TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Wednesday, 1 June 2011

Quan điểm & Chủ Trương của Phật-Học Tịnh-Quang Canada




QUAN ĐIỂM CỦA PHẬT HỌC TỊNH QUANG:

Các tôn giáo, tuy qua các hình thức lễ nghi phức tạp để phổ cập vào đại đa số quần chúng, đều có giá trị cao sâu. Người tin theo tôn giáo đó - dù là tu sĩ cấp cao - cũng chưa chắc đã hiểu rõ, nắm vững và thực hành trọn vẹn, huống là người theo tôn giáo khác.

Điều gì tôn giáo này công nhận, địa phương này chấp nhận, dân tộc này tuân theo; nhưng các tôn giáo khác không công nhận, các địa phương khác không chấp nhận, các dân tộc khác không tuân theo, đều chưa phải là chân lý tối thượng.

Chân lý tối thượng phải vượt lên trên tất cả các tôn giáo - kể cả Phật giáo - vượt lên trên tâm cố chấp của con người, chính là phương pháp mang lại sự bình an hiện tại trong tâm tư của cá nhân, hạnh phúc hiện tại trong gia đình và sự hòa bình hiện tại trong nhân loại.

Chân lý tối thượng đó phải được mọi người công nhận, không phân biệt màu da, sắc tộc, giai cấp, tôn giáo, tín ngưỡng, xuất xứ hay địa phương.

 CH TRƯƠNG CỦA PHẬT HỌC TỊNH QUANG:

Trong sự bàn cãi, tranh luận, chỉ nên xét việc - không xét người, chỉ nên góp ý về một vấn đề nào đó - không xét cá nhân, tác giả; và hoan nghênh, tiếp nhận các bài viết, tài liệu nhằm mục đích đem lại sự bình an cho cá nhân, hạnh phúc cho đời sống gia đình và hòa bình trong cộng đồng người Việt và nhân loại.

Phật-Học Tịnh-Quang Canada không chấp nhận các bài viết có tính cách gây chia rẽ, tạo hiềm khích, khiến bất an trong các diễn đàn, dù phát xuất bất cứ từ đâu.

Ban Biên Tập
Phật-Học Tịnh-Quang Canada





TẬP-SAN PHTQ (TỪ-BI & TRÍ-TUỆ) SỐ 18

***

TẬP-SAN PHTQ 18
SẼ PHÁT HÀNH MIỄN PHÍ
NHÂN DỊP TẾT NGUYÊN ĐÁN (NĂM NHÂM THÌN)
NGÀY 23 THÁNG GIÊNG NĂM 2012

***
Mỗi năm 3 số vào các dịp: Tết Nguyên Đán, Lễ Phât Đản, Lễ Vu Lan.
Muốn nhận tập san PHTQ qua bưu điện,
quí ĐH hoan hỷ ủng hộ bưu phí: CAN or US$10/ mỗi cuốn.
Không cần mua Money Order.
Tịnh tài có thể gửi bằng cash or personal cheque,
Ghi trả cho: PHAT HOC TINH QUANG.
----------------------------------------------------------

Gửi về địa chỉ dưới đây:
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 – 123 RAILROAD ST.,
BRAMPTON, ON, L6X-1G9, CANADA
------------------------------------------------------

Email: cutranlacdao@yahoo.com
TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
MỤC LỤC TẬP SAN PHTQ 18
(Tết Nguyên Đán Nhâm Thìn MON.23.1.2012)


1) Trang 1 PHTQ 18. Bộ Sách CTLĐ

2) TRANG MỤC LỤC PHTQ18 (1 trang)

3-4) PHTQ 18 THƯ NGỎ (2 trang)

5) Lời Phật Dạy: Công Đức  (1 trang)

6) HT Thích Thanh Từ - Ngai Vàng Như Dép Rách (20 trang)

26) Bất Khâm Tuân Thượng Đế (2 trang)

28) Báo tin vãng sanh của chị Thu Hương (3 trang)

31) Nhân đám ma nghĩ về sự siêu thoát (3 trang)

34) HT Thích Thiện Siêu - An Tâm (9 trang)

43) Hộ Niệm Đám Tang (1 trang)

44) Chiến thắng bản thân mình (5 trang)

49) Suy Ngẫm Chuyện Cười (4 trang)

53) Xin Quẻ Đầu Năm (1 trang)

54) Nẻo Về Của Tâm Giải Thoát (3 trang)

57) Xin chữ đầu năm & Quá đã (1 trang)

58) Con phải xin lỗi Ba & Đừng nhiều chuyện (1 trang)

59) Thơ Viên Phụng - Vượt Thoát (1 trang)

60) SINH HOẠT TẾT NGUYÊN ĐÁN & TANG LMÊ TÍN

61) Cơ sở Phật Học Tịnh Quang Guelph 12.12.2004

62) Thích Nữ Chân Liễu: Tự Tánh Tam Bảo - Viên Ngọc Minh Châu (9 trang)

71) Thiền Sư Ikkyu Sojun (5 trang)

76) Thiền sư Trạng Nguyên Lừng Danh Việt Nam (6 trang)

82) Tiệc thôi nôi - Nên chay hay mặn (2 trang)

84) Thích Chân Tuệ - Bát Phong (26 trang)

110 - 115) Thư Độc Giả PHTQ 18 (6 trang) HỎI ĐÁP

116-117-118) TRANG TRI ÂN BẢO TRỢ PHTQ 18 (3 trang)

119-120) TRANG QUẢNG CÁO PHTQ 18 (5.2011)


SẼ PHÁT HÀNH MIỄN PHÍ
NHÂN DỊP TẾT NGUYÊN ĐÁN (NĂM NHÂM THÌN)
NGÀY 23 THÁNG GIÊNG NĂM 2012

***
Mỗi năm 3 số vào các dịp: Tết Nguyên Đán, Lễ Phât Đản, Lễ Vu Lan.
Muốn nhận tập san PHTQ qua bưu điện,
quí ĐH hoan hỷ ủng hộ bưu phí: CAN or US$10/ mỗi cuốn.
Không cần mua Money Order.
Tịnh tài có thể gửi bằng cash or personal cheque,
Ghi trả cho: PHAT HOC TINH QUANG.
----------------------------------------------------------

Gửi về địa chỉ dưới đây:
PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA
108 – 123 RAILROAD ST.,
BRAMPTON, ON, L6X-1G9, CANADA


 CHÂN LÝ Ở ĐÂU? (PHTQ)

CHUYỆN TRONG CHÙA


- Kính thưa quí vị, như chúng tôi đã trình bày, bàn tay của chúng ta có hai mặt, đồng tiền cũng có hai mặt, tờ giấy cũng có hai mặt. Hai mặt đó không bao giờ có thể tách rời được.

Đó là chân lý, tức là điều hiển nhiên đúng ; đúng với mọi thời gian và không gian, đúng với mọi người không phân biệt tín ngưỡng, tôn giáo, quốc tịch, màu da, xuất xứ, học thức, tuổi tác, địa vị xã hội, nghĩa là bất tùy phân biệt, không cần chứng minh.

Cho nên, cái đúng với tôn giáo này, nhưng không đúng với tôn giáo khác, chưa phải là chân lý.

Cái đúng với dân tộc này, với địa phương này, với xứ sở này, với thời gian này, với không gian này, nhưng không đúng với dân tộc, địa phương, xứ sở, thời gian hay không gian khác, chưa phải là chân lý.

Tóm lại, chân lý không có ở trong kinh sách, không có ở trong chùa, không có trong các nghi lễ tôn giáo - kể cả Phật giáo, không có trong khóa nghiên tu an cư tại tổ đình này !


- Con có thắc mắc : Thầy là một vị tu sĩ Phật giáo, là một vị giáo thọ trong khóa nghiên tu an cư năm nay, Thầy dùng kinh điển Phật giáo giảng dạy tứ chúng, sao lại nói chân lý không có trong kinh điển ?

- Chân lý thực sự không có trong kinh điển. Chấp chặt kinh điển thì khó thấy được chân lý tối thượng.

- Như vậy, thưa Thầy, chân lý ở đâu ?

- Chân lý ở ngay trước mắt Ni sư đó !

- Sao con không thấy?!

- Chân lý phải « thấy » qua trí tuệ bát nhã, chứ không thấy bằng nhục nhãn (mắt thịt, mắt trần, mắt thường). ■

SUY NGẪM
Muốn nhìn thấy mặt trăng,
phải dùng ngón tay để chỉ.

Người trí nương theo hướng ngón tay, nhận thấy được mặt trăng.

Người chấp chặt ngón tay, chỉ lo nhìn ngón tay chăm chăm, nên
khó thấy được mặt trăng thật !

Ban Biên-Tập PHTQ



ĂN TẾT ĂN CHAY HAY ĂN MẶN


Cơ-sở Phật-học Tịnh-Quang Canada


Thời gian qua mau, năm ta sắp hết, tết ta sắp đến.  Mọi người chúng ta, nhất là những người, đang sống tha hương, thảy đều nôn nao, chuẩn bị ăn tết, đón xuân năm mới, dù là mùa xuân, trong tiết giá lạnh, ở nơi xứ người, lại càng thắm thía, nhớ tết quê hương, biết là bao nhiêu!  Ngày tết nguyên đán, phong tục tập quán, quen thuộc từ xưa, ở trong đó có, thói quen ăn chay, trong ngày đầu năm, mùng một tết ta, hay ba ngày tết, cầu phước trọn năm, dù là Phật tử, hay không Phật tử.  Trước đây không biết, kinh sách nào ghi, điều này hay không, người ta giải thích: ngày tết vui chơi, nơi nơi mở hội, có nhiều thức ăn, hấp dẫn đặc biệt, dĩ nhiên đó là, các thức ăn mặn, thường ngày vẫn dùng, người nào "nhịn" được, lại chịu ăn chay, ngày một ngày hai, phải có phước báu, đặc biệt không sai.  Tuy nhiên nhiều người, không quen ăn chay, nhưng cũng phát tâm, trong ngày mùng một, nhưng ráng thức khuya, ngồi chờ đồng hồ, điểm sang mùng hai, bay ra ngã mặn!
Việc ăn việc uống, trong cuộc sống này, chính là vấn đề, lưu tâm hàng đầu.  Nếu như con người, không cần ăn uống, chắc là trên đời, không chuyện tranh cãi, đấu tranh giành giựt, không có chiến tranh, thế giới thanh bình, cuộc sống nhân loại, vui tươi hạnh phúc.  Nhân dịp ăn tết, chúng ta thử bàn, qua việc ăn chay, hay là ăn mặn, để hiểu cho rõ, chủ trương đạo Phật, trong vấn đề này, ngõ hầu đem lại, lợi ích thiết thực, ngay trong đời sống. 
* * *
 Trong phạm vi đạo Phật, việc ăn chay hay ăn mặn thường gây thắc mắc, tranh luận đúng sai, nên hay không nên, cho khá nhiều người.  Ăn mặn là từ ngữ chỉ việc ăn uống thông thường, bình thường, thường nhựt của bất cứ người nào trên thế gian, không quan hệ với bất cứ sắc tộc, văn hóa, phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng nào.  Nói một cách khác: Ăn mặn có nghĩa là ăn tất cả các loại thực phẩm có thể ăn được, trên trái đất này, bao gồm thịt động vật, trứng, sữa, và các loại thực vật, rau cải trái cây.
Ăn chay là từ ngữ có nhiều nghĩa khác nhau, tùy theo địa phương, phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng. Có nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn thịt heo, hay cữ thịt bò. Có nơi, ăn chay có nghĩa là: không ăn các loại thịt động vật sống trên mặt đất, nhưng có thể ăn các loại thịt sinh vật sống ở dưới nước.  Theo đạo Phật, nói một cách đơn giản, ăn chay có nghĩa là: ăn tất cả các thức ăn, thực phẩm không có liên quan đến mạng sống của chúng sinh.  Nhiều người hiểu lầm chữ ăn chay là ăn trai. Ăn trai là bửa ăn theo giờ giấc. Thí dụ: ngọ trai là bửa ăn theo giờ ngọ, trai đường là nơi dùng các bửa ăn theo giờ giấc qui định, không ăn phi thời.  Nói chung, ăn chay có hai lý do chính: Một là, vì lý do phong tục, tập quán, hay tín ngưỡng; hai là, vì lý do sức khỏe.
Theo các nhà dinh dưỡng học, muốn có một cuộc sống đầy đủ sức khỏe, muốn có đủ năng lực hoạt động trong cuộc đời, chúng ta phải lưu tâm đến việc ăn uống điều độ, và đầy đủ chất dinh dưỡng. Sách có câu: "Tinh thần minh mẩn trong thân thể tráng kiện". Chúng ta thường được chỉ dẫn, nên theo một chế độ ăn uống thích hợp, với bao nhiêu phân lượng chất đạm, chất xơ, chất bột, chất béo, chất ngọt, chất khoáng, chất vôi, chất sắt, chất nước, và các loại sinh tố, trong một ngày, để cơ thể có đủ năng lượng hoạt động, một cách tốt đẹp, và sống lâu trăm tuổi, một cách khỏe mạnh.
Theo các báo cáo khoa học, rau cải, ngũ cốc, hoa quả, thực vật, cũng đầy đủ chất dinh dưỡng cho sức khỏe, cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngày, trong đời sống của con người. Các người ăn chay vẫn sống khỏe sống thọ, không khác những người ăn mặn. Trong số các thú vật, như con voi, con tê giác, con trâu, con bò, con ngựa, là những con thú ăn thực vật, thảo mộc, nhưng rất khỏe mạnh, không khác các loài thú ăn thịt, như sư tử, cọp, gấu, beo.  Ăn chay có ích lợi cho sức khỏe, như dễ tiêu hóa hơn, ít gây bệnh tật hơn.  Trên thế giới ngày nay, tây phương cũng như đông phương, số người ăn chay vì lý do sức khỏe, theo khuyến khích của giới y sĩ, ngày càng nhiều hơn, và số người ăn chay vì lý do tín ngưỡng, cũng gia tăng nhiều hơn.  Những người ăn chay, vì lý do sức khỏe, cũng như lý do tâm linh, thường hiền lành hơn, ít náo động hơn, tâm tánh dễ dãi hơn, nhưng vẫn sinh hoạt bình thường, như bao nhiêu người khác. Những người chung quanh thường cảm thấy an tâm hơn, khi sống gần gũi người ăn chay hiền lành.  Những con thú chỉ ăn thực vật thảo mộc, không bao giờ sát hại các sinh vật khác, không gây sợ hãi cho các loài vật sống gần bên.
Ăn chay thuộc phần tu tướng, bên ngoài.  Nếu những người phát tâm ăn chay, vì lòng từ bi, không cứ phải là người theo đạo Phật, thường cảm thấy an vui lợi lạc, và nhẹ nhàng hơn, dễ cảm thông với các loài sinh vật khác, và yêu mến thiên nhiên hơn, cảm nhận được vũ trụ vạn vật đều đồng nhứt thể.  Đó là phần tu tâm, bên trong.  Tu theo đạo Phật cần hội đủ hai phần: tu tướng và tu tâm.
Tại sao chúng ta nên ăn chay?  Người tu theo đạo Phật có nhất định ăn chay hay không?
Như trên chúng ta đã biết, ngoài những ích lợi về phương diện sức khỏe thể chất, ăn chay trong đạo Phật còn có những ích lợi về phương diện tâm linh, mục đích cốt yếu là: "Tránh nghiệp sát sinh và trưởng dưỡng tâm từ bi".  Người tự nguyện phát tâm ăn chay vì tâm từ bi vô lượng, coi muôn loài như bản thân mình, không thích giết hại một sinh vật nào, không muốn nhìn thấy một sinh vật nào đau khổ, để thỏa mãn dục vọng của con người.  Ăn chay còn tạo phước, vì nhờ đó giúp cho các sinh vật thoát khỏi cảnh cá chậu chim lồng, sống bị giam cầm khốn khổ, đầy đọa trong địa ngục trần gian, chờ ngày giờ chết đớn đau. Lòng từ bi của những người ăn chay, biết thương yêu loài người, lan rộng đến các loài sinh vật. Họ hiểu biết rằng các loài sinh vật đều ham sống sợ chết, đều bình đẳng trước sự đau khổ, khi bị sát hại, cũng như loài người, không khác. 
Không phải ăn chay, may ra thành Phật! Hoặc là ăn chay, với tâm mong cầu: được sống khỏe hơn, tuổi thọ lâu hơn, được lên thiên đàng, hưởng phước đời đời, mời về cực lạc, đạt được ước mơ!  Tại sao như vậy? Bởi vì nên biết: con trâu con bò, con lừa con ngựa, chỉ vì nghiệp báo, cũng là ăn chay, chỉ biết ăn cỏ, không ăn thịt được, thế nhưng đời sống, khốn khổ khốn nạn, biết là bao nhiêu!  Càng không phải là: cố gắng ăn chay, tính hay khoe khoang, khắp cả xóm làng, mang lòng kiêu ngạo, tạo bao khẩu nghiệp, rủa xả dè bỉu, phỉ báng tàn mạt, những người chưa biết, tại sao ăn chay, hoặc là những người, chưa thể ăn chay, bởi nhiều lý do. Cũng không phải là: ăn chay cầu danh, muốn được mọi người, tán thưởng khen ngợi. Người ăn chay trường, khinh người chay kỳ, người ăn chay kỳ, khi người không chay.
Tâm của những người như vậy chưa thanh tịnh, còn quá loạn động, lăng xăng lộn xộn, còn thích hơn thua, mua danh kiếm tiếng, khiến người không ưa, ngay trong đồng đạo, đồng môn đồng bào, cả với đồng loại, thử hỏi làm sao, có thể gặp Phật, có thể thành Phật?  Con người đến với đạo Phật vì Chánh pháp vi diệu thậm thâm là người có trí tuệ.  Chánh pháp có thể giúp đỡ con người giác ngộ, thoát ly sanh tử luân hồi, thanh tịnh hóa tâm trí, thân an tâm lạc, đạt được cuộc sống an lạc và hạnh phúc hiện đời, chứ không phải đạo Phật đơn thuần chỉ là đạo ăn chay.
Trong Kinh Pháp Bảo Ðàn, Lục Tổ Huệ Năng có dạy: "Muốn học đạo Vô Thượng Bồ Ðề, chẳng nên khinh dể hàng sơ học.  Có kẻ dưới bực thấp mà thường phát sinh trí tuệ rất cao, cũng có người trên bực cao mà thường chôn lấp lý trí của mình. Nếu khinh dể người, ắt có tội vô lượng vô biên".  Trên thế gian này, không ai hơn ai cả! Tất cả mọi người với chư Phật bình đẳng, không khác, con người chỉ khác ở chỗ mê ngộ không đồng, nghiệp báo khác nhau, cho nên hình tướng bên ngoài của con người khác nhau.  Ðây chính là ý nghĩa của lời Ðức Phật dạy trong Kinh Hoa Nghiêm: "Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh".  Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh, còn gọi là  tánh giác.  Kinh sách thường dạy: Phật và chúng sanh tánh thường rỗng lặng, chính là nghĩa như vậy.  Người nào có tâm cố chấp, bất cứ thứ gì xảy đến, đều gây phiền não khổ đau.  Khi nào họ thức tỉnh, xả bỏ tâm cố chấp, tức nhiên được giác ngộ, giải thoát khỏi những phiền não khổ đau, sống được trong cảnh giới an lạc và hạnh phúc, mặc dù cảnh đời vẫn tiếp tục còn nhiều bất trắc, sóng gió, và thăng trầm.
Có người ăn chay, thường hay đối xử, với người chung quanh, gần như vợ chồng, ông bà cha mẹ, anh em con cháu, xa hơn một chút, hàng xóm láng giềng, đồng nghiệp đồng môn, nói chung đồng loại, nhân loại loài người, một câu lỡ lời, thì họ nhứt định, không chịu bỏ qua, thứ tha lỗi người. Họ rất sẵn sàng, thưa gửi kiện tụng, vu khống cáo gian, đặt điều thêm bớt, bới bèo ra bọ, vạch lá tìm sâu, làm cho người khác, te tua tơi tả, tan tành hoa lá, khốn khổ khốn nạn, họ mới thỏa mãn, hả dạ hài lòng, mới thiệt vừa ý!  Một câu nói của họ đủ khiến cho người khác chóng mặt nhức đầu, xức dầu cù là, hoặc là cạo gió, ngất xỉu hụt hơi, có người hết thở, bị đuổi sở làm!  Họ rất sẵn sàng, loại bỏ đồng môn, khai trừ đồng đạo, ám hại đồng bào, cào nhà đồng nghiệp, chỉ vì đồng tiền, liền bên núm ruột!



Thực vậy, vì con người không có tâm từ bi thực sự, trong đạo cũng như ngoài đời, miệng thì nói tiếng nam mô, trong lòng chứa cả một bồ dao găm, con người còn ám hại con người, con người còn ganh tỵ đố kị con người, con người còn muốn thấy người khác đọa địa ngục, vì không cùng tôn giáo, không cùng môn phái, không cùng pháp tu, không đồng quan điểm, vấn đề nào đó, thử hỏi làm sao, có thể ban vui, cứu khổ muôn loài!  Thói thường trên đời, trong đạo không khác, kẻ mạnh hiếp yếu, người có thế lực, chèn người cô thế, kẻ giàu tiền của, đàn áp các người, nghèo khó khốn cùng, cá lớn nuốt bé, lấy thịt đè người, cười người sơ cơ, nằm mơ cực lạc, xuyên tạc người hiền, làm tiền đồng đạo, người vào tu trước, không rước người sau, thử hỏi làm sao, ở thế gian này, trong đạo ngoài đời, có được hòa bình, an vui lợi lạc!
Trong đạo Phật, nói chung, có hai hệ phái: hệ phái nguyên thủy và hệ phái phát triển. Hệ phái nguyên thủy, còn gọi là nam tông, chủ trương giữ y nguyên truyền thống Phật giáo, từ thời nguyên thủy, cho nên quý sư là các vị khất sĩ, mang bình bát đi khất thực, thiên hạ bố thí cúng dường vật thực gì, các ngài dùng như vậy, không chọn lựa. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Ðó là hệ phái truyền từ miền nam nước Ấn Ðộ, sang Tích Lan, Thái Lan, Miến Ðiện, Ai Lao, Cao Miên. Phật giáo ở các quốc gia này đều là quốc giáo.
Hệ phái phát triển, còn gọi là bắc tông, truyền từ miền bắc nước Ấn Ðộ, sang Tây Tạng, Trung Hoa, Việt Nam, Triều Tiên và Nhựt Bổn. Khi Phật giáo du nhập vào các quốc gia này, tùy thuận văn hóa sở tại, nên dễ dàng hội nhập một cách hòa bình, và phát triển một cách nhanh chóng trong lòng các dân tộc đó, biến thành Phật giáo địa phương, đem lại an lạc và hạnh phúc cho người dân bản xứ. Chẳng hạn như: Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Nhựt Bổn, đều có những nét đặc thù, riêng của từng nơi.  Ở các quốc gia này, chỉ trừ Việt Nam có cả hai hệ phái cùng du nhập vào, chư Tăng Ni không đi khất thực, trụ xứ tại một tu viện, hay một ngôi chùa, tự lo việc ăn uống. Cho nên các ngài ăn chay, chỉ nhận cúng dường và dùng các thức ăn, không có liên quan đến mạng sống của các sinh vật. Các ngài vẫn khỏe mạnh, tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo.
Ðiều đó chứng tỏ rằng, vấn đề ăn uống nói chung, ăn chay hay ăn mặn nói riêng, không phải thực sự là vấn đề tối quan trọng trong đạo Phật, cũng không phải là vấn đề trực tiếp liên quan đến sự tinh tấn tu hành, và đạt đạo chứng đạo. Ðiều quan trọng trong đạo Phật chính là: Tâm trí có dính mắc hay không dính mắc cảnh trần.  Nếu tâm không dính mắc, chính là tâm thanh tịnh vậy.  Chư Tổ có dạy: "Ðối cảnh vô tâm, mạc vấn thiền".  Nghĩa là: Con người sống trên đời, mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý, thường xuyên tiếp xúc với các hình ảnh, âm thinh, mùi hương, mùi vị, xúc chạm và ký ức.  Khi con người tiếp xúc với các trần cảnh như vậy, dính mắc tức là: khởi tâm niệm thương hay ghét, khởi tâm niệm ưa thích hay tức giận, khởi tâm niệm khen hay chê, đều gọi là loạn tâm, là vọng tâm.  Không khởi các tâm niệm phân biệt như vậy, gọi là định tâm, hay tâm thiền định.  Tức là: Khi đối trước các cảnh trên trần đời, người nào không khởi tâm niệm lăng xăng lộn xộn, gọi là vô tâm, thì chính người đó sống trong cảnh giới thiền định. Ðây là cốt tủy, là mục đích cứu kính của đạo Phật vậy.
Là những người hướng dẫn hàng Phật Tử tại gia, chư vị Tôn Ðức Tăng Ni giữ gìn giới luật một cách nghiêm ngặt, tránh phạm sát giới, không muốn sát sinh, nên phải ăn chay, tuyệt đối không dùng các thức ăn có liên quan đến mạng sống của các sinh vật, để trưởng dưỡng tâm từ bi.  Tâm từ bi là điều kiện hàng đầu của người tiến tu theo đạo Phật.  Làm tổn hại mạng sống của chúng sinh, làm tổn hại an ninh hạnh phúc của người khác, làm tổn hại thanh danh của người khác, tức làm tổn hại tâm từ bi của chính mình.
Trong cuộc sống hằng ngày, người Phật Tử tại gia hay xuất gia luôn luôn nhớ thực hành hạnh từ bi, bình đẳng và lợi tha, trong mỗi hành động, lời nói và ý nghĩ.  Cổ nhân có nói: "Nhứt thiết chúng sinh vô sát nghiệp, hà sầu thế giới động đao binh". Nghĩa là: Nếu tất cả chúng sinh không sát hại lẫn nhau, thì lo gì thế giới có chiến tranh.
Còn đối với hàng Phật Tử tại gia, người nào phát tâm ăn chay trường được, thì thực là đáng quý, đáng trân trọng.  Ðó là nhân duyên tốt để tiến tu trên đường đạo, rất đáng khuyến khích. Tuy nhiên, đối với những người, không ăn chay trường, lý do hoàn cảnh, lý do sức khỏe, cũng đừng cố chấp, hấp tấp gây thêm, rắc rối lung tung, ở trong gia đạo, có thể ăn chay, vài ngày trong tháng, với mục đích là: nhắc nhở chính mình, phải luôn luôn nhớ, những lời Phật dạy, áp dụng hằng ngày, tu tâm dưỡng tánh, cũng thực rất tốt. 
Tự nhắc nhở mình: tu là phải hiền, phải có từ bi, đối với tất cả, mọi loài chúng sinh, bắt đầu loài người, cho đến loài vật, từ người thân cận, đến người phương xa, mới là phải đạo.
Người nào chưa thể ăn chay được theo nghĩa đen, vì lý do sức khỏe, vì lý do hoàn cảnh, hay vì bất cứ lý do nào, có thể "ăn chay" bằng cách giữ gìn ba nghiệp (thân khẩu ý) thanh tịnh.  Nghĩa là: thân không sát sinh, không trộm cướp, không tà dâm, miệng không nói dối, không nói lời dua nịnh, không đâm bị thóc thọc bị gạo, không nói lời thô tục độc ác, xuyên tạc ngụy biện, xiên xỏ xỏ xiên, tranh cãi liên miên, lợi mình hại người, khen mình khinh người, ý không nghĩ cách vu oan giá họa, không lập mưu thưa gửi kiện tụng người, để kiếm tiền bồi thường, không tham tiền bất chánh bất nhân, không tức giận thù oán người, không chứa chấp lòng ganh tị đố kỵ người khác. Nói chung, không ăn chay được bằng phương tiện vật chất, người Phật Tử tại gia nên cố gắng, giữ gìn thân khẩu ý, cho được thanh tịnh, trong bất cứ thời điểm nào, tại bất cứ nơi đâu. Ðó chính là tu tâm dưỡng tánh vậy.
* * *
 

Tóm lại, mục đích cứu kính của đạo Phật, không phải chỉ là những buổi lễ cầu an, cầu siêu, cầu đoàn tụ, cầu đủ thứ chuyện trên trần đời.  Cũng không phải chỉ là những hình thức bên ngoài như: đi chùa lễ Phật, hái lộc đầu xuân, lập chùa thiệt to, lo pho tượng lớn.  Chẳng hiểu nghĩa gì, bởi không tìm học, tìm đọc Chánh pháp, dù ở trong chùa, vài ba chục năm, tăng thêm chấp ngã, chấp pháp mà thôi.  Tất cả những sự tướng kể trên, không phải là không cần thiết, không phải là không nên làm, không phải là vô bổ vô ích, một cách hoàn toàn. Nhưng, như vậy vẫn chưa phải là đủ, chưa phải là cứu cánh, chưa phải là cốt tủy của đạo Phật.  Ðó chỉ là cái vỏ bên ngoài, là vòng rào bên ngoài, khi mới đến với đạo Phật.  Những người thờ Phật, đi chùa nhiều năm, hoặc ở trong chùa, cam tâm dừng lại, hình thức bên ngoài, không học hỏi thêm, như vậy thỏa mãn, cho là đủ rồi, thiệt là đáng tiếc!
Mục đích cứu kính, của chính đạo Phật:  giác ngộ giải thoát.  Con người cần giác ngộ điều gì?  Theo giáo lý đạo Phật, con người cần giác ngộ: cuộc đời là vô thường, luôn luôn biến đổi, tâm tánh là vô thường, nay vầy mai khác, tấm thân là giả tạm, nay còn mai mất.  Hiểu biết và hành thâm luật nhân quả có thể gìn giữ bản tâm thanh tịnh.  Bản tâm thanh tịnh giúp con người giải thoát khỏi phiền não khổ đau và sinh tử luân hồi.
Cổ nhân có dạy: "Ăn để mà sống chứ không phải sống để mà ăn".  Do đó nhân dịp, năm hết tết đến, ngoài chuyện ăn uống, ăn chay hay mặn, để giữ mạng sống, bồi dưỡng sức khỏe, chúng ta còn nhiều, chuyện khác để làm, đó là tu tâm, đó là dưỡng tánh, đem lại ích lợi, cho người cho đời, cho chính bản thân.  Kính chúc chư vị, trọn một năm mới: an lạc hạnh phúc, giác ngộ giải thoát.


 Đạo Phật có dạy rằng:

1. Con người có 2 phần (ngũ uẩn):
Ngoài xác thân tứ đại phàm tục (sắc), còn có phần tâm linh (thọ, tưởng, hành, thức).
Phần xác thân (tứ đại) khi hết phước (tận số) thì chết đi, đem chôn, hay thiêu - không ai đem xác thối lên trời!
Con người không cần bận tâm đến cái xác chết, của mình hay của thân nhân, không nên phiền não với mấy cái hủ tro từ nhà quàn - chưa chắc là tro thiệt từ thân xác của thân nhân quá vãng. Quan trọng mấy cái vật chất đó, chỉ làm khổ người thân còn sống, phải đem xác chôn chỗ này, đem tro rãi chỗ kia. Đó chảng qua do tập quán, tín ngưỡng lâu đời của thế gian, và cũng chính do bản ngã (EGO) của của con người, làm khổ con người mà thôi. Cho nên, đạo Phật chủ trương “Vô Ngã, Vị Tha”. Thầy sẽ giải thích thêm khi đủ thiện duyên qua đề tài: Ngũ Táng (Địa táng, Điểu Táng, Hỏa Táng, Thủy Táng, và Thạch Táng). Tốt nhất là hiến xác cho khoa học sau khi chết, hợp tình hợp lý, hợp tâm nguyện vô ngã vị tha, có lợi ích đôi phần. Người chết thực hành hạnh bố thí (nội tài). Người sống hưởng thành quả khoa học, thuốc men, giải phẩu qua ngành y dược. Đừng nghe mấy vị sư Tàu (tào lao) tuyên truyền tâm ích kỷ rằng, hiến xác thì không được vãng sanh? Kinh điển nào dạy như vậy, ngoài mấy vị sư tào lao hiện nay?

2. Tâm Linh lại có 2 phần: thật và giả.

2.1. Phần tâm giả là tâm tham lam, giận dữ, ngu si, mà con người thường sống hàng ngày.
Phần tâm giả này khi có khi không, khi sanh khi diệt, khi khởi lên khi biến mất. Cho nên con người thay đổi tâm tính thường xuyên (vô thường) khi đắc thế khi thất bại (lợi/suy), khi thương khi ghét, khi thích khi chê, khi tán dương khi chửi bới (xưng/ cơ hay hủy/ dự), khi vui khi buồn (khổ/lạc).
Phần tâm giả (vọng tâm) này lẫy lừng, mạnh mẽ vô cùng, chính là động cơ (nghiệp lực) dẫn dắt con người sống đời khổ đau, luân hồi kiếp này đến kiếp sau, và muôn kiếp sau nữa.
           
2.2. Bởi thế cho nên, cốt tủy của đạo Phật là phải tìm cho ra (giác ngộ) phần tâm thật (chân tâm).
Những hình thức cúng kiến, cầu an cầu siêu, các nghi lễ rườm rà trai đàn bạt độ, trong khắp các chùa, chỉ là hình thức của một tôn giáo để mọi người tìm đến, cần thiết nhưng không thật, giả đó.
Tham dự xong rồi, con người thông minh phải phát tâm học đạo như ĐH Lệ Hằng hiện nay.

Khi tâm con người không còn vọng động, không còn lăng xăng lộn xộn, không còn mong điều này,
không còn muốn điều kia, thì chân tâm (tâm thật) hiển lộ. Khi chân tâm hiển lộ, đời sống con người bớt phiền não khổ đau.

Cũng ví như mặt biển sóng to khi có gió lớn (tâm con người giận dữ khi gặp chuyện bất như ý)
nhưng khi hết sóng to gió lớn, thì mặt biển trở nên thanh bình, phẳng lặng,
có thể trông xa, thấy rộng bốn phương, đến tận chân trời góc biển.

Các tôn tượng của chư Phật đều có con mắt thứ ba, nằm giữa 2 con mắt thường, thường tượng trưng bằng chấm đỏ, hay viên ngọc quí. Con mắt thứ ba này gọi là con mắt thông minh trí tuệ (tuệ nhãn). Tuệ nhãn chỉ có được khi tâm con người không còn vọng động, không còn những chuyện tham sân si, không còn loạn động với cảnh trần hàng ngày, duy nhất, tâm chỉ còn trạng thái phẳng lặng, tịch tịnh, gọi là nhất tâm bất động, hay nhất tâm bất loạn.

Tùy theo tâm con người dẹp được, bớt được bao nhiêu tham sân si vọng tâm, thì trí sáng chân tâm (hay tuệ nhãn) hiển lộ bấy nhiêu. Ví như mây đen (vọng tâm, phiền não) tan biến bao nhiêu, thì mặt trời (tuệ nhãn hay chân tâm) hiển lộ ánh sáng bấy nhiêu. Tất cả đều do công phu tu tập của mỗi cá nhân, theo từng thời gian ngắn hay dài, mau hay lâu.
Cho đến khi vọng tâm hoàn toàn biến mất, chân tâm hoàn toàn hiển lộ, thì con người hoàn toàn giác ngộ và giải thoát, không còn sanh tử luân hồi, gọi là đắc đạo. Đây chính là cốt tủy của đạo Phật.

Muốn thành công, đạt được mục tiêu nầy (đáo bỉ ngạn) con người phải nổ lực hàng ngày, không phải dễ dàng trong vài tháng, hay vài năm, nhưng cũng không phải không ai đạt được đâu. Trong lịch sử các nước, nhiều vị chân tu thực học đạt được cảnh giới này, không phân biệt tại gia hay xuất gia, không cần phải tu ở trong chùa, không phải là đệ tử của vị nầy hay của môn phái nọ. Nhưng các vị không ai nói ra, các vị chỉ tu hành và dẫn dắt người hữu duyên tu hành. Người nào nói rằng họ đạt được như vậy, như vậy, nhờ pháp này hay pháp kia, toàn là những người muốn tự tôn làm lãnh tụ, muốn tự đánh bóng để được tôn sùng, gạt gẫm mọi người, không ngoài mục đích danh và lợi mà thôi.
Những chuyện vu vơ khác, xin miễn bàn để khỏi bị loạn tâm trong thế giới đảo điên xưa nay.

Thầy mong rằng những điều giải thích trên đây giúp cho ĐH Lệ Hằng hiểu được chánh pháp và Thầy mong ĐH Lệ Hằng đọc phần sau đây về ý nghĩa của sự cầu nguyện, rất bổ ích, để suy nghiệm thêm.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật.
Kính thư,
VP.PHTQ.CANADA


Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN  
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

Trong các buổi lễ, Chư Tôn Đức cầu nguyện gì?
Trong các buổi lễ, Chư Phật Tử cầu nguyện gì?

Nghi lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo. Phật giáo dù không coi trọng, nhưng nghi lễ vẫn chi phối phần lớn các sinh hoạt Phật sự, đôi khi còn là hoạt động chính của một ngôi chùa, để đáp ứng nhu cầu của quần chúng và nhu cầu hoằng pháp.

Đối với cá nhân, khi lâm vào hoàn cảnh bức bách, khổ đau, bất trắc, bất như ý, con người thường cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, tìm sự bình yên trong tâm hồn qua cầu nguyện.

Lời cầu nguyện này chỉ giúp tâm trí được bình yên tạm thời. Nếu con người có học hiểu giáo lý của đạo Phật, thâm hiểu luật nhân quả, biết rằng: mọi chuyện gì xảy đến cho mình, đều do chính mình đã tạo nghiệp nhân trước đây, giờ phải nhận nghiệp quả, nghiệp báo (gọi chung là quả báo).

Việc may mắn đến, mình biết ngay rằng: đó là phước báo, do việc thiện lành chính mình đã làm.
Việc không may xảy đến, mình biết ngay rằng: đó là quả báo, do việc bất thiện chính mình đã làm.

Theo chánh pháp, nên biết rằng: chỉ có phước báo mới làm giảm bớt hay tiêu trừ quả báo mà thôi!

Cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, mà không tu nhân tích phước, không tu tâm dưỡng tánh, không dừng các nghiệp bất thiện, phỏng có được gì ?

Thí dụ chúng ta lỡ mượn nợ tiêu xài rồi (tạo nghiệp), bây giờ phải đền trả (gặp xui xẻo), chỉ có cách lấy tiền tiết kiệm (phước báo). Không có tiền tiết kiệm thì phải cầu nguyện trúng số để trả nợ chăng ?!
Người có phước báo nhiều, dù gặp tai nạn lớn lao như rớt máy bay, động đất, vẫn sống sót, gọi là số may mắn quá. Người có phước báo ít hơn, phải chịu thương tích hay xây xát chút đỉnh, gọi là còn hên quá. Người không có phước báo thì lãnh đủ quả báo.

Thời đức Phật còn tại thế, khi chư vị thánh tăng phải đền trả các nghiệp báo cuối cùng, đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú, như sau:

Dù lánh lên non núi,
xuống biển hay vào hang
khi nghiệp báo đã mang
không ai tránh thoát khỏi.

Theo quan niệm Phật giáo, cầu nguyện không phải van xin đức Phật, Bồ tát, thần thánh, hay năng lực linh thiêng huyền bí nào cả.

Cầu nguyện là tập trung tâm trí, nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trở nên thanh tịnh. 
Cầu nguyện là một cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người.
Cầu nguyện vì thế chính là phương pháp quán chiếu, nhìn lại con người thật của mình, quan sát tâm tình, trừ khử tà kiến mê tín,  khát vọng phàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu đuối. 

Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp thiền định, quán chiếu tự tâm.

- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.
- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, phi chánh pháp, không từ bi & trí tuệ.

- Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có. Không tu hành cầu vãng sanh. Không học hành cầu đỗ đạt. Các bên thù nghịch cầu nguyện đối phương biến mất. Trái đất chỉ còn thú vật, đất đá, cây cỏ! Thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp là như vậy đó!

- Trong chiến tranh thế giới 1 và 2, hai phe lâm chiến đều làm lễ cầu nguyện long trọng, xin Thượng đế giúp phe mình chiến thắng đối phương. Thượng đế bèn nghe theo lời cầu nguyện này, nên hai phe đều tả tơi thê thảm. Đó là thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!

- Đạo Phật trải qua nhiều năm tháng truyền bá xuyên qua nhiều quốc độ, nên mang cái vỏ mê tín của tôn giáo, và lập ra nhiều nghi thức, lễ hội, để tiếp cận với quảng đại quần chúng đang sống trong vô minh. Giáo lý đạo Phật rất siêu việt, nhiệm mầu khi áp dụng trong đời sống, không buộc ai phải thờ lạy, cúng kiến đức Phật với tâm cầu khẩn van xin, vòi vĩnh như đứa bé thơ.
Trái lại, đức Phật dạy: Tôn thờ Như Lai mà không hiểu Như Lai, chính là phỉ báng Như Lai vậy.

- Ngày nay, người theo đạo Phật, tu sĩ cũng như cư sĩ, nhân danh phát huy tín tâm của Phật tử, bày ra đủ thứ nghi lễ rườm rà, phức tạp, tạo vẻ linh thiêng huyền bí, giải thích hiện tượng thiên nhiên phi chánh pháp, đem kinh sách chữ nghĩa hù dọa những người ít hiểu biết, không thuyết giảng chánh pháp, lại tuyên truyền tà pháp. Chẳng hạn như: người ngồi xe lăn, chỉ nhờ tín tâm với tượng Phật ngọc mà phục hồi, đi đứng bình thường!

- Tóm lại, người Phật tử dù tại gia hay xuất gia, có chút phước báu, có chút trí tuệ, ngoài tín tâm ban đầu qua các hình thức lễ hội, sinh hoạt Phật giáo, nên phát tâm tìm hiểu cốt tủy của lời Phật dạy, hướng tín tâm đến chỗ chánh tín. Không nên tiếp tục để các tà sư - mang hình tướng xuất gia hay tại gia - hướng dẫn tín tâm ban đầu đến chỗ mê tín.

Từ mê tín đến cuồng tín, chỉ cách một sợi tơ !
Mong lắm thay ! ! !
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ Nhiệm PHTQ.CANADA


Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí

TKN Thích Nữ Chân Liễu

Mỗi năm Tết đến, nơi nơi hân hoan đón mừng xuân mới, chúc nhau an lành và hạnh phúc. Mùa xuân trở về mang niềm vui đến cho mọi người trên thế gian, trong đó có những người con Phật. Chuông trống Bát Nhã thâm trầm vang lên trong các chùa, mang âm hưởng tỉnh thức cho phút giây đón mừng năm mới. Phút nhập từ bi quán như nhắc nhở tâm từ bi của chư Bồ Tát gởi đến muôn loài và lời cầu nguyện quốc thái dân an, thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc. Mùi hương trầm lan tỏa, như hương xuân cúng dường mười phương chư Phật nhân dịp đầu năm. Nụ cười từ bi của Ðức Phật luôn luôn hiện hữu, tạo cho đạo tràng một không khí ấm áp đầy đạo vị, mặc dù ngoài kia mùa đông Canada, tuyết đang rơi lạnh buốt người.

Quán Thế Âm Bồ Tát Phổ Môn Phẩm, trong Kinh Diệu Pháp Liên Hoa, gọi ngắn là Kinh Pháp Hoa, Chư Tôn Ðức Tăng Ni hướng dẫn Phật tử đọc tụng vào dịp đầu năm, là cầu mong tứ chúng vui xuân an lành trọn vẹn và được nhiều hạnh phúc trong năm mới.

Trong phẩm Phổ Môn, có đoạn:

“Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì thương xót hàng tứ chúng cùng Trời Rồng, Dạ xoa, Càn thát bà, A tu la, Ca lâu la, Khẩn na la, Ma hầu la già, người và không phải người. Liền khi đó, Bồ Tát Quán Thế Âm chia Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí làm hai phần: một phần dâng Đức Phật Thích Ca, một phần dâng Đức Phật Ða Bảo”.

Quán Thế Âm nghĩa là quán sát âm thanh từ thế gian phiền não, chuyển hóa thành ý thức lắng nghe mầu nhiệm nơi tâm giác ngộ, để tùy duyên cứu độ nhân gian. Nếu hiểu được ý nghĩa vô cùng thậm thâm vi diệu của Phẩm Phổ Môn và hạnh nguyện từ bi cao thượng của Bồ Tát Quán Thế Âm, con người sẽ không rơi vào tà kiến si mê và khai mở trí tuệ bát nhã. Với trí tuệ bát nhã, người phát tâm tu hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm hằng sống với lục độ ba la mật, và luôn giữ tâm trong bát chánh đạo, ví như những chuỗi hạt châu ngọc quí giá chiếu sáng nối kết nhau không rời, cho đến khi giác ngộ viên mãn.

* Lục độ ba la mật gồm có:
-       Bố thí là dùng vật chất, chánh pháp giúp đỡ và an ủi người.
-       Trì giới là giữ giới thanh tịnh trong mọi ý nghĩ lời nói và hành động .
-       Nhẫn nhục là kham nhẫn và cam chịu dù bị khinh khi hoặc gặp khó khăn.
-       Tinh tấn là cố gắng vượt mọi thử thách, giữ tâm chí vững bền.
-       Thiền định là tâm an nhiên tự tại, không não loạn trong mọi hoàn cảnh.
-       Trí tuệ là nhận thức sáng suốt đưa đến giác ngộ, không còn si mê.

*Bát chánh đạo gồm có:
-   Chánh kiến là kiến thức thấy biết đúng, hiểu rõ vô thường, nhân quả.
-   Chánh tư duy là sự suy nghĩ chân chánh, không trái với chân lý và lẽ phải.
-   Chánh ngữ là lời nói chân chánh, không nói những lời thô ác, dối gạt.
-   Chánh nghiệp là hành vi chân thật, không làm những việc ác nghiệp.
-   Chánh mạng là nếp sống chân chánh, không làm những nghề bất thiện.
-   Chánh tinh tấn là tâm chuyên cần trì giới, tu hành, không lười mỏi.
-   Chánh niệm là tâm hiểu rõ việc đang nghĩ, đang nói và đang làm.
-   Chánh định là tâm bình tĩnh thản nhiên, không còn si mê loạn động.

Bồ Tát Quán Thế Âm nhận Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí của Bồ Tát Vô Tận Ý cúng dường, vì lợi lạc của chúng sinh, và đem cúng dường Ðức Phật Thích Ca, nghĩa là cúng dường Giáo Pháp giải thoát tối thượng; và cúng dường Đức Phật Ða Bảo, nghĩa là cúng dường Phật Tánh thanh tịnh sáng suốt.
                                             


Cúng dường Ðức Pht Thích Ca:

Ðức Phật Thích Ca là một vị Phật lịch sử. Giáo lý của Ngài trong sáng như vầng nhật nguyệt, giúp cho người tu theo hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm, kinh Pháp Hoa, còn gọi là Hành Giả Pháp Hoa, giác ngộ tri kiến Phật. Ngài chỉ dạy vô vàn pháp môn tự giải thoát sự trói buộc của phiền não, tự giác ngộ chân lý vượt trên mọi tín ngưỡng dân gian. Phần nhiều mọi sự khổ não xuất phát từ tâm tham sân si, tâm tưởng tượng cố chấp, hay tâm lo buồn sợ hãi. Con người thường hay lo lắng, buồn rầu, sợ nghèo, sợ đói, sợ khát, sợ bịnh, sợ già, sợ chết, sanh ly tử biệt. Tưởng tượng, cố chấp, lo sợ càng nhiều, thì dễ sanh tâm sân hận, hung ác, việc tội lỗi gì cũng dám làm. Người tu theo Phật muốn giải thoát sự khổ não trong cuộc đời, nên phát tâm hành trì tinh tấn giáo pháp của Đức Phật giảng dạy, sống trong bát chánh đạo, trí tuệ khai mở, thấu hiểu được chân lý nhân quả. Con người sẽ hưởng được pháp vị an lạc vô biên.

      Tham ái sanh ưu tư                   
      Tham ái sanh sợ hãi                  
      Ai giải thoát tham ái                   
      Không ưu, không sợ hãi.
            (Kinh Pháp Cú)    

      Tâm từ thắng nóng giận
      Tâm thiện thắng ác hung
      Tâm thí thắng tham lam
      Tâm chơn thắng dối trá.
            (Kinh Pháp Cú)

Hành Giả Pháp Hoa thực hành tự lợi và lợi tha, luôn luôn hành trì lục độ ba la mật, với lòng từ bi chân thật vì lợi ích chúng sinh mới có thể xả thân cứu độ tha nhân, còn gọi là “vô ngã vị tha”, hay “quên mình vì người”. Tâm hạnh Bồ Tát đạo ví như trân bảo quí giá hiếm có, cũng là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí cúng dường Đức Phật Thích Ca thù thắng nhất.

Cúng dường Đức Pht Ða Bảo:

Ðức Phật bên trong Tháp Ða Bảo hiện ra trên hư không, chính là hình ảnh tiêu biểu cho tri kiến Phật, cũng là Chân tâm hay Phật tánh, tức là trí tuệ bát nhã tự thân, không dính mắc với chuyện đối đãi, thị phi, nguyên nhân gây nên phiền não khổ đau của thế gian. Do đó, con người muốn được giải thoát  nên phát tâm tu hành hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm. Bồ Tát là tâm từ bi cứu giúp nhân loại, tâm hoan hỷ làm tất cả công đức và phước đức, mà không chấp có công đức và phước đức, đó chính là tâm xả. Bồ Tát không có tâm tự mãn, không có tâm mong đợi sự tán thán ngợi khen, nghĩa là Bồ Tát có tâm phá chấp và vô trụ, tức là “vô ngã vị tha” tuyệt đối.

Ðức Phật dạy: “Phụng sự chúng sanh là cúng dường chư Phật”. Trên thế giới, với tự tánh thiện lành sẵn có, nhiều người tự nguyện đến những nơi chiến nạn, đói nghèo, bịnh tật, thiên tai. Với tâm từ bình đẳng bố thí tài vật và lòng bi mẫn không phân biệt màu da, chủng tộc, tôn giáo, họ dùng bàn tay khéo léo dịu dàng và tài năng sẵn có, xoa dịu nỗi thống khổ cho nhân loại. Chính họ là những người hành theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm, quên mình vì người, nghe theo tiếng kêu cứu khổ đau của thế nhân và hiện thân cứu giúp. Cũng có người tu theo hạnh nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm một cách nghiêm mật, giải bày, giảng nói Chánh Pháp vô ngại, đem ánh sáng trí tuệ Phật Pháp cho mọi người. Đó chính là Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí giá trị hơn trăm nghìn lạng vàng, xứng đáng đem cúng dường Đức Phật Ða Bảo vi diệu vô cùng. 

Bồ Tát Quán Thế Âm là hình ảnh biểu hiện tượng trưng của sự cứu độ giải thoát về mặt tâm linh, thuộc lãnh vực tâm tánh và ý thức của Bồ Tát hạnh, thực hành Bồ Tát đạo. Bồ Tát Quán Thế Âm không phải là một vị thần quyền linh thiêng có thể ban phước hay thỏa mãn hết sự cầu khẩn van xin do mê tín và lòng tham ích kỷ của thế gian như nhiều người tưởng tượng. Thâm nghĩa của hạnh Bồ Tát Quán Thế Âm là sự thanh tịnh cao thượng của tâm từ bi hỷ xả. Mọi người đều tự có khả năng đoạn tận phiền não, phá trừ tâm ô nhiễm của tham sân si và khai mở trí tuệ, phát tâm từ bi hỷ xả lợi tha tuyệt đối, thực hành hạnh nguyện Bồ Tát Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn cho đời.

Hiểu rõ chân lý nhân quả, con người tự làm chủ bản thân từ sự suy nghĩ, đến lời nói, và hành động; sống không ỷ lại sự cứu rỗi, van xin, không còn tâm mong cầu, chờ đợi sự huyền bí linh thiêng hay phép lạ đến từ bên ngoài. Phép lạ chính là sự chuyển hóa nội tâm, chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc. Cầu xin nhiều thất vọng nhiều. Nếu như cầu gì được nấy sẽ tăng trưởng lòng tham lam và ích kỷ. Còn nếu cầu không được gì cả, chính là con đường dẫn đến đau khổ triền miên không lối thoát. Cầu bất đắc thì đương nhiên là khổ! Nếu như không được những gì mong muốn thì hãy vui với những gì đang có, con người ít mong cầu, ít đòi hỏi, thiểu dục tri túc, ít muốn biết đủ, thì thân tâm được an ổn tự tại.                 
      
                                    Ða dục vi khổ
                                    Sanh tử bì lao
                                    Tùng tham dục khởi
                                    Thiểu dục vô vi
                                    Thân tâm tự tại.      
                                                (Kinh Bát Ðại Nhân Giác)
                 
Như lòng cha mẹ thương con, dạy cho con nhân nghĩa, dạy tri thức sống chân chính, chứ không tùy theo ý muốn vô minh dại khờ của con trẻ mà ban cho tất cả; đó là hại chứ không phải thương. Tình thương trong đời cũng cần phải sáng suốt và cân nhắc, lòng từ mẫn của tâm hạnh Bồ Tát thương tất cả chúng sanh không bỏ ai, nhưng chân lý thuộc về nhân quả không thay đổi. Chư Phật và Chư Bồ Tát cứu độ chúng sanh là dạy làm lành tránh dữ, gieo hạt giống từ bi sẽ nhận hoa trái từ bi, tạo hạnh phúc cho người sẽ nhận kết quả hạnh phúc cho mình.

Trì niệm hồng danh của Bồ Tát Quán Thế Âm mang ý nghĩa nhắc nhở chúng sanh trở về trí tuệ sáng suốt giác ngộ của Phật tâm, Phật tánh tự thân. Khi nếm được Hương Vị Phật Pháp, còn gọi là Pháp Vị, con người sẽ mạnh dạn dứt bỏ lòng tham lam sân hận si mê, và dẹp tan được nạn nước lửa, dao gậy, xiềng xích, phá trừ tâm ma và trị tận gốc nghiệp ác. Đó là sự tiêu diệt các nguyên nhân sanh đau khổ triền miên từ trước đến giờ.

. Nạn lửa: Niệm Quán Âm để bỏ lòng sân hận, nóng giận tiêu diệt, lửa tắt.
. Nạn nước cuốn: Niệm Quán Âm để bỏ lòng tham dục, nước tham ái tự khô kiệt.
. Nạn dao gậy: Niệm Quán Âm để bỏ lòng si mê, dao gậy không làm hại được.
. Nạn xiềng xích:  Niệm Quán Âm để bỏ lòng bất chánh, xiềng xích không trói buộc.
. Nạn quỷ la sát: Niệm Quán Âm để bỏ lòng hung ác, ác tâm tự điều phục.

Có câu chuyện đáng suy ngẫm như sau:

Theo thông lệ các chùa mỗi tháng thường tổ chức thọ bát quan trai giới một ngày một đêm, giới tử về tham dự rất đông, có khi không còn chỗ để nghỉ đêm, ngoại trừ phòng thờ linh vị. Không ít lời đồn đãi về chuyện hiển linh, hay linh ứng của các người đã mất, linh vị được thờ trong chùa, vì vậy phòng thờ này vẫn thường trống. Với tâm ích kỷ, tinh thần yếu đuối, con người sẽ dễ bị nhiễu loạn bởi những lời đồn vô căn cứ, sanh tâm sợ sệt vu vơ. Người biết cách tu, khi thọ bát quan trai, với lòng thanh tịnh, khởi tâm từ bi, thương xót tất cả chúng sinh dù ở cảnh giới nào và phát nguyện rằng: “Công đức và phước đức trọn một ngày một đêm thọ bát quan trai hôm nay, xin tâm nguyện hồi hướng cho tất cả pháp giới chúng sinh, cùng chư vong linh ký tự tại chùa, đều được giác ngộ Chánh pháp và trọn thành Phật đạo”. Khi khởi tâm từ bi thanh tịnh, tương ưng với tâm Chư Phật, với tâm niệm Bồ Tát Quán Thế Âm, giới tử thọ bát quan trai không còn tâm ma hay tâm sợ hãi nữa. Tâm thiện sẽ giúp người biết tu có một giấc ngủ thật an lành, dù ở bất cứ nơi đâu, và trong bất cứ cảnh ngộ nào.

Tóm lại, Bồ Tát Quán Thế Âm chính là pháp tu cao quí lợi lạc cho thế gian, tạo phước đức đạo tâm cho người, đem lại ánh sáng giác ngộ chân thật cho chúng hữu tình. Trước giờ phút Ðức Phật Thích Ca chứng đạt toàn giác viên mãn, ma quỉ dạ xoa dùng mọi vũ khí tham ái quyến rũ ngăn cản, nhưng nhờ định lực cao siêu, Ðức Phật an nhiên tự tại tâm không dao động. Hơn nữa, Ngài phát khởi từ bi tâm, thương xót hóa độ, thu phục tâm ma, binh khí biến thành hoa tươi cúng dường và sau đó Đức Phật chứng vô thượng chánh đẳng chánh giác. Lòng tôn kính cúng dường Chư Phật, Chư Bồ Tát không chỉ là vật chất thế gian, mà là giá trị nhân cách ở đời, là tâm từ bi hỷ xả hành đạo, tu hạnh thanh tịnh, tinh tấn trì giới, đạt được trí tuệ bát nhã viên mãn. Đó chính là “Chuỗi Ngọc Trân Bảo Pháp Thí”, “vô ngã vị tha”, “quên mình vì người” cúng dường bình đẳng thập phương chư Phật và chư Bồ Tát một cách cao quí tối thượng nhất. []                                                                                         
             Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật                    
TKN Thích Nữ Chân Liễu
(Toronto, Canada)

CHUỖI NGỌC TRÂN BẢO PHÁP THÍ
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
BIỂU TƯỢNG ĐÈN HOA SEN PHẬT ĐẢN
AN CƯ KHO BÁU NIỀM TIN VÀ TRÍ TUỆ
PHÁP TU CĂN BẢN CỦA PHẬT TỬ
NGUỒN GỐC CỦA KHỔ ĐAU (CTLĐ TẬP 1)