XUÂN TRONG NÉT ĐẸP NGƯỜI TU
TKN
Thích Nữ Chân Liễu
Nhân
dịp đầu năm, đi chùa lễ Phật, nhìn thấy muôn hoa đua nở, vẻ đẹp tao nhã của
thiên nhiên như lời chúc phúc tốt lành đến với tất cả mọi người.
Một sức
sống vui tươi vô cùng kỳ diệu khi nhìn cảnh sắc xinh tươi của "Mùa
Xuân", tâm tình ai ai cũng cảm thấy phấn khởi và hoan hỷ đón mừng mùa xuân
an lạc hạnh phúc, cát tường như ý. Hương xuân làm con người lạc quan yêu đời,
cũng là thời gian mà người tu tâm dưỡng tánh có thể chuyển mình tự đứng lên,
vượt thoát quá khứ nhiều phiền não, nhìn về tương lai đầy hứa hẹn.
Đệ tử
Phật gia ai ai cũng mong ước được vô lượng an lạc, vạn sự cát tường, Phật sự
hanh thông, Phật đạo viên thành và đạt được mùa xuân miên viễn, như những lời
chúc đầy đạo vị mỗi khi xuân về.
Mong
ước đạt được những điều chúc tụng đầy ý nghĩa trong dịp xuân về, người con Phật
nên hiểu rõ ràng về giáo lý nhân quả và sự thực hành đúng chánh pháp, áp dụng
giáo lý đạo Phật trong đời sống hằng ngày.
Điều
quan trọng vô cùng sâu sắc của Phật pháp, thể hiện qua giá trị nhân cách sống
cao thượng chân chánh của người tu, đó chính là "Xuân trong nét đẹp của
người tu", kết quả là sự an lạc cát tường như ý, không mong cầu cũng luôn
luôn hiện hữu.
NÉT ĐẸP
CỦA
NGƯỜI
TU XUẤT GIA
Theo sự
tích của Đức Phật, hình ảnh thanh tịnh, từ tốn, bước chân an lạc xuất trần của
một vị Sa môn, cùng tấm áo cà sa đơn giản, đầu trần chân đất, cuộc sống ung
dung tự tại đã làm Thái Tử Tất Đạt Đa xúc động. Xuất thân từ cung vàng điện
ngọc, địa vị cao sang quyền quí tột đỉnh, nhưng cuộc sống của vị Sa môn Cồ Đàm
đơn giản thuần khiết, cơ cực khổ hạnh thể hiện qua một con người siêu việt xuất
thế. Đức Phật là nét đẹp đạo hạnh đầy đủ "Từ bi và Trí tuệ". Sự kính
phục tuyệt đối của nhân loại về chân lý đạt đến cứu cánh giải thoát sanh tử,
ngàn đời nay đến đời sau đối với Ngài là vô cùng vô tận.
Sống
trong giới pháp của Đức Phật, người tu xuất gia không phải bận rộn miếng cơm
manh áo, không lo toan chuyện thị phi thế gian, là đang được hưởng gia tài của
cha lành Thế Tôn để lại. Trên bước đường hành đạo, có nhiều chông gai trắc trở,
đồng thời cũng có nhiều cám dỗ của vật chất danh lợi trong giai đoạn tự chế ngự
bản thân, đó là thử thách, rèn luyện công phu tu tâm dưỡng tánh.
Đối với
mùa xuân mỗi năm qua mau, kiếp sống con người thật ngắn ngủi, nếp sống thanh
tịnh trầm mặc của các vị tu sĩ là khép lại bớt lục căn: mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân và ý.
Mắt: Không
thấy vật chất là vĩnh cửu, là quí giá, cần nắm giữ cho riêng mình.
Tai: Không
nghe nhiều, không chấp vào tiếng khen chê, sanh tâm thương ghét phân biệt.
Mũi: Không
để cho mùi vị, hương lạ làm tâm tán loạn, sanh tâm mê đắm, thích hưởng thụ.
Lưỡi: Không
để cho cảm giác ngon dở, ưa thích sai khiến, tạo nghiệp chẳng lành.
Thân: Không
hơn thua, đẹp xấu phô trương, sanh lòng khinh mạn đua đòi.
Ý: Không
để cho ý sanh vọng tưởng điên đảo, tâm thức tán loạn sẽ rơi vào tội lỗi.
Chứng
thực cho sự giải thoát của con người, là được sống thảnh thơi trong an nhàn,
tâm an tĩnh, trí sáng suốt, rời xa những bon chen, xô bồ của cuộc sống thường
ngày, rời xa vòng danh lợi thế gian, thoát khỏi bể khổ trầm luân. Ấy chính là
khi Tâm ta hoàn toàn an tĩnh.
"Nét
đẹp của người xuất gia" không phải là hình tướng khác thường bên ngoài,
không phải mũ cao, áo thêu áo gấm, đủ màu đủ sắc. Xuân đối với người xuất gia
là cái đẹp trong sáng ở nội tâm, khi Tâm thanh tịnh, rời xa được lòng tham lam,
sân hận, si mê, nhân cách thuần hậu, nguyện đem lợi lạc cho mình cho người.
Tâm
hạnh người xuất gia cao thượng chân thật vô ngã vị tha, ắt sẽ đạt đến Niết bàn
vô lượng an lạc, đó là "Xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia",
cũng là giá trị hạnh phúc bất tận cho người tu ngay tại thế gian.
NÉT ĐẸP
CỦA
NGƯỜI
TU TẠI GIA
Đạo
Phật không đòi hỏi mọi người đều phải lên Chùa để tu, cầu Kinh sớm hôm và hàng
ngày phải ăn chay khổ hạnh hay buộc phải hoàn toàn cắt đứt tất cả tình thương
với người thân, mới gọi là biết tu.
Ý nghĩa của chữ TU là tu tâm sửa tánh. Đức Phật dạy:
"Thắng vạn quân không bằng tự thắng mình. Tự thắng tâm mình là điều cao
quý nhất".
Khi những vọng tâm, vọng tưởng, vọng thức, vọng niệm đã
dứt sạch, thì sẽ chế ngự được tham lam, sân hận, si mê. Kết quả thực tế, cũng
là phần thưởng cho những cố gắng, nổ lực không ngừng của người tu tại gia,
trước mắt là những chuỗi ngày hạnh phúc, vui vẻ, đầy an lạc.
Một người yếu đuối sợ khó khăn, tâm tánh ích kỷ, thích mơ
mộng danh lợi, đòi hỏi nhiều về thú vui vật chất riêng bản thân, muốn một cuộc
sống "tu tại gia" không dễ dàng thực hiện được. Một ví dụ, như làm
cha mẹ muốn tu tại gia, vừa trách nhiệm lo miếng cơm manh áo cho gia đình, cho
các con, lại còn phải hộ trì Tam Bảo, tu học Phật pháp, niệm Phật, ngồi thiền,
tụng kinh, tự soi rọi thanh lọc tâm, không phải ai cũng làm được. Nếu thực hành
vẹn toàn được công phu "tu tại gia", người tu luôn luôn chịu hy sinh
rất nhiều cho riêng bản thân mình, tâm ý cao thượng khó làm khó thực hiện,
nhưng đó chính là môi trường tu tâm dưỡng tánh tuyệt vời nhất.
Người muốn tu, ở hoàn cảnh nào cũng tu được, nếu hiểu
được cách tu theo lời Phật dạy, nghĩa là áp dụng tứ vô lượng tâm là từ, bi, hỷ,
xả, khoan dung rộng lượng trong đối xử, biết tự kềm chế thú vui vật chất, mạnh
dạn hy sinh lợi ích cá nhân, biết xả bỏ ích kỷ nhỏ nhen. Người tu tại gia tự độ
và còn có thể độ được cho những người thân trong gia đình và làm tấm
gương cho con cháu noi theo. Sống biết đủ, không đòi hỏi nhiều, không bận
rộn vào cuộc vui vô nghĩa, người "tu tại gia" sẽ có rất nhiều thời
gian cho việc nghiên tầm kinh điển, tu học để khai sáng trí tuệ, trưởng dưỡng
từ bi.
"Nét đẹp của người tu tại gia" là cuộc sống
chân thật hồn nhiên, một nhân cách trong sạch và một tâm Bồ Tát tại gia vô chấp
vô phân biệt, vượt qua được hình tướng xuất gia, nhưng vẫn có thể thành tựu đạo
nghiệp.
Người "tu tại gia" có thể đem lại cho mình, cho
những người thân sống chung quanh sự bình yên tuyệt đối trong tâm hồn, sự thoải
mái vô cùng qua cung cách cư xử trong từng cử chỉ, lời nói, việc làm cũng như ý
nghĩ. Đó là ý nghĩa vi diệu tuyệt vời "Xuân trong nét đẹp người tu tại gia",
ngay từ những điều vô cùng giản dị trong cuộc sống hằng ngày.
Tóm lại, mùa xuân trong nét đẹp của người tu xuất gia hay
tại gia là ở tâm hạnh của Bồ Tát, nhân cách nghiêm tịnh, giới đức khiêm cung.
Được gần
các "Bậc Thiện Nhân" con người sẽ cảm nhận vô lượng an lạc hạnh phúc,
như được hưởng gió mát và ánh nắng ấm áp, đầy đạo vị của những cánh hoa xuân
tươi đẹp.
- Trang nghiêm giới hạnh, đó là thân đẹp.
- Ăn ở hiền hòa, thủy chung, đó là nết đẹp.
- Cư xử khiêm hạ, từ tốn, đó là cử chỉ đẹp.
- Giúp đỡ người bị nạn hay đói nghèo, đó là tấm lòng đẹp.
- Hiếu với cha mẹ, kính bậc hiền thánh, đó là tâm hồn
đẹp.
- Gặp người đau khổ, sợ hãi, nói lời an ủi, đó là ngôn
ngữ đẹp.
- Không khởi tà niệm, tâm luôn chánh trực, đó là ý đẹp.
- Biết độ lượng, bao dung, đó là đức hạnh đẹp.
- Khai mở tâm trí, phá trừ vô minh, đó là trí tuệ đẹp.
- Đạt được giác ngộ và giải thoát, đó là nét đẹp tối
thắng.
Mùa xuân tuyệt đẹp với một tâm thức an bình tự tại, người
biết tu hãy quay trở về nội tâm, thắp sáng ngọn đuốc trí tuệ, trưởng dưỡng tâm
từ bi, thấy được Phật tánh không sanh, không diệt của mình, để ngộ ra "ý
xuân vi diệu" này.
Có như vậy, ta mới có thể thanh thản sống đời, không tự
ti cũng không tự tôn, với cái nhìn tự tại, vô úy giữa muôn sự có không, đúng
sai, hơn thua, được mất, vinh nhục.
Ở thế gian tất cả các pháp sanh diệt đều là vô thường.
"Mùa xuân trong nét đẹp người tu" mới thật sự
đem lại thân tâm an lạc, phước trí trang nghiêm, tùy tâm mãn nguyện, vạn sự cát
tường. []
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN Thích Nữ Chân Liễu
sống
trong hạnh phúc
Nhà văn nữ người Mỹ Hellen Keller đã từng nói: “Tôi đã khóc vì
không có giày để đi cho đến khi tôi nhìn thấy một người không có chân để đeo
giày.”
Nếu bạn hỏng xe dọc
đường, phải cuốc bộ vài dặm mới tìm ra được người giúp đỡ - Hãy nghĩ tới những
ai liệt cả đôi chân, luôn khao khát được bước đi như bạn.
Đó là lúc khó khăn của
bạn, đôi chân của bạn có thể đưa bạn đến bất cứ nơi đâu, đó là hạnh phúc và may
mắn khi bạn sinh ra trên đời được có quyền đứng trên đôi chân của mình để đi.
Khi không may đôi chân phải nặng nề hơn trên con đường đang bước thì hãy chớ
vội nản lòng, khó chịu bởi đằng kia có rất rất nhiều người đang khao khát được
bước và được đi như bạn dù chỉ một bước chân....
Nếu bạn cảm thấy đời
mình bị mất mát và băn khoăn về ý nghĩa kiếp người - Xin bạn hãy biết ơn cuộc
sống vì có nhiều người đã không được sống hết tuổi trẻ của mình để có những
trải nghiệm như bạn.
Đừng bao giờ nghĩ rằng
mình kém may mắn trong cuộc đời này, hãy biết trân trọng từng phút giây khi
được sinh ra trên cuộc đời này.
Nếu bạn cảm thấy mình là
nạn nhân của những ai hay cay nghiệt, dốt nát, nhỏ nhen, nghi kỵ - Hãy nhớ rằng
việc đời có khi còn tệ hại hơn thế rất nhiều.
Sống là động nhưng lòng
không dao động.
Mỗi sớm mai thức dậy hãy
nở một nụ cười thật tươi để trả lại cho cuộc sống đã cho ta được sinh ra trên
cuộc đời này, có được một đôi chân vững chãi để bước đi, có được một đôi tay
lành lặn để ôm ấp những người mà ta yêu thương, có được một đôi mắt sáng để
nhìn ngắm thế giới xung quanh, có được niềm tin và nghị lực trong mỗi chặng
đường đời để cảm thấy mình hạnh phúc dù ở trong hoàn cảnh nào.
Xin nâng niu và trân
trọng từng phút giây mà chúng ta đang có để biết yêu thương được đong đầy như
thế nào trong cuộc đời mình.
SUỐI NGUỒN BÌNH ĐẲNG TÁNH
Pháp vũ đồng lưu, lưu bất đoạn
Phật đăng phổ chiếu, chiếu vô cùng
*
Mưa pháp tràn lan, lan chẳng dứt
Ðèn từ rạng chiếu, chiếu không cùng.
(Tổ
Khánh Hòa)
Từ ngàn xưa cho đến ngày
nay, Phật Giáo đồ khắp năm châu đã đón nhận ánh sáng khai ngộ của Ðức Phật bằng
sự chân thành cung kính và tri ơn vô cùng vô tận. Khi còn là Thái tử Tất Ðạt
Ða, nhận thấy cảnh sanh lão bịnh tử, đem đến sự thống khổ cho nhân loại, Ngài
quyết tâm ra đi tìm đạo giác ngộ giải thoát cho chúng sinh. Trải qua nhiều
chặng đường cầu đạo gian lao, với sáu năm kiên trì khổ hạnh, Ðức Phật đoạn trừ
được hết tham ái, lậu hoặc và vô minh, chứng đắc quả vị vô thượng chánh đẳng
chánh giác, trở thành Ðức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Sau khi đắc đạo, Ðức Thế
Tôn nhắn gởi nhân loại thông điệp: “Tất cả chúng sanh đều bình đẳng trong Phật
tánh, không phân biệt giai cấp quí tộc hay hạ tiện. Ta là Phật đã thành, tất cả
chúng sanh đều có khả năng thành Phật”. Nghĩa là không có giai cấp phân biệt
trong Phật tánh, khi mê lầm là chúng sanh, khi giác ngộ sẽ thành Phật. Ai cũng
có Phật tánh giống nhau và có thể tu hành để thoát vòng luân hồi sanh tử. Ðó
chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật tuyệt đối.
Sự Bình Ðẳng Trong Nhân
Gian:
Xưa kia, xã hội sống
dưới sự thống trị của giai cấp giàu có và đầy quyền lực. Do đó, tạo ra nhiều
bất công và bất bình đẳng về vật chất, quyền lợi và địa vị. Nhân gian thống khổ
lầm than, đấu tranh, hận thù, chết chóc luôn xảy ra. Vì phải chịu đựng sự áp
bức bất công, đau khổ, nghèo đói, và ly tán, người dân thường hay cầu khẩn, van
xin, để được nhiều điều ước muốn bình an như ý. Họ tìm tới những thuật sĩ và
đạo sĩ, chuyên dụ dẫn mê hoặc tín đồ nhẹ dạ, nhắm mắt tin tưởng những vị thần
thánh huyền thoại tưởng tượng, đầy vạn năng, có thể ban phước giáng họa theo
lời cầu khẩn van xin. Dựa vào những ảo tưởng mơ hồ đó, thường không được như ý,
con người chìm đắm trong đau khổ và thù hận, chiến tranh bùng nổ khắp nơi. Ngày
nay, luật pháp do con người đặt ra, tôn trọng nhân quyền trong xã hội tuy có
tiến bộ, bình đẳng được cải thiện trong một số lãnh vực cần thiết về đời sống,
đạo đức được đánh giá cao, nhưng đó chỉ là bình đẳng tương đối trong thế gian
mà thôi.
Trong đời sống gia
đình, giữa vợ chồng, con cái, sự bình đẳng được đặt vào vị trí cho từng thành
viên. Ðạo đức giữa vợ chồng là phải có sự tôn trọng, thương yêu, giúp đỡ lẫn
nhau. Cha mẹ phải có trách nhiệm về sự trưởng thành của các con. Phận làm con
cũng phải vẹn tròn hiếu đạo đối với cha mẹ. Như vậy ngay trong gia đình, sự
bình đẳng tương đối đem lại an lành và hạnh phúc. Ðạo đức xã hội được cải
thiện, đời sống bớt đi tranh chấp, phân biệt đối xử, phải trái, hơn thua, được
mất, giấc ngủ mọi người tương đối được bình yên. Kinh Pháp Cú có dạy:
Người hơn thì thêm oán
Kẻ thua ngủ chẳng yên
Hơn thua đều xả bỏ
Giấc ngủ được bình yên.
Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh
Trong Nhân Quả:
Chân lý nhân quả chi
phối việc thiện ác từ quá khứ, hiện tại và vị lai, trong nhiều đời nhiều kiếp.
Những hành vi thiện ác đều bình đẳng trong nhân quả, không có sự biệt trừ. Ai
tạo nhân lành thì hưởng kết quả an vui, ai gieo nhân ác thì lãnh hậu quả đau
khổ. Con người nếu biết dừng các nghiệp nhân xấu ác, bất thiện từ trước, ngày
nay biết tạo nhiều nghiệp nhân thiện lành phước báu; đến khi nghiệp quả, nghiệp
báo xảy đến, còn gọi là quả
báo, con người cũng phải đền trả, nhưng nhờ có phước báo nên chỉ đền trả một cách nhẹ nhàng hơn. Ðó chính là “Suối Nguồn
Bình Ðẳng TánhTrong Nhân Quả”. Kinh Pháp Cú có dạy:
Hận thù diệt hận
thù
Trên đời không thể có
Từ bi chuyển hận thù
Hận thù sẽ tự diệt.
Như muốn được an lạc
hạnh phúc, con người phải biết xả bỏ oán kết với người, lấy ân báo oán, oán
nghiệp sẽ tự tiêu tan. Người muốn tạo phước đức, để không phải đền trả quả báo
một cách nặng nề do nghiệp nhân cũ, trước hết phải tự thanh lọc thân khẩu ý cho
toàn thiện, tự chế tham sân si của bản thân, tu nhân tích đức, giúp đỡ người
hoạn nạn. Ðó là phép tu chuyển nghiệp tốt nhất.
“Suối Nguồn Bình Đẳng
Tánh Trong Nhân Quả”, là tự thân mỗi người khi sanh ra trong thế gian này đều
khác nhau về hoàn cảnh, phước báo, khả năng, thể chất, tri thức. Hiểu rõ được
các sai khác này là sự suy nghĩ chân chánh, trong bát chánh đạo gọi là chánh tư
duy. Từ đó, chúng ta sẽ sống vì người, nghĩa là không so đo, không hơn thua,
không ganh ghét đố kỵ và không thù hằn vô cớ với người.
Chúng ta cảm thấy vui
với hạnh phúc của người, biết chia sẻ nỗi khổ của người bất hạnh, biết cách đối
xử với nhau bằng sự chân thật của lòng bình đẳng vị tha. Nếu con người luôn
sống đời phạm hạnh đạo đức, tâm tánh bình đẳng khiêm cung, lòng bao dung và
bình đẳng với người kém phước hơn mình, chính là nhân lành đem về kết quả an
vui. Sống trên đời không ai muốn bị sỉ nhục, tài sản bị chiếm đoạt, hay bị mất
thân mạng. Những hành động tốt giúp đỡ người cô thế, an ủi người bị thất bại,
lòng tôn trọng người sẽ được người tôn kính trở lại.
* Tôn trọng nhân phẩm
người như nhân phẩm của mình
* Tôn trọng tài sản
người như tài sản của mình.
* Tôn trọng sinh mạng
người như sinh mạng của mình.
Suối Nguồn Bình Ðẳng Tánh
Trong Ðạo Phật:
Ðức Phật như một tấm
gương sáng ngời, đạo hạnh của Ngài chuyển hóa được xã hội đầy những chia rẽ,
bất công, trở về đời sống đạo đức. Giáo lý của Đức Phật là “Suối Nguồn Bình
Đẳng Tánh” công bằng tuyệt đối, đã đem mọi người trong xã hội ngồi gần lại với
nhau. Đạo Phật dạy, giữa người với người một cái nhìn khinh mạn, một cử chỉ chê
cười cũng không nên có.
Ngày nay, mọi người gặp
nhau trong chùa, thường chắp tay chào nhau một cách cung kính, đó là thể hiện
sự trân trọng Phật Tánh bình đẳng sẵn có của mỗi người, không phân biệt tại gia
hay xuất gia, hoặc tướng giàu, tướng nghèo, địa vị cao hay thấp. Khi chào nhau
như vậy, tâm con người trở nên khiêm hạ vô tư, tinh thần bình đẳng tánh trong
đạo Phật là không thấy mình lễ và không phân biệt người nhận lễ. Nhất thiết
chúng sanh giai hữu Phật tánh. Ðó là hình ảnh thật đẹp và cao quí vô cùng của
những người biết tôn trọng “Sự Bình Đẳng Tánh Trong Đạo Phật”.
Căn bản của đạo Phật là
sự sáng suốt ngay tự thân tâm thanh tịnh, rèn luyện người tu đức tánh bình đẳng
bằng Phật tâm, Phật tánh. Con người muốn tu phải diệt lòng tham lam, sân hận,
si mê và ích kỷ ngã mạn, trở về với “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” chân thật cao
thượng theo lời Phật dạy. Sự tôn trọng nhân phẩm tất cả mọi người, từ hành động
thân khẩu ý đều do tâm từ thanh tịnh mà ra. Đạo Phật khuyến khích con người tu
tâm dưỡng tánh, khai mở trí tuệ, tăng trưởng thiện căn, tạo nhiều phước đức, an
lạc và hạnh phúc khắp mọi nơi. Kinh Pháp cú, Đức Phật dạy:
Tâm dẫn đầu mọi pháp
Làm chủ và tạo tác
Lời nói hay hành động
Với tâm từ thanh tịnh
Hạnh phúc sẽ theo ta
Như bóng không rời
hình.
Diệu Dụng Của Suối Nguồn
Bình Đẳng Tánh:
Khi bản tánh cao thượng
của con người không còn thấy ai hơn ai kém, không còn tánh kiêu căng ngã mạn,
con người sống trong Phật tánh sáng suốt của “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh”, nghiã
là luôn luôn sống với tâm giống như chư Phật. Sự an lạc chân thật của người có
tâm hạnh bình đẳng ảnh hưởng đến những người thân sống chung quanh, cũng là
gương giác ngộ sáng suốt lợi tha hiệu quả vô cùng. Tuy con người mê ngộ không
đồng, nhưng Phật tánh đều bình đẳng. Người biết cách tu, không phân biệt tại
gia hay xuất gia, có được tánh khiêm cung và bình đẳng, sẽ gặt hái được rất
nhiều điều lợi ích cho cuộc sống. Muốn có được công đức và phước đức, dùng làm
chiếc thuyền vượt qua biển khổ phiền não vô cùng vô tận từ nhiều đời kiếp,
chúng ta cố gắng làm được 10 điều sau:
Tâm cầu đạo, nhiệt thành
tinh tấn
Biết hổ thẹn, ghê sợ tội
lỗi
Không độc hiễm, thù oán
hại người
Không ganh tỵ, đức tánh
trong sạch
Không bỏn sẻn, tâm từ
quảng đại
Không khinh người, nếp
sống đạo đức
Tu đạo hạnh, trau giồi
Phật pháp,
Làm từ thiện, giúp đời
cứu người
Biết hy sinh, vì người
quên mình.
Hành việc đạo, sáng suốt
khôn ngoan.
Ðức Phật thành đạo ngay
cõi ta bà và thuyết pháp độ sanh suốt 45 năm cho đến lúc nhập diệt, để lại bao nhiêu
lời dạy vàng ngọc quí báu hơn cả trân châu trong cõi đời. Tâm đại từ đại bi như
cha lành thương con, tất cả đệ tử đều phải nương vào giáo lý của đức Thế Tôn
trao truyền mà được giác ngộ sáng suốt theo chánh đạo, không đi sai đường vào
tà đạo. Ðức Phật dạy ba môn học “Giới Ðịnh Tuệ”
làm căn bản, nghĩa là hành giả tu theo Phật phải tự thắp đuốc lên mà đi, để
biết đường mà tu, biết đạo mà
hành.
- Giới là những điều luật giữ cho con người không tạo nghiệp ác.
- Ðịnh là sự hành trì tu tập đoan chánh đi đến nhất tâm không còn
loạn động.
- Tuệ là sự giác ngộ sáng suốt đưa đến giải thoát sanh
tử,
đoạn tận vô minh.
Tóm lại, đạo Phật là đạo
giác ngộ và giải thoát, đức Phật là bậc từ bi và trí tuệ cao tột. Trí tuệ giác ngộ
là biết đời sống vô thường, sanh diệt không ngừng,
con người chuyển biến từ sanh, lão, đến bịnh, tử; và hiểu được sự bình đẳng vô
phân biệt của Phật tánh.
Tâm từ bi đưa con người
đến sự giải thoát phiền não của nghiệp chướng nhiều đời kiếp. Người tu biết
trưởng dưỡng tâm từ bi, biết giữ giới, tu thiền định, được trí tuệ, tự tu tự độ
sẽ được giải thoát khỏi khổ đau và sanh tử luân hồi. Ðó là con đường thành đạo
quả chánh đẳng chánh giác mà Ðức Thế Tôn đã đi và chỉ dạy với tâm đại từ đại bi
cao thượng.
Trong Kinh Pháp Hoa,
Thường Bất Khinh Bồ Tát đã giác ngộ được Phật tánh bình đẳng cao thượng, gặp ai
Ngài cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật”.
Suối nguồn bình đẳng tánh là sự giác ngộ và giải thoát của Phật tâm, Phật tánh
nơi tự thân mỗi con người. Tự mình là ngọn đèn cho chính mình, dùng chánh pháp
làm chỗ nương tựa. Chánh pháp của đức Phật mãi mãi là con đường tiến đến tâm
hạnh thiện lành trọn vẹn cho người tu, và đem lại đời sống đạo đức cao thượng,
để không còn cái ta khổ đau và phiền não nữa. Chân lý tối thượng vượt trên tất
cả chính là “Suối Nguồn Bình Đẳng Tánh” vô ngã tuyệt đối. []
NAM MÔ BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI PHẬT
TKN THÍCH NỮ CHÂN LIỄU
HÃY LÀM KHI CÓ
THỂ
Bạn có từng nghĩ rằng một ngày
nào đó những người thương của bạn sẽ không còn sống bên bạn nữa không. Chúng ta
không một ai có thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào ngày mai.
Thậm chí, chúng ta cũng không thể biết chắc được điều gì sẽ xảy ra vào một giờ
sắp tới đối với những người thân của chúng ta, hay thậm chí đối với bản thân
mình.
Có thể bạn ta mới đến thăm ta
ngày hôm qua, mà hôm nay ta được báo tin là người đó đã không còn sống trên cõi
đời này nữa. Nhận được tin ấy mà lòng ta bồi hồi xúc động, và ta dường như
không thể tin vào những gì mà tai mình vừa mới nghe thấy. Ta nói với người đến
báo tin với ta rằng “tôi mới nói chuyện với anh ấy ngày hôm qua kia mà” , hay “chị ấy mới đến thăm
tôi và còn tặng quà cho tôi nữa mà”.
Nhưng sự thật vẫn là sự thật.
Người bạn ấy của ta đã không còn sống trên cõi đời này nữa. Và có rất nhiều,
rất nhiều trường hợp tương tự như thế. Người ta mới thấy đó nhưng giờ đây đã
không còn nữa.
Khi chúng ta giao tiếp, cư xử
với người xung quanh với ý thức rằng có thể ngày mai ta sẽ không có cơ hội nghe
được giọng nói của người đó nữa. Có thể ngày mai ta sẽ không còn thấy được
nụ cười tươi trên khuôn mặt người đó nữa. Thì tự nhiên ta sẽ trân quí sự
có mặt của người đó, và ta sẽ không nỡ nói hay làm những gì có thể gây tổn
thương cho người đó.
Người đó có thể là ba mẹ chúng
ta. Người đó có thể là chồng hay là vợ của chúng ta. Và người đó cũng có thể là
con cái chúng ta.
Chúng ta sống với ý thức về sự vô thường, ngắn
ngủi của một kiếp người càng sâu sắc, thì cách sống của chúng ta, cách hành xử
của chúng ta cũng sâu sắc và yêu thương hơn.
Mỗi người trong chúng ta hay
có khuynh hướng nghĩ rằng những người thương của chúng ta sẽ sống với chúng ta
hoài, sẽ sống với chúng ta mãi. Chúng ta ít có khi nào nhớ rằng có thể chỉ sau
một đêm thôi thì ta sẽ mãi mãi không còn gặp người ấy nữa. Ta muốn nói những
lời xin lỗi của ta với người ấy, ta muốn nói lòng biết ơn của ta với người ấy, hay ta muốn thể hiện
tình thương của mình cho người ấy - nhưng đã trễ rồi. Người đó đã không thể
nghe, và mãi mãi sẽ không thể nghe những gì ta muốn nói dù chỉ một lời.
Vì vậy bạn hãy vui lên đi, bạn
hãy cười tươi lên đi khi bạn vẫn có ba, có mẹ còn sống bên bạn. Bạn hãy hạnh
phúc lên đi khi những người thương của bạn vẫn còn đó với bạn. Và bạn hãy can đảm để
nói cho người thương của bạn những gì sâu kín nhất trong lòng của bạn. Vì có thể bạn sẽ chẳng còn
cơ hội nào nữa nếu bạn không nói ra điều ấy.
Và bạn hãy tha thứ cho tất cả những ai đã từng làm hại bạn, làm tổn
thương bạn vì có thể ngày mai bạn cũng sẽ không còn có mặt trên cõi đời này
nữa.
Điều mà tôi khám phá ra trong
cuộc đời của mình cho đến tận bây giờ, điều mà làm cho tôi hạnh phúc đó là tình thương, sự tha thứ, bao dung. Có
thể tôi thực tập yêu thương còn kém, có thể sự tha thứ, bao dung trong tôi còn
kém, nhưng đó là con đường mà tôi sẽ nguyện đi trên ấy mỗi ngày.
Tôi tự nói với chính mình: “Hãy thương yêu khi có thể, hãy
tha thứ, bao dung khi có thể, bởi vì chỉ một giây phút thôi thì những điều này
sẽ trở thành không thể”.
Và điều mà làm cho tôi hạnh
phúc nhất không có gì khác hơn sau khi bạn đọc những dòng chữ này, thì sự
thương yêu, tha thứ, bao dung trong bạn được biểu hiện. Và bạn đến nói với
ba bạn, mẹ bạn, những người thương của bạn rằng bạn yêu họ lắm.
Rằng ba mẹ vẫn còn sống bên
bạn là hạnh phúc lớn nhất của cuộc đời bạn.
Rằng bạn sẽ không cần gì hơn
những điều như vậy. Rồi nụ cười hạnh phúc sẽ nở trên môi của bạn và khi đó bạn
cũng biết rằng nụ cười hạnh phúc ấy cũng đang nở trên môi của tôi. []
PHÁP NHẬT
HỎI ĐÁP PHẬT PHÁP
KÍNH CHUYỂN VÀ KÍNH XIN GÓP Ý
Hũ hài cốt là con tin trong chùa
Đúng hay sai ? nên hay không nên ?
Những người Việt sinh sống ở
hải ngoại, đối với những gia đình đã ổn định đời sống, khi có người thân qua
đời nếu chọn chôn cất tại các nghĩa trang với những thảm cỏ xanh, hoa nở tươi
tốt, để người thân đến thăm viếng trong những dịp lễ New Year, Father’s Day,
Mother’s Day, Vu Lan, Tết Nguyên Đán, cũng rất là hay và đẹp.
Cho nên, với câu hỏi là nên
chôn (địa táng) hay thiêu (hỏa táng) cha mẹ khi qua đời thì câu trả lời là điều
đó còn tuỳ thuộc nhiều yếu tố, nhất là quan niệm cá nhân về sự sống và chết của
con người. Phật Giáo không chủ trương hỏa táng cũng như địa táng. Vì thế việc
chọn lựa này là do quyết định của người qua đời, lúc còn sống đã để lại di
chúc. Nếu không thì người thân trong gia đình nên bàn thảo để có quyết định
chung, tránh sự tranh cãi. Dù thiêu hay chôn thì thân xác của người chết không
còn cảm giác nóng hay lạnh.
Khi tứ đại tan rã, hệ thần kinh
ngừng hoạt động, thần thức đã ra khỏi thân xác để đi tái sanh sang cõi khác.
Những trò hề hộ niệm được vãng sanh hiện nay cũng khá phổ biến, bởi do con
người không hiểu rõ chánh pháp, dễ bị gạt gẫm. Sau khi hỏa thiêu, thân xác
người chết không còn là gì nữa. Vấn đề được đặt ra là có nên chôn tro cốt xuống
đất, hoặc gìn giữ để thờ cúng tại nhà, tại chùa, hay đem rải xuống sông
biển.
Đạo Phật dạy rằng xác thân chỉ
là sự duyên hợp của vật chất, gọi là tứ đại, bao gồm: đất, nước, gió, lửa.Sau
khi chết, những thứ này lại trở về với đất, nước, gió, lửa. Phần tro cốt còn
lại chỉ là biểu tượng của người qua đời, là người thân mà con người thương yêu.
Con người nên kính trọng, tuy nhiên, không nên quyến luyến quanh những biểu
tượng này, không nên sống mãi với quá khứ. Một số người thích thờ cúng
tro cốt tại chùa hay tại nhà. Một số người khác lại đem chôn, hoặc đem tro cốt
rải xuống biển, hay xuống sông, hay rải xuống rừng, hay một nơi nào đó theo ý
muốn.
Con người ai ai cũng phải chết,
và đi đầu thai qua kiếp khác, hoặc thiên đàng hay địa ngục, đều do nghiệp thiện
hoặc nghiệp ác, con người đã làm ra khi sanh tiền. Chính con người quyết định
kiếp sau đầu thai chốn nào, cõi nào, lành hay dữ, tịnh độ hay ác đạo, chứ không
phải do thượng đế hay thần linh nào khác - cũng không do các ban hộ niệm cầu
vãng sanh tào lao hiện nay rất nhiều.
Con người quyết định đời sống
kiếp này và kiếp sau bằng các hành động qua thân, khẩu, ý hàng ngày, hàng giờ,
hàng phút trong cuộc sống hiện tại.
Là Phật tử chúng ta đừng nghĩ
rằng để tro cốt ở những nơi thiêng liêng như chùa chiền, người quá vãng sẽ được
an toàn, được nghe câu kinh tiếng kệ và không bị nghiệp lực lôi kéo. Khi còn
sống, con người không chịu nghe kinh kệ, không chịu tu tâm dưỡng tánh, khi chết
rồi, các hủ tro biết nghe, biết tu hay sao? Thiệt là nằm mơ khi còn trời sáng.
Mấy nhà sư còn sống sờ sờ cũng vẫn bị nghiệp lực lôi kéo - nếu đạo
lực không vững mạnh. Việc để tro cốt trong chùa không có ý nghĩa gì hơn là
sự biểu lộ niềm kính trọng và thương yêu của người thân đối với người đã khuất.
Chấm hết.
Hũ tro
cốt là con tin trong các chùa:
Câu hỏi:
Hiện nay, một số người giàu, có
nhiều tiền, muốn báo hiếu cho thân nhân của mình, nên đến các chùa có diện tích
đất rộng, bỏ tiền ra mua một miếng đất để xây một cái mồ, rồi đưa xác thân nhân
về chôn cất ở đó, hoặc gửi tro vào tháp hài cốt trong chùa. Nhà chùa gặp cơ may
này làm giàu, tính giá rất cao cho những người cần nhà chùa làm lễ cầu siêu độ
cho các vong linh. Các người này họ rất hoan hỷ được đưa thân nhân về chùa “nằm
trong đất chùa, được nghe kinh, được theo Phật”.
Kính thưa Thầy, ý nghĩa của
việc làm nầy thật sự là thế nào đối với người quá vãng, với thân nhân của họ và
đối với nhà chùa? Chúng con xin Thầy từ bi chỉ dạy cho chúng con được rõ.
Câu trả lời:
Đó chỉ là tín ngưỡng trong dân
gian, cho rằng người chết được chôn trong đất chùa hoặc gửi nắm tro tàn trong
tháp hài cốt thì hằng ngày linh hồn sẽ được nghe kinh, nhờ đó được siêu thoát
lên cõi Cực Lạc, Thiên Đàng. Khi còn sống con người theo tổn hữu ác đảng, tạo
bao ác nghiệp. Lúc chết thì linh hồn người đó chịu theo Phật hay sao? Nếu con
người thực sự muốn báo hiếu, trước hết nên tự mình tu tâm dưỡng tánh, sau
đó nên lo lắng, chăm sóc, hướng dẫn việc tu hành cho cha mẹ, khi còn hiện diện
trên trần gian này. Khi cha mẹ qua đời thì nên đem tài sản của cha mẹ bố thí,
cứu người giúp đời và hồi hướng công đức và phước đức cho cha mẹ.
Do lòng thương yêu và sự hiếu
hạnh - nhưng không học hiểu chánh pháp - khiến cho con người không còn
sáng suốt, theo tà pháp, nên nghe quí thầy, quí cô trong chùa, bảo sao
làm vậy chứ không có suy nghĩ chín chắn. Quí thầy quí cô này cũng ngu dốt, u
mê, đời trước bảo sao, đời sau làm vậy, chẳng rõ chánh tà khác nhau ra sao. Các
tăng ni không học hành dẫn dắt theo bao nhiêu người khác đọa lạc - tai hại vô
cùng là chỗ này. Đầu tàu lạc đường, hay trật đường rầy, cả đoàn tàu không đến
được mục tiêu mong muốn. Bởi vậy bọn trọc đầu đọa lạc dưới địa ngục nhiều
hơn người có tóc, chính là nghĩa đó vậy.
Sự tin tưởng thiếu thực tế, không trí tuệ của
một số người đã làm giàu cho các chùa và biến các chùa thành một nơi sinh
hoạt mê tín chứ không còn là nơi chốn tu hành của tăng ni và cư sĩ
nữa. Chùa nào hiện giờ cũng xây tháp hài cốt, khi có thân nhân chết, người ta
đem thiêu xác, gửi vào chùa. Khi gửi nắm tro tàn như vậy thì phải tốn bao nhiêu
tiền đóng vào và còn phải cúng dường tiền cho chùa rất nhiều
Kính thưa Thầy Chân Tuệ,
Con là sa di Thích-Phước-Hỷ,
chùa Hải Quang (VN). Vì mới xuất gia, con được giao nhiệm vụ "cúng xuất
sinh" trong những buổi ăn ngọ. Thầy trụ trì dạy con đọc kệ, mà không giải
thích cho con hiểu gì cả, khi hỏi lại bị rầy la, nên con không dám hỏi nữa. Sau
con bèn vào các trang nhà, thì tìm thấy "Đạo Phật Ngày Nay" có bài
viết sau:
Đại bàng kim sí điểu,
Khoáng dã quỷ thần chúng,
La-sát quỷ tử mẫu,
Cam lồ tất sung mãn,
Án, mục-đế sa-ha.
Đại bàng kim xí điểu
Đây là bài thiền kệ, dành cho
thầy chủ lễ trong Trai đường. Tập tục cúng này có điển tích mang tính niềm tin
như sau. Con đại bàng cánh vàng, mỗi ngày, sẽ biến các con vật nhỏ hơn nạp mạng
cho sự sống của nó; các loài quỷ quậy phá cuộc sống con người. Để chận đứng
nghiệp sát và nghiệp bất thiện này, thầy chủ lễ sẽ quán tưởng các hạt cơm này
biến khắp mười phương, như cam lộ ngọt mát, có nhiều dưỡng chất để ma quỷ chốn
hoang vu, mẹ con quỷ La-sát và độc ăn vào no đủ, nhờ đó, không giết các loài
động vật nhỏ bé hơn.
Kính thưa Thầy, càng đọc con
càng sanh thêm nhiều thắc mắc hơn, chứ không làm con sáng ra gì cả.!! Vì chỉ
vài hạt cơm và vài giọt nước làm sao no bụng, hay có thể chận đứng nghiệp sát
và nghiệp bất thiện của chúng sinh (hơi mê tín? có phải là cho thì ít, mà bảo
nhận nhiều rồi đó??). Thầy trụ trì còn dặn con rằng nhớ đọc đúng 3 lần, nếu
không đủ thì ma quỉ nó về nó phá chùa chết luôn?...Có không Thầy?.Mình là người
tu sao lại sợ ma quỉ cõi vô hình???
Chắc có lẽ con vô phần nên muốn
tu muốn học mà quá u tối phải không Thầy?... Con đọc rất nhiều bài viết cuả
Thầy ở trên "Blog PHTQ" và email Thầy gởi, nên con biết Thầy là vị
Thầy có tâm rộng lớn và chân thành, Thầy không ngại nói thật, nói rõ và
mạnh mẽ, nhưng rất thực tế về những sai lầm từ nhiều đời trong sinh hoạt Phật
giáo. Con rất thích cách giảng giải của Thầy, con cũng thấy nhiều vấn đề không
đúng, nhưng rất sợ và không dám nói đâu. Nói nhẹ nhàng thì không ai muốn nghe,
nói mạnh thì bị chửi chết luôn.
Sự thật là con cảm thấy hổ
thẹn, khi có một Phật tử đến hỏi con:
- Hồi nảy Thầy cầm cái chén
cúng, Thầy đọc gì vậy?.
Con lúng túng không biết trả
lời sao hết mà chỉ biết nói:
- Chuyện nầy trong chuà thường
làm là vậy đó!!
Người Phật tử tỏ vẽ thất vọng,
nhưng không nói gì, rồi bỏ đi.
Chuyện tuy không có gì nghiêm
trọng, nhưng khi con mặc áo của Thầy tu, nhiều Phật tử đâu có biết con tu lâu
hay mới, nên hỏi câu đơn giản như vậy mà không trả lời được thấy cũng hơi hổ
thẹn.
kính trân trọng cám ơn Thầy,
con biết Thầy phải bỏ thì giờ quí báu đọc thư con. Rất mong được Thầy hồi âm và
chỉ dạy cho con tỏ tường. Nếu Thầy không ngại thì con có thắc mắc gì có thể
mạnh dạn xin được y chỉ giáo pháp của Thầy được không?
Kính Thầy, mong Thầy
"phước trí vô biên, chúng sanh dị độ".
Con, Sa Di Thích-Phước-Hỷ
ĐƯỜNG ĐẾN
AN BÌNH THẬT SỰ
CHUYỂN HÓA
KHỔ ĐAU THÀNH HẠNH PHÚC
TRĂM NGÀN
MUÔN KIẾP KHÔNG DỄ GẶP
NỖI SỢ MUÔN
THUỞ
ĐỜI ĐÁNG
YÊU HAY ĐÁNG CHÁN
BIẾT SỐNG
TRONG VÔ THƯỜNG
TU PHƯỚC VÀ
TU HUỆ