TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)
TẬP SAN PHẬT HỌC TỊNH QUANG: TỪ SỐ 1 (2006) - ĐẾN SỐ 30 (2016)

Monday, 27 August 2012

***CHO TRỌN NIỀM VUI MÙA VU LAN



TKN Thích Nữ Chân Liễu

CHO TRỌN NIỀM VUI TRONG MÙA VU LAN

Ước rằng đóa hoa màu hồng thắm đều cùng được cài lên áo tất cả các bạn, không phân biệt, vì Cha Mẹ của tôi và Cha Mẹ của bạn luôn luôn hiện hữu. Đó là ý nghĩa: “Cho Trọn Niềm Vui Trong Mùa Vu Lan”.

Đại Lễ Vu Lan hằng năm được tổ chức trang nghiêm trong các Tự Viện khắp nơi nơi. Những tà áo đủ màu, vàng, nâu, lam, hân hoan rộn ràng sánh vai cùng lo trang hoàng cho ngày lễ báo hiếu thiêng liêng. Một sự kiện quan trọng hơn hết của buổi lễ, là nhắc nhở con người ý thức sâu sắc trong tình Cha nghĩa Mẹ bảy đời, không phải chỉ Cha Mẹ một đời hiện tiền mà thôi. 

Ý nghĩa hướng về tâm từ bi của đạo Phật, sau giây phút trang trọng của Lễ Vu Lan, phần cài hoa hồng trên áo, cùng nghĩa với sự tôn vinh hai đấng sanh thành, còn là “Ngày Cha Mẹ”.  Sâu thẳm trong tâm của mỗi người con chí hiếu, như có tiếng gọi thâm tình và lòng báo ân, báo hiếu kỳ diệu, nhiệm mầu.

Văn hóa Phật giáo luôn chú trọng đến đời sống tâm linh. Đạo đi vào đời bằng những việc thiện lành đơn giản, như hoa hồng cài trên áo, nhưng có năng lượng hữu ích thiết thực vô cùng. Những người con Phật thấm nhuần giáo lý từ bi của Đức Phật, thì tất cả đều nên được, có quyền được cài đóa “Hoa Màu Hồng”. Tại sao? - Vì ai cũng có bảy đời Cha Mẹ, dù còn sống hay đã mất, Cha Mẹ là những đóa hoa màu hồng, tươi thắm đẹp vô ngần, và luôn được trân quí trong suốt phần đời bên các con.

Con người trên thế gian, tuy khác nhau về màu da, dân tộc, quốc tịch, tôn giáo, sang hèn hay đẳng cấp cao thấp, nhưng đều từ Cha Mẹ sanh ra. Ngày qua, năm tháng trôi đi, có người còn đủ hai đấng sanh thành, có người mất Cha, người thì mất Mẹ, cũng có những mãnh đời bất hạnh mồ côi cả Cha lẫn Mẹ. Tuy sống trong hoàn cảnh khác nhau, nhưng không ai vui được khi nhận hoa màu trắng, ngậm ngùi, buồn tủi, tiếc thương, hối hận. Đã là hoa hồng, thì hãy luôn là màu hồng tươi thắm. Ý nghĩa nầy chính là tình thương Cha Mẹ trong các con, mãi mãi không bao giờ mất.

Đạo hiếu trong Phật giáo là một nền đạo đức chân thật, tự trong thâm tâm, không phải ở hình tướng bên ngoài. Tùy theo hoàn cảnh và trình độ hiểu biết mà thực hiện sự hiếu dưỡng cha mẹ đúng hay sai. Người tu theo lời Phật dạy, tin vào nhân quả, nghiệp báo, luân hồi và sự tái sanh, hiểu rằng những người sống xung quanh, nhiều đời kiếp đã từng là Cha, là Mẹ, là anh chị em của mình.

Khi tâm phân biệt, đố kỵ, thù oán, hơn thua, tham vọng, ích kỷ, riêng tư, không còn nữa, con người sẽ có tình yêu thương bao la không có giới hạn, suy nghĩ cho người nhiều hơn cho mình, thì tâm đã gần giống Tâm Chư Phật lắm rồi.

Trong kinh Vu Lan Bồn, với cử chỉ hành động đầy lòng từ bi khiêm tốn và đức độ bình đẳng, tình thương cảm rất tế nhị của Đức Phật được diễn tả trong đoạn kinh sau đây:

      Đáo bán lộ rành rành mắt thấy
      Núi xương khô bỏ đấy lâu đời
      Thế Tôn bèn vội đến nơi
      Lạy liền ba lạy rồi rơi giọt hồng
      Đức A Nan tủi lòng ái ngại
      Chẳng hiểu sao Phật lạy đống xương
      Vội vàng xin Phật dạy tường
      Thầy là Từ phụ ba phương bốn loài
      Ai ai cũng kính Thầy dường ấy
      Cớ sao Thầy lại lạy xương khô?
      Phật rằng: Trong các môn đồ
      Ông là đệ tử đứng đầu dày công
      Bởi chưa biết đục trong cho rõ
      Nên vì ngươi ta tỏ đuôi đầu
      Đống xương dồn dập bấy lâu
      Cho nên trong đó biết bao cốt hài
      Chắc cũng có ông bà cha mẹ
      Hoặc thân ta hoặc kẻ sanh ta
      Luân hồi sanh tử, tử sanh
      Lục thân đời trước thi hài còn đây.

Khi đọc tụng đoạn kinh trên, lắng tâm suy ngẫm cho thấy một hình ảnh chân thật, cao quí trong tâm lý hoằng pháp. Đức Phật đã chỉ dạy chúng sinh phá đi tâm ích kỷ, tâm chấp tướng, tâm phân biệt nặng nề, nên trải lòng thương tất cả chúng sanh với tâm bình đẳng tuyệt đối, không có nhân ngã. Dù còn sống hay đã thành xương trắng, những người sống trong luân hồi lục đạo nhiều đời kiếp, từng là thân bằng quyến thuộc với nhau.

Thông thường, con người dễ cảm nhận niềm vui riêng, bất chợt, vội cảm ơn hoa màu hồng trên áo, vì nhìn thấy có người phải tủi phận nhận hoa màu trắng. Tuy đó là niềm vui vi tế, không đáng trách, nhưng tâm từ bi chưa vẹn toàn. Tâm vị tha rộng rãi hơn, nên tự nhủ lòng rằng: “Ước rằng hoa màu hồng cùng cài lên áo tôi, và áo bạn, vì Cha Mẹ của chúng ta luôn luôn hiện hữu, cho niềm vui được trọn vẹn trong ngày Lễ Cha Mẹ thiêng liêng nhiều ý nghĩa”.

Có phải sau đó, niềm vui sẽ tăng lên gấp bội, một bông màu hồng cho anh, một bông màu hồng cho chị, một bông màu hồng cho em và một bông màu hồng cho tất cả những ai cũng có Cha Mẹ.

Bất luận người tu - xuất gia hay tại gia - đều có ý thức trách nhiệm, trong sự đền đáp ơn sanh thành dưỡng dục của Cha Mẹ, không chỉ một ngày Lễ Vu Lan mà thôi, mà ở mọi thời khắc, mọi hoàn cảnh đều thấy được cơ hội để báo hiếu. Sự an lạc của Cha Mẹ khi còn hiện tiền, hay đã khuất, đều có sự chiêu cảm cần thiết từ các con. Phẩm hạnh đạo đức các con càng cao, là niềm hạnh phúc, là quà tặng tâm linh cho Cha Mẹ, không vật chất nào có thể sánh bằng.

Đạo hiếu hạnh sáng suốt của người tu học Phật Pháp, có thể cảm hóa được Cha Mẹ hướng về Tam Bảo, học hiểu từ giáo lý Đức Phật sẽ giúp Cha Mẹ bỏ ác làm lành. Tâm chánh tín, chánh kiến và phước đức ngày càng thăng tiến, kết quả đem đến an lạc hạnh phúc hiện tiền, khi xả báo thân được giải thoát về cảnh giới an lành tốt đẹp. Cũng vậy, đối với người xung quanh, kính trên nhường dưới, hướng dẫn qui y Tam Bảo, khuyên làm lành hướng thiện, là cách đền ơn Cha Mẹ tốt nhất.

Đức Phật dạy: “Những ai đền ơn Cha Mẹ bằng cách nuôi dưỡng, dâng cúng của cải vật chất, tiền bạc, thì không bao giờ đủ để đáp đền ơn Cha Mẹ. Nhưng này các Tỳ Kheo, những ai đối với Cha Mẹ chưa sống trong thiện lành, thì hướng dẫn qui y trong chánh pháp, trau dồi đức hạnh chánh trực; đối với Cha Mẹ sinh khởi tham, thì khuyến khích bố thí; đối với cha mẹ còn tà kiến, thì khuyến khích vào chánh kiến. Cho đến như vậy, này các Tỳ Kheo, là làm đủ và đáp ơn đủ cho Mẹ và Cha”. 
(Tăng Chi bộ Kinh I. 75)


 Đối với Cha Mẹ, món ăn tinh thần dâng lên, cũng không thể không lựa chọn cẩn thận. Người có tuổi, sức khỏe thường nay đau mai yếu, hay buồn giận, dễ hờn tủi, nguồn vui chỉ mong sự săn sóc nuông chìu và hiểu biết của các con, đừng để sự cô đơn, nhớ con cháu giết lần mòn hai đấng sanh thành.

Cơ hội săn sóc Cha Mẹ là lúc tu thực hành nhiều nhất. Kiên nhẫn, bao dung, vị tha đem lại nguồn vui thanh thản cho hai đấng sanh thành. Khi chúng ta còn nhỏ Cha Mẹ lúc nào cũng hy sinh, bảo bọc, che chở và mong muốn tạo hạnh phúc cho các con. Nên dụng tâm, dành nhiều thì giờ thăm hỏi, chăm sóc, viếng thăm thường xuyên, đó mới chính là liều thuốc bổ giúp Cha Mẹ sống thọ, một cách báo hiếu hữu hiệu và công dụng nhất.

Ân Cha Mẹ ví như núi cao, biển rộng, sông sâu, vì có Cha Mẹ mới có thân ta. Phận làm con, tu tập có được chút phước đức, công đức nào, nên hồi hướng cho Cha Mẹ. Sau đó, tạo duyên cho Cha Mẹ biết qui y Tam Bảo, đó là đền ân Cha Mẹ. Vì vậy, thương và quí kính Cha Mẹ nhiều chừng nào, chúng ta phải ráng tu nhiều chừng ấy. Nhờ phước đức cộng nghiệp của những người con chí hiếu mà Cha Mẹ mất đi, đời sau sanh ra gặp Phật pháp, biết sự tu hành. Cha Mẹ còn hiện tiền thì gặp được minh sư khai ngộ, hiểu đạo, tiến tu.

Mong ước rằng Lễ Vu Lan từ nay về sau, sẽ là một ngày vui thật trọn vẹn, vì tất cả người con hướng về bảy đời Cha Mẹ, cùng một lòng hiếu hạnh báo ân. Cài trên áo một bông hoa màu hồng, giống y như nhau, không phân biệt, vì ai ai cũng có Cha, có Mẹ, để thương yêu và đền ơn. Tiềm năng vô tận của lòng từ bi ai cũng có, chỉ cần xử dụng phù hợp, khéo léo một chút thôi, thì đã có “Trọn Niềm Vui Trong Mùa Vu Lan” đầy đủ ý nghĩa nhất.

Nguyện cho bảy kiếp
Cha Mẹ chúng con,
đượm nhuần mưa pháp.
Khi còn tại thế,
thân tâm an ổn,
phát nguyện tu trì.
Khi đã qua đời,
xa lìa ác đạo,
chóng thành Phật quả.

NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN. Thích Nữ Chân Liễu
(thichnuchanlieu@gmail.com)


 
Bên em mùa Vu Lan


Mừng em ngực cài hoa hồng đỏ
Mừng em còn mẹ sống trên đời
Rưng rưng tôi nhận bông hồng trắng
Hoa trắng tôi cài đau đớn lắm em ơi

Mỗi màu hoa có một nỗi buồn vui
Mỗi giọt nước mắt có mấy tầng chua xót
Chiếc lá vàng thay mái đầu điểm bạc
Mẹ tôi đã đi xa
Đi xa mãi trần đời

Tháng bảy về nước mắt lại rơi
Hoa hồng trắng mà lòng tôi thâm tím
Chim mất mẹ tiếng hót buồn ai oán
Thui thủi một mình đêm lạnh co ro

Đời người là một chuỗi âu lo
Dẫu chẳng biết nắng mưa vẫn phải sống hết lòng hết dạ
Phụng dưỡng mẹ cha là điều cao cả
Hạnh phúc biết bao khi áo cài hoa hồng

Có chút gì xa xót trong lòng em không
Đi bên tôi mùa Vu Lan trầm lắng
Tôi mất mẹ ngực tôi cài hoa trắng
Hoa trắng buồn rưng rưng

Cùng em quỳ dưới tiếng chuông ngân
Ngôi sao lẻ loi
Bầu trời trống lạnh
Trong mắt em có nỗi buồn lấp lánh
Như có điều gì san sớt với tôi chăng

Nếu biết đời phù vân

Cuộc đời là phù vân sao vẫn cứ bâng khuâng
Tầng địa ngục thẩm sâu đang chực chờ đâu đó
Như cái chớp mắt, mấy mươi năm là mấy!
Như mây trôi qua, như hoa nở chóng tàn

Em có thấy được vô thường, ảo vọng?
Có nhìn thật rõ –cái chết đang chờ mong?
Có chịu nhớ rằng
Mỗi một ngày trôi qua
Là một ngày
Mình gần hơn sự chết

Có ai vượt qua thân già, bệnh, tử?
Có ai thoát mất mát, phân ly?
Có từng cám ơn nhờ đời sống long đong
Nhờ bất hạnh, khổ đau nên trí ngộ

Chỉ là ngôn từ, chỉ là đám chữ
Nghĩa lý gì mà phải đáng quan tâm
Như tiếng chim kêu, vượn hú thế mà
Ấy vậy sao còn để lòng thương, ghét?!

Sao lẩn quẩn hoài, tâm “động” mãi không thôi!

Q. Như Nguyệt
September 2nd, 2011
    VÔ THƯỜNG
 
Vô thường sẽ đến
Tôi thường hay quên
Có ngày tôi sẽ chết
Nên suốt một đời
Gom góp vật ngoại thân

 
Tôi vẫn hay quên
Có ngày tôi sẽ chết
Nên tấm lòng
Không mở rộng bao dung

 
Tôi cứ quên hoài
Quên mãi
Một ngày tôi sẽ chết
Nên
Bác ái trong tôi
Lúc tỏ lúc mờ

 
Tôi cứ hay quên
Sẽ có ngày tôi chết
Nên để vô minh
Che khuất cả cuộc đời

 
Tình yêu
Ôi! Tình yêu
Có phải chăng là tấm lưới
Tôi tự giăng ra
Tự trùm phủ đời mình

 
Nếu hiểu rằng
Vô thường luôn có mặt
Thì anh ơi,
Tất cả sẽ là không!
 
  Tác giả:  NHƯ NGUYỆT 
 


Thursday, 23 August 2012

***Đạo Hiếu: Đạo trọng nhất của con người


Đạo Hiếu: Đạo trọng nhất của con người 
Bút Xuân Trần Đình Ngọc
Sau ngày 30-4-1975, đàn chim Việt không còn cái may mắn “Việt điểu sào nam chi” được nữa nên đã tung cánh đến bốn phương trời. Ở những nơi là quê hương thứ hai đó, đàn chim Việt đã học hỏi được nhiều điều hay, lạ cũng như nhiều điều không hay. Ở đây, chỉ xin nói về những cái hay. Cái dở - của mình và của người - xin sẽ nói sau.
Một trong những cái hay ở Hoa Kỳ hay ở Pháp là những xứ này đặt ra “Ngày Từ Phụ” và “Ngày Hiền Mẫu” (Father’s Day, Mother’s Day hay Fête des Pères, Fête des Mères).
Chẳng phải do sáng kiến của người Hoa Kỳ, người Pháp hay người các nước khác mà người Việt chúng ta mới nhớ đến cha mẹ chúng ta. Tộc Việt vốn là giống dân hữu thần, trọng lễ nghĩa, truyền thống của dân tộc. Khi tam giáo (Phật, Khổng,  Lão) chưa du nhập Việt Nam thì người Việt đã biết kính thờ tổ tiên, trọng kính cha mẹ, thương yêu anh, chị, em và hầu như mọi gia đình đều lập bài vị ông bà, cha mẹ để thờ cúng. Những ngày giỗ kị thì thắp nhang, dâng hoa quả, cơm nước đặt trên bàn thờ để mong ông bà, cha mẹ (những người đã khuất) về hưởng. Nhà nghèo nhất cũng có bát cơm trắng với quả trứng luộc dâng lên với tất cả lòng thành. Tuy người đã khuất không hưởng được nhưng lễ nghi ấy lại cần thiết để giáo hóa con trẻ để sau này chúng cũng nhớ đến ông bà, cha mẹ như vậy.
Tam giáo du nhập Việt Nam rất sớm, như đạo Phật từ cuối thế kỉ thứ II, đạo Khổng, theo sử sách, kể từ Tích Quang (Thái thú Giao chỉ, đời Hán Bình đế), Nhâm Diên (thái thú quận Cửu Chân từ năm 29 đến năm 33), Sĩ Nhiếp (làm thái thú quận Giao Chỉ từ năm 187-226) lấy lễ nghĩa văn hóa dạy dân ta thì đạo Hiếu lại càng được khuyến khích nhiều hơn. Tôi nhớ trong mấy cuốn sách vỡ lòng về Nho giáo tôi đã học hồi năm, bảy tuổi, như Tam tự kinh, Minh Tâm bảo giám chính văn, và sau này tại trường đại học Văn Khoa Sàigòn, cuốn Đại học, thụ giáo LM Sàng Đình Nguyễn văn Thích, các sách đó bàng bạc toàn dạy về chữ Hiếu, chữ Nghĩa, chữ Trung Tín.... Xin trưng dẫn vài câu:
       Quân tử hữu bách sự, hiếu vi tiên.
       Người quân tử có một trăm công việc để làm, hiếu là ưu tiên.
Chẳng những quạt nồng ấp lạnh, phụng sự cha mẹ mà khi có công việc phải đi xa cũng chớ nên khinh xuất bỏ cha mẹ ở nhà một mình:
       Phụ mẫu tại đường, bất khả viễn du.
       Còn cha mẹ đấy, không nên đi chơi xa.
 Chữ Hiếu trong kho tàng Ca dao, Tục ngữ lại càng nhiều nữa và hầu như ai cũng thuộc nằm lòng đôi câu:
       Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
       Một lòng kính mẹ, thờ cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

      Công cha đức mẹ cao dày
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ
       Nuôi con khó nhọc đến giờ
Trưởng thành con phải biết thờ song thân

Ngó lên trời thấy cặp cu đang đá
Ngó ra ngoài biển thấy cặp cá đang đua
       Ta về lập miếu thờ vua
Lập trang thờ mẹ, lập chùa thờ cha.
Nho giáo không dạy kĩ thuật mà chỉ dạy lễ nghĩa “tiên học lễ, hậu học văn”.
Hầu như câu nào trong Tứ thư (Đại học, Trung dung, Luận ngữ, Mạnh tử) và Ngũ kinh (Thi, Thư, Dịch, Lễ, Xuân thu) cũng dạy cách làm người: đạo Hiếu kính và Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín. Chúng ta hãy đọc lại bài “Thế nào là hiếu?” sau đây trích trong sách Luận ngữ:
Mạnh Ý tử hỏi thờ đấng thân, thế nào gọi là hiếu?
Đức Khổng tử nói rằng: “Thờ đấng thân mà không ngang trái là hiếu.”
Thày Phàn Trì ngự xe cho đức Khổng, đức Khổng bảo cho rằng:”Họ Mạnh Tôn hỏi ta điều hiếu, ta thưa rằng: ”Không ngang trái.”  Thày Phàn Trì hỏi rằng: ”Lời ấy là ý bảo thế nào?” Đức Khổng nói rằng:”Ta nói không ngang trái là không ngang trái với lẽ phải. Người con thờ đấng thân, khi đấng thân còn thì phụng dưỡng cho phải lễ; khi đấng thân mất thì tống táng cho phải lễ; khi tế đấng thân thì tế cho phải lễ.”
Mạnh Vũ Bá hỏi điều hiếu. Đức khổng tử nói rằng: ”Cha mẹ chỉ chăm lo về tật bệnh người con.”
Thày Tử Du hỏi điều hiếu. Đức Khổng tử nói rằng: ”Đời nay chỉ bảo rằng nuôi được cha mẹ là hiếu. Nhưng suy đến loài hèn như khuyển mã, cũng còn nuôi nó cả. Nếu nuôi cha mẹ mà chẳng kính thì có khác gì!”
Tử Hạ hỏi điều hiếu. Đức Khổng tử nói rằng: ”Khi thờ cha mẹ, khó nhất là nét mặt hòa vui. Nếu kẻ đệ tử chỉ biết phục dịch làm thay việc khó nhọc cho phụ huynh và có rượu cơm mời ngài xơi, những điều ấy có kể là hiếu đâu!”
(Nguyễn hữu Tiến và Nguyễn đôn Phục dịch).
Chú thích: Phàn Trì, Tử Du, Tử Hạ: học trò Đức Khổng tử.  Mạnh Ý tử: quan đại phu nước Lỗ.  Mạnh Vũ Bá: con Mạnh Ý tử.

Xem thế, vật chất cung phụng cha mẹ không quan trọng bằng tấm lòng, bằng cái tinh thần. Cha mẹ con cái, có no ăn no, có đói ăn đói, cùng nhau chia bùi sẻ ngọt, nét mặt, cử chỉ, lời ăn tiếng nói của con ôn tồn, kính cẩn thì dù hoàn cảnh thiếu thốn, cha mẹ nào cũng vui lòng. Trái lại, thừa mứa của cải, nuôi cha mẹ trong nhà nhưng đối xử như nuôi đầy tớ, dằn vặt, chì chiết, đập nồi quăng rế, chửi chó mắng mèo thì đến cao lương mĩ vị hàng ngày, giường êm nệm ấm ban đêm cha mẹ cũng buồn tủi mà xin đi! Cái nét mặt đức Khổng tử nói chính là cách đối xử, ăn ở vậy.
 Đạo Phật cũng hoằng dương đạo Hiếu. Chuyện kể rằng có một phụ nữ tuy không vào chùa xuống tóc đi tu nhưng mộ đạo lắm, giữ mọi giới của nhà Phật.
Một bữa, chị thấy buồng chuối ngoài vườn có vài nải chín vàng, trông tươi đẹp, ngon lành. Chị cắt cả buồng, để lại mấy nải còn xanh, bỏ hai nải chín đẹp nhất vào trong cái rổ, lấy vỉ đậy lại rồi hối hả đội lên chùa, hí hửng lễ Phật, nghĩ rằng ắt sẽ được nhiều phước.
Chị vào đến cổng chùa, sân chùa vắng ngắt vắng ngơ vì là ngày thường, chị đi thẳng vào gian bếp, thấy chú tiểu đang đứng tưới cảnh ngoài vườn, chị chào hỏi và mượn chú cái đĩa lớn. Đặt chuối vào đĩa, chị đưa lên gian tam bảo, đặt đĩa chuối trước bàn thờ Phật, đốt thẻ hương, khấu đầu vái lạy hết lòng cung kính rồi cắm hương vào bát, ra về.
Chị vừa ra tới sân thì gặp Hòa thượng trụ trì. Rổ cắp ở tay, chị cúi đầu chào sư cụ. Sư cụ đã biết chị từ lâu nhưng ngạc nhiên sao hôm nay ngày thường chị cũng lên chùa.
       “Bạch hòa thượng.”
       “Chào thí chủ. Thí chủ có việc gì lên chùa hôm nay?” Sư cụ hỏi.
       “Bạch hòa thượng, buồng chuối trong vườn có nải chín đẹp và ngon lắm, con đưa lên cúng Phật.”
       “Chị để chuối ở đâu rồi?”
       “Thưa cụ, con đã thắp hương và cúng trên bàn thờ Phật.”
       “Đâu, chị chỉ cho tôi coi.”
Người đàn bà đi trước hướng dẫn sư cụ vào trước bàn thờ Phật. Cây hương còn cháy và đĩa chuối vàng tươi vẫn y chỗ cũ. Sư cụ bảo người đàn bà:
     “Thí chủ có lòng đến lễ Phật, lại cúng quải những thứ đặc sản của vườn nhà, một điều rất quí hóa. Ta có nghe, thí chủ còn song thân phải phụng dưỡng, phải không?
     “Bạch hòa thượng, phải.”
     “ Vậy thí chủ đã dành nải nào dâng lên song thân thí chủ chưa?”
Người đàn bà luống cuống vì câu hỏi. Còn lại bốn nải nữa nhưng chị không định dành cho cha mẹ nải nào mà chỉ đợi phiên chợ tới, đem ra bán. Chị trả lời cho qua:
     “Dạ, thưa hòa thương, mấy nải kia còn xanh, khi chín con sẽ dâng cha mẹ.”
     “Không,” Giọng sư cụ ôn tồn nhưng nhìn nét mặt luống cuống của người đàn bà, sư cụ đã đoán ra, hơn nữa lời đồn về chị ta đối với cha mẹ không tốt đã vô tình đến tai sư cụ từ lâu nay, ”Thí chủ phải dành những nải này cho cha mẹ thí chủ đã, những nải kia chín hãy đem cúng dường. Nếu thí chủ không dâng cha mẹ trước thì Phật không nhận lễ vật của thí chủ đâu.”
Nói xong, sư cụ cầm đĩa chuối trao cho người đàn bà:  “Thí chủ hãy cầm về dâng lên cha mẹ. Cha mẹ thí chủ chính là Phật sống tại gia của thí chủ đó.”
Người đàn bà mắc cở đỏ mặt, vái chào sư cụ xong cắp rổ chuối đi một mạch.
Trong những kinh nhà Phật, Phật cũng dạy:
Thiên chi cực mạc đại ư hiếu, ác chi cực bất hiếu giả:
Hiếu thảo là điều thiện to lớn nhất, bất hiếu là điều ác to lớn nhất.
Thế nhược vô Phật, thiên sự phụ mẫu. Sự phụ mẫu tức thị sự Phật.
Người sinh ra đời không gặp Phật mà phụng thờ cha mẹ thì cũng như thờ Phật.
Tu đâu bằng tu tại gia. Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Cách nay hơn bốn thế kỉ, Thiên Chúa giáo từ phương Tây truyền vào Việt Nam qua các nhà truyền giáo Pháp, Tây ban Nha, Bồ đào Nha, Ý đại lợi. Thiên chúa giáo hay Kitô giáo cũng dạy con người phải “thảo kính cha mẹ.”
Trong 10 điều răn của Thiên Chúa buộc giáo dân phải hết sức giữ thì ba điều đầu nói về bổn phận của tín hữu đối với Thiên Chúa, đấng toàn năng sinh ra vũ trụ vạn vật. Điều thứ 4 nói về bổn phận làm con đối với cha mẹ, đứng trên các điều đối với người ta (từ 5-10) đủ biết bổn phận này quan trọng như thế nào. Khi có dịp, các Linh mục trong các thánh lễ cũng giảng giải về điều răn thứ 4 này một cách kĩ lưỡng để mọi giáo dân ý thức bổn phận làm con đối với cha mẹ. Trước kia việc thờ cúng ông bà, tổ tiên còn bị thắt chặt vì nơi xuất phát đạo Thiên Chúa là Âu châu lại không có tục thờ cúng ông bà, tổ tiên. Nhưng từ sau Công Đồng Vaticanô II, hội thánh Công giáo đã thích nghi với những tập tục, thói quen thờ cúng ông bà tổ tiên của dân Á châu nên nới rộng rất nhiều. Khi tôi còn bé, quan tài người chết mang vào nhà thờ làm lễ không thể cùng đi với khung ảnh người quá cố, nhất là lại để khung ảnh ấy trên cao nhìn xuống giống như bức ảnh một vị thánh. Hồi đó không cho thắp nhang trong nhà thờ và dù là con cháu cũng không được lậy người đã quá cố. Ngày nay, nhiều tập tục đã được dễ dàng.

Có một câu chuyện tôi nghe được khi còn rất bé, nhớ đến ngày nay, xin kể hầu quí vị.
Thầy tôi có một người cháu, con bà chị ruột, ở họ Thôn Đông, Trà Đoài, đã thụ phong Linh Mục từ khi tôi mới khoảng 10 tuổi. Hồi trước tôi không biết Ngài đi những giáo xứ nào nhưng sau này Ngài là Bế trên dòng Trinh Vương, nhà dòng chính ở Bùi Môn. Một bữa Linh mục và ông bà cố đến thăm thầy mẹ tôi vì thầy tôi mới từ Hà Nội về. Trong bữa cơm gia đình thật vui vẻ, Linh Mục Trung hỏi thầy tôi:
“Thưa cậu, đã lâu con không được nghe chuyện của cậu. Cậu ở Hà Nội về, có chuyện gì hay cậu kể cho cả nhà nghe cho vui.”
Sau khi kể một câu chuyện vui, thầy tôi hỏi Linh mục:
“Bây giờ cậu hỏi Trung nhé. (Thày tôi chỉ gọi tên, không gọi là cha). Nếu như có người vào xưng tội với Trung là anh đó (hay chị đó) đã hỗn láo chửi  cha mắng mẹ, Trung có tha tội cho người ta không?”
Linh Mục Trung suy nghĩ một chút rồi nói:
“Thưa cậu, con cũng tha cho họ với điều kiện là họ phải về xin lỗi cha hoặc mẹ mà họ đã làm phiền lòng, lại cũng hứa không tái phạm. Cũng tựa như khi người ta xưng tội lấy tiền bạc của cải  của người khác thì phép công bằng đòi buộc họ phải trả mới hết tội. Lấy tiền bạc hay lấy mất danh dự của người ta thì cũng như nhau, một đàng vật chất, một đàng tinh thần, thưa cậu.”
Thầy tôi khen ngợi Linh mục Trung hết mình. Ông rất hãnh diện có một ông Linh mục cháu giỏi giang đạo hạnh như thế (LM Trung đã qua đời khoảng 6 tháng nay, 2006). Những năm ở Sàigòn, vùng Hóc Môn là khu cử tri của tôi khi tôi là Dân Biểu Hạ Viện. Đi hoạt động ở Hóc Môn rất thường nên thỉnh thoảng tôi lại ghé vào thăm LM Trung. Khi gặp bữa, Ngài bảo:
”Hôm nay chú có bận đi đâu không?”
“Thưa anh, em được rảnh cho đến 2 giờ.”
“Vậy chú ở đây ăn cơm trưa với anh rồi hãy đi.”
Cơm nhà Dòng thanh đạm nhưng cái tình thì đầy ắp những yêu thương và thanh tịnh như những bông huệ trắng tươi các Nữ tu trồng ở lối vào Tu viện.
Nhờ vì thường ghé, tôi quen các Nữ tu ở nhà Dòng rất nhiều. Tôi cũng nợ các Nữ tu nhiều vì ngày bầu phiếu, tháng 29-8-1971, hơn 400 Nữ tu nhà dòng đã bỏ phiếu cho tôi. LM Trung không xin phiếu cho tôi mà chỉ bảo: ”Các chị coi tiểu sử của chú ấy, được thì bỏ, không thì chọn người khác.” Sau khi đắc cử, tôi tới cám ơn ông anh Linh mục và nhà Dòng. Nữ tu coi sóc nhà Dòng bảo tôi: ”Chị em tôi đã lựa trong số 98 Ứng cử viên đơn vị (6 ghế) Tân Bình-Hóc Môn-Bình chánh này, sau cùng đồng ý dồn phiếu cho “quan chú”. Hơn 400 Nữ tu đi bỏ hết, chúng tôi bỏ “độc phiếu” cho quan chú chứ thực ra được phép bỏ tối đa 6 người.”
Tôi chỉ còn biết cám ơn nhà Dòng.
Linh Mục Trung đã làm cho dòng Trinh Vương khởi thủy là một nhà dòng nhỏ sau ít năm đã thành một dòng lớn, rất đông Nữ tu. (tôi không biết chính xác “sĩ” số). Nếu tôi không lầm, ở Hoa Kỳ cũng có một Chi nhánh.
Trở lại với ngày “Từ Phụ” và ngày “Hiền Mẫu” ở  Hoa Kỳ, tức vào khoảng giữa tháng 6 và tháng 5 dương lịch. Hầu như mọi gia đình ở Hoa Kỳ đã dùng hai ngày này để con cái nói lên lòng hiếu thảo đối với cha mẹ. Đây là một tập tục tốt, nước Việt Nam cũng nên đặt ra hai ngày đó, không phải để tiêu thụ hàng hóa nhưng để ôn lại đạo Hiếu, đạo quan trọng nhất của con người trong khi tôn giáo là đạo với thần linh, ai tin thì theo, ai không tin không có luật nào bắt buộc. Nhưng đạo Hiếu là đạo bắt buộc vì không ai là không có cha mẹ. Người chỉ hơn thú vật ở chỗ biết cha mẹ, thảo kính cha mẹ. Nếu không biết trọng kính cha mẹ tất nhiên những hạng người đó đã tự đặt mình ngang với loài súc vật rồi. Ở thời đại chúng ta, có thiếu gì những kẻ vì quyền lợi riêng tư, phe đảng, muốn ăn trên ngồi trốc, hay lòng dạ độc ác đã nhẫn tâm hành hạ, đày đọa cha mẹ. Những kẻ ấy không thể được dùng danh từ “người” vì chúng bất xứng, bôi nhọ con người.
Trong Kitô giáo, cứ sau lễ các Thánh (Toussaint) vào tháng 11 là đến Lễ Cầu hồn. Mọi gia đình đi dự lễ cầu cho ông bà, cha mẹ, xong ra nghĩa trang đặt vòng hoa tưởng niệm và cầu nguyện tại chỗ. Thầy tôi dùng lễ này hoặc là trước Tết Nguyên Đán, cùng con cháu đi tảo mộ ông bà, tức sửa sang phần mộ, đắp thêm đất hoặc xây gạch, chỉnh đốn bia mộ. Người Việt mình có câu: ”Sống vì mồ vì mả, không sống vì cả bát cơm” do đó mồ mả tiền nhân rất quan trọng.
Sau bữa cơm đoàn tụ gia đình, khá giả thì giết con chó, không thì mua thịt lợn ở chợ, người trưởng tộc hay anh cả nói về cha mẹ, ông bà đã khuất cho cả gia tộc cùng nghe, kể những đức tính tốt, những tài năng, thiên khiếu để khuyến khích các cháu chắt noi gương ông bà, làm rạng danh cho gia tộc.
Phật giáo dùng ngày 15-7 âm lịch làm lễ Vu Lan để nhớ đến công đức ông bà cha mẹ, đã khuất hay còn sinh tiền. Ngày Vu Lan người ta nhắc đến chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ trong ngục a tì vì mẹ đã làm điều ác bị đọa xuống đó. Lòng hiếu thảo của Mục Kiền Liên đã giúp mẹ sớm thoát cảnh đọa đày.

Còn người Nhật có tập tục nhân ngày nhớ ơn cha mẹ, bạn đi ra đường, nếu bạn trả lời thiếu nữ tiến đến trước bạn rằng cha mẹ bạn đã khuất núi cả thì thiếu nữ sẽ cài lên ve áo bạn một bông hồng bạch. Trái lại, nếu bạn còn cha hoặc mẹ, bạn sẽ được cài một bông hồng đỏ tượng trưng sự vui mừng, trái với mầu trắng là mầu tang tóc, buồn tủi.
Trong cuộc đời viết văn, làm thơ, làm báo gần nửa thế kỉ (từ 1958), tôi đọc được rất nhiều bài viết cảm động về mẹ nhưng rất ít về bố. Tôi hiểu rằng đứa con bao giờ cũng gần gũi với mẹ hơn bố nhưng không lẽ nói về mẹ mười bài, ta không có một bài cho bố ta sao? Có những nhà thơ, nếu gọi được họ là nhà thơ, cả đời chỉ ca tụng ái tình và đàn bà. Người đàn bà kế là mẹ mà chẳng bao giờ thấy họ “đụng đậy” đến những ông bố. Không lẽ họ không có bố? Tôi yêu thương mẹ tôi thế nào thì tôi yêu thương bố tôi như thế. Ngoài ra, nếu kể về phương diện tinh thần thì bố tôi khai tâm, chỉ bảo cho tôi nhiều hơn bởi lẽ bố tôi học nhiều hơn mẹ tôi. Nếu bố tôi không cho tôi một hạt mầm để hợp với cái trứng của mẹ tôi thì chắc chắn không có tôi. Hạt bụi là tôi khởi đầu từ bố tôi.
Nhân tiện cũng xin đề cập, khi tôi còn nhỏ, theo tập tục của những nhà Nho, bố tôi bảo con cái gọi bố tôi là thầy vì ngoài việc sinh thành, thầy còn khai tâm mở trí cho mình. Chữ dùng khác là bố, hoàn toàn Việt Nam, còn chữ “ba” nó lai căng từ tiếng Pháp “papa” đi với “maman” (má măng) mà ta gọi tắt là “má”. Ba nên đi cặp với má, bố với mẹ, cho nó thuần túy Việt Nam. Nên nhớ tiếng “ba” không có văn vẻ hơn tiếng “bố”. “Ba” đi với “mẹ”, nghe nửa tây, nửa ta, nửa nạc nửa mỡ. Tuy nhiên, ai thích gọi sao tùy ý. Ta cũng nên biết, con cái tộc Việt đã gọi “bố” từ thời Lạc long quân. “Bố ơi, sao bố không về mà cứu chúng con?” Có một vị tướng tài là “Bố cái Đại vương”. Cái là mẹ.
Để kết thúc bài phiếm về đạo Hiếu nhân lễ Vu Lan, tôi xin sửa đổi đôi chút về câu ngụ ngôn Pháp: ”Hãy cho tôi biết anh (chị) giao du với ai, tôi sẽ nói anh (chị) là hạng người nào.” thành ra: ”Hãy cho tôi biết anh (chị) đối xử với cha mẹ ra sao, tôi sẽ cho biết anh (chị) là hạng người nào.” Kẻ đã coi bố mẹ đẻ dứt ruột ra như cục gạch thì những người khác, chúng coi ra cái gì!”

Thân ái gửi đến quí bạn đọc bài thơ song ngữ tôi đã làm khá lâu

NHỚ ƠN CHA MẸ

Thân, tâm con có hôm nay
Nhờ ơn Cha Mẹ những ngày xa xưa.

Lễ Vu Lan nhớ ơn Cha Mẹ
Bao công lao dưỡng dục sinh thành
Vì ai nên mới có mình ?
Trông nom, bú mớm hết tình với ta !

Thuở còn nhỏ cho ta đi học
Mong sau này ta được thành nhân
Làm vinh Quốc tổ, quốc dân
Làm vinh dòng giống con dân Lạc Hồng.

Khi khôn lớn gả  chồng, dựng vợ
Lo cho ta như đũa có đôi
Gia đình nề nếp, mai rồi
Sinh con đẻ cháu đời đời truyền lưu.

Lúc về hưu người già khó tánh
Ta lựa lời hợp cảnh, hợp tình
Gửi thưa lễ phép phân minh
Sao cho xứng với tâm tình đạo con.

Chớ bao giờ dùng lời hỗn láo
Cũng chẳng nên cao ngạo ta đây
Dù ta tiếng Mỹ, tiếng Tây
Dù danh phận lớn ông này, bà kia.

Nên khuya sớm thần hôn định tỉnh
Ðạo làm con phải nhớ luôn luôn
Núi Thái Sơn - Nước trong nguồn
Làm con Ðạo Hiếu phải cho vuông tròn.

Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC
(Trích NHƯ ÁNG MÂY TRÔI)
              

GRATITUDE TOWARD OUR PARENTS

We want to show our gratitude toward our parents
on the occasion of Vu Lan ceremony,
They did so much things for us:
giving birth, feeding and teaching.
Thanks to them, we are present in this world,
They also took care of us very carefully.

When we were young,
 they sent us to school,
They expected us to become good people,
And become good citizens
who made our ancestors,
countrymen and nation proud.

When we were growing up,
they were worried about our marriage.
Once we find our soul-mates,
matched like a couple of chopsticks,
we’ll start our families.
Soon there will follow grandchildren,
 great grandchildren
down through the generations.

When our parents retire,
that’s the time they get older.
They become fastidious some times,
Therefore, we need to choose our words carefully
 and with courtesy.
In order to fulfill our duty as children.

Do not use any rude words,
or arrogance with our parents;
Though we’re able to speak English
or French fluently,
And have a high position in the society,
We need to speak humbly
and politely with our parents.

Moreover, we should visit  our parents very often,
We always need to remember
to accomplish our duty
toward  our beloved parents.
Their merit is incomparable!

Little Saigon, CA Vu Lan Ceremony 1991
GS Bút Xuân TRẦN ÐÌNH NGỌC

PHẬT PHÁP TRỊ TÂM BỊNH CỦA CHÚNG SINH
HẠNH PHÚC NHỜ BIẾT BUÔNG XẢ
ĐỜI CÒN DỄ THƯƠNG
http://phtq-canada.blogspot.ca/2012/08/oi-con-de-thuong.html
PHẬT PHÁP TẠI THẾ GIAN