TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday, 11 October 2014

Ý NGHĨA CỦA CHỮ TU (PHƯỚC TUỆ SONG TU - CƯ TRẦN LẠC ĐẠO 3)



Tôi mong tất cả Tăng Ni là người lãnh đạo Phật tử, quí vị đi và dẫn dắt Phật tử cùng đi đúng theo con đường đức Phật đã đi.
Đừng đi sai, đừng đi lệch, uổng một đời tu, không biết mai kia có gặp lại Phật pháp không?
Làm sao chúng ta đứng vững và luôn luôn không bị những luồng gió nhơ nhớp của thế gian
làm lem luốc,
phải trong sạch vững vàng trên con đường đạo. Đó là chỗ tha thiết mong mỏi của tôi.
HT Thích Thanh Từ
lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

Trong đời sống này, chúng ta thường nghe, nói đến chữ "TU". Chẳng hạn như là: tu bổ tu sửa, tu chính tu chỉnh, tu tỉnh tu thân, tu nhân tích đức, tu tâm dưỡng tánh. Những từ ngữ đó, có nghĩa chung là: sửa chữa sửa đổi, rèn luyện trau giồi, cho được mới hơn, cho tốt đẹp hơn, cho đúng đắn hơn, cho chính xác hơn, cả hai phương diện, vật chất tinh thần. 
Còn như nói về, phương diện tín ngưỡng, từ ngữ đi tu, thường có nghĩa là: rời bỏ đời sống, tại nơi thế gian, sống đời tu sĩ, trong các tự viện, hay là tu viện, thanh tịnh trang nghiêm, hoặc đến những nơi, núi rừng vắng vẻ. 

Phạm vi bài này, chỉ đề cập đến, công phu tu tập, có thể áp dụng, giáo lý đạo Phật, cho người tại gia, để tạo an lạc, hạnh phúc hiện tiền, ngay trên đời này.  Ở trong đạo Phật, chúng ta thường bàn, đến các vấn đề: "TU PHƯỚC HAY TU TUỆ". Tu phước là gì?  Tu tuệ là gì?  Giá trị tu phước, giá trị tu tuệ, khác như thế nào?  Làm sao có thể, áp dụng vào trong, đời sống hằng ngày, của người tại gia, phát tâm tu tập, tu tâm dưỡng tánh? 
* * * 
Trước hết là việc, chúng ta cần biết, đạo Phật xưa nay, có những nghi lễ, hình thức cúng kiến, của một tôn giáo, dành cho đại chúng, đa số tín đồ, những người chưa thấu, giáo lý thâm sâu, của Đức Thế Tôn. Chẳng hạn như là: cúng kiến lễ lạy, chuông trống khánh mõ, cầu an cầu siêu, cầu phước lộc thọ, cầu nguyện hòa bình, cầu cho chúng sanh, vạn dân bá tánh, an lạc hạnh phúc.  Những hình thức này, rất là cần thiết, có thể giúp cho, những người sơ cơ, tin theo đạo Phật, bởi do ông bà, cha mẹ tin Phật, thỉnh thoảng đến chùa, vào các dịp lễ, lớn nhỏ hằng năm, hái lộc đầu xuân, dịp tết nguyên đán, hoặc vào các dịp, quan hôn tang tế, nhưng không hiểu gì, giáo lý đạo Phật. 

Hoặc gặp những lúc, phong ba bão tố, dồn dập trong đời, tâm thần điên đảo, đời sống chao động, con người cần có, cảnh chùa thanh tịnh, để được tĩnh tâm, cần có buổi lễ, cầu an cầu phước, để tạm an tâm, cần có những người, thiện hữu tri thức, hết lòng an ủi, giảng giải nghĩa lý, đem lại chánh kiến, giúp đỡ người đó, thoát khỏi những cảnh, khổ đau như vậy.
 
Từ các dịp đó, con người đến chùa, sinh hoạt thường xuyên, và hiểu được rằng: bởi vì kém phước, thiếu phước ít phước, hết phước không phước, thường gọi "vô phước", cho nên cuộc đời, chịu nhiều thăng trầm, cuộc sống gặp nhiều, khó khăn bất trắc, khốn khổ đau thương, hoạn nạn điêu đứng, người thương không có, kẻ ghét thì đông. 
Do đó con người, phát tâm "tu phước", tạo thêm phước báu, để cho cuộc đời, vơi bớt phiền não, giảm thiểu khổ đau. Phước báu là do, chính chúng ta tạo, chứ không phải do, thượng đế ban cho, hay do cầu nguyện. Người nào tích phước, từ trước đến nay, không cần cầu nguyện, cuộc đời cũng an, ít gặp sóng gió, ít có trắc trở, đở bớt phiền muộn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hóa dễ. 


Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Thí dụ như sau: Nếu người phải bị, nuốt một nắm muối, thì sẽ đau khổ, biết là dường nào.  Nhưng nếu đem bỏ, nắm muối đó vào, một tô nước nhỏ, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, hơn một chút xíu. Nếu bỏ nắm muối, vào một lu nước, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, nhiều hơn chút nữa.  Nếu bỏ nắm muối, vào hồ nước lớn, rồi mới uống vào, thì chuyện sẽ không, thành vấn đề nữa. Nắm muối tượng trưng, cho các nghiệp nhân, bất thiện chẳng lành, con người đã tạo, từ trước đến nay, bây giờ phải lãnh, nghiệp quả nghiệp báo, nói chung đó là: quả báo khổ đau, không sao tránh khỏi.  Chỉ có phước báo, ít hay là nhiều, tượng trưng tô nước, lu nước hồ nước, có thể giúp đỡ, con người vượt qua, khổ đau mà thôi.  Đó mới thực là: chí công vô tư. 

Mình làm mình hưởng. Mình làm mình chịu Cầu nguyện van xin, dù tin hay không, thực sự chẳng giúp, chẳng ích gì đâu.  Tại sao như vậy?  Bởi vì thực ra, chính vị giáo chủ, giáo phẩm chức sắc, giáo quyền cao cấp, cũng phải trả nghiệp, đã tạo trước kia, nhiều đời nhiều kiếp, ngay trong kiếp này, cũng bị nguyền rủa, vu khống cáo gian, xử án khổ nạn, ám sát giết hại, một cách thê thảm, không ai thay được! 

Trong khi xảy ra, tai nạn xe hơi, xe lửa tàu thủy, hay là phi cơ, có người nằm mơ, cầu nguyện đức Mẹ, hằng đi cứu giúp, có người cầu nguyện, đức Quán Thế Âm, cứu khổ cứu nạn.  Nếu như hai người, cùng thoát tai nạn, thực sự vị nào, đã cứu giúp họ?  Còn nếu hai người, cùng bị thảm tử, thì cả hai vị, đều bỏ rơi họ?  Có phải vậy chăng? Thực ra không phải!  Không có vị nào, cứu họ giúp họ, theo lời cầu nguyện. Chỉ có phước báo, của chính cá nhân, đã cứu chính họ!  Người có phước báo, nhiều hơn một chút, thì được thoát nạn, một cách an ổn.  Người có phước báo, ít hơn một chút, thì được thoát nạn, một chút xây xát.  Những người vô phước, không còn phước báo, thường gọi tới số, thì đã mạng vong.
 Chí công vô tư là luật nhân quả. 

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:
Chỉ có phước báo, mới có thể làm, giảm thiểu nghiệp báo. Nếu như chúng ta, phát tâm tu phước, tạo thêm phước báu, chúng ta thường làm, tất cả việc thiện, cứu người giúp đời, thường được gọi là: những việc "phước thiện". Chẳng hạn như là: bố thí cúng dường, hùn phước cất chùa, tạo tượng đúc chuông, ấn tống kinh sách, đi chùa lễ Phật, vào chùa công quả, tham gia hoạt động, từ thiện xã hội, cứu trợ nạn nhân, thiên tai bão lụt, giúp đỡ người nghèo, bần cùng khốn khổ. 

Tuy nhiên cũng có, những người tu phước, thường hay mong cầu, phước báu trở lại, với bản thân mình, với gia đình mình, qua các dạng như: thới hên may mắn, tai qua nạn khỏi, giàu sang hạnh phúc, ăn nên làm ra, cửa nhà êm ấm, con cái thành tài, buôn may bán đắt.  Như vậy nghĩa là: mặc dù tu phước, người rất hiền lương, ăn hiền ở lành, việc ác không làm, chỉ làm việc thiện, nhưng mà tâm niệm, của người tu phước, chưa được quảng đại, còn hay vị kỷ, hơn là vị tha, chưa được thanh tịnh. Do đó cho nên, phước báu có được, rất là hạn chế, theo như tâm lượng, hạn hẹp của mình.  Khi không như ý, những người tu phước, thường hay nổi giận, bực bội bất an, tâm trạng hoang mang, làm cho nhiều người, mất dần tín tâm, bỏ theo ngoại đạo. 

Trong Kinh Kim Cang, Đức Phật có dạy:
"Nhược Bồ Tát ư pháp, ưng vô sở trụ, hành ư bố thí.  Sở vị bất trụ sắc bố thí, bất trụ thinh, hương, vị, xúc, pháp bố thí.  Bồ Tát ưng như thị bố thí, bất trụ ư tướng.  Nhược Bồ Tát bất trụ tướng bố thí, kỳ phước đức bất khả tư lượng" . 
Nghĩa là: nếu như chúng ta, không chấp bốn tướng: ngã, nhơn, chúng sanh, thọ giả, và không chấp sáu trần: sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, mà thực hành hạnh bố thí, thì phước đức không thể nghĩ, không thể lường được.
 
Nếu người tu phước, làm việc phước thiện, mà không vụ lợi, không tâm phân biệt, kỳ thị thân sơ, xuất xứ sang hèn, nam nữ sắc tộc, không mong cầu lộc, hay được báo đáp, không hề trông chờ, đền ơn đáp nghĩa, không hề thấy mình, là người làm phước, không thấy người khác, thọ nhận ơn phước, nếu làm như vậy, tạo được phước báu, vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. Tại sao như vậy?  Bởi vì tâm lượng, của người tu phước, ngay lúc bấy giờ, trở nên quảng đại, vô cùng vô tận, cho nên phước báu, trở nên to lớn, vô lượng vô biên, tương ứng rõ ràng. Trong lúc thực hiện, hành động tạo phước, lời nói tạo phước, ý nghĩ tạo phước, không hề nghĩ rằng: mình đang làm phước. Giúp đỡ người khác, chỉ vì tình thương, từ bi bác ái, lòng tốt tự nhiên, tâm bất vụ lợi, vì người quên mình, đó chính thực là: hành động tạo phước, cao thượng hạng nhứt, đem lại "phước báu", vô lượng vô biên, không thể nghĩ bàn. 

Chúng ta nên biết: chúng ta có phước, nếu như chúng ta, đầy đủ sức khỏe, lục căn hoàn bị, tay chân lành lặn, đi đứng tự nhiên, mắt mũi tinh tường, trí óc minh mẫn, sống trong hạnh phúc, gia đạo bình an, trên thuận dưới hòa, thuận vợ thuận chồng, con cháu ngoan ngoãn, hiền lành dễ dạy, cuộc sống bình yên, ít gặp sóng gió, ít có trắc trở, tai qua nạn khỏi, mọi việc suôn sẻ, mọi sự hanh thông, gặp được thầy lành, gặp được bạn tốt. Phước báu hơn nữa, nếu như chúng ta, gặp được chánh pháp, ngộ được chánh đạo, giác ngộ giải thoát, không còn trầm luân, sanh tử luân hồi.
 
Người trí thực hành, hạnh nguyện bố thí, chẳng cầu báo ân, chẳng cầu lợi mình, chẳng vì giúp đỡ, cho kẻ bỏn sẻn, chẳng vì quả báo, sanh cõi nhơn thiên, giàu sang sung sướng, hưởng thụ dục lạc, chẳng vì danh tiếng, đồn đãi khắp nơi, chẳng vì có của, dư dùng không xài, chẳng vì bắt chước, làm theo người khác.

Người trí thực hành, hạnh nguyện bố thí, chỉ vì từ tâm, giúp người cần đến, khiến người an vui, qua cơn khốn khó, bớt cơn phiền não, khiến cho người khác, sanh tâm bố thí, nhứt tâm hồi hướng, công đức phước đức, cho khắp muôn loài, pháp giới chúng sanh. Làm được như vậy, trí tuệ khai mở, tâm niệm hòa bình, chúng sanh an lạc, mọi người hạnh phúc.
 
Người thích bố thí, chẳng thích tu tuệ, sanh ra giàu có, nhưng tâm trí kém. Người thích tu tuệ, chẳng thích bố thí, sanh ra thông thái, nhưng nghèo xác xơ. Tuy nhiên rõ ràng, trong khi tu phước, nếu chúng ta làm, với tâm chính trực, bất tùy phân biệt, kết quả đồng thời, cũng có nghĩa là: chúng ta tu tuệ. 

Chẳng hạn như là: chúng ta thực hành, hạnh nguyện bố thí, với tâm đại từ, tâm bất vụ lợi, chúng ta được phước, đồng thời kết quả, tâm tham bỏn sẻn, dần dần giảm bớt, thiểu dục tri túc, biết đủ bớt tham, không còn phạm giới, không còn tạo nghiệp, tâm trí ổn định, dần dần thanh tịnh, trí tuệ phát sanh. 

Như vậy nghĩa là: thực tâm tu tập, tu phước và tu tuệ, đồng thời kết quả. Nếu như chúng ta, tu tập tinh tấn, sẽ nhận thấy rằng: trong phước có tuệ, trong tuệ có phước. Phước báu giúp ta, bớt gặp chướng ngại, trên đường tu tập.  Trí tuệ giúp ta, tu tiến nhanh thêm, chóng đến bến bờ, giác ngộ giải thoát, lai đáo bỉ ngạn. Tu tập nghĩa là: áp dụng giáo lý, ngay trong cuộc sống, luôn luôn nhớ nghĩ, sửa đổi tâm tánh, của chính bản thân, ngày một an hơn, ngày một vui hơn, cho đến một ngày, giác ngộ giải thoát. 

(Trích trong bài Phước tuệ song tu: CTLĐ 3 )
TU TRONG ĐỜI SỐNG HẰNG NGÀY

-        Có người tuyên truyền rằng các sư ngoại quốc, đọc thần chú rất linh thiêng, có thể giúp mình rửa sạch nghiệp, có thể giúp trị bệnh ung thư, dù ở bất cứ thời kỳ nào, nên rước thỉnh về nhà để bát cúng dường. Lại có người quảng cáo là có thể truyền nhân điện chữa lành bệnh ung thư mà bác sĩ từ chối, nhờ hào quang của Phật. Các chuyện này có thật không, có đúng giáo lý đạo Phật không, hay chỉ là mê tín dị đoan, lường gạt?

       Đức Phật có dạy:

Dù cho lên non
xuống biển vào hang
nghiệp báo đã mang
vẫn theo con người
như hình với bóng
không ai có thể
tránh được thoát được.

Con người thường thích chuyện linh thiêng huyền bí, nhất là những chuyện giúp mình chạy tội, tránh quả báo xấu của nghiệp nhân xấu đã gây nên, đã tạo ra trong đời. Nếu các chuyện này có thật, các sư ngoại quốc đó có thần lực ghê gớm, đâu có phải sống kiếp lưu vong, lang thang kiếm sống kiểu phi Phật pháp như thế đó!

Phật pháp là phương thuốc mầu nhiệm chữa trị tâm bệnh, chứ không chữa trị thân bệnh. Khi có thân bệnh, con người cần đến thuốc men, tây y hoặc đông y, cần đến bệnh viện, dưỡng đường để được bác sĩ, y tá, chuyên viên y tế chăm sóc. Khi có tâm bệnh, phiền não khổ đau, các bác sĩ đông hay tây y cũng phải tìm đến Phật pháp để chuyển hóa phiền não thành bồ đề, chuyển hóa khổ đau thành an lạc hạnh phúc.

Khi tâm được bình yên, cuộc sống thoải mái, sức khỏe có thể tăng thêm, các bệnh có thể sớm chữa khỏi. Khi hết trần duyên, con người đã trải qua sanh, già, bệnh, thì ai cũng phải chết. Không thấu hiểu luật vô thường, mong kéo dài mạng sống khi không thể, con người dễ bị những tà sư, ma giáo lường gạt, tiền mất tật mang.

Tóm lại, trong cuộc sống, chúng ta cố gắng tu tâm dưỡng tánh, sống hạnh phúc, chết bình an. Thế thôi!

- Thường ngày, khi nói năng, nên cẩn trọng lời nói và cách nói, tránh làm người khác tổn thương danh dự, va chạm tự ái cá nhân, không nên làm người nghe khó chịu, dễ sanh giận hờn, dễ gây oán thù.  Như vậy gọi là tu đó.
  
- Bình thường, người đời nói năng với cấp trên, bề trên, khá cẩn thận và lễ độ. Nhưng với người dưới quyền, người đời thường hay cao giọng, lên giọng kẻ cả, không giữ gìn lời nói, không để ý cảm giác của người nghe, cho nên ít người ưa thích cấp trên, thường tìm cách xa lánh, chỉ có kẻ dua nịnh đến gần. Nếu mình có trách nhiệm, trong đời hay trong đạo, mà giữ được sự hòa nhã, tương kính, trong lời nói và cách nói, thì tất được người chung quanh cảm mến, thân cận, ưa thích gần gũi. Như vậy gọi là tu đó. ■


Thương ghét, phải quấy, đẹp xấu, đúng sai, hơn thua, chính là vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm. Ðó chính thực là con trâu, mà người tu theo Phật phải chăn phải dắt, phải kềm phải chế, phải điều phải khiển, phải thuần phải phục, thúc liễm luôn luôn. Chăn trâu thành công thì Tánh Giác hiển lộ. Ðiều quan trọng là: "Con người hãy chăn dắt con trâu, chớ để con trâu dẫn dắt con người! Nếu để con trâu dẫn dắt, không biết con người sẽ đi về đâu?". Cho nên mới có pháp tu gọi là "Pháp Môn Chăn Trâu", chính là nghĩa đó vậy.

Chăn trâu nghĩa là: áp dụng Chánh Pháp, vào trong cuộc sống, của mình hằng ngày, dẹp trừ vọng tâm, vọng tưởng vọng thức, vọng niệm liên miên, chuyển hóa ba nghiệp, thân khẩu ý mình, bất lương bất thiện, thành ra ba nghiệp, hoàn toàn thanh tịnh. Chăn trâu nghĩa là: không theo sức mạnh, sức kéo sức lôi, của tâm tham lam, sân hận si mê.

Ðây mới chính là ý nghĩa thiết yếu của việc tu tâm dưỡng tánh theo đạo Phật: Trong tâm khởi niệm, nếu giác kịp thời, liền biết không theo, đó là Chơn Tâm. Trong tâm khởi niệm, nếu còn mê muội, không giác kịp thời, liền theo niệm đó, trở thành vọng tâm. Cũng ví như là: Khi có gió thổi, mặt biển nổi sóng, gọi là biển động. Mặc dù có gió thổi, mặt biển vẫn bình yên, đó là biển thái bình, ví như bản tâm thanh tịnh. Tu theo đạo Phật, không phải chỉ có: cúng kiến lễ lạy, van xin cầu nguyện, không còn gì khác!

Nếu con người biết sẵn sàng tha thứ cho người khác, cũng như đã từng nhiều lần trong đời, tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng niết bàn cực lạc chính là đây, ngay trên thế gian này!
Sinh sự thì sự sinh. Nhân nào thì quả nấy. Gieo gió thì gặt bão. Có lửa thì có khói. Cầu nguyện khấn vái chỉ đem lại sự bình an tâm hồn tạm thời mà thôi. Bình an thực sự chỉ có cho người thiện tâm. Thiên đàng hay địa ngục, tuy là hai tâm trạng khác nhau, nhưng tất cả thực sự chỉ là các trạng thái ở trong thâm tâm của tất cả chúng ta. Cũng ví như biển động hay biển lặng, tuy khác nhau, nhưng đều là hai trạng thái của biển mà thôi vậy.

Cảnh giới tịch diệt an lạc đó không dành riêng cho bất cứ ai, không thuộc bất cứ tôn giáo nào, không thuộc bất cứ sắc dân nào, không thuộc bất cứ thời đại nào. Bất cứ ai dẹp được một phần các tâm niệm sanh diệt, thì người đó sống được một phần trong cảnh giới an lạc tịch diệt.

Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
cutranlacdao@yahoo.com



THƯA HỎI, ĐÁP PHẬT PHÁP PHTQ 

From: nha khanh
Kính thưa Thầy,
Con cám ơn lời chỉ bảo của Thầy rất nhiều.
Ngày nay người Phật tử thật khốn khổ,
nhất là những người mới tìm hiểu và tin Phật,
không phân biệt được thực hư,
giả thiệt trong các hoạt động của các chùa.
Thời đại internet có tiện ích nhiều,
nhưng cũng có tác hại không lường trong việc truyền Pháp.
Đôi khi có người chuyển tải hình ảnh cúng kiếng nhẩy múa làm con hoang mang. Thông tin truyền bá đã dùng những danh từ
có tính cách không thanh thoát, 
để công kích nhau, con đọc rất là khó chịu.
Con muốn tìm những huớng dẫn
để mình có thể công phu hàng ngày nhưng đạt 2 điểm:
1. Lời kinh bằng tiếng quốc ngữ hiện nay, 
để dễ hiểu và dễ áp dụng vào đời sống của người tu tại gia.
2. Vì đời sống của người cư sĩ tại gia còn bề bộn nhiều trách nhiệm đối với gia đình và xã hội,
nên không có đủ thời gian để hành trì các thời khóa như các tu sĩ. Như thế con sẽ tìm nơi đâu có những hướng dẫn giữ các thời khóa công phu mỗi ngày thích hợp để mình tập tu những bước chập chững ban đầu. Vì nhu cầu tu học, các Phật tử như con đã vào các trang mạng để lục tìm, càng tìm càng đi vào mê hồn trận. Duyên phước đủ mới gặp được trang mạng hữu ích,
phù hợp với căn cơ, hoàn cảnh của mình.

Kính thưa Thầy,
Con đang sống ở Mỹ, con chỉ mới qua đây được hơn 2 năm thôi.
Thầy cũng biết: môi trường ở những nước Mỹ, Úc, Canada rất tốt cho người có ý huớng tu tập,
nhưng cũng vô vàn khó khăn trong việc tìm hiểu học hỏi như: phương tiện đến chùa dự pháp đàm, dự các nghi lễ, nhất là kinh sách, thú thật nhìn mà thèm thôi vì túi tiền của mình không có khả năng. Sách được phát hành giá quá cao so với Việt Nam. Con lại đã lớn tuổi rồi nên cuộc sống phải dựa vào các con, đâu dám đòi hỏi nhiều. Ở Việt Nam có điều kiện rất dễ dàng,
nhưng môi trường sống lại quá phức tạp, phải va chạm, thích nghi với những tiếng ồn không dứt của phố thị đông người, của hàng quán, của karaoke, kể cả tiếng chửi thề.
Con cũng không biết từ đâu con có được trang mạng của Thầy.
Bỗng một ngày mở email và thấy có trang Thầy gửi đến, con rất phân vân không biết có nên mở xem không hay xóa? Con đã chọn việc mở thư và đọc, từ đó tất cả những gì con nhận được từ Thầy, con lưu giữ trong folder riêng và foward cho thân hữu. Một lần nữa con xin cám ơn sự huớng dẫn của Thầy, và xin sám hối về những sai phạm của mình trong việc không ý thức chuyển tải những điều không nên.
Kính chúc Thầy sức khỏe và hoạt động truyền Pháp
rộng khắp cho những người Phật tử sơ cơ như con được đi đúng huớng.
Kính thư,
nhã khanh.



Kính quí ĐH Nhã Khanh,
Bàn tay, đồng tiền hay tờ giấy luôn luôn có 2 mặt, không thể tách rời được.
Cũng vậy, chuyện đời cũng như chuyện đạo, luôn luôn có 2 mặt.
Có người thiện, cũng có người bất thiện.
Trong tâm của một con người, có lúc nghĩ thiện (lợi mình lợi người),
cũng có lúc nghĩ bất thiện (lợi mình hại người).
Khi tâm chưa bình an, dù ở nơi chốn nào cũng có điều bất như ý.
Trong các sinh hoạt nhà chùa, dĩ nhiên có nhiều điều hay tốt,
cũng có lắm điều gạt gẫm, không tốt.
- Tại sao?
- Bởi vì tăng chúng đâu phải ai cũng tốt, cũng chân tu thực học tất cả đâu.
- Phải nói, một số không ít tăng ni phát tâm cạo tóc,
nói là muốn tu,
nhưng không học hiểu giáo lý và thực hành lời Phật dạy
ngay trong đời sống hàng ngày.
Do đó, đa số tăng ni chỉ biết tụng lóc cóc leng cheng kiếm sống,
nói chuyện trên trời, dưới biển,
thần thánh hóa bản thân,
chuyện tu hành chẳng biết lẽ đúng sai, không phân biệt chánh pháp và tà pháp.
Người Phật tử, do đó, p
hải biết tự tìm học, đi chùa đúng chánh pháp,
tìm hiểu sự việc trước khi thực hành việc tu tập.
Chớ vội nghe theo, hay thần tượng bất cứ nhà sư nào,
giữ tâm không thành kiến, y pháp bất y nhân.
Phải dùng trí tuệ xem xét lời giảng có đúng chánh pháp chăng?
- Thế nào là đúng chánh pháp?
- Phải tự thắp đuốc mà đi
- nghĩa là tự lực từ bỏ tham sân si, mới thực là tu.
- Phải hiểu rõ mọi việc trên đời không ngoài nhân quả, không tồn tại vĩnh viễn.
- Không ai có thể cứu được mình
- kể cả đức Phật khi còn tại thế cũng không cứu được các đại đệ tử
khi nghiệp báo xảy đến.
Huống là ngày nay, chúng ta van xin cầu khẩn với tượng Phật,
có được gì đâu,
có gì là linh thiêng đâu?
- Nhà sư chết còn chưa biết đi về đâu - siêu hay không siêu -
làm sao cầu cho người khác siêu được?
- Đừng đợi khi chết rồi, thỉnh sư, mời cha, đến cho đông, cầu cho nhiều,
chỉ có tiền mất - tật vẫn mang!
- Chỉ có chính mình cứu được mình thoát khỏi sanh tử luân hồi mà thôi.
- Bằng cách nào?
- Học hiểu và Thực hành lời dạy của đức Phật
ngay trong đời sống hàng ngày,
luôn luôn quán sát xem tâm niệm của bản thân
sáng suốt chăng,
chân chánh chăng,
thanh tịnh chăng.

Sáng Suốt
Chân Chánh
Thanh Tịnh
chính là
TỰ TÂM TAM BẢO,
chẳng phải đi tìm bên ngoài hay ở đâu xa. Tìm bên ngoài, thường gặp
Phật giả
Pháp giả
Tăng giả.
Vài hàng đơn giản kính mong quí Đạo Hữu luôn tinh tấn, mong rằng hôm nay mình tiến bộ hơn hôm qua.
Kính thư,
BBT.PHTQ.CANADA




Kính thưa quí vị,
Con người thường sống hàng ngày trong thế giới nhị biên: thị/phi, đúng/sai, phải/quấy,
đẹp/xấu, thương/ghét, thích/không thích, cho nên chìm đắm trong phiền não khổ đau.
Không cần phải đợi đến già mới phát tâm tu, thường khi quá muộn, thân đau tâm mệt,
lắm việc trái ngang ngăn cản đời sống tâm linh, trí tuệ khó khai mở.
Trong cuộc sống bận rộn, hãy dành thời gian ngắn mỗi ngày
để suy tư, ngẫm nghĩ, tập quán chiếu,
lâu dần sẽ đạt được an lạc và hạnh phúc hiện đời.
Xa hơn, con người đạt được giác ngộ và giải thoát khi tuổi vừa 20 như ngài La Hầu La,
con trai của Thái Tử Tất Đạt Đa,
tức là Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội bồ đề khi ngài 35 tuổi.
Người tu dù xuất gia khi còn nhỏ tuổi - hay sau này,
nếu thực tâm tu và học, đều có thể đạt thành chánh quả (giác ngộ và giải thoát).
Ngược lại, nhiều vị đạo sĩ tu đến tuổi già nua, bỏ mạng trong khổ hạnh lâm, cũng chưa giác ngộ.
Tại sao?
Bởi vì BẢN NGÃ của người đó càng tu càng to như cây cổ thụ trong chốn thiền lâm.
Tiền bạc và địa vị trong chốn tu hành làm hư hỏng người tu - dù 100 tuổi hay hơn nữa cũng vậy thôi.

Không cần phải là người theo đạo Phật, chỉ cần buông bỏ những cố chấp xưa nay,
con người có thể giác ngộ và giải thoát như nhau.
Đó chính là thế giới "bất nhị" hay pháp môn "bất nhị" (không hai - nhưng không phải là một).
Kính mời quí vị đọc bài viết dưới đây.
Kính thư,
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
VP.PHTQ.CANADA
--------------------------------
Đạo Phật chủ trương chuyển hóa tâm bất thiện thành tâm thiện.
Đạo Phật không chủ trương tiêu diệt người xấu ác.
Người hiện nay tuy tâm tánh xấu ác - nếu giác ngộ và giải thoát thì sẽ chuyển hóa thành người toàn chân thiện mỹ.
Ví như phân rác chuyển hóa thành hoa thơm, bùn nhơ chuyển hóa thành sen thơm,
nước sông hồ dơ đục chuyển hóa thành nước sạch trong uống được.
Đồ tể buông dao chuyển hóa thành Phật.
&
. Không cần phải là người theo đạo Phật, chỉ cần buông bỏ những cố chấp xưa nay, con người có thể giác ngộ và giải thoát như nhau. >> Mọi người đều có thể đạt thành chánh quả (giác ngộ và giải thoát). - Tiền bạc và địa vị trong chốn tu hành làm hư hỏng người tu - dù 100 tuổi hay hơn nữa cũng vậy thôi. >> Đức Phật dạy con như thế nào - GIÁC NGỘ & GIẢI THOÁT LÀ MỤC ĐÍCH CỨU CÁNH CỦA ĐẠO PHẬT





CHỦ TRƯƠNG CỦA TẬP SAN
 PHẬT HỌC TỊNH QUANG

Kính thưa quí thân hữu,
Thân hữu của VP.PHTQ.CANADA gồm có chư Phật tử bốn phương và chư quí vị không phải là Phật tử.
Chủ trương của VP.PHTQ.CANADA không phân biệt tôn giáo hay tín ngưỡng, căn bản trên đạo làm người, không làm hại ai qua lời nói, hành động hay tư tưởng - dù là người thân hay kẻ thù.
Hoạt động của VP.PHTQ.CANADA y pháp, bất y nhân - xét việc không xét người.

Các hiện tượng tiêu cực của một cá nhân, tổ chức hay tôn giáo chỉ có tính cách địa phương, cục bộ, không làm hại được ai, không bôi nhọ được tổ chức nào hay tôn giáo nào, nay có mai không, hoặc ngược lại, nay chưa có, mai sẽ có, nơi này hoặc nơi khác.
Các bài viết của VP.PHTQ.CANADA được phổ biến, mọi người không phân biệt tín ngưỡng, không phân biệt tôn giáo cùng đọc, ủng hộ và góp phần chuyển tải rộng rãi thêm.
Xưa nay, những chuyện tiêu cực trong các tổ chức tôn giáo trên thực tế không phải là không có.
Chỉ vì nhiều người theo các tôn giáo, thần tượng quá đáng các vị tu sĩ, coi họ như đại diện thượng đế, đại diện chư Phật, và nhiều người - rất nhiều - tin theo bất cứ điều gì các vị tu sĩ nói ra.

Các vị tu sĩ - kể cả các vị giáo chủ hay lãnh tụ tôn giáo - cũng phải trải qua: sanh, già, bệnh, chết. Không ai tránh khỏi.
Các vị tu sĩ vi phạm luật pháp thế gian cũng bị trừng phạt như người thế gian.
Các vị tu sĩ cũng bị bệnh tật, cũng vào nhà thương điều trị.
Tại sao người thế gian bị bệnh, lại chạy vào chùa đọc thần chú đại bi, đọc thần chú dược sư?
Tai nạn xe cộ, tai nạn súng đạn vẫn không chừa các vị tu sĩ tất cả các tôn giáo - không chừa một ai.
Có chăng, các loại tai nạn, các việc bất trắc, bất như ý không đến với những người có phước báo. Vậy thì muốn tránh tai nạn, muốn được tai qua nạn khỏi thì phải tu nhân tích phước, cứu người giúp đời, làm việc phước thiện. Lấy phước báo giảm hiểu nghiệp báo. Ví như lấy tiền tiết kiệm (tích phước) trả bớt nợ xưa (tạo nghiệp).
Xưa nay, Phật hay Chúa có cứu được tín đồ nào theo lời cầu nguyện đâu?

Tôn giáo nào cũng dạy như thế: Hãy trồng cây tình thương, hái trái ngọt đến cho mọi người.
Đó là phước báo vô biên.
Chứ đâu phải đem tiền cúng cho các nhà thờ, hay các nhà sư thích đủ thứ, làm giàu, làm bậy là có phước, là lên thiên đàng, là vãng sanh đâu.

Tổ chức văn nghệ gây quỹ quanh năm, mỗi tháng, để sư xem văn nghệ cúng dường miễn phí, khỏi mang tiếng mê ca hát, sư nhảy lên sân khấu ngâm thơ, ca hát và làm ca sĩ, làm MC. Sư xin tiền xây chùa to cho thỉnh tượng lớn xong, rồi xin tiền xây phòng phương trượng cho sư trụ trì ngự, ngự long sàng. Sư già làm lễ khánh tuế 80 tuổi, 90 tuổi, ngồi chễm chệ trên ngai vàng cao hơn mọi người, bằng gỗ chạm rồng chạm mây. Sư diện y áo, mũ mão gấm thêu loè loẹt, xùng xình, viền xanh đỏ tím vàng, sặc sở không khác kép cải lương. Người người dâng cúng khánh vàng, tuổi con gà thì tặng tượng con gà vàng 24K, nếu lão sư cụ tuổi con voi, con hà mã, con hải cẩu chắc là lão sư cụ giàu to, còn lo chi nữa.
Không lo hoằng pháp, cũng được giàu to, sư nào chẳng khoái, nhiều người nhào vô.
Các vị tu sĩ phán rằng: «điều này Chúa nói, điều này Phật dạy». Các người u mê liền tin răm rắp.

Chẳng hạn như bọn người khoác y áo cà sa, gạt gẫm người ta, giả dạng tu sĩ, nói:
«Con người chỉ cần niệm Phật 10 tiếng thì liền được vãng sanh, không phải tu hành, không cần kinh sách! Học giáo lý làm chi, đọc tụng kinh sách, dễ bị xen tạp! Niệm A MI ĐÀ linh thiêng hơn A DI ĐÀ!»
Chỉ cần cúng tiền cho sư xây chùa rồng phụng như cung điện vua chúa, xây tháp, xây phòng ăn như tòa bạch ốc, đèn đuốc rực rỡ để tổ chức an cư, ngày thường cho mướn, đốt pháo bông pháo hoa, đêm thắp đèn quanh chùa sáng choang như sòng bạc casino. Thiệt là hao phí, hoang phí tiền của bá tánh.
Như vậy, sư phán rằng: «cúng tiền nhiều cầu gì được nấy, thân nhân bảy đời được vãng sanh». Miệng lưỡi nhà sư, thiệt là hết biết!

Lắm khi, dù có biết là các vị tu sĩ làm sai, nói sai, sai chánh pháp, sai đạo lý căn bản của con người, sai luôn cả luật pháp thế gian - tấn công, mạ lỵ, bêu riếu cá nhân, vi phạm nhân quyền - nhiều người cũng chẳng dám nói ra, sợ bị Chúa phạt, sợ bị Phật quở!
Những người có chút hiểu biết giáo lý của các tôn giáo khó chấp nhận những chuyện như vậy.
Nói ra những chuyện tiêu cực như thế, người ta hù dọa, gán tội mạ lỵ tôn giáo, mang khẩu nghiệp, phá hoại tín tâm con người.
Tôn giáo chân chính không ai có thể mạ lỵ hay bôi nhọ được. Người thực sự có trí tuệ (trí tuệ thế gian hay trí tuệ bát nhã, xuất thế gian) vẫn giữ vững niềm tin sáng suốt, chân chính và thanh tịnh nơi tôn giáo.

Ba yếu tố của tự tâm mỗi người: sáng suốt, chân chánh và thanh tịnh - ai ai cũng có, không phân biệt tín ngưỡng hay tôn giáo.
Đây mới thực sự là TAM BẢO TỰ THÂN.
Phát huy được Tam Bảo Tự Thân - không ai gạt mình được.
Tam Bảo bên ngoài (Phật, Pháp Tăng) dễ bị giả mạo, hàng nhái, hàng giả: tượng Phật ngọc giả, kinh sách giả, tăng giả.
Dâng sớ cầu an - tiền mất tật mang.
Cúng sao giải hạn - tai nạn vẫn tới.
Tóm lại, không ai cứu được ai - kể cả Đức Phật.
Đức Phật chỉ dẫn con đường giác ngộ giải thoát. Mọi người tự cứu bản thân.
Kính thư,
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật
BBT.TẬP SAN «TỪ BI & TRÍ TUỆ» & VP.PHTQ.CANADA
CHỦ NHIỆM TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
 Đạo Phật có dạy rằng:

TK THÍCH CHÂN TUỆ
 
1. Con người có 2 phần (ngũ uẩn):
Ngoài xác thân tứ đại phàm tục (sắc), còn có phần tâm linh (thọ, tưởng, hành, thức).
Phần xác thân (tứ đại) khi hết phước (tận số) thì chết đi, đem chôn, hay thiêu - không ai đem xác thối lên trời!
Con người không cần bận tâm đến cái xác chết, của mình hay của thân nhân, không nên phiền não với mấy cái hủ tro từ nhà quàn - chưa chắc là tro thiệt từ thân xác của thân nhân quá vãng. Quan trọng mấy cái vật chất đó, chỉ làm khổ người thân còn sống, phải đem xác chôn chỗ này, đem tro rãi chỗ kia. Đó chảng qua do tập quán, tín ngưỡng lâu đời của thế gian, và cũng chính do bản ngã (EGO) của của con người, làm khổ con người mà thôi. Cho nên, đạo Phật chủ trương “Vô Ngã, Vị Tha”. Thầy sẽ giải thích thêm khi đủ thiện duyên qua đề tài: Ngũ Táng (Địa táng, Điểu Táng, Hỏa Táng, Thủy Táng, và Thạch Táng). Tốt nhất là hiến xác cho khoa học sau khi chết, hợp tình hợp lý, hợp tâm nguyện vô ngã vị tha, có lợi ích đôi phần. Người chết thực hành hạnh bố thí (nội tài). Người sống hưởng thành quả khoa học, thuốc men, giải phẩu qua ngành y dược. Đừng nghe mấy vị sư Tàu (tào lao) tuyên truyền tâm ích kỷ rằng, hiến xác thì không được vãng sanh? Kinh điển nào dạy như vậy, ngoài mấy vị sư tào lao hiện nay?

2. Tâm Linh lại có 2 phần: thật và giả.

2.1. Phần tâm giả là tâm tham lam, giận dữ, ngu si, mà con người thường sống hàng ngày.
Phần tâm giả này khi có khi không, khi sanh khi diệt, khi khởi lên khi biến mất. Cho nên con người thay đổi tâm tính thường xuyên (vô thường) khi đắc thế khi thất bại (lợi/suy), khi thương khi ghét, khi thích khi chê, khi tán dương khi chửi bới (xưng/ cơ hay hủy/ dự), khi vui khi buồn (khổ/lạc).
Phần tâm giả (vọng tâm) này lẫy lừng, mạnh mẽ vô cùng, chính là động cơ (nghiệp lực) dẫn dắt con người sống đời khổ đau, luân hồi kiếp này đến kiếp sau, và muôn kiếp sau nữa.
           
2.2. Bởi thế cho nên, cốt tủy của đạo Phật là phải tìm cho ra (giác ngộ) phần tâm thật (chân tâm).
Những hình thức cúng kiến, cầu an cầu siêu, các nghi lễ rườm rà trai đàn bạt độ, trong khắp các chùa, chỉ là hình thức của một tôn giáo để mọi người tìm đến, cần thiết nhưng không thật, giả đó.
Tham dự xong rồi, con người thông minh phải phát tâm học đạo như ĐH Lệ Hằng hiện nay.

Khi tâm con người không còn vọng động, không còn lăng xăng lộn xộn, không còn mong điều này,
không còn muốn điều kia, thì chân tâm (tâm thật) hiển lộ. Khi chân tâm hiển lộ, đời sống con người bớt phiền não khổ đau.

Cũng ví như mặt biển sóng to khi có gió lớn (tâm con người giận dữ khi gặp chuyện bất như ý)
nhưng khi hết sóng to gió lớn, thì mặt biển trở nên thanh bình, phẳng lặng,
có thể trông xa, thấy rộng bốn phương, đến tận chân trời góc biển.

Các tôn tượng của chư Phật đều có con mắt thứ ba, nằm giữa 2 con mắt thường, thường tượng trưng bằng chấm đỏ, hay viên ngọc quí. Con mắt thứ ba này gọi là con mắt thông minh trí tuệ (tuệ nhãn). Tuệ nhãn chỉ có được khi tâm con người không còn vọng động, không còn những chuyện tham sân si, không còn loạn động với cảnh trần hàng ngày, duy nhất, tâm chỉ còn trạng thái phẳng lặng, tịch tịnh, gọi là nhất tâm bất động, hay nhất tâm bất loạn.

Tùy theo tâm con người dẹp được, bớt được bao nhiêu tham sân si vọng tâm, thì trí sáng chân tâm (hay tuệ nhãn) hiển lộ bấy nhiêu. Ví như mây đen (vọng tâm, phiền não) tan biến bao nhiêu, thì mặt trời (tuệ nhãn hay chân tâm) hiển lộ ánh sáng bấy nhiêu. Tất cả đều do công phu tu tập của mỗi cá nhân, theo từng thời gian ngắn hay dài, mau hay lâu.

Cho đến khi vọng tâm hoàn toàn biến mất, chân tâm hoàn toàn hiển lộ, thì con người hoàn toàn giác ngộ và giải thoát, không còn sanh tử luân hồi, gọi là đắc đạo. Đây chính là cốt tủy của đạo Phật.

Muốn thành công, đạt được mục tiêu nầy (đáo bỉ ngạn) con người phải nổ lực hàng ngày, không phải dễ dàng trong vài tháng, hay vài năm, nhưng cũng không phải không ai đạt được đâu. Trong lịch sử các nước, nhiều vị chân tu thực học đạt được cảnh giới này, không phân biệt tại gia hay xuất gia, không cần phải tu ở trong chùa, không phải là đệ tử của vị nầy hay của môn phái nọ. Nhưng các vị không ai nói ra, các vị chỉ tu hành và dẫn dắt người hữu duyên tu hành. Người nào nói rằng họ đạt được như vậy, như vậy, nhờ pháp này hay pháp kia, toàn là những người muốn tự tôn làm lãnh tụ, muốn tự đánh bóng để được tôn sùng, gạt gẫm mọi người, không ngoài mục đích danh và lợi mà thôi.
Những chuyện vu vơ khác, xin miễn bàn để khỏi bị loạn tâm trong thế giới đảo điên xưa nay.

Thầy mong rằng những điều giải thích trên đây giúp cho ĐH Lệ Hằng hiểu được chánh pháp và Thầy mong ĐH Lệ Hằng đọc phần sau đây về ý nghĩa của sự cầu nguyện, rất bổ ích, để suy nghiệm thêm.
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mưu Ni Phật.
Kính thư,
VP.PHTQ.CANADA


Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN  
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ

Trong các buổi lễ, Chư Tôn Đức cầu nguyện gì?
Trong các buổi lễ, Chư Phật Tử cầu nguyện gì?

Nghi lễ có tác dụng rất lớn đối với các tôn giáo. Phật giáo dù không coi trọng, nhưng nghi lễ vẫn chi phối phần lớn các sinh hoạt Phật sự, đôi khi còn là hoạt động chính của một ngôi chùa, để đáp ứng nhu cầu của quần chúng và nhu cầu hoằng pháp.

Đối với cá nhân, khi lâm vào hoàn cảnh bức bách, khổ đau, bất trắc, bất như ý, con người thường cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, tìm sự bình yên trong tâm hồn qua cầu nguyện.

Lời cầu nguyện này chỉ giúp tâm trí được bình yên tạm thời. Nếu con người có học hiểu giáo lý của đạo Phật, thâm hiểu luật nhân quả, biết rằng: mọi chuyện gì xảy đến cho mình, đều do chính mình đã tạo nghiệp nhân trước đây, giờ phải nhận nghiệp quả, nghiệp báo (gọi chung là quả báo).

Việc may mắn đến, mình biết ngay rằng: đó là phước báo, do việc thiện lành chính mình đã làm.
Việc không may xảy đến, mình biết ngay rằng: đó là quả báo, do việc bất thiện chính mình đã làm.

Theo chánh pháp, nên biết rằng: chỉ có phước báo mới làm giảm bớt hay tiêu trừ quả báo mà thôi!

Cầu nguyện cho tai qua nạn khỏi, mà không tu nhân tích phước, không tu tâm dưỡng tánh, không dừng các nghiệp bất thiện, phỏng có được gì ?

Thí dụ chúng ta lỡ mượn nợ tiêu xài rồi (tạo nghiệp), bây giờ phải đền trả (gặp xui xẻo), chỉ có cách lấy tiền tiết kiệm (phước báo). Không có tiền tiết kiệm thì phải cầu nguyện trúng số để trả nợ chăng ?!
Người có phước báo nhiều, dù gặp tai nạn lớn lao như rớt máy bay, động đất, vẫn sống sót, gọi là số may mắn quá. Người có phước báo ít hơn, phải chịu thương tích hay xây xát chút đỉnh, gọi là còn hên quá. Người không có phước báo thì lãnh đủ quả báo.

Thời đức Phật còn tại thế, khi chư vị thánh tăng phải đền trả các nghiệp báo cuối cùng, đức Phật dạy trong Kinh Pháp Cú, như sau:

Dù lánh lên non núi,
xuống biển hay vào hang
khi nghiệp báo đã mang
không ai tránh thoát khỏi.

Theo quan niệm Phật giáo, cầu nguyện không phải van xin đức Phật, Bồ tát, thần thánh, hay năng lực linh thiêng huyền bí nào cả.

Cầu nguyện là tập trung tâm trí, nhất tâm chuyển đổi vọng niệm mê lầm, xấu ác trở nên thanh tịnh. 
Cầu nguyện là một cách định tâm, định ý để chuyển hóa lòng mình, lòng người.
Cầu nguyện vì thế chính là phương pháp quán chiếu, nhìn lại con người thật của mình, quan sát tâm tình, trừ khử tà kiến mê tín,  khát vọng phàm tình, ích kỷ nhỏ nhen, ỷ lại yếu đuối. 

Nếu hiểu chính xác ý nghĩa cầu nguyện thì cầu nguyện là một phương pháp tu tập, có giá trị tương đương với phương pháp thiền định, quán chiếu tự tâm.

- Cầu nguyện cho thế giới hòa bình, chúng sanh an lạc là lời cầu nguyện vị tha, đúng chánh pháp, trưởng dưỡng từ bi & trí tuệ.
- Cầu nguyện cho mình, gia đình mình, đoàn thể mình, tôn giáo mình là lời cầu nguyện vị kỷ, phi chánh pháp, không từ bi & trí tuệ.

- Nếu ai cầu cũng được như ý, thế giới sẽ loạn, nhân sanh đảo điên. Không làm việc cầu giàu có. Không tu hành cầu vãng sanh. Không học hành cầu đỗ đạt. Các bên thù nghịch cầu nguyện đối phương biến mất. Trái đất chỉ còn thú vật, đất đá, cây cỏ! Thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp là như vậy đó!

- Trong chiến tranh thế giới 1 và 2, hai phe lâm chiến đều làm lễ cầu nguyện long trọng, xin Thượng đế giúp phe mình chiến thắng đối phương. Thượng đế bèn nghe theo lời cầu nguyện này, nên hai phe đều tả tơi thê thảm. Đó là thảm họa của sự cầu nguyện phi chánh pháp!

- Đạo Phật trải qua nhiều năm tháng truyền bá xuyên qua nhiều quốc độ, nên mang cái vỏ mê tín của tôn giáo, và lập ra nhiều nghi thức, lễ hội, để tiếp cận với quảng đại quần chúng đang sống trong vô minh. Giáo lý đạo Phật rất siêu việt, nhiệm mầu khi áp dụng trong đời sống, không buộc ai phải thờ lạy, cúng kiến đức Phật với tâm cầu khẩn van xin, vòi vĩnh như đứa bé thơ.
Trái lại, đức Phật dạy: Tôn thờ Như Lai mà không hiểu Như Lai, chính là phỉ báng Như Lai vậy.

- Ngày nay, người theo đạo Phật, tu sĩ cũng như cư sĩ, nhân danh phát huy tín tâm của Phật tử, bày ra đủ thứ nghi lễ rườm rà, phức tạp, tạo vẻ linh thiêng huyền bí, giải thích hiện tượng thiên nhiên phi chánh pháp, đem kinh sách chữ nghĩa hù dọa những người ít hiểu biết, không thuyết giảng chánh pháp, lại tuyên truyền tà pháp. Chẳng hạn như: người ngồi xe lăn, chỉ nhờ tín tâm với tượng Phật ngọc mà phục hồi, đi đứng bình thường!

- Tóm lại, người Phật tử dù tại gia hay xuất gia, có chút phước báu, có chút trí tuệ, ngoài tín tâm ban đầu qua các hình thức lễ hội, sinh hoạt Phật giáo, nên phát tâm tìm hiểu cốt tủy của lời Phật dạy, hướng tín tâm đến chỗ chánh tín. Không nên tiếp tục để các tà sư - mang hình tướng xuất gia hay tại gia - hướng dẫn tín tâm ban đầu đến chỗ mê tín.

Từ mê tín đến cuồng tín, chỉ cách một sợi tơ !
Mong lắm thay ! ! !
Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
Chủ Nhiệm PHTQ.CANADA


 



NHÂN NÀO QUẢ NẤY
TK Thích Chân Tuệ
 
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có rất nhiều thắc mắc, có nhiều vấn đề cần phải giải quyết, chẳng hạn như là: Qua sự việc chính quyền Taliban, xứ A Phú Hãn (Afghanistan), phá hủy các tượng Phật cổ ngàn năm, có người thắc mắc: Phật giáo chưa từng đi xâm chiếm bất cứ nước nào, nhưng ở điểm này sẽ hiểu thế nào về: "Nhân nào quả nấy"?  Phật giáo đại thừa phải chăng không thiết thực, nên dễ bị những nước khác xâm chiếm, bởi vì các nước Hồi giáo hiện nay là của Phật giáo đại thừa trước kia.  Và tình trạng của Phật giáo Tây Tạng ngày nay? 

* * *

Trước hết, chúng ta chia câu hỏi trên đây thành bốn phần, để tìm hiểu được rõ ràng:
1)                  Luật nhân quả.

2)                  Vấn đề chính quyền Hồi giáo Taliban phá hủy các tượng Phật cổ.

3)                  Phật giáo đại thừa và tiểu thừa.

4)                  Phật giáo Tây Tạng.

1) Luật nhân quả.  Trước hết, chúng ta cần tìm hiểu về luật nhân quả.  Luật nhân quả thường được tóm gọn bằng bốn chữ: "Nhân nào quả nấy". 


Thực đúng như vậy, trên phương diện khoa học thực nghiệm, nếu gieo hạt nhân cam, sau một thời gian, chúng ta có được cây cam và sẽ gặt được quả cam, cộng thêm với một số điều kiện cần thiết, thường được gọi là trợ duyên, chẳng hạn như: phân bón, ánh nắng, nước tưới, thuốc trừ sâu, công chăm sóc.  Không thể nào có chuyện gieo nhân cam ngọt lại gặt quả chanh chua, hoặc ngược lại.


1)Luật nhân quả được áp dụng trong ba thời: quá khứ, hiện tại, vị lai.  Có khi gieo nhân trong quá khứ, hiện tại mới gặt quả.  Có khi gieo nhân trong hiện tại, gặt quả ngay trong hiện tại.  Có những gieo nhân trong hiện tại, vị lai mới gặt quả.  Thí dụ như: gieo nhân tu tập lâu dài, một cách kiên tâm trì chí, mới gặt được kết quả cuộc sống an lạc hạnh phúc, cao hơn nữa, đạt được giác ngộ và giải thoát.  Trái lại, sinh sự sự sinh, đánh người người đánh, chơi dao đứt tay, chơi lửa phỏng lửa, ngay trong hiện tại, cho nên thường được gọi là quả báo nhãn tiền.


Tuy nhiên, có người gieo nhân thiện lành, trong hiện tại, như là: tụng kinh, niệm Phật, đi chùa, bố thí, cứu người, giúp đời, ăn hiền, ở lành, hiếu thảo, nhưng thường gặp phải những quả chẳng lành, trong hiện tại, như là: xui xẻo, tai nạn, thất bại, con cái hư hỏng, gia đạo bất hòa, cửa nhà suy sụp. 


Trái lại, có người gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong hiện tại, như là: trộm cắp, gian giảo, lừa đảo, ngậm máu phun người, vu khống cáo gian, sang đoạt của cải, tâm địa hiểm độc, đâm bị thóc thọc bị gạo, làm nhiều việc thất nhơn ác đức, nhưng lại gặp nhiều quả tốt lành, trong hiện tại, như là: giàu sang, quyền thế, ăn nên làm ra, sự nghiệp phát triển, thế lực ngày càng lớn lao, địa vị ngày càng vững mạnh.


Trường hợp trên, gieo nhân lành trong hiện tại, nhưng quả lành chưa kịp trổ ngay hiện tại.  Trong khi đó, gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong quá khứ, hiện tại đang trổ quả báo.  Thêm nữa, nhiều người tu mà không học, chỉ biết tụng kinh, niệm Phật, làm lành, nhưng không thấu hiểu giáo lý một cách rõ ràng, để áp dụng trong cuộc sống hằng ngày. 


Nhiều khi làm được một vài việc lành, như là: giúp người một việc, trích dẫn một bài kinh, tìm giúp một cuốn sách, rồi đâm ra kênh kiệu, ngã mạn, tưởng rằng đã làm phước nhiều rồi, đòi được đền đáp, đòi được trân trọng!  Tụng kinh niệm Phật, mà không biết đối xử từ bi hỷ xả, không áp dụng giáo lý trong cuộc sống hằng ngày, thì trách sao gia đạo chẳng bất hòa, con cái chẳng hư hỏng, người khác chẳng trân trọng!


Trường hợp sau, gieo nhân xấu ác, chẳng lành, trong hiện tại, nhưng quả báo chưa kịp trổ ngay hiện tại.  Trong khi đó, gieo nhân lành trong quá khứ, hiện tại đang trổ quả lành.  Tuy nhiên, khi những quả lành chấm dứt, nghĩa là phước báo hết, con người phải đền trả những nghiệp báo xấu ác, chẳng lành, đã tạo hiện tại hay trước đây. 


Do đó, chúng ta không ngạc nhiên khi đọc tin tức về một nhà triệu phú bị khánh tận tài sản, vợ con phản phúc, bạn bè trở mặt, đến nỗi phải quyên sinh, tự vẫn để thoát nợ đời!  Hoặc tin tức về các nhà lãnh đạo chính trị, hay tôn giáo, bị lật đổ, bị đão chính, bị ám sát, bị hành hình thê thảm, chết không chỗ chôn thây!  Hoặc tin tức về các công nương, quận chúa, hoàng tử gặp tai nạn trên xa lộ, chết chẳng toàn thây, gặp tai nạn trên biển cả, chết mất luôn xác!


Trong Kinh A Hàm, Ðức Phật có dạy:

·        Dù cho lên non, xuống biển vào hang,

·        nghiệp báo đã mang, vẫn theo con người,

·        như hình với bóng, không ai có thể,

·        tránh được thoát được.


2) Vấn đề chính quyền Hồi giáo Taliban phá hủy các tượng Phật cổ.  Hiểu rõ luật nhân quả như trên, chúng ta biết ngay rằng: việc chính quyền Hồi giáo Taliban xứ Afghanistan hiện tại (năm 2001) cho phá hủy các tượng Phật cổ, không phải là "quả" của nhân thiện lành "chưa từng xâm chiếm bất cứ nước nào" trước đây. 


Chúng ta nên thấu hiểu rằng: Luật nhân quả luôn luôn đúng trong ba thời, không hề sai chạy, không có ngoại lệ.  Chỉ hiềm một nỗi, chúng ta chưa đắc Phật nhãn, để thấy rõ tường tận, như người đứng trên lầu cao nhìn xuống ngã ba, ngã tư đường, mà thôi!  Cho nên, chúng ta không nên khẳng định: đâu là nhân, đâu là quả, trong trường hợp này!


Chỉ có những tượng Phật trang nghiêm, điêu khắc khéo, nét thanh tịnh, đáng được chiêm ngưỡng, thờ phượng.  Các tượng Phật hay tranh Phật bị hư hỏng, bị mối mọt gặm nhấm, mất trang nghiêm, cần nên hủy bỏ.  Có nhiều Phật Tử không nắm vững giáo lý, không dám hủy bỏ đi, cứ thắc mắc, động tâm mãi về chuyện này! 
 
Thêm nữa, chúng ta nên biết mọi sự sự vật vật trên thế gian này có hình tướng, chẳng hạn như là: cái bàn, cái nhà, tượng Phật, quả đất, đều trải qua bốn giai đoạn: thành, trụ, hoại, không.  Nghĩa là: tượng Phật cổ thành hình do công sức xây dựng của con người có tâm thành trước đây, trụ thế được hai ngàn năm nay, đã tới thời kỳ bị hư hoại với thời gian, với nắng mưa, và giờ đây trở về hư không, cũng do công sức phá hoại của con người.  Thành trụ hoại không, còn được biết là: sinh, trụ, dị, diệt.  Thế thôi!  Chúng ta không nên bận tâm, không nên động tâm về những chuyện xảy ra trên thế gian như vậy.
  

Trong Kinh Kim Cang, Ðức Phật có dạy:

·        Phàm sở hữu tướng, giai thị hư vọng. 


Nghĩa là: Phàm ở đời, cái gì có hình tướng thảy đều là hư vọng, là vô thường, không tồn tại vĩnh viễn, chính là nghĩa như vậy.  Ngay xác thân tứ đại của Ðức Phật Thích Ca cũng phải đem đi thiêu, sau khi nhập diệt.  Các đệ tử đã chuyển niềm tiếc thương ngậm ngùi thành sức mạnh, đem chánh pháp truyền bá đến muôn người, thuộc muôn thế hệ sau, cho được lợi ích không thể nghĩ bàn.  Nhờ đó, chánh pháp được lưu truyền mãi mãi cho đến ngày nay và ngàn sau.
 
Chúng ta nên biết rằng: Con người chỉ có khả năng hủy diệt tượng Phật, dù bằng vàng, bằng đá, bằng đồng, hay bất cứ vật liệu nào, chứ chẳng ai tiêu diệt được Phật Tánh. Tại sao như vậy?  Bởi vì, Phật Tánh không có hình tướng và mọi người đều có Phật Tánh một cách bình đẳng.
 

Trong Kinh Hoa Nghiêm, Ðức Phật có dạy:

·        Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật Tánh. 

Nghĩa là: Tất cả chúng sanh đều có Phật Tánh.
 
3) Phật giáo đại thừa và tiểu thừa.  Ðây chỉ là cách gọi các tông phái Phật giáo truyền đi từ các miền của xứ Ấn Ðộ, qua các xứ sở lân cận ở châu Á, còn được gọi là: Bắc tông và Nam tông.


Phật giáo đại thừa, còn được gọi là Phật giáo phát triển, bởi vì, du nhập vào bất cứ quốc độ nào, Phật giáo phát triển một cách hòa bình, hội nhập với văn hóa địa phương, không có sự tranh chấp hay kỳ thị, thường biến thành Phật giáo của xứ sở đó.  Chúng ta thấy có Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Trung Hoa, Phật giáo Nhật Bản, Phật giáo Triều Tiên, Phật giáo Tây Tạng, Phật giáo Ấn Ðộ, đều có bản sắc riêng biệt. 


Phật giáo tiểu thừa, còn được gọi là Phật giáo nguyên thủy, chủ trương giữ nguyên cách hành đạo thời Ðức Phật còn tại thế, cũng truyền bá một cách bình yên, an lạc, như là: Phật giáo Tích Lan, Phật giáo Thái Lan, Phật giáo Miến Ðiện, Phật giáo Ai Lao, Phật giáo Cao Miên.
 

Dù là tông phái nào, Bắc tông hay Nam tông, nói chung Phật giáo đều có tính thiết thực, thực tế, có thể áp dụng được trong cuộc sống hằng ngày, dù là Phật Tử hay không phải là Phật Tử, để thăng hoa cuộc sống, chuyển hóa tâm linh, biến bất an thành an lạc, biến khổ đau thành hạnh phúc. 


Phật giáo chủ trương con người phải tự cất bước trên con đường tu tâm dưỡng tánh, không có bất cứ ai làm thay mình được.  "Ai ăn nấy no, ai tu nấy chứng", đó là sự thực công bằng tuyệt đối.  Khi thực hành đến mức độ rốt ráo, ba la mật, chúng ta sẽ thấy mọi sự sự việc việc đều dung thông vô ngại, lý sự viên dung.


Ðức Phật chỉ cứu độ con người hữu duyên, tức là con người chịu tu học theo đúng chánh pháp, chứ không cầu nguyện van xin, để được Ðức Phật ban ơn cứu giúp.  Tại sao như vậy?  Bởi vì, van xin cầu nguyện thực sự có được gì đâu, chỉ làm cho con người được an tâm, bình an trong tâm hồn, trong khoảng thời gian bị nhiệt não mà thôi.


Trong Kinh Pháp Cú, Ðức Phật có dạy:

·        Hãy tự thắp đuốc, tự mình bước đi.

·        Thắp sáng trí tuệ, ngọn đuốc chánh pháp.


Nghĩa là mọi người phải tìm hiểu, học hỏi chánh pháp, đem ngọn đuốc trí tuệ của mình mồi với ngọn đuốc trí tuệ Phật, bằng cách nghe giảng giáo lý, nghiên tầm kinh điển, rồi tự suy nghĩ, ứng dụng trong cuộc sống hằng ngày, giữ gìn giới luật, tu tập thiền định, phát triển trí tuệ bát nhã.  Nhờ giữ gìn giới luật nên tâm trí được thanh tịnh và trí tuệ bát nhã khai mở.


Trong Phật giáo, đó là: tam vô lậu học "Giới Ðịnh Tuệ" và tam tuệ học "Văn Tư Tu", có khả năng đưa chúng ta đến chỗ giác ngộ và giải thoát.  Ðó chính là tính thiết thực của Phật giáo vậy.


4) Phật giáo Tây Tạng.  Còn việc các nước trước đây theo Phật giáo, nay biến thành Hồi giáo, mọi việc thay đổi, đổi thay chỉ chứng minh cuộc đời là vô thường, đúng lời Ðức Phật đã dạy trong kinh điển mà thôi. Riêng Phật giáo Tây Tạng gặp nạn phải lưu vong, đó là việc bất hạnh. Tuy nhiên, trong cái bất hạnh có cái hạnh lành, trong cái rủi có cái may, trong cái xui có cái hên, đó là: Phật giáo Tây Tạng hiện nay phát triển mạnh tại khắp nơi trên thế giới. 


Cũng như người Việt chúng ta sống khắp nơi trên thế giới hiện nay, không có gì gọi là: tủi nhục hay không tủi nhục. Tủi nhục hay an lạc không hẳn tùy thuộc nơi chốn, hay hoàn cảnh, mà tùy thuộc vào tâm thức của con người.  Tâm còn nhiều loạn động, con người còn thấy tủi nhục và đau khổ.  Tâm được bình an, thiền định, con người cảm thấy an lạc tự tại. 


Trong kinh sách có câu: "Tùy theo chỗ ở thường an lạc". 

Chúng ta thoát ra khỏi cảnh giới nhị biên đó, sẽ tìm được hướng tích cực, đó là: đem nhân lực, tài lực, vật lực, trí lực, từ mọi nguồn trên khắp thế giới, về phục vụ quê hương tổ quốc, khi hội đủ nhân duyên thuận tiện.  Ðó là cách chúng ta chuyển hóa nhân chẳng lành thành quả lành. 


Trong Kinh Hoa Nghiêm Ðức Phật có dạy:

·        Nhất thiết duy tâm tạo.   

Nghĩa là: cảnh giới thiên đàng niết bàn hay địa ngục trần gian, tất cả đều tùy thuộc vào tâm trạng của con người, do chính tâm của con người tạo ra.  Chẳng hạn như là: muốn được tâm Phật thì tự mình phải bỏ tâm ma.  Muốn được yên ổn thì tự mình phải bỏ tâm hay gây sự.  Bởi vì, sách có câu: "sinh sự thì sự sinh".  Do đó, đạo Phật mới có tam tạng kinh điển, chỉ dạy tám muôn bốn ngàn pháp môn, để giúp đỡ con người được giác ngộ và giải thoát. 


Tóm lại, các điểm sau đây chính là tính cách thiết thực của đạo Phật, mà Ðức Phật dạy trong các kinh điển:
 
 

·        Hãy chuyển hóa phiền não khổ đau thành an lạc hạnh phúc.

·        Hãy chuyển hóa thế gian ta bà khổ thành cõi tự tại niết bàn.

·        Hãy chuyển hóa phàm phu vô minh thành bực giác ngộ, 

·        chánh đẳng, chánh giác.    _





Trong kinh sách Chư Tổ có dạy:
Nội cần khắc niệm chi công
Ngoại hoằng bất tranh chi đức.

Đó là công phu và đức độ của người tu. Bên trong tâm, giữ gìn chánh niệm, gọi là công phu. Bên ngoài thân, không hơn thua, không tranh cãi, gọi đức độ. Thân và Tâm song hành tu tập gọi là Công Đức. Còn gọi là Phúc Tuệ song tu.

Điều quan trọng là muốn tu phải phát tâm học hiểu Phật Pháp cho thấu đáo và thực hành trong đời sống hằng ngày. Khi đó giới hạnh được vẹn toàn, tâm định được phát triển, trí tuệ được khai mở, con người cảm thấy được niềm an lạc thanh tịnh không thể nghĩ bàn.

Dù là người xuất gia hay tại gia, con người muốn tu mà không tha thiết mong cầu giác ngộ Phật Pháp, thì cuộc đời đi tu sống trong sự mệt mõi buồn chán, quanh năm suốt tháng, tin vào sự linh thiêng huyền bí và chỉ biết chờ đợi phép lạ một cách tiêu cực. Khi cái chết gần kề, lúc đó hoảng loạn, bơ vơ, tâm trạng vô thức, không biết rơi vào cảnh giới tốt xấu nào đây, có phải muộn quá hay không?

Đạo Phật được thế giới tôn vinh là đạo bình đẳng và từ bi trí tuệ bậc nhất. Tuyệt vời hơn nữa là tất cả người tu phát nguyện: “Vì chúng sanh đạt thành ngôi chánh đẳng chánh giác. Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn”. Nghĩa là: tự thân giác ngộ và cứu độ tha nhân, cho đến khi hạnh giác ngộ tròn đầy, tất cả chúng sanh ra khỏi lục đạo luân hồi.

Trong thời gian qua, nhân loại trên trái đất chịu đựng quá nhiều thiên tai. Sóng thần Nhật Bổn, bão tố Sandy, đã cướp mất bao nhiêu tài sản và nhân mạng của những người vô tội. Cảnh màn trời chiếu đất, cha mẹ mất con, vợ chồng ly tán, đau khổ tột cùng. Nhưng sau đó, họ không thể ngồi một chỗ than trời trách đất, suy sụp, buông trôi, hay giận cho trời già cay nghiệt, hận bản thân vô phước. Họ cùng nhau xây dựng lại ngôi nhà, vườn cây, khóm hoa, đem trở lại sự sống mãnh liệt trong tình người với người đầy lòng nhân nghĩa thân ái và bao dung. Đó chính là sức mạnh của Phật Tâm, Phật Tánh trong mỗi con người, trong cuộc sống hàng ngày, trên thế gian này.

Nói tóm lại, để sống một cuộc đời có ý nghĩa hơn, với Tâm Phật sẵn có, con người cần được thăng tiến trên con đường giác ngộ, giải thoát. Con người cần phải luôn phát nguyện vun bồi công đức và phước đức, cho đến khi được đầy đủ từ bi và trí tuệ, lý sự viên dung. Đây chính là điểm siêu việt của đạo Phật đối với chúng sanh với câu Phật ngôn bất hủ: “Ta là Phật đã thành, chúng sinh là Phật sẽ thành”. Ai ai cũng có thể tu theo con đường Phật dạy và đều có nhân duyên trọn thành Phật đạo.

Xin thành tâm cầu chúc cho những người con Phật, dù xuất gia hay tại gia, cùng là chúng sanh ở cõi ta bà, buông bỏ được tảng đá nặng nề của cái “ta” nhiều đau khổ phiền lụy và chuyển đổi những bất thiện nghiệp thành chư thiện nghiệp. Trước mắt còn đầy dẫy những khó khăn và thử thách cho người tu hành Phật đạo, con người cùng mạnh dạn bước từng bước chân chánh niệm, sáng suốt, an lạc, đi trên con đường tìm cầu giác ngộ.

 BBT PHẬT HỌC TỊNH QUANG




XUẤT GIA HAY TẠI GIA
CÚNG DƯỜNG TAM BẢO
PHÁP MÔN CHĂN TRÂU