VĂN-PHÒNG PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG CANADA

Các nghi lễ theo hình thức tôn giáo xưa nay đều pha trộn sự mê tín để thu hút tín đồ. Đó là sự thật. Các sự kiện linh thiêng phép lạ chỉ là tin đồn mê tín, không phải thiệt, miễn tranh cãi. Đó là sự thật. Con người hay thánh thần đều phải chết. Không ai cứu được ai. Vượt qua các nghi lễ tôn giáo, con người sẽ hiểu được sự thật: đó chính là Tự Lực Mới Thực Là Tu. Cầu nguyện có được gì đâu? Hãy sống đời tu phước & tích đức. Chính phước đức cứu tai qua nạn khỏi. Email: cutranlacdao@yahoo.com

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Saturday, 18 March 2017

con người sống đời phải có thiện tâm - mới cầu mong thiên đàng hay cực lạc


NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT 
(Cuối trang)


Thiên Đàng hay Cực Lạc đều là mộng tưởng, mơ ước, nếu không muốn nói là mê tín, cuồng tín, điên khùng.

SATURDAY 2017.3.18
Kính thưa Chư Vị,
Bài viết chuyển đi từ VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA thường được Quí Thân Hữu bốn phương chuyển đến những người thân quen biết do tính chất bất tùy phân biệt, nhất là không phân biệt về tôn giáo.
Tại sao?
Bởi lẻ dù theo bất cứ tôn giáo nào, đạo Chúa có Thiên Đàng, có Chúa Ba Ngôi ngự trên trời cao, đạo Phật có Tây Phương Cực Lạc Quốc, có Đức Phật A Di Đà cùng chư thánh chúng, các tín đồ đều phải có thiện tâm, khi sống được bình an, khi lìa đời cầu mong được lên các cõi Thiên Đàng hay cõi Cực Lạc.
Tuy nhiên, nếu trong cuộc sống hiện tại, con người không ăn hiền ở lành, không có thiện tâm thì chuyện cầu nguyện lên Thiên Đàng hay vãng sanh Cực Lạc là điều chỉ có trong mộng tưởng, trong mơ ước, nếu không muốn nói là mê tín, cuồng tín, điên khùng.
VP. PHTQ. CANADA 




On Friday, March 17, 2017 10:34 AM, VP. PHAT-HOC TINH-QUANG CANADA
cutranlacdao@yahoo.com wrote:
On Friday, March 17, 2017 1:55 PM, Ty-Khuu Thich-Chan-Tue
cutranlacdao.2010@gmail.com wrote:


LINK

http://phtq-canada.blogspot. ca/2011/07/chuyen-trong-oi- phtq-so-15.html

CHUYỆN TRONG ĐỜI (PHTQ SỐ 15)

CHUYỆN TRONG ĐỜI

-    Mẹ ơi, con dời cái ly cà phê qua chỗ nào, tại sao mặt bàn cũng bị dính dơ hết vậy?

-    Con phải lau cái đít ly cho sạch, trước khi dời qua chỗ khác. Cái đít ly bị dơ, con dời đến đâu, làm dơ đến đó.

-    Dạ, cám ơn Mẹ chỉ dạy. Con đã hiểu rồi!  []

SUY NGẪM:

Con người thường than cuộc đời bất hạnh này sao lắm trái ngang, nhiều phiền não, khổ đau, con cái bất hiếu, bạn bè bất tín, thường gặp kẻ xấu, không gặp người tốt, thường gặp bất trắc, ít gặp may mắn.

Cho nên, con người thường bi quan, chán đời, và mơ ước có một thế giới khác, toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ, nơi đó con người hưởng đầy đủ sự sung sướng, muốn ăn có ăn, muốn mặc có mặc, cả ngày đi chơi, khỏi phải làm việc.

Chính tư tưởng ích kỷ, thêm tánh lười biếng, tâm quá tham muốn, đã đưa con người đến chỗ chỉ biết niệm Phật, cầu nguyện vãng sanh tây phương cực lạc quốc, mà không hề nghĩ gì đến chuyện nghiên cứu giáo lý, hiểu biết tường tận lời dạy quí báu của đức Phật, để thực hành tu sửa tâm tánh, chuyển hóa thân khẩu ý bất thiện, bất tịnh, thành ra thân khẩu ý thiện lành, thanh tịnh.

Thân khẩu ý, là tam nghiệp, chưa thanh tịnh, chưa thiện lành, cũng như cái đít ly còn be bét uế trược, dù có dời đổi đến chỗ nào, cũng đem ô uế đến nơi đó mà thôi.

Tóm lại, con người biết tu sửa tam nghiệp cho được thanh tịnh, chuyển đổi tâm tánh, không cần mong cầu, dù sống bất cứ nơi đâu, cũng cảm nhận sự an lạc và hạnh phúc. Thực tu chính là như vậy đó. []
 



http://nguoiphattu.com/tu-hoc/tim-hieu-van-dap/3151-tim-hieu-hinh-anh-duc-phat.html

Tìm hiểu hình ảnh Đức Phật


nguoiphattu.com - Hãy nhìn lên hình tượng của Đức Phật. Cái hình tượng đó gợi lên trong trí ta điều gì? Một thể dạng an bình và một lòng nhân ái mở rộng hướng thẳng vào con tim của mình. Đấy mới thật là những gì chính yếu.
Lời giới thiệu của người dịch:
Bài viết dưới đây là bản dịch chương 4 trong quyển Phật Giáo Đại Cương (ABC du Bouddhisme, nxb  Grancher, 2008) của học giả Phật Giáo Fabrice Midal. Chương 1 của quyển sách này gần đây cũng đã được chuyển ngữ và đưa lên một vài trang web (mang tựa là "Người Phật tử ngày nay trong thế giới Tây Phương", có thể xem trên các trang web Chùa Phúc Lâm online, Thư viện Hoa Sen, Quảng Đức, ...)
Đức Phật có thật hay không ?
Tất cả các tài liệu lịch sử đều chứng minh cho thấy là Đức Phật có thật và sống cách nay đã hai-mươi-sáu thế kỷ. Ngài là con của một vị vua thuộc dòng họ Thích-ca (Sakya) trị vì một vương quốc nhỏ dưới chân dãy Hy-mã-lạp sơn, trong một vùng thuộc lãnh thổ Nepal ngày nay. Tên tục của Ngài là Tất-đạt-đa (Siddharta), họ là Cồ-đàm - vì thế mà người ta thường gọi Đức Phật là Ngài Cồ-đàm.
Trong thời gian khi còn tu khổ hạnh người ta còn gọi Ngài bằng một tên khác là Thích-ca Mâu-ni, có nghĩa là "Vị Thánh Nhân của Yên Lặng thuộc dòng họ Thích-ca".
Sau khi nhất quyết là sau này sẽ không đảm nhận chức vụ thủ lãnh nắm giữ quyền bính tạm thời (tức chính trị) trong vương quốc của vua cha thì Ngài từ bỏ cung điện xa hoa để chọn cuộc sống của một người tu tập tâm linh. Khi ba mươi tuổi thì Ngài đạt được giác ngộ và sau đó thì bắt đầu thuyết giảng. Ngài đã mang lại một niềm khích lệ lớn lao và sáng lập ra tập thể những người xuất gia. Ngài tịch diệt bên cạnh các đệ tử của mình khi được tám-mươi tuổi.
Bìa quyển sách "Phật Giáo Đại Cương" và tác giả Fabrice Midal
Những kinh nghiệm cảm nhận chủ yếu nào đã khiến cho Đức Phật trở thành một người sáng lập tôn giáo?
Những vấn đề khúc mắc khiến cho Đức Phật hằng ray rứt đều mang tính cách vô cùng sâu xa và khác thường. Có phải là Ngài đã hỏi tại sao chúng ta lại cứ dấn thân vào một cuộc sống luôn phải phấn đấu chỉ để mang lại sự hung bạo và để kéo dài bất tận sự hung bạo đó. Tại sao chúng ta lại phải gạt bỏ cái nhân tính tiềm tàng trong chính mình để chọn cho mình một cuộc sống dẫy đầy hận thù? Tại sao chẳng mấy khi chúng ta có dịp để chứng tỏ rằng mình là một con người? Tại sao chúng ta lại không thể thực hiện được những gì mình hằng mong ước mà lại cứ đắm mình vào những thứ không nên làm?
Đấy là những gì mà Đức Phật đã ưu tư. Con người luôn bị lọt ra bên lề cuộc sống. Họ tranh đấu nhằm mang lại cho mình thành công và hạnh phúc, thế nhưng càng vùng vẫy bao nhiêu thì những mục tiêu ấy lại càng trở nên xa vời bấy nhiêu.
Tuy sống trong huy hoàng thế nhưng Đức Phật cũng biết là có nhiều người khác đã từng chối bỏ sự hào nhoáng ấy để quay lưng đi và quên nó (các người tu khổ hạnh vào thời bấy giờ). Ngài tự hỏi tại sao lại có thể như thế được.
Trái với những gì người ta thường hiểu một cách sai lạc, thật sự là ta không thể tìm thấy được lời giáo huấn nào mang nhiều tính cách tự tin và lạc quan hơn những lời giảng dạy của Đức Phật.
Đức Phật luôn căn cứ vào hiện thực và nhận thấy chỉ có một con đường duy nhất có thể mở ra một lối thoát cho con người. Đấy là cách không nên cố gắng tìm mọi cách để lẩn trốn khổ đau, bất toại nguyện và lo buồn mà phải nỗ lực quan tâm tìm hiểu chúng. Thật vậy có rất nhiều phương tiện giúp chúng ta nhìn vào cách mà chúng ta đang sống.
Cái lâu đài đầy tiện nghi mà vua cha đã dựng lên để cố kềm giữ Ngài thật ra chỉ là một  nhà tù với các bức tường được dựng lên bằng sự sợ hãi. Tương tự như vậy, chúng ta cũng đang bị giam giữ trong cái ngục tù của sự kinh hoàng trước bệnh tật, già nua và chết chóc, và đấy chính là những gì khiếp đảm nhất của hiện thực.
Suốt gần năm-mươi năm từ khi đạt được giác ngộ cho đến lúc tịch diệt, Đức Phật không một lúc nào lại không nhắc nhở cho chúng ta biết là chúng ta đang tự lừa dối mình. Chúng ta không nên trốn lánh sự sợ hãi và khổ đau mà phải lắng nghe chúng hầu tìm hiểu chúng, và đấy là cách duy nhất để giúp chúng ta có thể loại bỏ được chúng.
Hãy nhìn thẳng vào sự hiện hữu của chính mình để phấn đấu. Chưa hẳn là mình sẽ thắng, thế nhưng cũng chưa phải là mình sẽ thua. Đã là con người thì chúng ta lúc nào cũng có đủ khả năng giúp mình tự giải thoát khỏi mọi thứ gông cùm xiềng xích - chẳng hạn như việc thay đổi thể dạng tâm thần của mình.
Phương pháp luyện tập thiền định sẽ giúp chúng ta thực hiện được điều ấy.
Đấy cũng chính là con đường mà Đức Phật đã mở ra cho chúng ta.
Đức Phật là một vị trời hay một con người?
Đức Phật không giống như các vị sáng lập ra các tôn giáo khác bằng cách chỉ dựa vào Kinh Sách - chẳng hạn như Abraham, Moïse, Chúa Ki-tô hay Mahammed. Đức Phật không phải là một nhà tiên tri (prophète / prophet, tiếng Hy Lạp là prophêtês, có nghĩa là một vị tự cho mình mang tính cách linh thiêng, tiên đoán được những biến cố sẽ xảy và dựa vào đó để mà thuyết giảng bằng lời hay bằng chữ viết. Các biến cố mà các vị ấy tiên đoán thường là các tai ương sẽ xảy ra trong tương lai - tức có nghĩa là một sự hăm dọa). Đức Phật trái lại chỉ là một con người bình dị đã nêu lên những kinh nghiệm cảm nhận mà mỗi con người đều có thể thực hiện được. Ngài không hề nắm giữ bất cứ gì mang tính cách thần khải. Không có ai trao truyền cho Ngài một thông điệp mang tính cách linh thiêng, siêu nhiên hay thuộc vào một thế giới khác hơn là cái thế giới này.
Thiên Chúa Giáo đòi hỏi các tín đồ phải tin vào Chúa Ki-tô tức là vị Con Trời đã chết trên cây thánh giá và sau đó thì sống lại. Trọng tâm của tôn giáo ấy dựa vào một đức tin vượt lên trên mọi khả năng lý luận.
Trái lại đối với sự thật nêu lên trong giáo huấn của Đức Phật thì đơn giản là chỉ dựa vào một thể dạng tự do và sinh động của thực tại - dù cho thể dạng ấy mang tính cách tiềm ẩn, tức là còn bị che khuất và u mê. Con đường chỉ là một cách đơn giản giúp chúng ta nhận thấy đích thật cái thể dạng ấy và giúp nó hiển lộ ra trong lòng mình. Đức Phật không hề quan tâm đến Đấng Tối Cao hay các vị trời khác. Dầu sao đi nữa theo Đức Phật thì các vị ấy không thể giúp mình tự giải thoát cho mình được. Con đường duy nhất là phải ngồi xuống để nhìn vào những kinh nghiệm cảm nhận của chính mình trong từng giây phút một, với tất cả sự chân thật và ngay thẳng. Quả thật là chẳng ai có thể làm được việc ấy thay cho mình cả.
Vào thời khắc trọng đại nhất khi Đức Phật sắp đạt được sự Giải Thoát, nghĩa là lúc  Ngài sắp bước sang phía bên kia (để đạt được sự Giác Ngộ) thì cũng chính là lúc mà Ngài bị ma quỷ tấn công mãnh liệt nhất. Chúng tìm đủ mọi cách làm cho Ngài phải bị hủ hóa, chúng quyến rũ để đánh lạc hướng Ngài, thế nhưng đồng thời đấy cũng chính là lúc mà Ngài đã biểu lộ một hành động thật phi thường, một hành động độc nhất trong lịch sử nhân loại, mang một chiều sâu vô hạn: Ngài đã dùng bàn tay của mình để chạm vào mặt đất và mượn mặt đất làm nhân chứng cho Ngài.
Thay vì trỏ tay lên trời để bảo cho mọi người biết rằng sứ mạng của mình là do Trời giao phó thì Đức Phật lại hướng tay mình xuống mặt đất của thế gian này. Rất nhiều ảnh tượng biểu trưng cho cái dấu ấn thật tinh tế ấy của Đức Phật khi Ngài dùng bàn tay mình để chạm vào mặt đất. Thật vậy không thể có một biểu tượng nào mang nhiều ý nghĩa hơn thế để chứng minh cho thấy rằng trước hết Ngài chỉ là một con người bình dị, bình dị như mỗi con người trong tất cả chúng ta. Một con người bước đi trên mặt đất này và chỉ quan tâm đến những gì thật đơn sơ của hiện thực mà không hề chờ đợi những ước mơ và hy vọng xa vời.
Đức Phật chạm tay xuống mặt đất để
chứng minh cho sự chiến thắng của mình trước bọn ma vương
(điêu khắc nổi thuộc triều đại Pala-sena, Ấn Độ, thế  kỷ thứ X,
đá Basalt màu đen, bảo tàng viện Guimet-Paris)
Thế nhưng lại chính là nhờ vào sự khám phá ra cái thể dạng vượt thoát khỏi mọi bám víu và hận thù luôn lôi kéo tất cả chúng ta phạm vào lầm lẫn, mà Đức Phật đã trở thành một sinh linh thiêng liêng. Cuộc đời và những lời giáo huấn của Ngài là những gì vô cùng kỳ diệu tượng trưng cho một bầu không gian mở rộng, vượt lên tất cả các quan niệm của đời thường. Đối với nhiều học phái thì Đức Phật không phải là một con người được sinh ra, sống và chết đi, mà thực sự chính là một thể dạng sinh linh luôn hiện hữu trong thực tại và đồng thời cũng là sự thật của chính cái thực tại ấy.
Khi nhìn một pho tượng Phật chúng ta cũng có thể nhận thấy được sự biến đổi của một con người, đấy là một tấm gương nêu lên lòng quả cảm và quyết tâm đã khiến cho một con tim ngập tràn bởi sự an bình và niềm yêu thương, là một bầu không gian mở rộng của tình thương yêu tinh khiết và của cả thực tại nữa - và đấy cũng là những gì hiện hữu trong từng giây phút một.
Như vậy nếu hiểu được ý nghĩa đó thì chúng ta cũng nên tránh các thói quen suy nghĩ nhị nguyên của mình từ trước để nhìn vào Đức Phật như là một con người hoàn hảo và hoàn toàn thiêng liêng.
Các ảnh tượng biểu thị Đức Phật có trung thực với hình ảnh của chính Ngài hay không?
Người nghệ sĩ không phải là một phóng viên báo chí mà họ chỉ là người diễn đạt. Họ chỉ tìm cách thể hiện các phẩm tính nơi sự hiện hữu của Đức Phật mà không chú ý đến các đặc tính trên thân thể Ngài. Nhằm đạt mục đích đó các nghệ nhân trước hết đã dựa vào một số biểu tượng dễ nhận biết nhất để biểu thị cho Đức Phật: thí dụ như một chiếc ngai, vết chân của Ngài, chiếc bánh xe tượng trưng cho giáo huấn của Ngài, một đóa hoa sen...
Về sau này, chính xác hơn là vào thế kỷ thứ I, thì mới thấy nảy sinh ra ý kiến biểu thị Đức Phật qua nhân dạng con người. Điều này sở dĩ xảy ra có lẽ là do người Hy Lạp đã nhìn vào Đức Phật xuyên qua hình ảnh vị thần Apollo của họ (có thể xem thêm bài viết "Nghệ thuật biểu thị nhân dạng Đức Phật").
Ngày nay chúng ta có thể biết thêm rằng Đức Phật vào thời bấy giờ rất có thể là một người gầy còm và da dẻ màu sậm đen chứ không như một số ảnh tượng mà chúng ta vẫn thường thấy ngày nay. Nhờ vào việc nghiên cứu Kinh sách Chính Thống bằng tiếng Pa-li và nhất là dựa vào các công trình khảo cứu của các sử gia hiện đại thì người ta mới hiểu rằng Đức Phật không phải là một vị hoàng thân tầm cỡ lớn, cũng không sống trong một lâu đài nguy nga, mà đúng hơn thì Ngài chỉ là con của một vị vương công khiêm tốn trong vùng. Thế nhưng điều ấy nào có gì là quan trọng.
Hình tượng chỉ giữ vai trò gợi lại những lời giáo huấn mà Ngài đã để lại cho chúng ta,  nhưng tuyệt nhiên không phản ảnh một sự thật nào về xác thân con người của Ngài. Hơn nữa tại mỗi vùng địa lý, người ta lại hiểu giáo huấn của Ngài một cách khác đi đôi chút, con người ở những nơi ấy đã thích ứng Phật Giáo với lịch sử của họ và cả những gì mà họ ước mơ, để rồi hình dung ra hình ảnh của Ngài một cách khác đi (xin chú ý đây cũng là ý nghĩ mà tác giả sẽ khai triển khi trình bày về nguồn gốc của Đức Phật Di Lặc trong phần kết). Thế nhưng phải hiểu rằng tất cả những hình ảnh ấy đều nói lên một sự thật duy nhất, dù không mang tính cách lịch sử đi nữa thì sự thật tâm linh ấy cũng hàm chứa một giá trị thật cao.
Dù có cố gắng tìm lại hình ảnh Đức Phật lịch sử với bất cứ giá nào thì đấy cũng chỉ là một cách bám víu phát sinh từ bản chất vô minh của mình, và cũng cho thấy là mình chẳng hiểu gì cả về những lời giáo huấn của Ngài. Bản thân của Đức Phật chẳng có gì hệ trọng cả. Đấy chỉ là một biểu tượng sống thực của sự Giác Ngộ. Điều mà chúng ta cần tìm kiếm chính là sự giác ngộ chứ không phải là các chi tiết liên quan đến tiểu sử của Ngài hay là dáng vóc của Ngài.
Hãy nhìn lên hình tượng của Đức Phật. Cái hình tượng đó gợi lên trong trí ta điều gì?
Một thể dạng an bình và một lòng nhân ái mở rộng hướng thẳng vào con tim của mình. Đấy mới thật là những gì chính yếu.
Chúng ta học được những gì từ các ảnh tượng của Đức Phật?
Trước hết các ảnh tượng ấy cho biết Ngài là ai. Vào thời đại của chúng ta ngày nay, vai trò ảnh tượng không còn giữ được tính cách thiêng liêng như trước nữa. Đối với chúng ta, khá lắm thì đấy cũng chỉ là những tác phẩm gợi lên một sự say mê nào đó dưới khía cạnh thẩm mỹ. Thế nhưng đối với người Phật tử thì ảnh tượng của Đức Phật là những gì giúp họ tiếp cận trực tiếp với sự hiện diện của Ngài trong thực tại. Các ảnh tượng ấy không phải là các tác phẩm của một nghệ sĩ nhằm mô tả những cảm hứng của mình. Người sáng tạo ra các ảnh tượng ấy luôn tìm cách xóa bỏ chính mình để nhường chỗ cho những gì họ muốn diễn tả có thể bộc lộ ra với sự rạng rỡ nguyên sinh của nó. Nếu nhìn theo chiều hướng ấy thì bất cứ một tác phẩm Phật Giáo nào cũng đều mang tính cách thiêng liêng, đều nhằm phản ảnh cái đẹp tinh khiết nhất của nó. Cái đẹp đó không có mục đích mang đến cho chúng ta một cảm xúc thích thú nào cả mà đúng hơn là giúp mở rộng con tim của chúng ta một cách thật kiên cường và quảng đại.
Quả thật hết sức khó để có thể đọc những gì được ghi trong các trang kinh sách viết bằng tiếng Phạn hay tiếng Pa-li hầu thấu triệt được các lời giảng dạy của Đức Phật. Hàng rào ngăn cách về ngôn ngữ là một trở ngại lớn. Việc dịch thuật không mấy khi mang lại các kết quả mong muốn và hơn nữa cuộc sống tân tiến ngày nay đã khiến cho một số các lời giảng huấn mà người ta cho là của Đức Phật có thể trở nên khó hiểu. Thế nhưng đơn giản hơn cả là chỉ cần nhìn vào ảnh tượng của Đức Phật thì chúng ta cũng có thể cảm nhận được sự hiện diện của Ngài. Con đường này thật vô cùng giản dị.
Đôi khi ảnh tượng cũng đủ để giúp chúng ta nhận thấy quyết tâm phi thường của Ngài trong khi thiền định: toàn thân Ngài rắn lại vì cố gắng. Còn có một tấm gương nào quý giá hơn để chúng ta nhìn vào hay không?
Đôi khi ảnh tượng cũng cho thấy Ngài dường như vượt thoát khỏi mọi thứ căng thẳng và hiện ra như một thực tại thật tinh khiết và tự nhiên không cần phải biểu lộ, bởi vì cái thực tại tinh khiết ấy đã vượt lên trên tất cả mọi tiêu chuẩn nhỏ hẹp.
Tại sao các ảnh tượng của Đức Phật lại thường giống nhau?
Bởi vì việc biểu thị Đức Phật chỉ có tính cách tượng trưng nhằm nói lên các phẩm tính của sự Giác Ngộ nơi Ngài. Ảnh tượng thường cho thấy trên đỉnh đầu của Ngài có một cái bướu (tượng trưng cho trí tuệ) và giữa hai lông mày thì có một túm lông nhỏ (tượng trưng cho sự quán thấy sâu xa). Hai trái tai thì thòng xuống, đấy là vì phải đeo các bông tai thật nặng khi Ngài còn là một vị hoàng thân. Tóc cắt ngắn tượng trưng cho cuộc sống xa lìa thế tục, bởi vì vào thời bấy giờ tóc để dài là cách biểu trưng cho quyền lực và uy thế. Động tác của hai tay thì luôn mang một ý nghĩa nào đó, chẳng hạn như để nói lên rằng: " Đừng lo sợ", "Hãy cố lắng nghe những lời giảng huấn" hoặc "Mặt đất này là nhân chứng duy nhất của Ta".
Khi nói rằng Đức Phật là bản thể đích thật của ta thì đấy có ý nghĩa gì?
Đức Phật khuyên chúng ta nên thức tỉnh hầu giúp chúng ta có thể quán nhận được những gì cao quý trong sự hiện hữu của chính mình, bởi vì nếu thiếu sự tỉnh thức thì chúng ta nào có thể khám phá ra được thể dạng cao quý của chính mình. Nếu nhìn vào khía cạnh đó thì quả thật là không có gì sai lầm hơn khi biến Đức Phật thành một thần tượng điện ảnh Hollywood để nhìn vào đấy mà bắt chước theo. Điều đó không thể chấp nhận được. Đức Phật không thuộc vào bất cứ một nơi nào cả bởi vì Ngài đang trú ngụ trong tâm thức của chính ta. Không nên tôn thờ Ngài từ bên ngoài mà phải nhận thấy được Ngài đang hiện hữu trong lòng mình.
Biết suy tư để nhận ra được điều ấy không phải là chuyện dễ chỉ vì chúng ta vẫn có thói quen luôn đi tìm những gì mong muốn ở những nơi không thể nào có được những thứ ấy, tức là những nơi mà chúng ta luôn phạm vào mọi sự sai lầm. Thế giới Tây Phương thường xem con người là kẻ phạm tội, luôn bị chi phối bởi tội lỗi. Dó đó phải tuân thủ một số quy luật và nghi lễ nào đó để chủ động lấy mình, để mình không lăn xuống vực sâu.
Đối với hầu hết các tín ngưỡng thì vấn đề mấu chốt là: làm thế nào để khống chế được mình, không để cho con thú ẩn nấp bên trong mình đè bẹp được mình ?
Phật Giáo không chia sẻ quan điểm ấy. Phật giáo chỉ nhìn vào những nơi nào có thể phát huy được lòng tốt mà thôi. Phật Giáo không ngả theo và cũng không chống lại Rousseau (1712-1778, là nhà văn, triết gia và soạn nhạc gia người Pháp, chủ trương một khái niệm mang tính cách vừa triết học vừa chính trị liên quan đến bản chất tự nhiên của con người trước khi xã hội được hình thành, và cái bản chất đó là những gì mang lại hạnh phúc cho con người - ghi chú thêm của người dịch). Thế nhưng ông ta lại không hề khẳng định là con người chỉ có thể hoàn hảo dưới thể dạng rừng rú (tức thuộc vào thời bán khai khi chưa bị xã hội hủ hóa). Ông ta xem đấy là một thứ gì mang bản chất tốt (đại khái như khái niệm "nhân chi sơ tính bản thiện" của Khổng Tử) hướng vào các kinh nghiệm của sự cảm nhận, và ông dựa vào đấy mà phân tích một cách thật khắt khe để tìm hiểu tại sao chúng ta lại chối bỏ và làm cho ô uế cái bản chất tốt ấy đi.
Kinh Hoa Sen (Pháp Hoa) có thuật lại một câu chuyện về một người nghèo khó tìm gặp một người bạn thuở thiếu thời. Người bạn này thì lại thật giàu có và khi trông thấy cảnh khốn cùng của bạn mình bèn kín đáo nhét vào áo của người này một viên ngọc thật quý mà không nói gì cả, chẳng qua cũng vì không muốn cho bạn mình biết để khỏi ái ngại. Nhiều năm sau thì bất ngờ người này lại gặp lại bạn cũ và thấy bạn mình vẫn cứ nghèo đói như xưa. Quá đỗi ngạc nhiên, người này liền sờ vào vạt áo của bạn mình và nhận ra là viên ngọc vẫn còn đấy. Qua không biết bao nhiêu năm tháng dài mà người ấy vẫn không tìm được viên ngọc quý trong áo mình. Quả là chúng ta cũng chẳng khác gì với người ăn xin ấy vì mang trong người một viên bảo châu mà nào có hề hay biết.
Con  đường của Đức Phật cũng không có mục đích nào khác hơn là giúp chúng ta tìm thấy cái kho tàng quý giá đó của chính mình.
Cái kho tàng ấy không phải là một món quà tặng của Đấng Tối Cao mà thật ra là sở hữu riêng của tất cả mỗi con người. Vậy làm thế nào để biết được cái gia tài đó?
Hãy lấy một thí dụ.
Khi ta đang tản bộ giữa một khung cảnh thiên nhiên và bỗng cảm thấy vô cùng xúc động, đến độ chỉ muốn hòa mình vào cảnh thiên nhiên đang tỏa rộng ấy để nhập thành một thực thể với nó, và sẽ không còn một ngăn cách nào giữa ta và thế giới chung quanh. Cái kinh nghiệm cảm nhận ấy cũng có thể xảy ra khi gặp được một con người nào đó, và từ cuộc gặp  gỡ ấy bộc phát ra một thứ cảm tính tự nhiên của tình thương yêu. Đấy là giây phút tượng trưng cho một sự mở rộng, và con người ấy biết đâu cũng có thể là Đức Phật. Con đường sẽ tập cho chúng ta biết trú ngụ trong chính nét mặt của Ngài.
Khi nào kinh nghiệm cảm nhận về một sự mở rộng như trên đây giúp cho ta hòa nhập với nó thì nó sẽ đánh thức trong ta một sự hiểu biết thật căn bản để luôn ước vọng được đặt niềm tin của mình vào nó. Phật giáo không phải là một sự mong cầu tìm được một cái gì mà mình không có, mà đúng hơn chỉ là con đường giúp mình trở về với chính mình.
Đức Phật có phải là người lập ra một tôn giáo, một học phái triết lý hay một ngành tâm lý học hay không?
Phật giáo cũng có việc cúng kiến, cũng có chùa chiền, tất cả các thứ này có thể là nguyên nhân khiến người ta có cảm tưởng là Phật Giáo cũng không khác gì với các tôn giáo theo kiểu Do Thái Giáo, Thiên Chúa Giáo hay Hồi Giáo. Thế nhưng thật ra thì lại khác hẳn. Lý do chính yếu nhất là Phật Giáo không tin vào một vị Trời sáng tạo, và điều đó cũng cho thấy Phật Giáo là một tôn giáo duy nhất không tin tưởng có Thượng Đế (non-theism).
Phép thiền định mà Phật Giáo đưa ra không nhằm vào mục đích hòa nhập với một thể dạng linh thiêng, hoặc một sự tuyệt đối, hoặc bất cứ một thể dạng đơn thuần tri thức nào cả, mà đúng hơn là để phát huy một sự chú tâm chính xác và bền vững hướng vào tất cả những gì đang hiện hữu.
Phật Giáo cũng không phải là một tín ngưỡng dựa vào giáo điều. Người tu tập theo Phật Giáo không cần phải phát lộ đức tin của mình đối với bất cứ một thứ gì để dựa vào đó mà trở thành một người Phật tử. Trái lại là đằng khác, các vị thầy Phật Giáo thường nhắc nhở người tu tập phải luôn cảnh giác và thắc mắc để tự tìm hiểu thêm. Đức Phật đã từng nói rằng: "Không được tin bất cứ gì Ta nói là đúng, chỉ vì đấy là do Ta nói. Trái lại phải mang ra thử nghiệm những lời giáo huấn của Ta giống như một người thợ kim hoàn thử vàng. Nếu sau khi quán xét các lời dạy của Ta mà nghiệm thấy là đúng, thì lúc ấy mới nên mang ra thực hành. Dầu sao thì nhất định cũng không phải là vì kính trọng ta mà mang ra thực hành".
Có một điều cần phải khẳng định một cách dứt khoát là Đức Phật không thể nào cứu độ chúng ta được. Thật vậy Đức Phật không thể làm gì được cho chúng ta cả. Ngài chỉ có thể trỏ cho chúng ta thấy một con đường, và mỗi người trong chúng ta phải tự mình bước theo con đường đó.
Mỗi người phải nhận lãnh trách nhiệm về sự hiện hữu của chính mình.
Phật Giáo cũng không phải là một triết học, bởi vì Phật Giáo luôn tránh không trả lời các loại câu hỏi đơn thuần chỉ mang tính cách tự biện hay siêu hình.
Kinh sách kể chuyện về một người cứ khăng khăng nhất quyết đòi hỏi Đức Phật phải giải đáp cho bằng được, thế rồi Ngài đành phải thuật lại cho người ấy nghe một câu chuyện như sau: "Nếu có ai bắn một mũi tên làm cho mình bị thương và mình biết rõ đấy là một mũi tên có tẩm một thứ thuốc độc thật mạnh. Vậy có nên tìm hiểu xem người bắn mũi tên mang tên  gì, giai cấp xã hội của hắn là gì, hắn từ làng nào đến đây, cái cung và mũi tên của hắn làm bằng vật liệu gì? Tất nhiên là không nên thắc mắc về những điều ấy. Trái lại thì phải phản ứng nhanh chừng nào tốt chừng ấy để rút mũi tên ra khỏi vết thương và tìm ngay thuốc hóa giải chất độc để mà băng bó". Chính vì lý do đó mà Đức Phật thường được xem như một vị lương y hơn là một hiền giả hay một triết gia.
Ngay cả các tư tưởng của Long Thụ thường được xem là các tư tưởng thuộc loại tinh tế nhất trong Phật Giáo cũng không thuộc vào lãnh vực triết học. Lý do thật hết sức đơn giản là vì triết học chỉ là một cách thắc mắc của người Hy Lạp mà thôi (cũng xin mạn phép nhắc thêm là tác giả tốt nghiếp tiến sĩ triết học tại đại học Sorbonne Paris).
Nếu không chú ý đến khía cạnh trên đây thì sẽ khó tránh khỏi những điều nghịch lý hết sức trầm trọng. Trong lãnh vực triết học người ta thường tìm cách chuyển những gì không biết trở thành biết (hiểu biết bằng sự lý luận và tự biện triết học) và đấy cũng là cách phủ nhận những gì mang tính cách cá biệt của Phật Giáo (tức phủ nhận Phật Giáo vượt lên trên triết học). Phật Giáo không giống với bất cứ một cơ cấu triết học nào của Tây Phương - dù đấy là chủ nghĩa hoài nghi, chủ nghĩa yếm thế, chủ nghĩa hưởng lạc.... Cũng không thể nào đưa Phật Giáo đến gần với các tư tưởng của Descartes, Spinoza, Kant hay Nietzche (ba triết gia đầu tiên chủ trương có Trời, vị thứ tư thì cho là “Trời đã chết”). Phạm vi và cách nhìn của Phật giáo ở vào một nơi khác. Do đó thật hết sức quan trọng phải luôn bảo vệ sự độc đáo của Phật Giáo.
Phật Giáo cũng có những bài hát, những lời xiển dương, nghi thức cúng bái, lễ lạc - và nhất là thiền định. Do đó Phật Giáo không phải là một hình thức suy tư tự biện về hiện thực mà đúng hơn là một con đường đích thật liên quan đến từng hành động, ngôn từ và tư duy của chúng ta.
Phật Giáo mang đến cho tất cả mọi con người thuộc mọi giới tính một con đường giúp cho họ sống một cách toàn vẹn sự hiện hữu của chính họ. Con đường ấy không dẫn dắt chúng ta bước vào một xứ sở nào khác mà chỉ đơn giản là đưa chúng ta đến gần hơn với chính con người của mình, nơi đó đang vang lừng tiếng hát của cả một không gian rộng lớn.
Phật Giáo là một "con đuờng không chủ đích" hay là một "lối đi không lối đi" - đấy là cách nói nhằm nhấn mạnh sự kiện là hành động bước theo con đường sẽ quan trọng hơn nhiều so với kết quả mong cầu sẽ đạt được do con đường đó mang lại.
Phật Giáo có phải là vô thần hay không?
Phât Giáo không tôn thờ một vị Trời Sáng Tạo, thế nhưng đấy không có nghĩa Phật Giáo là vô thần. Thật thế Phật Giáo luôn cảnh giác chúng ta trước mọi hành vi mang tính cách tín ngưỡng và khuyên chúng ta phải luôn quán xét và thận trọng đối với khá nhiều điểm tương đồng trong cuộc phấn đấu của chủ nghĩa vô thần nhằm giải thoát cho mình ra khỏi các gông cùm tạo ra từ các thứ giáo điều.
Tuy nhiên mặt khác thì Phật Giáo cũng lại rất gần với các tôn giáo của chúng ta (tức của người Tây Phương), chẳng hạn như khi một vị tu sĩ Phật giáo gặp một vị tu sĩ Thiên Chúa Giáo thì cả hai đều cảm thấy là mình cùng chia sẻ một thứ gì thật chủ yếu.
Dầu sao thì Phật Giáo cũng mang tính cách vô-thần thật sâu xa. Phật Giáo chủ trương  một sự phân tích không nhân nhượng nhằm vạch ra cho thấy cái bẫy đang được giăng ra trong các tín ngưỡng hữu thần: đấy là cách mà ta phải khẳng định là có một vị trời khác với mình, và tiếp theo đó thì vị trời lại dựa vào sự hiện hữu của ông ấy để mà xác nhận là có sự hiện hữu của ta và còn thiết đặt cả cho ta các kinh nghiệm cảm nhận của chính ta (có nghĩa là vị ấy có thể ban cho ta hạnh phúc hoặc trừng phạt ta).
Mỗi khi con người nói đến một vị trời nào đó thì đấy cũng chỉ là cách khoác thêm cho vị ấy hình ảnh của chính mình, sau khi đã phóng đại nó và ghép thêm cho nó các phẩm tính thật hoàn hảo. Trời chỉ là một hình ảnh khuếch đại thật khổng lồ của chính chúng ta.
Khi nào vị trí của Vị ấy và của mình được phân định hai bên rõ rệt thì tất nhiên cũng sẽ xảy ra việc cầu khẩn Vị ấy, trông chờ vào sự nâng đỡ cũng như sự giải cứu của Vị ấy. Dầu sao thì đôi khi chúng ta cũng có thể cảm nhận được một mối tương liên nào đó (giữa Trời và chúng ta) được thắt chặt, thế nhưng nhiều lúc thì chúng ta cũng có có cảm giác là mối dây đó bị đứt (thiếu đức tin). Quả thật hết sức khó để có thể tạo ra một mối liên hệ với Trời khi ta vẫn còn hình dung ra được hình ảnh của Vị ấy (khi vẫn còn hình dung ra hình ảnh của Vị ấy khác với mình thì làm thế nào mà mình có thể hội nhập với Vị ấy được).
Thật vậy có một số nhà thần bí chủ trương là Trời không ở bên ngoài con người. Trong số này có thể kể ra vị Thầy Eckhart hay thánh nữ Thérèse de Lisieux, đấy là những người mà Phật Giáo cảm thấy khá gần gũi.
Tại sao Phật Giáo vô thần mà lại có một số thánh thần địa phương đông đảo đến thế?
Nếu căn cứ vào các khái niệm của Tây Phương từng chịu ảnh hưởng nặng nề bởi Thiên Chúa Giáo và các cuộc chiến hung hãn và dai dẳng của tôn giáo này chủ xướng để chống lại "dị giáo" (tôn giáo đa thần của người La Mã trước khi Thiên Chúa Giáo thâm nhập vào Âu Châu) thì sẽ không thể nào hiểu được sự nghịch lý trong câu hỏi trên đây. Đối với Thiên Chúa Giáo thì việc thờ cúng thần thánh địa phương và thế tục là một thứ nọc độc, một thứ dị đoan cần phải nhổ bỏ tận gốc khỏi đầu óc của quảng đại dân gian.
Phật Giáo không bao giờ chủ trương cách ứng xử ấy mà luôn tin vào sự hiện hữu của thật nhiều các vị thần thánh. Phật Giáo chỉ tìm cách chuyển họ trở thành những sinh linh phục vụ cho Đạo Pháp. Các vị thần núi hay các vị thần ao hồ đều có thể có thật, với điều kiện là phải tôn kính họ và không được tách họ ra khỏi nơi trú ngụ của họ. Ta chỉ cần xin phép họ được lưu trú trong lãnh địa của họ và nhờ họ giúp đỡ, thế nhưng tuyệt nhiên đấy không phải là cách giúp mình có thể dập tắt được ngọn lửa của khổ đau (chỉ có Phật Giáo đích thật mới giúp chúng ta thực hiện được việc ấy).
Đấy cũng là một cách biểu lộ sự bao dung của Phật Giáo đối với các tín ngưỡng khác.  Tại Trung Quốc Phật Giáo cùng phát triển chung với Khổng Giáo, Lão Giáo và các tín ngưỡng dân gian khác. Tại Nhật Bản thì Phật Giáo và Thần Đạo cùng tồn tại bên nhau và cùng hướng vào việc tôn thờ thiên nhiên và các vị thần linh trú ngụ trong các bối cảnh thiên nhiên ấy.
Ngoài ra Phật Giáo còn ghép thêm vào số các vị thần linh của thiên nhiên vô số các vị Phật khác với mục đích biểu trưng cho muôn ngàn thể dạng phát hiện của sự giác ngộ. Chữ Phật không nhất thiết là một danh từ riêng mà đúng hơn là một "tước vị" mang ý nghĩa một "Vị Giác Ngộ". Ngay cả vào các thời kỳ nguyên thủy, tín ngưỡng Phật Giáo cũng đã bắt đầu chủ trương sự hiện hữu của nhiều Vị Phật khác từng sống trên địa cầu này vào những thời đại thật xa xưa, hoặc sẽ xuất hiện ra sau này.
Tại sao lại có nhiều Phật đến thế?
Nếu muốn giải đáp thắc mắc này thì trước hết phải tự hỏi: "Vậy Đức Phật là ai?".
Đấy có phải là một con người đã từng sống trong một thời đại lịch sử nhất định hay chỉ là những thể dạng hiện hữu dưới muôn ngàn gương mặt khác nhau?
Tương tự như đại dương mang các tính chất khác nhau như ướt, mênh mông và mặn, tâm thức của Đức Phật cũng thế và cũng có thể phát lộ dưới nhiều hình thức khác nhau, như lòng từ bi, trí tuệ và nhiều thể dạng sinh hoạt khác nhau...
Theo quan điểm của Phật Giáo, nếu xem chư Phật hàm chứa một sự hiện hữu riêng biệt mang tính cách cá thể thì nhất định đấy là một điều sai lầm và sự sai lầm đó cũng chẳng khác gì với sự sai lầm khi cho rằng chư Phật không hề hiện hữu. Tôi ý thức được rất rõ là cách nói đó khá khó hiểu. Thế nhưng cũng phải cố gắng để hiểu mà thôi. Phải cần có nhiều vị Phật khác nhau để giúp chúng ta mở rộng con tim và tâm thức của mình hầu có thể thích nghi với các cách suy nghĩ khác nhau. Nếu xem các vị ấy là thật thì sẽ có thể đưa đến tình trạng không nhận biết được thể dạng rộng mở mà họ có thể mang đến cho chúng ta, và chúng ta thì cũng sẽ rơi vào một hình thức đơn thuần của việc tôn thờ ảnh tượng. Trái lại, nếu xem các vị Phật ấy không thật và đơn giản chỉ là những gì mang tính cách huyễn hoặc, một thứ ảnh tượng hay là các biểu trưng thần tượng, thì chính đấy cũng sẽ là cách mà chúng ta đánh mất đi sự giúp đỡ quý báu của họ.
Có một vị Phật mang một cái bụng thật to thường thấy trong các nhà hàng ăn của người Tàu, vị ấy mang ý nghĩa như thế nào?
Ở Trung Quốc người ta thường thấy một vị Phật đầu hói, béo phì, vui cười một cách  hả hê, vị này khoác áo cà-sa và có một cái bụng thật to. Cách biểu thị đó đối với một vị Phật quả thật cũng đáng để chúng ta phải ngạc nhiên vì rõ ràng là lọt ra ngoài các cách biểu thị thông thường.
Nguồn gốc của nhân vật này là một vị thánh biểu trưng cho sự giàu sang. Cái bụng to tướng và cái vẻ hả hê của ông cũng như cả một đám trẻ con bu chung quanh ông là nhằm vào mục đích nêu lên sự giàu có của chính ông và đồng thời thì ông cũng sẽ sẵn sàng ban sự giàu có của mình cho những ai cầu xin mình. Vị này luôn mang bên người một cái túi vải đầy ắp các thứ quý giá, nào là lúa gạo, nào là kẹo bánh cho trẻ con. Tóm lại vị ấy là biểu tượng của hạnh phúc, sự may mắn và sung mãn.
Phật Giáo không hề loại bỏ các thói tục thờ phụng địa phương dù là ở bất cứ nơi nào tại Á Châu, mà chỉ tìm cách biến đổi phần nào ý nghĩa của sự thờ phụng đó. Phật Giáo biến vị thần linh có nguồn gốc xa xưa trên đây (thần tài) trở thành một vị biết tu tập Phật Giáo, hoặc xem đấy như chính là một thể dạng hóa thân của vị Phật lịch sử. Vì thế vị trên đây được xem là Phật Di Lặc, một vị Phật của tương lai (mang lại giàu có và hạnh phúc).
Bures-Sur-Yvette, 05.02.12
chuyển ngữ
2
Like facebook Người phật tử để nhận được những thông tin mới nhất
Hoang Phong
Từ khóa

  • Facebook
  • Zing Me
  • Google
  • Yahoo
  • Linkhay

Ý kiến bạn đọc

Reload
Lưu ý : Nguoiphattu.com sẽ biên tập ý kiến của quý vị trước khi xuất bản. Người Phật tử hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và sẽ không đăng những ý kiến cực đoan. Các ý kiến viết bằng ngoại ngữ, tiếng Việt không dấu hoặc có tính chất quảng cáo sẽ không được đăng. Cám ơn sự đóng góp và quan tâm của quý vị.
Xem tin tức theo ngày:


Tin tức liên quan

Ý nghĩa của việc phóng sanh

Tu Tướng và tu Tâm

Bồ tát Quán Thế Âm là nam giới?

Cảnh giác với những người núp bóng Chánh pháp để truyền bá tà pháp

Người chết sau 49 ngày tiếp tục cầu siêu được không?

Buông bỏ căng thẳng, trân quý người thương

Quan niệm của đức Phật với nữ giới như thế nào?

Phật Học Vấn Đáp 1



Tìm hiểu - Vấn đáp
04/09/2011
A-  A  A+

Ý nghĩa của việc phóng sanh



Share3
nguoiphattu.com - Mục đích của chúng ta là trưởng dưỡng tâm từ bi. Số phận của động vật được phóng sanh ra sao tùy thuộc vào phước duyên và nghiệp báo của chúng. Miễn là khi phóng sanh, chúng ta chỉ cần tận tâm, tận lực và thành tâm cầu cho chúng được thoát nạn và thoát kiếp trong các đường đau khổ địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh.
Ý NGHĨA VIỆC PHÓNG SANH
Hỏi
Tôi được biết có Niệm Phật Đường ở địa phương kia, hằng năm vào dịp Lễ Vu Lan, đều phát tâm kêu gọi mọi người hùn phước thực hiện lễ phóng sanh các con vật hữu duyên. Người chủ niệm Phật đường đặt mua các loại cá, rùa, vịt con, chim bồ câu, chim sẻ, thỏ trắng, từ tiệm buôn, cả tháng trước ngày làm lễ phóng sanh, để họ có đủ thời gian đi tìm bắt các con vật hữu duyên cho đủ số lượng đặt hàng.
Vì bị nhốt trong các chậu, các lồng nhỏ hẹp chật chội nhiều ngày, không được săn sóc, không được cho ăn uống, lại bị phơi nắng lâu trong suốt buổi lễ, cho nên nhiều cá, chim bị nóng, chết ngộp trước khi được thả ra. Khi được thả ra, các con chim còn khoẻ bay nhanh đi xa mất dạng. Những con chim bị què, bị gảy cánh không bay được, tội nghiệp vô cùng! Những con vịt con chạy tung tăng quanh quẩn liền bị các trẻ nhỏ bắt được, đem về nhà, chẳng biết số phận sau đó ra sao?!
Thảm thương hơn nữa là các con thỏ trắng, là loại thỏ được nuôi đầy đủ, quen sống trong chuồng, không phải tự kiếm ăn, bây giờ lại bị người ta làm lễ phóng sanh rồi đem thả trong rừng! Trông các con thỏ trắng được thả ra (hay bị thả vô rừng) run rẩy, co cụm lại một đống, không biết chạy đi đâu để sống cho qua đêm nay.
Không biết người ta làm như vậy có phải đúng nghĩa là phóng sanh hay không?

Kính mong quí Thầy chỉ dạy để Phật tử được biết điều nào nên làm, điều nào nên tránh, theo đúng chánh pháp.
Đáp:
Việc phóng sanh theo tinh thần Phật giáo nhằm mục đích trưởng dưỡng tâm từ bi đối với mọi loài chúng sanh. Nếu vừa giữ giới không sát sanh, ngăn ngừa việc ác, lại vừa phóng sanh, làm thêm việc thiện, thì phước đức và công đức gấp bội.
Việc phóng sanh chỉ có ý nghĩa ba la mật khi chỉ vì lòng thương xót các loài vật đang lâm nạn, chứ không phải vì cầu phước cho chính mình hay cho thân nhân, hay vì phô trương. Do đó, không nhất thiết phải mang các loài vật đó đến chùa làm lễ qui y hay cầu an hay cầu siêu.
Nghĩa là tùy duyên, chúng ta gặp các con vật đang bị bắt nhốt trong chậu, trong lồng, chờ đem đi làm thịt, chúng ta bỏ tiền ra mua, rồi thả ra liền, càng sớm càng tốt, để cứu mạng sống của chúng trong nhứt thời.
Mọi việc làm xuất phát bởi
tâm từ bi,
lòng trắc ẩn,
thương người thương vật đều đáng tán thán,
khen ngợi và khuyến khích.
Tuy nhiên, đôi khi vì danh lợi, vì phô trương, vì thiếu hiểu biết chánh pháp, chúng ta tưởng đâu việc đó là Phật sự, nhưng hóa ra là ma sự, tưởng đâu phóng sanh có phước, hóa ra vô tình sát hại sanh mạng các con vật đáng thương kia. Vì muốn phóng sanh nhằm tạo phước mà người phóng sanh lại vô tình thúc đẩy những người khác giăng lưới bắt chim cá, tự họ gây tạo nghiệp chẳng lành!
Chúng ta nên đến đâu để phóng sanh? Phóng sanh loài nhỏ, chúng sẽ bị loài lớn ăn thịt. Phóng sanh loài lớn, chúng sẽ bị con người giết thịt. Nếu là cá thì có người câu hay thả lưới, nếu là chim, thì có người dùng súng bắn, hay dùng lưới vây bắt. Ở các chợ bán chim, bán cá ngày nay, phần lớn là do người ta nuôi ở các ao cá, vườn chim. Những động vật này căn bản không thích ứng với môi trường thiên nhiên, phóng sanh chúng cũng như là sát sanh chúng vậy.
Hơn nữa, giống chim, loài cá đều có cách sống và thói quen của chúng. Có những loài cá phải sống trong những môi trường thích hợp nhất định như chất nước, độ sâu. Nếu mua giống cá sông, đem thả vào biển, hay mua giống cá biển, đem thả vào sông, tất cảđều thành vấn đề. Nếu thả vào rừng loại chim nuôi ở vườn, chúng sẽ không sống được, sẽ bị đói hoặc bị các động vật khác ăn thịt.
Trong các trường hợp như vậy, thử hỏi có cần phóng sanh hay không, có nên phóng sanh hay không?
Tóm lại, mục đích của chúng ta là trưởng dưỡng tâm từ bi. Số phận của động vật được phóng sanh ra sao tùy thuộc vào phước duyên và nghiệp báo của chúng. Miễn là khi phóng sanh, chúng ta chỉ cần tận tâm, tận lực và thành tâm cầu cho chúng được thoát nạn và thoát kiếp trong các đường đau khổ địa ngục, ngạ quỉ và súc sanh.
Ban Biên Tập PHTQ.CANADA
---------------------

Rằm tháng 7 và tội ác chim phóng sinh
Người ta còn cho thuốc vào để chim yếu, chỉ bay được một ít trong khuôn viên chùa, và 5 phút nữa thôi, sẽ lại bị bắt về, để bán cho một người khác... Tôi không phải là người mộ đạo, tôi chỉ sống theo đạo tâm và hướng thiện. Nhưng mỗi năm, tết và rằm tháng 7 tôi đều đi chùa, và mỗi năm, tôi đều đứng trước những lồng chim và cầu nguyện và cảm nhận nỗi đau... nỗi đau của chim sa lưới, chim trong lồng. Không biết có phải kiếp trước tôi là chim, hay vì tôi quá mẫn cảm mà tôi luôn có thể cảm nhận và nghe nỗi đau của từng con chim trong lồng ấy. Hôm nay cũng thế, tôi lại đứng trước lũ chim, chúng khóc, chúng van xin tôi, đừng thả chúng ra. Chúng đau, chúng đè lên nhau, đứa gãy cánh, đứa què giò, có một con ứa nước mắt, nói với tôi rằng: "Xin bạn đừng nhìn tôi, xin bạn đừng mua tôi, đừng thả tôi, cứ để tôi chết trong lồng này, hôm nay tôi đã được thả ra và bắt vào 4 lần rồi, tôi đau, mệt, tôi không thể bay, xin đừng cho tôi hy vọng". Một con chim khác lại nói: "Nếu không ai mua, họ sẽ không làm vậy, họ đã cho chúng tôi uống nước thuốc, chúng tôi không thể bay xa, cho dù bạn thả ra, chúng tôi cũng sẽ bị bắt về và lại bán, và lại bị bắt. Nếu bạn không mua, họ sẽ chẳng bao giờ cần bắt chúng tôi, sẽ không bao giờ cần cho tôi uống thứ nước thuốc khủng khiếp đó, làm ơn, làm ơn để chúng tôi hy sinh và những con chim khác sẽ không bao giờ chịu chung số phận. Làm ơn!"... Rồi một người phụ nữ đến mua, người đàn bà bán chim nhẫn tâm quơ tay vào cái lồng đặc nghẹt, hốt từng nắm, lũ chim bị bóp chặt, mỏ con này chọc vào mắt con kia, trong cơn quơ quào móng con này cấu vào đầu con kia, chúng la hét, giẫy dụa, rỉ máu, chúng đau đớn, chúng la “Đừng đừng … hãy để chúng tôi yên, hãy để chúng tôi yên”. Tôi đứng im, bất lực, tôi là kẻ hèn nhát, tôi khinh khi bản thân mình, tôi đã không dám đứng ra ngăn cản người phụ nữ đó, như ngăn cản số người còn lại trên cái thế giới này xin đừng thả chim phóng sinh. Ngày xưa, đức Tam Tạng thấy bọn trẻ câu cá đã mua cá và thả cá về sông để làm phúc. Người ta bẫy chim để ăn vì mưu cầu cuộc sống, rồi người làm phúc vô tình nhìn thấy đã mua chim ấy để thả. Đó gọi là làm phúc. Ngày nay, những người bẫy chim không còn phải để ăn mà để bạn mua và thả. Vậy khi bạn mua có nghĩa là bạn tạo ra cầu thì sẽ có cung, do đó, việc bạn đang làm là ác, vì bạn đang xúi giục họ bắt, hành hạ những con chim ấy và bạn sẽ cho họ tiền, vậy việc làm đó có thiện, có phúc hay không? Có thể bạn nói rằng, ngày nay họ cũng vì kế sinh nhai nên làm vậy, cũng đâu khác gì ngày xưa. Thật ra nó khác, rất khác, vì ngày xưa những con chim bị bắt để ăn sẽ to khỏe và mập mạp, và khi bạn thả, là nó sẽ được tung cánh bay xa, được về với gia đình của nó. Còn ngày nay, nếu bạn để ý kỹ, những con chim phóng sinh là những con se sẻ nhỏ, hoặc loài chim én, hoặc chim yến, những con chim bé nhỏ, vô tội chỉ bị bắt vì một lý do duy nhất, bắt để bán cho những người phóng sinh. Người ta còn cho thuốc vào để chim yếu, chỉ bay được một ít trong khuôn viên chùa, và 5 phút nữa thôi, sẽ lại bị bắt về, để bán cho một người khác. Tôi đứng đó, ứa nước mắt, và tự sỉ vả mình hèn hạ vì đã không dám lên tiếng. Lũ chim được người đàn bà giơ cao đưa ra trước đức phật, cầu nguyện và mở nắp, lũ chim đứng yên, không hề muốn bay ra. Người đàn bà phóng sinh thò bàn tay mập mạp, bắt từng con thả ra, chúng bay uể oải và đậu trên một nhánh cây gần đó. Tôi biết lũ chim kia quá bé để ăn thịt, thật sự nếu không ai mua, thì vài ngày sau họ cũng sẽ phải thả nó về trời, đằng này, cứ hết người này, đến người khác tới mua, nên họ cứ bắt đi bắt lại, hành hạ chúng đến khi chúng mệt lử và chết, thì khi đó họ sẽ mua vài con thế vào. Một lồng chim trăm con có thể bán đi bán lại hàng chục lần. Truyền thống chim phóng sinh giờ đây là một việc làm độc ác cần xóa bỏ. Nếu những người kia cần tiền, họ có thể bán nhang, bán vé số, có thể bán kinh, bán hoa. Xin đừng hành hạ những sinh vật bé nhỏ và vô tội. Những người phóng sinh xin đừng đưa tiền, đừng tiếp tay cho hành động độc ác nọ, xin thương lấy lũ chim, đó cũng là một sinh mạng. Làm ơn, xin đừng phóng sinh!
9
Like facebook Người phật tử để nhận được những thông tin mới nhất
TK.Thích Chân Tuệ
Từ khóa

Ý nghĩa của việc phóng sanh,

phóng sanh,

chúng sanh,

từ bi,

niệm phật

  • Facebook
  • Zing Me
  • Google
  • Yahoo
  • Linkhay
Ý kiến bạn đọc

Reload

Lưu ý : Nguoiphattu.com sẽ biên tập ý kiến của quý vị trước khi xuất bản. Người Phật tử hoan nghênh những ý kiến khách quan, có tính xây dựng và sẽ không đăng những ý kiến cực đoan. Các ý kiến viết bằng ngoại ngữ, tiếng Việt không dấu hoặc có tính chất quảng cáo sẽ không được đăng. Cám ơn sự đóng góp và quan tâm của quý vị.
Xem tin tức theo ngày:


Tin tức liên quan

Video Phật Học Vấn Đáp Phần 1

Công Đức và Phúc Đức

Sưu tập các câu hỏi về Phật Pháp

Ý nghĩa lá cờ Phật giáo



Bình chọn

Quý vị thấy website như thế nào?

   Rất tiện lợi và chuyên nghiệp
   Giao diện đẹp
   Tôi có một số góp ý
   Cũng bình thường


Kết quả
Đăng ký nhận bảng tin mới nhất



Tin ảnh

  • Người không tin nhân quả sẽ ăn mày cửa Phật
  • Lễ bổ nhiệm trụ trì ngôi chùa có độ cao hơn 1000m với mặt nước biển
  • Lý Hồng Chí và những phát ngôn gây sốc (phần 3)
  • Từ bi
  • Lối về chân như
  • Viện Trần Nhân Tông, cơ sở đào tạo tiến sĩ Phật học
  • Lễ khai kinh cầu siêu uống nước nhớ nguồn tại chùa Khánh Lâm năm 2017
Người không tin nhân quả sẽ ăn mày cửa Phật
Viện Trần Nhân Tông, cơ sở đào tạo tiến sĩ Phật học

Video

  • Chùa Ninh Tảo ( Lễ Cầu An Xuân Đinh Dậu 2017 )
  • Tống táng theo nghi thức Phật giáo - TT.Thích Chân Tính
  • Lễ nhập kim quan cố Hoà thượng Thích Chơn Thiện
  • Chứng kiến đồng loại bị giết phản ứng của con bò khiến người xem nghẹn lòng
  • Thầy Huyền Diệu dạy cách chọn bạn thế nào để không bị phản bội
  • Cuộc sống dễ dàng hay khó khăn đều do bạn - Nghe xong đổi đời luôn
  • Bài hát: Bông hồng cài áo - Ca sĩ Thùy Trang

Chùa Ninh Tảo ( Lễ Cầu An Xuân Đinh Dậu 2017 )

Tin mới

  • Lễ bổ nhiệm trụ trì ngôi chùa có độ cao hơn 1000m với mặt nước biển

    12-03-2017
    Sáng ngày 15.2. Bính Thân (12/3/2017), tại thôn Măng Đen, huyện Kon Plông, BTS GHPGVN tỉnh Kon Tum long trọng tổ chức lễ công bố quyết định bổ nhiệm trụ trì chùa Khánh Lâm cho Đai đức Thích Nhuận Bảo.
  • Lễ khai kinh cầu siêu uống nước nhớ nguồn tại chùa Khánh Lâm năm 2017

    12-03-2017
    Chiều 14.2. Bính Thân( 11/3/2017) tại chùa Khánh Lâm, thôn Măng Đen, huyện KonPlong, tỉnh Kon Tum đã diễn ra lễ khai kinh cầu siêu Anh linh anh hùng Liệt sĩ lần thứ 6 năm 2017.
  • Khánh Hòa: Chùa Sắc Tứ Minh Thiện, chùa Linh Sơn Pháp Ấn khóa tu một ngày an lạc

    08-03-2017
    Như thường lệ hằng tháng vào ngày mùng 9 âm lịch, khoá tu một ngày Niệm Phật an lạc lần thứ 83 ngày mùng 9/2/ Đinh dậu ( 09/3/2017 ) đã diễn ra tại chùa Sắc Tứ Minh Thiện, thôn Thanh Minh, xã Diên Lạc , huyện Diên Khánh , tỉnh Khánh Hòa.
  • Hải phòng: Lễ nhập kim quan Ni trưởng Thich Diệu Tâm

    06-03-2017
    Đúng 8h sáng nay, 5/3/2017 (8/2/Đinh Dậu), tại chùa Hải Ninh ( Chùa Đồng Thiện) đã trang nghiêm thành kính diễn ra lễ cung thỉnh nhục thân Ni trưởng Thích Diệu Tâm (PD: Chúc Tâm), phó trưởng Ban trị sự GHPGVN thành phố Hải Phòng, trụ trì chùa Hải Ninh, thành phố Hải phòng nhập kim quan.
  • Thượng tọa Thích Nhật Từ thuyết giảng tại Khánh Hòa

    04-03-2017
    Trong các ngày 2,3/3/2017 (5,6/2 Đinh Dậu), Thượng tọa Thích Nhật Từ (Trụ trì chùa Giác Ngộ, 92 Nguyễn Chí Thanh, Phường 3, Quận 10 TP.Hồ Chí Minh) đã có chuyến Phật sự và hoằng pháp tại tỉnh Khánh Hòa.
  • Nghệ An: Đại lễ cầu quốc thái dân an tại chùa An Thái

    27-02-2017
    Ngày 26/2, Đại diện Ban TSGHPGVN tỉnh Nghệ An cho biết, theo kế hoạch từ ngày 03 - 05/3/2017 nhằm ngày 06 – 08/02/Đinh Dậu; Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Nghệ An và chùa An Thái (Quỳnh Lưu) sẽ tổ chức Đại lễ cầu quốc thái dân an, tưởng niệm 55 năm ngày Đại lão Hòa thượng Thích Thanh Bản thị Phật và đón nhận Huân chương Đại đoàn kết dân tộc của Chủ tịch nước truy tặng.
  • Hàng trăm bệnh nhân ung thư tham dự chương trình Ánh sáng Phật Pháp

    26-02-2017
    Ngày 1.2.Bính Thân (26/02/2017), chùa Hoằng Pháp tổ chức chương trình "Ánh sáng Phật Pháp" kỳ 68, do TT T. Đạo Quang đảm trách với sự chứng minh của TT T.Chân Tính, trụ trì chùa Hoằng Pháp. Hội chúng chính thức cũng như khách vãng lai và bệnh nhân ung thư tham dự hàng ngàn người.

Quảng cáo






NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT

 

Đạo Phật ngày càng suy đồi, tha hoá, “mạt pháp”, nguyên nhân thì nhiều, nhưng đôi khi vì trong giới tu sĩ và cư sĩ không trang bị đủ kiến thức của giáo pháp như thực - tức là giáo pháp cội rễ - mà chỉ chạy theo cành, nhánh, ngọn lắm hoa và nhiều trái. Từ đấy, khó phân biệt đâu là đạo Phật chơn chánh, đâu là đạo Phật đã bị biến chất, chạy theo thị hiếu dung thường của thế gian. Đôi nơi đạo Phật còn bị trộn lẫn với tín ngưỡng duy linh và cả tín ngưỡng nhân gian nữa... Nhiều lắm, không kể xiết đâu.

Với cái nhìn “chủ quan” của một tu sĩ Theravāda, tôi xin mạo muội liệt kê ra đây những hiểu lầm tai hại và rất phổ biến của Phật giáo trong và ngoài nước để chư vị thức giả cùng thấy rõ như thực:

 

1- Tôn Giáo:

Đạo Phật có những sinh hoạt về tôn giáo nhưng đạo Phật không phải là tôn giáo, vì đạo Phật không có một vị thượng đế tối cao hoá sinh muôn loài và có quyền ban thưởng, phạt ác.

 

2- Tín Ngưỡng: 

Đạo Phật có những sinh hoạt tín ngưỡng nhưng đạo Phật không phải là tín ngưỡng để mọi người đến van vái, cầu xin những ước mơ dung tục của đời thường.

 

3- Triết Học: 

Đạo Phật có một hệ thống tư tưởng được rút ra từ Kinh, Luật và Abhidhamma, được gọi là “như thực, như thị thuyết” chứ không phải là một bộ môn triết học “chia” rồi “chẻ”, “phán”  rồi “đoán” như của Tây phương.

 

4- Triết Luận: 

Đạo Phật có tuệ giác để thấy rõ Cái Thực chứ không sử dụng lý trí phân tích, lý luận. Còn triết, còn luận là vì chưa thấy rõ Cái Thực. Đạo Phật là đạo như chơn, như thực. Kinh giáo của đức Phật luôn đi từ cái thực cụ thể để hướng dẫn mọi người tu tập, nó không có triết, có luận đâu. Ngay “thiền” mà còn “luận”(thiền luận) là đã đánh mất thiền rồi.

 

5- Từ Thiện Xã Hội: 

Đạo Phật có những sinh hoạt từ thiện xã hội nhưng không coi từ thiện xã hội là tất cả, để hy sinh cuộc đời đầu tròn, áo vuông một cách uổng phí.

Đạo Phật còn có những sinh hoạt cao cả hơn: 

Đó là giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, tu tập thiền định và thiền tuệ nữa.

Từ thiện xã hội thì ai cũng làm được, thậm chí người ta còn làm tốt hơn cả Phật giáo, ví dụ như Bill Gates. Còn giáo dục, văn hoá, nghệ thuật của đạo Phật là nền tảng Mỹ Họcviết hoa (nội hàm các giá trị nhân văn, nhân bản) mà không một tôn giáo, một chủ nghĩa, một học thuyết nào trên thế gian có thể so sánh được. Và đây mới là sự phụng hiến cao đẹp của đạo Phật cho thế gian.

Còn nữa, nếu không có tu tập thiền định và thiền tuệ thì mọi hình thái sinh hoạt của đạo Phật, xem ra không phải là của đạo Phật đâu!

 

6- Cực Lạc, Cực Hạnh Phúc:

Đạo Phật có nói đến hỷ, lạc trong các tầng thiền; có nói đến hạnh phúc siêu thế khi ly thoát tham sân, khổ lạc (dukkha), phiền não của thế gian - chứ không có một nơi chốn cực lạc, cực hạnh phúc được phóng đại như thế.

 

7- Tám Vạn Bốn Ngàn Pháp Môn: 

Đạo Phật có nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp uẩn (dhammakhandha) chứ không nói đến 8 vạn 4 ngàn pháp môn (dhammadvāra). Uẩn (khandha) ngoài nghĩa che lấp, che mờ và nghĩa chồng lên, chồng chất, còn có nghĩa là nhóm, liên kết, tập hợp ví như Giới uẩn (nhóm giới), Định uẩn (nhóm định), Tuệ uẩn (nhóm tuệ). Do từ uẩn (khandha) lại dịch lệch ra môn - cửa (dvāra), pháp môn nên ai cũng tưởng là có  8 vạn 4 ngàn pháp môn, tu theo pháp môn nào cũng được! Ai là người có thể đếm đủ 8 vạn, 4 ngàn cửa pháp này? Còn nữa, xin lưu ý, 8 vạn 4 ngàn chỉ là con số tượng trưng, có nghĩa là nhiều lắm, đếm không kể xiết theo truyền thống tôn giáo và tín ngưỡng Ấn Độ cổ thời. Ví dụ 84 ngàn lỗ chân lông, 84 ngàn vi trùng trong một bát nước, 84 ngàn phiền não, 84 ngàn cách tu...

 

8- Xin Xăm, Bói Quẻ, Cầu Sao,

Giải Hạn, Xem Ngày Giờ Tốt Xấu

Những hình thức này không phải của đạo Phật. Trong kinh tụng Pāli có đoạn: “Sunakkhataṃ sumaṅgalaṃ  supabhātaṃ suhuṭṭhitaṃ, sukhno ca suyiṭṭaṃ brahmacārisu. Padakkhinaṃ kāyakammaṃ  vācākammaṃ padakkhinaṃ  padakkhinaṃmanokammaṃ paṇidhī te padakkhinā...”

Có nghĩa là: 

Giờ nào (chúng ta) thực hành thân, khẩu, ý trong sạch; giờ đó được gọi là vận mệnh tốt, là giờ tốt, là khắc tốt, là canh tốt... 

Ngày đó gọi là có nghiệp thân phát đạt, nghiệp khẩu phát đạt, nghiệp ý phát đạt. Và nguyện vọng theo đó được gọi là nguyện vọng phát đạt. Người tạo nghiệp thân, nghiệp khẩu, nghiệp ý phát đạt như thế rồi sẽ được những lợi ích phát đạt (chữ phát đạt có thể có thêm nghĩa nhiều ích).

 
9- Định Mệnh: 

Đạo Phật có nói đến nghiệp, đến nhân quả nghiệp báo chứ không hề nói đến định mệnh. Theo đó, gây nhân xấu ác thì gặt quả đau khổ, gây nhân lành tốt thì gặt quả an vui - chứ không phải “cái tơ cái tóc cũng do trời định” như định mệnh thuyết của Khổng Nho hoặc định mệnh 4 giai cấp của Bà-la-môn giáo.

 
10- Siêu Độ, Siêu Thoát: 

Không có bài kinh nào, không có uy lực của bất kỳ ông sư, ông thầy nào có thể tụng kinh siêu độ, siêu thoát cho hương linh, vong linh, chân linh cả. 

Thời Phật tại thế, nếu có đến nơi người mất, chư tăng chỉ đọc những bài kệ vô thường, khổ và vô ngã để thức tỉnh người sống; và hiện nay các nước Phật giáo Theravāda còn duy trì.  Có thể có hai trường hợp:

 

- Nếu vừa chết lâm sàng thì thần thức người chết vẫn còn. Vậy có thể đọc kinh, mở băng kinh, chuông mõ, hương trầm... để “thần thức người chết” hướng về điều lành... để thần thức tự tạo “cận tử nghiệp” tốt cho mình.

- Nếu thần thức đã lìa khỏi thân rồi – thì họ đã tái sanh vào cõi khác rồi, ngay tức khắc. 

Khi ấy thì gia đình làm phước để chư tăng tụng kinh hồi hướng phước ấy cho người đã mất.

Cả hai trường hợp trên đều không hề mang ý nghĩa siêu độ, siêu thoát mà chỉ có ý nghĩa gia hộ, gia niệm, gia lực mà thôi. 

Tu dựa vào tha lực cũng tương tự như vậy, nhưng cuối cùng cũng phải tự lực: 

“Tự mình thắp đuốc mà đi,
 tự mình là hòn đảo của chính mình”.

Chư thiên chỉ có khả năng hoan hỷ phước và báo truyền thông tin ấy cho người quá vãng mà thôi.



Posted by Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ at 07:38
Email ThisBlogThis!Share to XShare to FacebookShare to Pinterest
Newer Post Older Post Home
View mobile version

ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO GIÁC NGỘ

ĐẠO PHẬT LÀ ĐẠO GIÁC NGỘ
TÔN GIÁO LÀ MÊ TÍN

TẬP SAN SỐ 30 (TẾT NGUYÊN ĐÁN 2016)

TẬP SAN SỐ 30 (TẾT NGUYÊN ĐÁN 2016)
DỌN KHO ĂN TẾT - SUY NGẪM LỜI PHẬT DẠY

TIỂU SỬ TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

TIỂU SỬ TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ
CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT

CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ KHÔNG?

CẦU TRỜI CÓ ĐƯỢC GÌ KHÔNG?
DÂNG SỚ CẦU AN

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN

KÍNH MỪNG PHẬT ĐẢN
Ý NGHĨA LỄ TẮM PHẬT

TAI HẠI CỦA MÊ TÍN DỊ ĐOAN

TAI HẠI CỦA MÊ TÍN DỊ ĐOAN
ÁNH SÁNG TỪ CÂU KINH PHẬT

Ý NGHIÃ QUI Y TAM BẢO

Ý NGHIÃ QUI Y TAM BẢO
CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP

TỪ QUANG MÙA AN CƯ

TỪ QUANG MÙA AN CƯ
DIỆU ĐẠO NAN CẦU

TRAI ĐÀN BẠT ĐỘ KHÔNG PHẢI LÀ PHẬT GIÁO

TRAI ĐÀN BẠT ĐỘ KHÔNG PHẢI LÀ PHẬT GIÁO
NHỮNG HIỂU LẦM VỀ ĐẠO PHẬT

HẠNH BỐ THÍ TRONG ĐẠO PHẬT

HẠNH BỐ THÍ TRONG ĐẠO PHẬT
TA TIN VÀO TÔN GIÁO VÌ SỢ CHẾT?

GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ PHẬT HỌC

GIẢI ĐÁP VẤN ĐỀ PHẬT HỌC

ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT

ĐẠI THẾ CHÍ BỒ TÁT
NHƯ GIỌT NƯỚC LÁ SEN

ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP

ĐI CHÙA ĐÚNG CHÁNH PHÁP
Điện Phật còn là nơi Tôn Nghiêm nữa không?!!

Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN

Ý NGHĨA LỄ CẦU NGUYỆN
CỨU KÍNH CỦA ĐẠO PHẬT

PHẬT DẠY TRỊ BỊNH MÊ TÍN

PHẬT DẠY TRỊ BỊNH MÊ TÍN
HIỆN TƯỢNG MÊ TÍN TRONG TÔN GIÁO

CÚNG DƯỜNG TAM BẢO (HT THÍCH THANH TỪ)

CÚNG DƯỜNG TAM BẢO (HT THÍCH THANH TỪ)
KHÔNG CÓ, CÓ KHÔNG?

CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP TRONG ĐẠO PHẬT

CHẤP NGÃ VÀ CHẤP PHÁP TRONG ĐẠO PHẬT
CẦN HIỂU ĐÚNG VỀ ĐẠO PHẬT

Ý NGHĨA TRONG CUỘC SỐNG

Ý NGHĨA TRONG CUỘC SỐNG
AN LẠC VÀ HẠNH PHÚC

LÒNG TIN CỦA NGƯỜI CON PHẬT

LÒNG TIN CỦA NGƯỜI CON PHẬT
Ý NGHIÃ LỄ CẦU NGUYỆN

37 PHẨM TRỢ ĐẠO

37 PHẨM TRỢ ĐẠO
PHÁP TU GIỮA THẾ GIAN ĐẦY PHIỀN NÃO

SÁNG SUỐT CHÂN CHÁNH THANHTỊNH

SÁNG SUỐT CHÂN CHÁNH THANHTỊNH
TỰ TÁNH TAM BẢO - VIÊN NGỌC MINH CHÂU

CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT (CTLĐ 3)

CHỮ TÂM TRONG ĐẠO PHẬT (CTLĐ 3)
TRĂM NGÀN MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP

GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT

GIÁC NGỘ VÀ GIẢI THOÁT
TÔN GIÁO LÀ MÊ TÍN

LỜI DI HUẤN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT

LỜI DI HUẤN CUỐI CÙNG CỦA ĐỨC PHẬT
BƯỚC SEN THỨ 7 - QUẢ VỊ PHẬT

Ý NGHIÃ VÔ MINH TRONG ĐẠO PHẬT

Ý NGHIÃ VÔ MINH TRONG ĐẠO PHẬT
TU MÀ KHÔNG HỌC LÀ TU MÙ

PHƯỚC TUỆ SONG TU

PHƯỚC TUỆ SONG TU
ĐÈN HOA SEN MÙA PHẬT ĐẢN

BÁT NHÃ TÂM KINH

BÁT NHÃ TÂM KINH
SÓNG GIÓ CUỘC ĐỜI

PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN

PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN
ĐỪNG DÙNG HÌNH TƯỚNG GẠT NGƯỜI

LÀM SAO TU THEO PHẬT

LÀM SAO TU THEO PHẬT
Y NGHIÃ BẤT Y NGỮ (TK THÍCH CHÂN TUỆ)

5 ĐIỂM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO PHẬT

5 ĐIỂM QUAN TRỌNG CỦA ĐẠO PHẬT
Hũ Tro Cốt Trong Chùa

PHẬT PHÁP TRỊ TÂM BỊNH CHÚNG SINH

PHẬT PHÁP TRỊ TÂM BỊNH CHÚNG SINH
BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHẢN

THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ

THÁI ĐỘ SAI LẦM CỦA PHẬT TỬ
CÔNG ĐỨC VÀ PHƯỚC ĐỨC

AN CƯ KHO BÁU NIỀM TIN TRÍ TUỆ

AN CƯ KHO BÁU NIỀM TIN TRÍ TUỆ

TỘI VÀ NGHIỆP

TỘI VÀ NGHIỆP
CHUỖI NGỌC TRÂN BẢO PHÁP THÍ

TỰ LỰC MỚI THẬT LÀ TU

TỰ LỰC MỚI THẬT LÀ TU
PHẬT NGỒI HOA SEN

BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN

BỒ TÁT THIÊN THỦ THIÊN NHÃN
BỒ TÁT ĐIẠ TẠNG

37 PHẨM TRỢ ĐẠO

37 PHẨM TRỢ ĐẠO
TK THÍCH CHÂN TUỆ

TỨ NHIẾP PHÁP (CTLĐ 3)

TỨ NHIẾP PHÁP (CTLĐ 3)
CỐT TUỶ CỦA ĐẠO PHẬT

CHÁNH KIẾN VÀ CHÁNH TÍN (CTLĐ TẬP 1)

CHÁNH KIẾN VÀ CHÁNH TÍN (CTLĐ TẬP 1)
DIỆU ĐẠO NAN CẦU

Ý NGHIÃ CHỮ TU

Ý NGHIÃ CHỮ TU
LUẬT NHÂN QUẢ

CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO

CÁCH XƯNG HÔ TRONG PHẬT GIÁO
THẾ NÀO LÀ THƯỢNG TỌA

Blog Archive

  • ►  2011 (90)
    • April (2)
    • May (12)
    • June (14)
    • July (10)
    • August (13)
    • September (10)
    • October (11)
    • November (10)
    • December (8)
  • ►  2012 (80)
    • January (11)
    • February (7)
    • March (7)
    • April (8)
    • May (7)
    • June (7)
    • July (5)
    • August (7)
    • September (5)
    • October (6)
    • November (5)
    • December (5)
  • ►  2013 (38)
    • January (5)
    • February (3)
    • March (4)
    • April (2)
    • May (3)
    • June (3)
    • July (3)
    • August (4)
    • September (3)
    • October (4)
    • November (3)
    • December (1)
  • ►  2014 (31)
    • January (1)
    • February (2)
    • March (3)
    • April (4)
    • May (3)
    • June (2)
    • July (2)
    • August (5)
    • September (3)
    • October (3)
    • November (2)
    • December (1)
  • ►  2015 (29)
    • January (3)
    • February (2)
    • March (2)
    • April (2)
    • May (2)
    • June (2)
    • July (2)
    • August (4)
    • September (1)
    • October (5)
    • November (3)
    • December (1)
  • ►  2016 (39)
    • January (1)
    • February (2)
    • March (1)
    • April (2)
    • May (2)
    • June (6)
    • July (6)
    • August (4)
    • September (3)
    • October (6)
    • November (2)
    • December (4)
  • ▼  2017 (45)
    • January (9)
    • February (6)
    • March (6)
    • April (1)
    • May (4)
    • July (2)
    • October (1)
    • November (9)
    • December (7)
  • ►  2018 (33)
    • January (3)
    • February (5)
    • March (1)
    • April (2)
    • May (1)
    • June (1)
    • July (1)
    • August (2)
    • September (5)
    • October (6)
    • November (3)
    • December (3)
  • ►  2019 (108)
    • January (14)
    • February (12)
    • March (8)
    • April (7)
    • May (11)
    • June (3)
    • July (15)
    • August (6)
    • September (5)
    • October (5)
    • November (4)
    • December (18)
  • ►  2020 (89)
    • January (15)
    • February (6)
    • March (5)
    • April (9)
    • May (10)
    • June (11)
    • July (3)
    • August (5)
    • September (7)
    • October (7)
    • November (5)
    • December (6)
  • ►  2021 (119)
    • January (7)
    • February (9)
    • March (13)
    • April (12)
    • May (7)
    • June (18)
    • July (18)
    • August (3)
    • September (7)
    • October (10)
    • November (5)
    • December (10)
  • ►  2022 (130)
    • January (14)
    • February (9)
    • March (2)
    • April (8)
    • May (13)
    • June (10)
    • July (6)
    • August (9)
    • September (11)
    • October (20)
    • November (13)
    • December (15)
  • ►  2023 (53)
    • January (19)
    • March (4)
    • April (2)
    • May (1)
    • June (1)
    • August (4)
    • September (7)
    • October (8)
    • November (3)
    • December (4)
  • ►  2024 (41)
    • January (5)
    • February (6)
    • March (1)
    • April (2)
    • May (12)
    • June (4)
    • July (4)
    • August (5)
    • October (2)
  • ►  2025 (4)
    • January (3)
    • February (1)

cutranlacdao.2010@gmail.com

  • Lotus Lantern
  • ONLINE 2015
  • PHẬT-HỌC TỊNH-QUANG
  • Tỳ-Khưu Thích-Chân-Tuệ
  • Unknown

BẮC MỘT NHỊP CẦU

BẮC MỘT NHỊP CẦU
  • http://diendangiaodan.us/
  • http://giaoxutanviet.com/tuoc-hieu-duc-ong-la-gi/
  • http://kenh14.vn
  • http://kienthuc.net.vn
  • http://plo.vn
  • http://soha.vn
  • http://www.bachhac.net
  • http://www.baogiaothong.vn
  • http://www.baomoi.com
  • http://www.bbc.com/
  • http://www.buddhismtoday.com
  • http://www.chuabang.com
  • http://www.chuabuuchau.com.vn
  • http://www.chuabuuminh.vn
  • http://www.chuanet.org
  • http://www.chuanhulai.com
  • http://www.chuaphat.com
  • http://www.chuaquanam.ca
  • http://www.dactrung.net
  • http://www.daitangkinhvietnam.com
  • http://www.daophatkhatsi.net
  • http://www.dieungu.org
  • http://www.dieuphap.com
  • http://www.donghanh.us
  • http://www.gdptthuanan.com
  • http://www.giacngo.vn
  • http://www.hoalinhthoai.com
  • http://www.hoangphap.info
  • http://www.hoavouu.com
  • http://www.hophap.net
  • http://www.huonghaizen.com
  • http://www.lamtyni.com
  • http://www.langmai.org
  • http://www.leminhhienmusic.com
  • http://www.lien-hoa.net
  • http://www.longthien.org
  • http://www.lotus-lantern-canada.blogspot.ca
  • http://www.lytuongnguoiviet.com
  • http://www.macphuongdinh.blogspot.ca
  • http://www.media.anphat.org
  • http://www.moidenchanhphap.com
  • http://www.my.opera.com/KheKinhKha
  • http://www.namkyluctinh.com
  • http://www.nghethuatphatgiao.com
  • http://www.nguoi-viet.com
  • http://www.nguoiphattu.com
  • http://www.nguoiphuongnam52.blogspot.com.au
  • http://www.nguoivietboston.com
  • http://www.nguoiviettv.com
  • http://www.nguoivietucchauonline.com
  • http://www.nigioingaynay.com
  • http://www.phapbao.org
  • http://www.phapphucphatgiao.com
  • http://www.phapquang.com.au
  • http://www.phapvan.ca
  • http://www.phatgiao.org.vn
  • http://www.phatgiao.vn
  • http://www.phatgiaodaichung.com
  • http://www.phatgiaohoahao.net
  • http://www.phatgiaoucchau.com
  • http://www.phatgiaovietnamhaingoai.org
  • http://www.phathoc.net
  • http://www.phathocdoisong.com
  • http://www.phattuvietnam.net
  • http://www.phoquang.org
  • http://www.phtq-canada.blogspot.com
  • http://www.phusa.info
  • http://www.quangduc.com
  • http://www.rfviet.com
  • http://www.sachhiem.net
  • http://www.saigonbao.com
  • http://www.saigontimesusa.com
  • http://www.tangthuphathoc.net
  • http://www.tapchithegioimoi.com
  • http://www.thichquangtanh.blogspot.ca/
  • http://www.thientong.com
  • http://www.thienviendaidang.net
  • http://www.thongtinberlin.de/sukien/PG/phatngochoabinhthegioi.htm
  • http://www.thuong-chieu.org
  • http://www.thuvienhoasen.org
  • http://www.thuvienphatgiaovietnam.com
  • http://www.tinhdo.net
  • http://www.todinhtudamhaingoai.org
  • http://www.trantrungdao.com
  • http://www.truclamthienvien.fr
  • http://www.truyenhinhvietnam.us
  • http://www.tuevien.net
  • http://www.tuvientuongvan.com.vn
  • http://www.tvsungphuc.net
  • http://www.vanhoaviet.info
  • http://www.viengiac.de
  • http://www.vienthong.org
  • http://www.vietbao.com
  • http://www.vietfreefun.com
  • http://www.vietlist.us
  • http://www.vietnam4all.net
  • http://www.vietworld.wordpress.com
  • http://www.vinhhao.info
  • http://www.vinhnghiem.de
  • http://www.vnbc.org
  • https://suhuequangbhantekheminda.wordpress.com/
  • https://news.zing.vn
  • https://suminhniem.org
  • https://vnexpress.net
  • https://www.baocalitoday.com
  • https://www.cbsnews.com
  • https://www.msn.com
  • https://www.nguoi-viet.com
  • https://www.voatiengviet.com

Ý NGHIÃ "DUY NGÃ ĐỘC TÔN"

Ý NGHIÃ "DUY NGÃ ĐỘC TÔN"
TS. PHẬT HỌC TỊNH QUANG SỔ 30 (2016)

TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ

TỪ BI VÀ TRÍ TUỆ
TẬP SAN SỐ 29 (Đại Lễ Vu Lan 2015))

QUAN ĐIỂM & CHỦ TRƯƠNG CỦA PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA

QUAN ĐIỂM & CHỦ TRƯƠNG CỦA PHẬT HỌC TỊNH QUANG CANADA
PHTQ (TỪ BI & TRÍ TUỆ) SỐ 18 PHÁT HÀNH NGÀY 23 THÁNG GIÊNG NĂM 2012 (MỒNG 1 TẾT NHÂM THÌN)

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO (TẬP 1,2,3)

CƯ TRẦN LẠC ĐẠO (TẬP 1,2,3)
TÁC GIẢ: TỲ KHƯU THÍCH CHÂN TUỆ

NGƯỜI KHÔNG SƯƠNG GIÓ - KHÓ THÀNH CÔNG - NGƯỜI KHÔNG KHỔ ĐAU - SAO NGỘ ĐẠO

NGƯỜI KHÔNG SƯƠNG GIÓ - KHÓ THÀNH CÔNG            -               NGƯỜI KHÔNG KHỔ ĐAU - SAO NGỘ ĐẠO
THẾ NÀO LÀ NHẪN BA LA MẬT?

Total Pageviews

PHTQ.CANADA không giữ bản quyền. NO COPYRIGHT. Quí độc giả tùy nghi xử dụng các bài viết.. Awesome Inc. theme. Theme images by molotovcoketail. Powered by Blogger.