TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Tuesday, 25 October 2022

QUỐC ẤN VÀ QUỐC KIẾM TRIỀU NGUYỄN

 https://phtq-canada.blogspot.com/2022/10/quoc-an-quoc-kiem-trieu-nguyen.html

Cuộc phiêu lưu lịch sử của Quốc ấn và Quốc kiếm triều Nguyễn

  • PHANXIPĂNG

    • ·                Hãng Millon vừa loan báo, vào ngày 31 Tháng Mười 2022, tại thủ đô Paris, họ sẽ tổ chức đấu giá 329 cổ vật, trong đó có “Hoàng đế chi bảo” với giá khởi điểm 2-3 triệu €…  

      ·                THƯ TỊCH MÂU THUẪN

      ·                Chiều thứ năm 30 Tháng Tám 1945, nhằm ngày 23 Tháng Bảy năm Ất Dậu, ở kinh thành Huế, tại Ngọ Môn, trên lầu Ngũ Phụng, bên cạnh hoàng đế cuối cùng của triều Nguyễn là Bảo Đại, có hoàng tùng đệ Vĩnh Cẩn và Đổng lý văn phòng Phạm Khắc Hòe, Vua Bảo Đại đọc chiếu thoái vị, rồi trao quốc ấn và quốc kiếm cho đại diện Việt Minh – gồm Trần Huy Liệu trưởng đoàn, cùng Nguyễn Lương Bằng và Cù Huy Cận.

      ·                Lúc đó, ước khoảng 50,000 dân chúng tập trung tại quảng trường dưới Kỳ Đài. Tuy nhiên, vì nhiều nguyên nhân, chủ yếu do khoảng cách không gian lẫn thời gian, hầu hết mọi người đều chẳng quan sát rõ sự kiện, lại thêm ký ức – ngay cả của người trong cuộc – hoặc nhạt phai hoặc chứa đựng những điều thiếu chính xác.

      ·                Trưởng đoàn đại diện Việt Minh tiếp nhận ấn kiếm đã viết trong “Hồi ký Trần Huy Liệu” (NXB Khoa Học Xã Hội, HN, 1991, trang 370):

      ·                “Hai chiếc kiếm dài nạm ngọc và ấn vàng này theo lời người ta nói đều từ Gia Long để lại, được tạo nên sau khi đánh đổ Tây Sơn và thống trị cả nước. Cùng với ấn kiếm còn có một túi gấm đựng bộ quân cờ bằng ngọc và những thứ lặt vặt quý giá khác. Khi tiếp nhận thanh kiếm của Bảo Đại thì không có gì đáng kể. Nhưng khi tiếp nhận chiếc ấn vàng, tôi đã phải chịu đựng sức nặng bất ngờ của cái ấn. Chiếc ấn nặng tới 7 ki-lô-gam vàng! Nói thật với các bạn khi giơ hai tay đỡ cái ấn, tôi có ngờ đâu nó nặng đến thế nên không chuẩn bị tư thế từ trước. Tuy vậy khi chiếc ấn nặng trĩu nằm trong tay, tôi phải cố gắng vận dụng hết sức bình sinh để chống đỡ, không để nó trĩu xuống…”

      ·                Phạm Khắc Hòe sau này ghi lại trong hồi ký “Từ triều đình Huế đến chiến khu Việt Bắc” (NXB HN, 1983, trang 78):

      ·                “Bảo Đại đọc tờ “Chiếu thoái vị” một cách xúc động có khi tắt cả tiếng. Bảo Đại đọc xong thì trên kỳ đài, cờ vàng của nhà vua từ từ hạ xuống… Tiếng súng lệnh chấm dứt. Bảo Đại hai tay đưa lên trao cho ông Trưởng đoàn Đại biểu Chính phủ quốc ấn bằng vàng nặng gần mười ki lô gam và chiếc quốc kiếm để trong vỏ bằng vàng nạm ngọc”.

      ·                Trong bài “Ấn kiếm vương quyền nhà Nguyễn trên lễ đài ngày Độc lập” đăng tạp chí Xưa và Nay số 31 (Tháng Chín 1996), Nguyễn Hữu Đang (cựu Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền của chính phủ lâm thời mở rộng) mô tả:

      ·                “Ấn và kiếm này đều bằng vàng là hai bảo vật tượng trưng quyền lực nhà Nguyễn. Lưỡi kiếm cũng bằng vàng như vỏ kiếm nhưng dày hơn, chỉ ngắn bằng 2/3 vỏ kiếm, chỗ bản rộng nhất độ hai phân, muốt nhọn như lá lúa. Vỏ kiếm chạm nổi tỉ mỉ. Nó được làm từ bao giờ, tôi không rõ. Còn ấn, theo một nhà nghiên cứu sử, nó được đúc vào quãng năm 1774, đời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Trên ấn hình vuông (núm to cũng hình vuông), Nguyễn Phúc Khoát cho khắc bốn chữ Hán “Vương quốc chi ấn” có nghĩa tuyên ngôn chính trị.”

      ·                Và trong “Chuyện chiếc ấn truyền quốc của nhà Nguyễn” in trong sách “Huế của một thời” (NXB Nam Việt, California, 2006; NXB Tre Pheo, California, 2008, trang 399), tác giả Võ Hương An cho hay:

      ·                “Khi Vua Bảo Đại (1926-1945) tuyên bố thoái vị trước lầu Ngọ Môn vào ngày 30 Tháng Tám 1945 để “làm dân một nước độc lập hơn làm vua một nước nô lệ”, ông đã trao ấn và kiếm tượng trưng vương quyền cho đại diện chính phủ Việt Minh. Đó là chiếc ấn “Hoàng đế chi bảo” bằng vàng ròng (vàng 10) nặng chừng 10kg500.”

      ·                Bà Bùi Mộng Điệp, thứ phi của vua Bảo Đại, người từng bảo quản cặp ấn kiếm ấy một thời gian, lại trả lời phỏng vấn trên báo Lao Động ngày 8 Tháng Mười Hai 1996 thế này:

      ·                “Còn cái ấn bằng vàng, chính tay tôi cân nặng 12,9kg. Cái núm ấn hình con rồng. Con rồng uốn cong và ngóc đầu lên. Con rồng không được sắc sảo lắm, có đính hai hạt ngọc đỏ, trông giống như con rắn. Tôi lật nó lên có bốn chữ triện ở dưới. Theo một người biết đọc chữ Nho thì bốn chữ ấy là “Nguyễn triều chi bảo”.

      Năm 1952, người Pháp trao trả ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại
      ·                m 1952, người Pháp trao trả ấn kiếm cho cựu hoàng Bảo Đại

      ·                ẤN KIẾM NGƯỢC XUÔI

      ·                Tìm hiểu sự thật về quốc ấn và quốc kiếm triều Nguyễn, chúng ta hãy tiếp tục lần theo bước “phiêu lưu” của hiện vật.

      ·                Sau ngày 2 Tháng Chín 1945 chỉ hơn một năm, quân Pháp tái chiếm Hà Nội. Cuộc kháng chiến chống Pháp bắt đầu bùng nổ với tiếng súng khai hỏa lúc 8 giờ 3 phút sáng 19 Tháng Mười Hai 1946 từ pháo đài Láng. Trước khi lên Việt Bắc, Việt Minh gấp gáp chôn giấu nhiều hồ sơ quan trọng cùng các báu vật, trong đó có cặp ấn kiếm lịch sử.

      ·                Trớ trêu thay, lúc Pháp đào phá ngôi chùa cổ tại làng Nghĩa Đô ở Hà Nội, họ phát hiện một thùng dầu hỏa bằng sắt tây, trong thùng có cặp ấn kiếm quý. Trên báo Người Lao Động ngày 5 Tháng Chín 1997, tác giả Nguyễn Hữu Nhơn cho biết sự việc diễn ra vào nhật điểm 28 Tháng Hai 1952 và lúc bấy giờ thấy ấn kiếm đều đã bị sơn đen để ngụy trang, riêng kiếm thì gãy đôi “do lúc đào xới chạm vào.”

      ·                Trong “Qua Pháp tìm Huế xưa” (NXB Thuận Hóa, Huế, 2000) và tập hai “Hỏi đáp về triều Nguyễn và Huế xưa” (NXB Trẻ, 2000), Nguyễn Đắc Xuân lại ghi “người ta bẻ đôi cây kiếm để dễ bỏ vào thùng dầu hỏa” và màu đen của ấn kiếm lúc ấy là do “bị bùn đất làm rỉ sét đổi qua màu đen chứ không phải đã có người cố tình sơn đen.”

      ·                Tài liệu “Chiếc bảo ấn cuối cùng của hoàng đế Việt Nam”do Lê Văn Lân biên soạn (tác giả tự xuất bản, Hoa Kỳ, 1998) thì khẳng quyết: “Nơi chôn giấu [ấn kiếm] là bức tường của một ngôi chùa cổ ngoài Bắc mà lính commando Pháp đi hành quân tình cờ phá ra bắt được, rồi đem về cho tướng chỉ huy Pháp là De Linarès.” Cũng theo Lê Văn Lân, sự việc xảy ra sớm hơn: vào năm 1951.

      ·                Dẫu năm 1951 hay 1952, thì cả hai niên điểm đó, Bảo Đại làm quốc trưởng trong chính phủ quốc gia do thực dân Pháp sắp xếp. Tướng François Jean Antonin Gonzalez de Linarès bèn tổ chức buổi lễ long trọng tại Hà Nội trao lại ấn kiếm cho Quốc trưởng Bảo Đại.

      ·                Dựa vào cuốn “L’Aventure viêt-minh / Biến cố Việt Minh” của Jacques Massu và Jean Julien Fonde (NXB Plon, Paris, 1980), Lê Văn Lân cho rằng lễ trao lại ấn kiếm được tiến hành ngày 8 Tháng Ba 1952 rồi được tuần báo Paris Match dành số đặc biệt đăng bài tường thuật với nhiều hình ảnh hấp dẫn. Trong bài “Đôi điều về bộ ấn kiếm cuối cùng của triều Nguyễn” đăng tạp chí Nghiên Cứu và Phát Triển số 35 (Huế, 2002), Phan Thanh Hải ghi ngày lễ trao lại ấn kiếm là 3 Tháng Ba 1952.

      ·                Thêm điều trớ trêu nữa là trong buổi lễ trao lại ấn kiếm được tổ chức trọng thể, không có mặt Bảo Đại. Bà Bùi Mộng Điệp kể:

      ·                “Họ [Pháp] muốn trả lại [ấn kiếm] cho nhà Nguyễn nhưng cựu hoàng Bảo Đại lúc ấy đang nghỉ mát bên Tây, không ai đủ tư cách để nhận lại. Ông Lê Thanh Cảnh làm việc cho Pháp thấy thế gọi dây nói cho tôi ở Buôn Mê Thuột, yêu cầu tôi nhận để chùi rửa chứ hai vật ấy chôn dưới bùn đã hoen rỉ cả rồi. Nhưng tôi chưa thấy những báu vật ấy bao giờ, không biết có đúng hai cái ấn kiếm mà cựu hoàng đã trao cho ông Trần Huy Liệu năm 1945 hay không. Tôi phân vân nên đã mời đức Từ Cung ở Huế đi tàu bay lên. Hôm đón cái ấn, đức Từ bảo phải đặt một cái bàn ở sân bay Buôn Mê Thuột, phủ khăn đỏ, lạy ấn và kiếm năm lạy rồi mới được phép đưa về dinh. Khi đưa về dinh rửa xong, tôi để [ấn kiếm] lên cái bàn ở giữa nhà và trùm kín với một tấm khăn đỏ. Ngày đêm đều có lính gác.”

      ·                Cũng theo bà Mộng Điệp, từ năm 1953, khi chiến cuộc trở nên ác liệt, người ta không dám đem cặp ấn kiếm về Huế. Giả sử đưa về Huế vào thời điểm đó thì chẳng biết cất đâu. Cuối cùng, Bảo Đại viết giấy ủy quyền cho bà Mộng Điệp mang ấn kiếm sang Pháp. Sau, Mộng Điệp giao hai báu vật kia cho cựu hoàng hậu Nam Phương và cựu thái tử Bảo Long với sự chứng kiến của các ông Nguyễn Đệ, Nguyễn Duy Quang, Nguyễn Tiến Lãng, Phạm Bích (con ông Phạm Quỳnh).

      ·                Từ khi bà Nam Phương mất vào năm 1963, Bảo Long độc quyền quản lý ấn kiếm kia và đã đem gửi Liên hiệp Ngân hàng châu Âu / Union des Banques Européennes cất giữ. Năm 1980, khi công bố hồi ký “Le Dragon d’Annam / Con rồng An Nam”, Bảo Đại rất muốn dùng chiếc ấn lịch sử đó đóng dấu cuối mỗi chương, tạo họa tiết trang trí / vignette đầy ý nghĩa. Éo le thay, Bảo Long nhất quyết không cho cha mượn chiếc ấn! Bảo Đại quá tức giận, phát đơn kiện con trai để đòi lại ấn kiếm. Theo Lê Văn Lân thì tòa án Pháp phán quyết: Bảo Long được giữ thanh kiếm và giao chiếc ấn cho Bảo Đại. GSTS Thái Văn Kiểm – một trong những người gần gũi Bảo Đại giai đoạn cuối đời – còn giữ ảnh chụp cựu hoàng ngồi đăm chiêu bên quốc ấn. Có tin cho rằng trước lúc lâm chung vào năm 2007, Bảo Long đã bán thanh kiếm báu vì túng tiền!

      ·                Còn chiếc ấn quý giá thì sao? Sau khi Bảo Đại qua đời sáng 31 Tháng Bảy 1997 tại Paris, chiếc ấn thuộc quyền sở hữu của bà Monique Marie Eugène Baudot, tên thân mật là Monica – người vợ Pháp mà Bảo Đại chính thức kết hôn ngày 14 Tháng Một 1982 tại Paris. Monique Baudot rồi cũng từ trần ngày 27 Tháng Chín 2021 tại Paris.

      ·                PHÁT HIỆN THỰC HƯ

      ·                Quan sát ảnh chụp buổi lễ trao lại ấn kiếm cho Bảo Đại (dẫu Bảo Đại khiếm diện) tại Hà Nội Tháng Ba 1952, và ảnh chụp Bảo Đại ngồi kề chiếc ấn tại Paris, tham khảo thêm nguồn thư tịch cần thiết liên quan, rõ ràng việc khôi phục thông tin đảm bảo độ tin cậy về ấn lẫn kiếm là điều khả dĩ.

      ·                Quốc ấn mà Vua Bảo Đại trao Trần Huy Liệu tại Huế chiều 30 Tháng Tám 1945 mang tên gì? Phải chăng “Vương quốc chi ấn” như Nguyễn Hữu Đang nhớ, hay “Nguyễn triều chi bảo” như Bùi Mộng Điệp nhớ? Hình dáng ấn thế nào? Ấn được chế tác bao giờ? Ấn nặng chính xác bao nhiêu?

      ·                Tra cứu “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” của Nội các triều Nguyễn (NXB Thuận Hóa, Huế, 1993), hậu thế biết rằng Nam triều từng sở hữu rất nhiều ấn triện bằng vàng và bằng ngọc, nhưng hầu hết là “đồ thư văn bảo”. Chỉ 20 chiếc ấn – gồm 14 ấn vàng và sáu ấn ngọc – được xếp vào hàng bảo tỉ. Mỗi chiếc ấn có công dụng cùng ý nghĩa riêng và toàn bộ 20 bảo tỉ kia đều được chế tác từ đời Gia Long trở về sau. Ngoài ra, có bốn chiếc ấn xuất hiện từ thời chúa Nguyễn được xếp hạng “tôn tàng bảo tỉ” để cất giữ chứ không sử dụng.

      ·                Tất cả 24 ấn triện vừa kể được triều đình nhà Nguyễn gọi “quốc bảo”, hoàn toàn không có chiếc nào mang tên “Vương quốc chi ấn” hoặc “Nguyễn triều chi bảo” cả.

      ·                Nhìn kỹ ảnh chụp cận cảnh hiện vật từ nhiều góc độ, đủ thấy mặt ấn vuông vức, nhưng núm ấn chẳng phải hình vuông như tạp chí Xưa và Nay số 31 (Tháng Chín 1996) mô tả. Thực tế, núm ấn là tượng một con rồng uốn lượn, nhào lộn, được chế tác cầu kỳ. Đầu rồng ngẩng cao, trên có khắc chữ (vương – mang nghĩa vua). Đuôi rồng dựng đứng ngay phía sau đầu. Bốn chân rồng trụ bộ vững chải, mỗi chân xòe năm móng.

      ·                Mặt trên ấn, phía hai bên núm con rồng, có đôi dòng chữ Hán khắc theo kiểu khải thư, được phiên âm và dịch nghĩa:

      ·                Dòng bên phải: 拾成黃金重貳佰捌拾兩玖錢貳分 / Thập thành hoàng kim trọng nhị bách bát thập lạng cửu tiền nhị phân. Nghĩa: Ấn đúc bằng vàng 10 tuổi / 24 karats với khối lượng 280 lạng 9 chỉ 2 phân.

      ·                Dòng bên phải: 明命肆年貳月初肆日吉時鑄造 / Minh Mạng tứ niên nhị nguyệt sơ tứ nhật cát thời chú tạo. Nghĩa: Ấn được thực hiện vào giờ tốt ngày mùng 4 tháng 2 niên hiệu Minh Mạng thứ IV, nhằm ngày 15 Tháng Ba 1823.

      ·                Mặt dưới ấn nổi lên bốn chữ Hán: 皇帝之寶 / Hoàng đế chi bảo được khắc kiểu tiểu triện. phồn thể / giản thể, bính âm phát bảo, âm Hán – Việt phát bảo, mang nghĩa quý báu, được quy định là ấn của vua. Tên quốc ấn, vậy đã quá rõ: Hoàng đế chi bảo.

      ·                Theo “Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ” (sđd), ấn “Hoàng đế chi bảo” là một trong 20 bảo tỉ, chỉ sử dụng đối với trường hợp “gặp khánh tiết ban ơn, đại xá thiên hạ cùng là cáo dụ thân huân đi tuần thú các nơi để xem xét các địa phương, mọi điển lễ long trọng ấy và ban sắc, thư cho ngoại quốc.”

      ·                “Đại Nam thực lục chính biên” của Quốc sử quán triều Nguyễn (NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1963) còn ghi nhận: “Ngày Giáp Thìn (tức 15 Tháng Ba 1823), đúc ấn “Hoàng đế chi bảo”, núm làm rồng cuốn hai tầng, vuông ba tấc hai phân, dày năm phân, bằng vàng 10 tuổi.”

      ·                Tính từ ra đời vào tiết xuân Quý Mùi 1823 đến lúc được vua Bảo Đại bàn giao cho đại diện Việt Minh vào mùa thu Ất Dậu 1945, ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” có tuổi 122 năm. Ví chỉ đơn thuần so sánh tuổi thọ của bao món cổ ngoạn ở Việt Nam cũng như khắp hoàn vũ, ngần ấy thời gian chưa thể “lão làng”, nhưng vì ý nghĩa lịch sử có một không hai, chiếc bảo tỉ mang tên “Hoàng đế chi bảo” đích thị là báu vật quốc gia vô giá.

      ·                Có ý kiến rằng nếu biết tuổi ấn “Hoàng đế chi bảo” thì lập tức suy ra được tuổi thanh kiếm. Xuất phát từ ấn kiếm vốn nguyên bộ nên thiên hạ phán đoán thế chăng? Phán đoán thế ngỡ chừng hợp logic, song tiếc thay, chẳng trùng khớp thực tế. Đi kèm với ấn “Hoàng đế chi bảo” lại là thanh kiếm có niên đại muộn hơn rất nhiều: Thời gian chậm trễ xấp xỉ một thế kỷ.

      ·                Xem xét ảnh tư liệu, thấy rằng toàn bộ thanh kiếm được tạo tác công phu và mỹ thuật, với phong cách đã ít nhiều chịu ảnh hưởng từ phương Tây. Đấy là thanh trường kiếm có chuôi nạm bạch ngọc. Chuôi kiếm còn được gắn quai để lồng bàn tay vào. Lưỡi kiếm hẳn bằng thép tốt, chứ chẳng thể bằng vàng. Thanh kiếm có dáng “hơi cong một chút” đúng như ký ức Mộng Điệp. Vỏ kiếm dài ước hơn 1m, làm bằng hợp kim mà trong thành phần cấu tạo, vàng chiếm tỉ lệ nhất định.

      ·                Đáng lưu ý rằng trên vỏ kiếm, theo Lê Văn Lân, có khắc đôi dòng chữ Hán. Dòng này đề: Trọng kim tứ lạng thất tiền ngũ phân. Nghĩa: hàm lượng vàng gồm 4 lạng 7 chỉ 5 phân; tương đương 178,125g vàng. Với số vàng ít ỏi vậy, chưa rõ hỗn hợp còn những kim loại nào khác. Dẫu sao, cứ liệu ấy đủ để bác bỏ các nhận định “lưỡi kiếm cũng bằng vàng như vỏ kiếm” và “vỏ bằng vàng nạm ngọc” hoặc “vỏ bằng vàng nạm bạc”.

      ·                Dòng kia ghi: Khải Định niên chế. Nghĩa là sản xuất vào đời Vua Khải Định, tức trong giai đoạn 9 năm Nguyễn Phúc Bửu Đảo trị vì trên ngai vàng – từ năm Bính Thìn 1916 đến năm Ất Sửu 1925.

      ·                Tính đến thời điểm lịch sử 30 Tháng Tám 1945, thanh kiếm đang xét chưa đầy 30 tuổi. Tuy nhiên, y hệt chiếc ấn “Hoàng đế chi bảo”, vì ý nghĩa duy nhất trong lịch sử của nó, quốc kiếm là báu vật vô giá của Việt Nam. Hỡi ôi, số phận oái ăm đã đưa đẩy quốc ấn cùng quốc kiếm triều Nguyễn phiêu dạt ly hương. Tin đồn Bảo Long lén lút bán thanh kiếm “Khải Định niên chế” chưa thể kiểm chứng nhưng vẫn khiến dư luận âu lo. Còn ấn vàng “Hoàng đế chi bảo” lọt vào tay quả phụ Monique Baudot là điều chắc chắn. Monique Baudot từ trần ngày 27 Tháng Chín 2021, hậu duệ nhận gia sản, gần đây thì bán ấn “Hoàng đế chi bảo”.

      ·                __________________

      ·                Trên website Millon, món đồ đấu giá “Hoàng đế chi bảo” được giới thiệu bằng tiếng Việt như sau:

      ·                Ấn triện bằng vàng quý hiếm, được gọi là Kim bảo tỷ (金寶 ) của Hoàng đế Minh Mạng (1791-1841).

      ·                Chiếc ấn triện bằng vàng rất chân quý này thuộc sở hữu của Hoàng gia Việt Nam, với tạo tác đế kép hình vuông, tay cầm được đúc một con rồng năm móng, thúc chạm rất tinh xảo, trên trán của linh vật cao quý này có chạm khắc chữ (Vương). Đuôi rồng cong lên phía sau đầu và uốn lượn theo hình xoắn ốc, vây trên lưng nổi bật tô điểm cho cơ thể khỏe mạnh, trên thân rồng có vảy đều đặn, phần đầu với đôi sừng hươu dũng mãnh, phía dưới là mồm sư tử uy nghi với răng nanh lộ rõ. Bốn chân rồng bám chắc chắn trên mặt đế với năm móng vuốt vươn ra mạnh mẽ. Chạy dọc hai bên cạnh của đế hình vuông là hai dòng lạc khoản chữ Hán:

      ·                “Minh Mạng tứ niên, nhị nguyệt, sơ tứ nhật, cát thời chú tạo”
      明命肆年貳月初肆日吉時鑄造

      ·                Nghĩa là: Đúc vào giờ tốt ngày 04 tháng 02 âm lịch năm Minh Mạng thứ tư, tức ngày 04 tháng 02 âm lịch năm 1823.

      ·                “Thập thành hoàng kim, trọng nhị bách bát thập lạng, cửu tiền nhị phân”
      拾成黃金貳佰捌拾兩玖錢貳分

      ·                Nghĩa là: Gom thành vàng ròng, có trọng lượng 280 lạng, 9 tiền và 2 phân. Tương đương với tổng trọng lượng 10,7kg

      ·                Phía dưới có khắc bốn chữ Hán tự, lối triện: 皇帝之寶 Hoàng Đế chi bảo, nghĩa là: ‘Kho báu của Hoàng đế’.

      ·                Trong suốt 143 năm trị vì của nhà Nguyễn, đã có hơn một trăm ấn triện được tạo ra. Các ấn triện với chất liệu bằng vàng, ngọc, ngà voi, bạc và đồng được các thành viên khác nhau trong Hoàng gia, tùy theo cấp bậc của họ, cũng như các quan chức, sử dụng. Dưới thời Vua Minh Mạng, người ta đã làm ra mười lăm chiếc ấn bằng ngọc và vàng, trong đó có chiếc ấn tuyệt đẹp mà chúng ta đang có cơ hội chiêm ngưỡng ngày hôm nay. Những con dấu bằng vàng ròng, được gọi là Kim bửu tỷ (金寶 ), Kim bảo tỷ (金寶 ) hoặc Kim tỷ ( ), là một trong những bảo vật hiếm thấy nhất và quan trọng nhất của nhà Nguyễn.

      ·                Hoàng đế chi bảo chắc chắn là con dấu quan trọng nhất của triều Nguyễn, chỉ được đóng lên các sắc phong và văn bản quan trọng nhất của triều đình.

    • lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll

lllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllllll