăng. Do đó Ngài được chấp nhận, bởi vì
đạo Phật là đạo giác ngộ và giải thoát, con người đến với đạo Phật bằng cửa trí
tuệ, chứ không phải bằng niềm tin như các tôn giáo khác. Trong Kinh A Hàm, Ðức
Phật có dạy: "Tin tưởng Như Lai mà không hiểu Như Lai, tức là phỉ báng Như
Lai". Ðó chính là chánh tư duy vậy.
B. - Thế nào là tư duy
bất chánh? - Ngược lại, sự suy
nghĩ ích kỷ, lợi mình hại người gọi là tư duy bất chánh. Người nào suy nghĩ đến
chuyện tà thuật để mê hoặc lòng người, suy nghĩ đến những phương cách sâu độc
để hại người hại vật, suy nghĩ đến mưu cơ để trả thù báo oán, suy nghĩ đến tài
sắc danh vọng, đều gọi là tư duy bất chánh. Người nào luôn luôn suy nghĩ đến
chuyện lợi mình hại người như vậy, chắc chắn cuộc sống không bình an, luôn luôn
bất ổn, hại người nên sợ người hại, gạt người nên sợ người gạt.
3. - CHÁNH NGỮ:
Trong Kinh Hoa Nghiêm,
Ðức Phật có dạy: "Không nên nói lời vô nghĩa. Phải giữ gìn lời nói. Lời
nói phải chân thật, đúng lúc, hợp Chánh Pháp, ích lợi cho mình cho người".
Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy: "Dù nói hàng ngàn lời vô ích, không
bằng chỉ nói một lời đúng Chánh Pháp, có ích lợi làm cho tâm người nghe được an
tịnh".
A . - Thế nào là chánh
ngữ? - Chánh ngữ là lời nói
chân chánh. Nghĩa là con người nên nói lời thật thà lương thiện, công bình ngay
thẳng, có ích lợi chánh đáng. Chánh ngữ là lời nói thành thật và sáng suốt; lời
nói ngay thẳng hợp lý, hòa nhã, rõ ràng và giản dị; lời nói ích lợi, dung hòa,
khuyến tấn và duy nhất. Chánh ngữ là lời nói hợp Chánh Pháp, có ích lợi, đem
lại hòa bình, yên vui cho mọi người mọi nơi. Người giữ gìn chánh ngữ là người
dè dặt khẩu nghiệp, cẩn trọng lời nói, không bao giờ nói sai sự thực, không
thiên vị, không xuyên tạc, không vu oan giá họa, không hăm he hù dọa.
Cổ nhân có dạy:
"Hãy uốn lưỡi bảy lần truớc khi nói". Uốn lưỡi đến bảy lần thì khỏi
nói luôn. Lúc đó gọi là ngộ đạo, bởi vì: "Ðạo bổn vô ngôn thuyết",
bởi vì: "Ngữ ngôn đạo đoạn".
Nghĩa là đạo lý cao siêu, vốn không thể nói,
không có lời nào diễn đạt được. Khi còn nói lên được, đó chỉ là phương tiện
hướng dẫn mà thôi. Cho nên muốn kiến đạo, đừng chấp lời nói, đừng chấp văn tự.
Thí dụ như có người dùng ngón tay để chỉ mặt trăng cho người khác thấy. Ngón
tay chỉ là phương tiện. Mặt trăng mới là mục đích cứu kính. Thấy được mặt trăng
gọi là thấy đạo, kiến đạo. Cho nên muốn thấy mặt trăng, đừng chấp ngón tay thế
này thế nọ.
Tục ngữ có câu:
"Lời nói không mất tiền mua. Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau". Trong
xã hội hay gia đình, nếu mọi người đều thực hành hai câu trên, xã hội sẽ an
vui, gia đình sẽ hạnh phúc. Vợ chồng con cái trên thuận dưới hòa, cộng đồng
trên kính dưới nhường, cuộc đời tươi đẹp biết là bao nhiêu. Một lời nói nói ra
làm cho người nghe hoan hỷ, nụ cười tươi tắn, tâm trí khinh an, đó gọi là chánh
ngữ vậy.
B. - Thế nào là tà ngữ? - Ngược lại, lời nói bất chánh hay tà ngữ là
lời nói không chánh đáng, phi lý, tổn hại đến đời sống cùng danh dự của người.
Một lời nói ra có khi làm người nghe phải xức dầu cù là, nhức óc nhói tim, có
khi ngất xỉu tắt thở luôn, đó là lời nói sâu độc, hiểm ác, đay nghiến, nguyền
rủa, nhiếc mắng, thô tục. Một lời nói ra có khi làm tan vỡ hạnh phúc gia đình
người khác, đó là lời nói đặt điều thêm bớt, thay trắng đổi đen, nước lã khuấy
nên hồ, lộng giả thành chơn, có nói không, không nói có.
Một lời nói ra có khi
làm người khác mang họa vào thân, đó là lời nói vu khống cáo gian, vu oan giá
họa cho người. Một lời nói ra có khi làm người khác lầm lẫn, đó là lời nói không
đúng sự thực, không ngay thẳng, thiên vị, dua nịnh, xuyên tạc, ngụy biện, trau
chuốt, với mục đích thủ lợi.
Một lời nói ra có khi làm người khác xung đột oán thù, thưa gởi kiện tụng, đó
là lời nói dối trá, gây chia rẽ, đâm bị thóc thọc bị gạo, có di hại cho mọi
người và muôn vật. Những người có nhiều
tự ái, thường khó lòng nhịn được khi nghe những lời nói trái ý, không thuận
theo ý mình, thường hay tranh cãi bằng mồm hoặc bằng thư rơi.
Có những lời nói vô
nghĩa, nhưng cũng có thể làm cho người khác bực mình, tức giận, bất an. Chẳng
hạn như có người nói mình ngu như con bò mà bày đặt dạy đời. Lời nói đó thực ra
vô nghĩa lý, bởi vì mình không ngu, mình không phải là con bò, cho nên không
cần phải quan tâm đến những lời nói như vậy. Trong Pháp Tứ Y, Ðức Phật có dạy:
"Y nghĩa bất y ngữ". Nghĩa là chúng ta chỉ nên quan tâm đến ý nghĩa,
không nên chấp vào lời nói. Ðược như vậy, chúng ta bớt nhiều phiền não trên thế
gian này.
4. - CHÁNH NGHIỆP:
Con người thường có ba
nghiệp, đó là: thân nghiệp, khẩu nghiệp và ý nghiệp. Ở đây, chúng ta chỉ bàn về
thân nghiệp. Còn khẩu nghiệp thuộc phần chánh ngữ và ý nghiệp thuộc phần chánh
niệm.
A. - Thế nào là chánh
nghiệp? - Chánh nghiệp là nghề nghiệp và hành động chân
chánh. Nghĩa là con người nên chọn nghề nghiệp chân chánh, hành động một cách
ngay thật, có ích lợi chánh đáng cho mình và cho người. Chánh nghiệp có ích lợi
giúp con người mang lại bình an, hạnh phúc cho chính mình và cho mọi người xung
quanh.
Người giữ gìn chánh
nghiệp là người dè dặt thân nghiệp, luôn luôn thận trọng, giữ gìn mọi hành
động, cử chỉ, cách cư xử của mình, để không làm thương tổn đến quyền lợi, nghề
nghiệp, địa vị, danh giá, hạnh phúc và tánh mạng của mọi người. Người giữ gìn
chánh nghiệp là người hành động theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và hạnh
phúc của mọi người và muôn vật, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản
của mọi người, không trác táng, tận tâm với chức nghiệp, biết hy sinh để giải
thoát khổ đau cho mọi người.
Người giữ gìn chánh
nghiệp là người giữ gìn tam nghiệp được thanh tịnh. Kinh sách có câu: "Tam
nghiệp hằng thanh tịnh. Ðồng Phật vãng tây phương". Nghĩa là nếu biết giữ
gìn tam nghiệp luôn luôn được thanh tịnh, chúng ta cùng với chư Phật, hiện đời
sống trong cảnh giới niết bàn, tự tại giải thoát, không phiền não, chẳng khổ
đau, không sợ địa ngục, chẳng cầu niết bàn.
B. - Thế nào là tà
nghiệp? - Ngược lại, tà
nghiệp tức là hành vi hay động tác không chánh đáng, phi lý bất lương, tổn hại
mọi người. Ðó là các hành vi sát hại bạo tàn, giết người hại vật coi như trò
giải trí, thú vui tiêu khiển, vui thích trên sự đau đớn của con người và của
con thú, trộm cắp của cải, chiếm đoạt tài sản, xúi giục kiện thưa, thưa kiện
kiếm tiền, ăn chơi trụy lạc, xa hoa trác táng, khuyến khích người khác xa hoa
trác táng, thượng đội hạ đạp, giẫm lên người khác để tiến thân, bất chấp thủ
đoạn, sáng tác thư rơi, đe dọa mạng sống, nặc danh khủng bố, tinh thần người
khác.
5. - CHÁNH MẠNG:
Có một vị thiền sư khi
tuổi đã cao, vẫn cứ ngày ngày làm lụng như mọi người khác, các đệ tử thấy vậy
bèn đem giấu các dụng cụ làm việc của thầy. Ngày đó, vị thiền sư không làm việc
được, nên chẳng chịu ăn uống, và dạy rằng: "Một ngày không làm là một ngày
không ăn".
A. - Thế nào là chánh
mạng? - Chánh mạng là
mạng sống chân chánh. Nghĩa là con người cần sinh sống một cách chánh đáng, có
đời sống lương thiện, ngay thật, trong sạch, không bạo tàn, không hèn mạt.
Chánh mạng có ích lợi giúp con người có cuộc sống bình đẳng, tương kính, không
bị rẻ khinh. Người giữ gìn chánh mạng là người sống một cuộc đời có ý nghĩa,
lợi mình, lợi người, không ăn bám ai, cũng chẳng ăn không ngồi rồi. Người theo
đúng chánh mạng là người sinh sống theo lẽ phải, biết tôn trọng quyền sống và
hạnh phúc của mọi người, tôn trọng nghề nghiệp, không xâm phạm tài sản, tận lực
làm việc, không tổn hại mọi người và muôn vật, sinh sống với tài năng chân
chánh, không giả dối lừa gạt mọi người, sinh sống thanh cao không luồn cúi,
không thượng đội hạ đạp, sinh sống theo chánh giáo, không mê tín dị đoan.
B.- Thế nào là tà mạng? - Ngược lại, tà mạng là sinh sống bất lương,
gian tham, không chánh đáng, phi lý, phạm pháp, có tổn hại trực tiếp hay gián
tiếp đến mọi người, làm tổn hại chúng sanh, giết thú lột da, cưa ngà xẻ thịt,
moi óc bẻ sừng, vặt lông làm đồ trang sức, may áo may quần, cúng trăng cúng
sao, tiên đoán vận mệnh, xem quẻ bói xăm, coi tuổi tình duyên, tương lai gia
đạo, ăn gian nói dối, lường gạt mọi người, giao dịch gạt gẫm, sáng chế vũ khí,
giết người hại vật, chế đồ giả mạo. Quan niệm một ngày ăn cướp bằng ba năm làm,
sống theo lối nước đục thả câu, ngư ông hưởng lợi, đó là tà mạng.
6. - CHÁNH TINH TẤN:
Trong Kinh Di Giáo,
Ðức Phật có dạy: "Nếu chuyên cần tinh tấn thì không có việc gì khó. Ví như
nước chảy mãi, đá cũng phải mòn". Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương, Ðức Phật
có dạy: "Người học đạo phải nên kiên tâm, trì chí, tinh tấn, dũng mãnh,
không sợ cảnh khổ trước mắt, phá diệt tà tâm, đạt thành đạo quả".
A.- Thế nào là chánh tinh
tấn? - Chánh tinh tấn là sự siêng năng chân chánh.
Nghĩa là con người siêng năng làm những việc có ích lợi cho mình và cho người.
Chánh tinh tấn có ích lợi giúp con người cải tạo thân tâm ngày một thanh tịnh,
tốt đẹp hơn, cuộc đời có ý nghĩa hơn. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ
cũng phản quan tự kỷ, quay lại xét mình, siêng năng chuyển hóa tâm trí, cải đổi
tánh tình.
Trong Kinh Ðại Bát
Niết Bàn, Ðức Phật có dạy: "Chư ác mạc tác.Sách có câu: "Có công mài
sắt có ngày nên kim", nói lên sự kiên tâm bền chí, nhẫn nại phi thường,
trải qua thời gian năm tháng, không sờn lòng, không khuất phục, để đạt cho bằng
đượChúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo".
Nghĩa là: Không bao giờ nên làm các điều ác, các điều bất
thiện, dù là nhỏ nhặt. Luôn luôn tinh tấn làm tất cả các điều thiện, dù là điều
thiện rất nhỏ. Tự thanh tịnh tâm ý của chính mình. Ðó là lời dạy của thập
phương tam thế chư Phật. Người theo đúng chánh tinh tấn bao giờ cũng siêng năng
sám hối, trừ bỏ những lỗi lầm tội ác đã sinh, siêng năng tu tập các pháp lành,
ngăn ngừa tội ác chưa sinh, siêng năng làm việc thiện để tạo thêm phước, phát
triển việc lành, siêng năng tu tâm dưỡng tánh, việc thiện chưa sinh làm cho
phát sinh, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng vậy, không hề đổi thay, không
chút chán chường. c mục đích cao cả của
mình. Người tu theo hạnh tinh tấn của Bồ Tát Ðại Thế Chí, làm các việc thiện,
cứu người giúp đời, không biết mệt mỏi, không hề nản lòng, không màng tính
toán, không chút so đo, không chịu ngừng nghỉ, mặc dù đang gặp nghịch cảnh,
đang mắc khổ nạn, đang gặp oán thù, mặc dù có gặp người lấy oán báo ân, cũng
vẫn bình thản. Ðó là chánh tinh tấn vậy.
B.- Thế nào là tinh tấn
bất chánh? - Ngược lại, có rất nhiều người siêng năng làm
những việc bất chánh. Ðó là những người chuyên sát nhơn hại vật, gian xảo trộm
cắp. Có những người siêng năng trong các việc dối trá hiểm độc, sáng tác thư
rơi, dua nịnh xuyên tạc, rượu chè cờ bạc, xa hoa phung phí, phỉ báng mọi người.
Cũng có những người siêng năng bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, soi mói đời
tư, viết thư nặc danh, ngụy tạo chứng cớ, thưa gởi kiện tụng, làm khổ chúng
sanh.
7. - CHÁNH NIỆM:
Trong Kinh Ðại Tập,
Ðức Phật có dạy: "Nếu thường xuyên giữ được chánh niệm, tâm không loạn
động, dứt trừ được phiền não, thì chẳng bao lâu đắc thành quả vô thượng bồ
đề". Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy: "Không hạnh phúc nào có thể
so sánh với sự yên tĩnh của tâm trí".
A. - Thế nào là chánh
niệm? - Chánh niệm là sự nhớ nghĩ chân chánh. Nghĩa
là con người có những ý niệm chánh đáng, những đạo lý giác ngộ và giải thoát.
Chánh niệm có ích lợi giúp con người sống trong an ổn, yên vui, không tạp niệm,
ngày ăn ngon, tối ngủ yên. Người giữ gìn chánh niệm là người dè dặt với ý
nghiệp, luôn luôn nhớ nghĩ tứ trọng ân: ân cha mẹ, ân thầy tổ, ân đất nước, ân
mọi người, nhớ nghĩ lỗi lầm để sửa đổi. Người giữ gìn chánh niệm là người sống
trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc. Ðể giúp giữ gìn chánh niệm, Ðức Phật có
dạy bốn phương pháp tập trung tư tưởng như sau: quán thân bất tịnh, quán thọ
thị khổ, quán tâm vô thường, quán pháp vô ngã. Các pháp quán tưởng này được gọi
là "Tứ niệm xứ". Tứ nghĩa là bốn. Niệm nghĩa là thường nhớ nghĩ. Xứ
nghĩa là nơi chốn.
a) Quán thân bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là tập hợp
những thứ bất tịnh, không trong sạch, nhơ nhớp, được bọc ngoài bởi lớp da cũng
chẳng mấy gì sạch sẽ cho lắm. Khi mạnh khỏe thì còn tạm tạm. Khi ốm đau, tai
nạn, bệnh hoạn, già nua, thân mình nhơ nhớp, máu mủ tanh hôi, ghẻ chốc gớm
ghiếc, da dẻ nhăn nhúm, đến lúc tắt thở, sình chương hôi thúi, không ai chịu
nổi! Món ăn dù ngon, đưa vô miệng rồi, lỡ rớt ra ngoài, không dám ăn lại!
b) Quán thọ
thị khổ: Nghĩa là quán tưởng
sự cảm thọ, thọ nhận là khổ. Do tâm tham lam, con người thọ nhận đủ thứ vật
chất của cải để vinh thân phì gia, không cần biết của thọ nhận chính hay tà, bo
bo giữ gìn, đến lúc chết, sinh lòng tiếc của, nhắm mắt không yên. Do tâm sân
hận, con người thọ nhận đủ thứ lời nói khó nghe, dù vô nghĩa, để bực dọc, tức
tối, bất an, sinh lòng thù oán. Do tâm si mê, con người thọ nhận những tư tưởng
mười năm báo thù không muộn, do điều gì bất như ý, chạm chút tự ái, cũng hăm he
thưa kiện, nhứt định trả thù, để rồi gây ra biết bao nhiêu đau khổ cho người,
dù thân hay thù. Nói vắn tắt là: Thọ nhiều thì khổ nhiều, chấp nhiều thì mệt
nhiều. Buông xả thì thanh thản, tha thứ thì thư thái. Chuyện rất đơn giản, thực
hành không dễ dàng, nhưng không phải bất khả.
c) Quán tâm vô thường: Nghĩa là quán tưởng cái tâm nhỏ hẹp của mình
luôn luôn thay đổi, mới nghĩ thế này liền nghĩ thế khác, lúc thương yêu đắm
đuối lúc thù hận ngập tràn, lúc thân lúc thù, lúc vui lúc buồn, lúc thương lúc
ghét, lúc hiền thiện lúc gian tà. Tâm của chúng ta luôn luôn dính với cảnh trần
bên ngoài, kinh sách gọi là tâm phan duyên. Cảnh trần bên ngoài thuận ý, vừa
tai thì vui thích. Cảnh trần bên ngoài nghịch ý, chói tai thì tức tối. Nếu chỉ
chạy theo sự sai khiến của cái tâm vô thường như vậy, con người tạo tác không
biết bao nhiêu nghiệp chướng, cho nên trôi lăn, trầm luân trong sinh tử không
biết bao nhiêu đời, bao nhiêu kiếp!
Trong kinh sách có
câu: "Ðối cảnh vô tâm mạc vấn thiền". Nghĩa là khi nào tâm của chúng
ta không còn dính với cảnh trần nữa, thản nhiên trước sự thịnh suy, thăng trầm
của đời sống, bình thản trước những lời khen tiếng chê, vượt qua được sóng gió của
cuộc đời, tức nhiên tâm của chúng ta sẽ được khinh an, tự tại, niết bàn và
thiền định rồi đó vậy.
d) Quán pháp vô ngã: Nghĩa là quán tưởng các pháp trên thế gian
này đều không có bản thể nhứt định, gọi là vô ngã. Các pháp, là tất cả sự sự
vật vật trên cuộc đời, không có cái gì cố định. Tất cả chỉ là một dòng chuyển
biến không ngừng. Con người thấy đó mất đó. Chuyện gì rồi cũng đổi thay, rồi
cũng qua mau. Ðừng phí sức, đừng bận tâm với các pháp của thế gian. Chẳng hạn
như có câu: "Hết cơn bỉ cực tới hồi thới lai", hoặc "Sau cơn mưa
trời lại sáng".
Trong Kinh A Hàm, Ðức
Phật có dạy: "Chư pháp tùng nhân duyên sanh. Chư pháp tùng nhân duyên
diệt".
Nghĩa là muôn sự muôn
vật trên đời tùy theo nhân duyên mà sinh ra, cũng tùy theo nhân duyên mà diệt
đi. Không có cái gì, vật gì có thực tướng, không có cái gì, vật gì tồn tại vĩnh
viễn. Người ta chửi mình do mình gây nghiệp bất thiện cảm với người. Người ta
chửi mãi mõi miệng thì cũng ngưng thôi, tức giận làm chi cho mệt! Ðừng đưa cái
bản ngã của mình, tức là cái tôi, cái ta, tây phương gọi là "EGO", ra
hứng những ngọn lửa của thế gian, thì mình đâu có bị đốt cháy, đâu có bị nhiệt
não, đâu có bị khổ tâm, đâu có bị ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên. Ngọn
lửa không thể đốt hư không được, sẽ tự dập tắt thôi. Vô ngã đơn giản là như vậy
đó!
B. - Thế nào là tà niệm,
tạp niệm, vọng niệm? - Ngược lại, tà niệm là những ý niệm không
chánh đáng, vọng niệm là những ý niệm hư dối, tạp niệm là những ý niệm lung
tung linh tinh lang tang. Những người luôn luôn nhớ nghĩ lỗi người để phê bình
chỉ trích, nhớ nghĩ oán thù để phục hận trả thù, nhớ nghĩ ngũ dục: tiền tài,
nhan sắc, danh vọng, ẩm thực, thùy miên, luôn nhớ nghĩ đến những thành tích xấu
xa, gian giảo, để tự hào tự đắc, đó gọi là tà niệm, tạp niệm hay vọng niệm.
Chư Tổ có dạy:
"Nội cần khắc niệm chi công. Ngoại hoằng bất tranh chi đức". Nghĩa
là: Bên trong, chúng ta cố gắng khắc phục tâm niệm lăng xăng lộn xộn, giữ gìn
chánh niệm, chăn giữ ý nghiệp, đó mới là công phu tu tập đúng Chánh Pháp. Bên
ngoài, chúng ta giữ gìn chánh ngữ, canh chừng khẩu nghiệp, không tranh cãi,
không hơn thua, đó là đức độ của người tu theo đạo Phật. Cho dù có bị phỉ báng,
có gặp nghịch cảnh, cũng vẫn bình tĩnh thản nhiên, ngoài mặt cũng như trong
lòng, không khởi lên bất cứ tâm
niệm gì cả.
8. - CHÁNH ĐỊNH:
Muốn được cuộc sống an
lạc và hạnh phúc, chúng ta phải khắc phục tâm ý của chính mình. Khắc phục tâm ý
và an trụ tâm ý là mục đích chính yếu của người tu theo đạo Phật. Chế ngự được,
khắc phục được tâm viên ý mã, tức là tâm như con vượn, ý như con ngựa nhảy nhót
lung tung, chúng ta mới đạt được chánh định, đó là cảnh giới niết bàn, an nhiên
tự tại, không khổ đau, chẳng phiền não.
A. - Thế nào là chánh
định? - Chánh định là sự thiền định chân chánh. Nghĩa
là con người tập trung tư tưởng vào một vấn đề chánh đáng, đúng với chân lý,
hợp lẽ phải. Người đạt được chánh định là người bình tĩnh, thản nhiên trước bát
phong của cuộc đời. Chánh định có ích lợi giúp con người phát triển trí tuệ,
mau tiến đến giác ngộ và giải thoát. Tâm trí của con người thường xuyên lăng
xăng lộn xộn, nhớ nghĩ lung tung, linh tinh lang tang, không có dừng nghỉ, từ
đông sang tây, từ cổ chí kim, từ chuyện lớn đến chuyện nhỏ, từ thế giới năm
châu đến phụ nữ nhi đồng, từ quốc gia đại sự đến hang cùng ngõ hẹp, hết chuyện
gia đình đến chuyện hàng xóm, chuyện xưa chuyện nay, thương ghét tốt xấu, thị
phi phải quấy. Tất cả những chuyện như vậy làm cho tâm của chúng ta luôn luôn
loạn động. Tâm loạn động thì trí bất an. Ngày ăn không ngon, tối ngủ chẳng yên.
Ðể giúp con người đạt được chánh định, Ðức Phật dạy các pháp quán tưởng sau
đây:
a) Quán sổ tức: Nghĩa là quán tưởng bằng cách đếm hơi thở ra
hơi thở vào, để đối trị tâm loạn động. Ðến khi thuần thục, chỉ cần theo dõi hơi
thở, không cần đếm số như lúc mới bắt đầu, đó gọi là tùy tức quán. Sách có câu:
"Thở vào tâm tĩnh lặng. Thở ra miệng mỉm cười".
b) Quán bất tịnh: Nghĩa là quán tưởng thân mình là một tập hợp
những thứ bất tịnh, không có gì đáng quan trọng, khi chết thân mình chỉ còn là một
cái thây ma không ai dám đến gần, kể cả những người thân thiết nhất trên đời,
để đối trị tâm tham dục.
c) Quán từ bi: Nghĩa là quán tưởng mọi người đều bình đẳng,
đều có Phật Tánh như nhau, đều đáng thương như nhau, thương người như thể
thương thân, để diệt trừ tâm sân hận, thù hằn, oán hờn, ganh ghét, ích kỷ, đố
kỵ. Không thể chỉ vì một chút tự ái nhỏ nhặt, một chút mặt mũi, danh dự nào đó,
có thể tạo nghiệp oán thù, kiện tụng thưa gởi. Cổ nhân có dạy: "Chuyện gì
mình không muốn người khác làm cho mình, thì mình đừng làm cho người
khác", cho dù với mục đích trả thù, trừng trị kẻ khác, vì bất cứ lý do gì!
d) Quán nhân duyên: Nghĩa là quán tưởng tất cả muôn pháp đều do
nhân duyên sinh ra, cho nên giả hợp, không bền vững, không tồn tại vĩnh viễn,
để đoạn trừ si mê, chấp ngã và chấp pháp. Muốn thực hành pháp quán này, cần
thấu triệt và tin sâu "Lý Nhân Quả" hay "Lý Nhân Duyên".
Cốt tủy của đạo Phật
Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm
Mục đích cứu kính của đạo Phật là giúp đỡ con người giải thoát khỏi phiền não và khổ đau, xây dựng cuộc sống an lạc và hạnh phúc ngay hiện đời. Muốn đạt được điều đó, chúng ta phải hàng phục tâm của mình và an trụ tâm của mình, phải nương nhờ chánh pháp, học hiểu giáo lý và đem thực hành, áp dụng vào trong cuộc sống hằng ngày.
Chư Phật và chư Tổ giảng giải tam tạng kinh điển cũng nhằm mục đích này mà thôi. Chánh pháp được ví như chiếc thuyền, thường gọi là thuyền bát nhã, chở chúng ta từ bến mê, đầy dẫy những chuyện bất trắc, bất như ý, phiền não và khổ đau, qua đến bờ bên kia, được gọi là bờ giác ngộ và giải thoát.
Con người đạt được giác ngộ, giải thoát mọi khổ đau, trói buộc, dính mắc của chuyện thế gian, hàng phục được vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm, tâm liền được an trụ. Từ đó, tuy vẫn sống tại thế gian, nhưng tâm an nhiên tự tại, bình tĩnh thản nhiên trước mọi sóng gió của cuộc đời. Ngay đó, cảnh giới niết bàn hiện tiền.
Không hạnh phúc nào hơn an tịnh tâm.
Nếu như các cơ sở Phật giáo như chùa chiền, niệm Phật đường, thiền viện, trung tâm văn hóa Phật giáo, ngoài việc chăm lo phát triển tầm mức hoạt động, phát triển qui mô của cơ sở, ngoài các hình thức nghi lễ cần thiết của một tôn giáo, ngoài các phương tiện thiện xảo dĩ huyễn độ chơn giúp người sơ cơ, với tâm đại từ đại bi, tận tâm tận tình, tận sức tận lực, truyền bá chánh pháp, giảng dạy giáo lý, giúp đỡ mọi người sáng tỏ chân lý, thấu hiểu mục đích cứu kính của đạo Phật, cốt tủy của đạo Phật, thì thực là phước báu lắm thay, hạnh phúc lắm thay!
Người Phật Tử chân chính đến các chùa chiền, hay các cơ sở Phật giáo, chỉ nên cầu học Chánh Pháp, để tự mình cứu độ chính mình, theo lời dạy của chư Phật, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, loạn tâm thành an tâm, tâm phan duyên thành tâm thanh tịnh, không cầu bất cứ điều gì khác, nhứt là những điều chư Phật khuyên dạy nên bỏ, chẳng hạn như: tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, ăn uống, ngủ nghỉ, và các sự hưởng thụ sung sướng, cùng những điều mê tín dị đoan: dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, xin xăm bói quẻ, coi ngày tốt xấu. _
kính mời tham khảo theo link:
QUAN ĐIỂM CHỦ TRƯƠNG PHTQ
BÁT CHÁNH ĐẠO (CTLĐ 1)
HẠNH BỐ THÍ (CTLĐ 1)
THƯ NGỎ
BAN BIÊN-TẬP
TẬP-SAN
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG
Kính thưa Quí vị độc giả,
Chư Tôn Đức và Ban Biên Tập PHTQ CANADA
trân trọng cảm niệm công đức và phước đức
của Quí vị
đã phát tâm bảo trợ và giới thiệu tập san.
trân trọng cảm niệm công đức và phước đức
của Quí vị
đã phát tâm bảo trợ và giới thiệu tập san.
Cách đây 2635 năm,
với tâm từ bi bao la và trí tuệ vô thượng,
đức Từ phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
đản sinh, tu hành
và đắc đạo để cứu độ muôn loài.
với tâm từ bi bao la và trí tuệ vô thượng,
đức Từ phụ Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
đản sinh, tu hành
và đắc đạo để cứu độ muôn loài.
Ngay thế giới này,
đức Phật giác ngộ được chân lý tối thượng,
giúp chúng sanh giải thoát sanh tử luân hồi.
đức Phật giác ngộ được chân lý tối thượng,
giúp chúng sanh giải thoát sanh tử luân hồi.
Tùy theo căn tánh, hoàn cảnh,
đạo Phật dạy có muôn ngàn pháp môn tu tập.
Các pháp môn tu tập được ghi lại
trong tam tạng giáo kinh điển.
Do đó, muốn giác ngộ chân lý, thông suốt chánh pháp,
giải thoát khỏi phiền não và khổ đau,
chúng ta phải phát tâm cầu học chánh pháp,
suy tư nghiền ngẫm,
và đem áp dụng trong thực tế đời sống hằng ngày.
đạo Phật dạy có muôn ngàn pháp môn tu tập.
Các pháp môn tu tập được ghi lại
trong tam tạng giáo kinh điển.
Do đó, muốn giác ngộ chân lý, thông suốt chánh pháp,
giải thoát khỏi phiền não và khổ đau,
chúng ta phải phát tâm cầu học chánh pháp,
suy tư nghiền ngẫm,
và đem áp dụng trong thực tế đời sống hằng ngày.
Được như vậy,
chúng ta mới hưởng được pháp vị vi diệu,
mầu nhiệm của chánh pháp,
vượt qua được những khổ nạn trong đời sống,
chịu đựng được những bất trắc, bất toàn, bất như ý
trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
chúng ta mới hưởng được pháp vị vi diệu,
mầu nhiệm của chánh pháp,
vượt qua được những khổ nạn trong đời sống,
chịu đựng được những bất trắc, bất toàn, bất như ý
trong gia đình cũng như ngoài xã hội.
Chúng ta không nên đợi khi khổ nạn xảy đến mới tìm học chánh pháp, mới đi chùa cúng kiến cầu an, cầu khẩn van xin, lúc đó đã quá muộn màng, tiền mất tật mang.
Đức Phật khi còn tại thế vẫn không cứu được các đại đệ tử, khi khổ nạn (gọi là nghiệp báo) xảy đến. Ngày nay, mang phẩm vật, tiền bạc vào chùa: cầu an - được an hay sao ? cầu siêu - được siêu hay sao ?
Chúng ta hãy mau thức tỉnh, sớm lo tu, chỉ có chánh pháp mới tự cứu chúng ta khỏi phiền não khổ đau mà thôi, không ai có thể, có quyền năng cứu chúng ta, kể cả Đức Phật và các nhà sư.
Tâm nguyện của PHTQ CANADA là tạo thiện duyên,
Tâm nguyện của PHTQ CANADA là tạo thiện duyên,
hiểu Phật Pháp tại thế gian, được an lạc hạnh phúc,
giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não khổ đau.
Chân lý tối thượng vượt qua các nghi lễ,
các hình thức của tôn giáo,
nhất là vượt qua tâm cố chấp,
giúp con người sống đời an nhiên tự tại.
giác ngộ chân lý, giải thoát phiền não khổ đau.
Chân lý tối thượng vượt qua các nghi lễ,
các hình thức của tôn giáo,
nhất là vượt qua tâm cố chấp,
giúp con người sống đời an nhiên tự tại.
Văn-Phòng Phật-Học Tịnh-Quang Canada thực hiện
tâm nguyện truyền bá Chánh pháp
qua các Tập san PHTQ định kỳ,
theo tinh thần bất vụ lợi,
ấn tống và phát hành miễn phí,
3 số mỗi năm, vào các dịp sau:
tâm nguyện truyền bá Chánh pháp
qua các Tập san PHTQ định kỳ,
theo tinh thần bất vụ lợi,
ấn tống và phát hành miễn phí,
3 số mỗi năm, vào các dịp sau:
Tết Nguyên Đán,
Đại Lễ Phật Đản,
Đại Lễ Vu Lan.
Kính mong Quí vị độc giả khắp nơi
phát tâm gieo duyên với Tam Bảo,
tùy tâm tùy hỷ,
tùy duyên phát nguyện,
bảo trợ phương tiện hoằng pháp này,
như là một nhân duyên bố thí pháp,
phước đức và công đức,
tự lợi và lợi tha,
tự độ và độ tha.
phát tâm gieo duyên với Tam Bảo,
tùy tâm tùy hỷ,
tùy duyên phát nguyện,
bảo trợ phương tiện hoằng pháp này,
như là một nhân duyên bố thí pháp,
phước đức và công đức,
tự lợi và lợi tha,
tự độ và độ tha.
Sự đóng góp này dù số tịnh tài bao nhiêu,
nhưng với tấm lòng vị tha rộng rãi,
thì phước báu sẽ rất lớn, bao la,
vô lượng vô biên.
nhưng với tấm lòng vị tha rộng rãi,
thì phước báu sẽ rất lớn, bao la,
vô lượng vô biên.
Ví như chỉ với một nhân hạt cam
gieo trên mảnh đất từ thiện
thì kết quả thu được
biết bao nhiêu trái cam ngon ngọt sau này.
Đó chính là phước báo vậy.
gieo trên mảnh đất từ thiện
thì kết quả thu được
biết bao nhiêu trái cam ngon ngọt sau này.
Đó chính là phước báo vậy.
Quí vị phát tâm bảo trợ,
hùn phước ấn tống,
xin ghi chi phiếu trả cho Phat-Hoc Tinh-Quang
và gửi trực tiếp về địa chỉ:
Phật-Học Tịnh-Quang
108 - 123 RAILROAD ST.,
BRAMPTON, ON, L6X-1G9, CANADA
Khi nhận được tịnh tài, văn phòng PHTQ sẽ có thư báo tin, tri ân bảo trợ, cảm niệm và hồi hướng công đức.
Ngưỡng nguyện thập phương thường trụ Tam Bảo thùy từ chứng minh công đức này và gia hộ quí vị độc giả cùng bửu quyến thân tâm an lạc, trí tuệ khai minh và cư trần lạc đạo.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật.
Ban Biên-Tập
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
As this is a Dharma text, please pass it to others.
Thank you for your kindness and co-operation.
No copyright.
This book is for free distribution,
IT IS NOT TO BE SOLD.
Tập san này được phát hành miễn phí.
KHÔNG BÁN.
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG (SỐ 1 - 19)